Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam trong sạch vững mạnh chiếm vị trí đặc biệt quan trọng trong toàn bộ di sản tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Với Người, xây Đảng là nhiệm vụ tất yếu, thường xuyên để Đảng hoàn thành vai trò là chiến sĩ tiên phong trước giai cấp, dân tộc và nhân dân. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của thời đại, dự báo trong những năm tới, tình hình thế giới và trong nước sẽ có nhiều khó khăn, thử thách, tác động trực tiếp, nhiều chiều đến công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên. Trong bài viết, tác giả đã đề xuất 07 giải pháp góp phần tiếp tục xây dựng, chỉnh đốn Đảng Cộng sản Việt Nam thật sự trong sạch, vững mạnh hơn nữa trong thời gian tới.
Thực tiễn phong trào cộng sản,
công nhân quốc tế và Cách mạng Việt Nam hơn 100 năm qua đã chứng minh tính khoa
học, tính cách mạng trong học thuyết Mác - Lênin về Đảng Cộng sản. Việc vận dụng
những nguyên lý của chủ nghĩa Mác về chính đảng của giai cấp công nhân có ý
nghĩa vô cùng quan trọng trong tổ chức và hoạt động của Đảng, là cơ sở bảo đảm
cho bản chất cách mạng và khoa học của một chính đảng mác-xít chân chính.
Theo chủ nghĩa Mác -
Lênin, Đảng Cộng sản là một chính đảng độc lập, mang bản chất của giai cấp công
nhân, gắn bó chặt chẽ với quần chúng. “Những người cộng sản không phải là một đảng
riêng biệt, đối lập với các đảng công nhân khác. Họ tuyệt nhiên không có một lợi
ích nào khác tách khỏi lợi ích của toàn thể giai cấp vô sản”.
Vì thế, chính đảng của giai cấp công nhân phải liên hệ chặt chẽ với giai cấp
công nhân và nhân dân lao động. V.I.Lênin chỉ rõ: “Một trong những nguy hiểm lớn
nhất và đáng sợ nhất là sự cắt đứt liên hệ với quần chúng”.
Do đó, trong lãnh đạo cách mạng, Đảng cần đề phòng tình trạng quan liêu, tham
nhũng, thoái hóa, biến chất, xa rời quần chúng của đảng viên, V.I.Lênin coi đó
là nguy cơ tiềm tàng mà các đảng cầm quyền cần đề phòng, khắc phục nếu không muốn
mất vai trò lãnh đạo của Đảng đối với giai cấp công nhân, nhân dân lao động và
dân tộc.
Đảng Cộng sản phải được xây dựng và tổ chức hoạt động trên cơ sở nguyên tắc tập trung dân chủ; nguyên
tắc tập thể là nguyên tắc tối cao trong lãnh đạo của Đảng, lấy tự phê bình và
phê bình là quy luật phát triển của Đảng; luôn giữ vững sự đoàn kết thống nhất
trong Đảng và giữa Đảng với quần chúng. Chỉ khi thực hiện đầy đủ những nguyên tắc
này, Đảng mới giữ được sự đoàn kết thống nhất về chính trị, tư tưởng và tổ chức;
giữ vững được kỷ cương, kỷ luật và phát huy được sức mạnh của toàn Đảng, toàn
dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. “Bất cứ sự bất đồng nào, ngay cả
sự bất đồng không đáng kể, cũng có thể trở thành nguy hiểm về mặt chính trị”.
V.I. Lênin chỉ rõ: “Một điều rõ ràng là trong một nước đang thực hiện chuyên
chính vô sản, thì một sự chia rẽ trong nội bộ giai cấp vô sản hoặc giữa đảng của
giai cấp vô sản với quần chúng vô sản, không chỉ là nguy hiểm mà còn là cực kỳ
nguy hiểm, nhất là nếu trong nước đó, giai cấp vô sản chỉ là thiểu số nhỏ bé
trong dân cư”.
Trong khi nhấn mạnh ý
nghĩa quan trọng của sự lãnh đạo tập trung, thống nhất trong Đảng, V.I. Lênin đặc
biệt coi trong đến sự đảm bảo dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Đảng, đặc
biệt là ở cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng. Trong bất kỳ tình huống nào, Đảng là khối thống nhất, ý
chí và hành động, không dung thứ sự tồn tại của các nhóm, phái; có kỷ luật thống nhất, áp dụng cho
toàn thể đảng viên. Đồng thời, Đảng luôn phải đạt sự thống nhất cao
trong đường lối chính trị, vì đó là cơ sở để đảm bảo sự đoàn kết, thống nhất về
tư tưởng, tổ chức và hoạt động của Đảng. “Tổ chức không có tư tưởng - đó là điều vô nghĩa, trên thực
tế là biến giai cấp công nhân thành những tên tay sai đáng thương hại của chính
quyền tư sản”. Đảng mạnh, trước hết không phải là vì số lượng của Đảng, vì sự
thống nhất các quan điểm về tư tưởng, cương lĩnh, sách lược và tổ chức của Đảng. Muốn đạt đến sự thống
nhất cao về đường lối chính trị của Đảng, bên cạnh việc phòng ngừa và khắc phục
bệnh quan liêu, xa rời quần chúng của Đảng, chủ nghĩa Mác đặc biệt chú ý đến việc
đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội trong Đảng.
Kế thừa những nguyên lý của chủ
nghĩa Mác - Lênin về xây dựng chính Đảng của giai cấp công nhân, căn cứ vào thực
tiễn cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho Đảng ta sự chỉ dẫn
quý báu về xây dựng và chỉnh đốn Đảng cả trong giai đoạn lãnh đạo nhân dân dấu
tranh giành chính quyền, bảo vệ chính quyền và trong xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Người nhấn mạnh, Đảng
ta lấy tự phê bình và phê bình là guyên tắc sinh hoạt Đảng, là quy luật phát
triển Đảng: “Muốn đoàn kết chặt chẽ trong Đảng, ắt phải thống nhất tư tưởng, mở
rộng dân chủ nội bộ, mở rộng tự phê bình và phê bình”. Tự phê bình và phê bình không những là vấn đề của khoa học cách mạng mà còn là
nghệ thụật cách mạng. Mục đích của tự phê bình và phê bình cốt để đoàn kết và
thống nhất nội bộ, đó là quy luật phát triển và tiến bộ của Đảng, cũng như một
phương pháp căn bản để tăng cường đoàn kết, thống nhất trong Đảng. “Trong Đảng
thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê
bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết, thống nhất của Đảng”.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, “một Đảng mà dấu diếm khuyết điểm của mình là một Đảng
hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì
đâu mà có khuyết điểm, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm mọi
cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn,
chân chính”. Bàn về
vấn đề này, V.I.Lênin cũng từng chỉ rõ: “Tất cả những đảng cách mạng đã bị tiêu
vong cho tới nay, đều bị tiêu vong vì tự cao tự đại, vì không biết nhìn rõ cái
gì làm nên sức mạnh của mình, và vì sợ sệt không dám nói lên những khuyết điểm
của mình. Còn chúng ta, chúng ta sẽ không bị tiêu vong, vì chúng ta không sợ
nói lên những nhược điểm của chúng ta, và những nhược điểm đó, chúng ta sẽ học
được cách khắc phục”.
Đồng thời, Đảng phải luôn gắn bó
mật thiết với nhân dân, “nếu không có nhân dân giúp sức thì Đảng không thể làm
được gì hết”, mọi chủ
trương của Đảng phải thể hiện đúng ý nguyện của nhân dân, chỉ khi đó Đảng mới
lãnh đạo được giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc. Đồng thời, Đảng
là một khối đoàn kết thống nhất, đoàn kết là lực lượng vô địch, chỉ có đoàn kết
mới có thể thành công. Đoàn kết thống nhất là một nguyên tắc tổ chức và hoạt động
của Đảng, là sinh mệnh của Đảng, là vấn đề sống còn của Đảng. Người căn dặn: “Từ
Trung ương đến chi bộ cần giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con
ngươi của mắt mình”.
Với Chủ tịch Hồ Chí Minh, xây Đảng là một nhiệm vụ tất yếu,
thường xuyên để Đảng hoàn thành
vai trò chiến sĩ tiên phong trước giai cấp, dân tộc và nhân dân. Trong quan niệm
của Người, xây dựng, chỉnh đốn Đảng là làm cho mỗi cán bộ Đảng viên hiểu rõ, hiều
đúng và thực hiện tốt quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng. Trong giai đoạn
Cách mạng mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa với mục tiêu dân giàu nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh, dân tộc ta đang đứng trước nhiều thời
cơ, vận hội nhưng có không ít khó khăn thách thức. Vai trò lãnh đạo của Đảng
càng phải được khẳng định, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng cần được
nâng cao hơn bao giờ hết. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, xây dựng chỉnh đốn Đảng
mang tính quy luật và là nhu cầu tồn tại và phát triển của Đảng. Đảng có trong
sạch thì mới vững.
Thực hiện mục
tiêu tổng quát phát triển đất nước đến giữa thế kỷ XXI, Nghị quyết Đại hội Đại
biểu toàn quốc lần thứ XIII nhấn mạnh yêu cầu: “Nâng cao năng lực lãnh đạo,
năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng và hệ thống chính
trị trong sạch, vững mạnh toàn diện; củng cố, tăng cường niềm tin của nhân dân
đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa...”. Xây dựng, chỉnh đốn Đảng
là nhằm làm cho Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh cả về bốn mặt: chính trị, tư
tưởng, đạo đức và tổ chức.
Với vai trò đặc biệt quan trọng, có ý nghĩa
sống còn đối với Đảng và chế độ, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng luôn được
Đảng ta xác định là nhiệm vụ then chốt, thường xuyên, liên tục, xuyên suốt các
thời kỳ cách mạng. Chỉ tính riêng 10 năm gần đây, Trung ương đã ban hành nhiều
nghị quyết, quyết định quan trọng và tập trung chỉ đạo triển khai thực hiện
quyết liệt, hiệu quả; lần sau sâu sắc, toàn diện và cụ thể, rõ ràng hơn so với
lần trước. Nếu như Hội nghị Trung ương 4 khoá XI mới chỉ tập trung bàn và ra
Nghị quyết “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng” thì đến Hội nghị Trung
ương 4 khoá XII đã có sự bổ sung, đổi mới rất căn bản về phạm vi và nội dung,
bao gồm toàn bộ các vấn đề “Về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn,
đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện
“tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ”. Việc thực hiện Nghị quyết Trung
ương 4 khoá XI và khoá XII gắn với việc thực hiện Chỉ thị số 05 “Về đẩy mạnh
học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”; Quy định số 08
“Về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính
trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương”; Quy định số 47 “Về
19 điều đảng viên không được làm”; và đặc biệt là việc thành lập, bổ sung, hoàn
thiện chức năng, nhiệm vụ và đi vào hoạt động rất có hiệu quả của Ban Chỉ đạo
Trung ương về phòng, chống tham nhũng đã tạo sự chuyển biến tích cực, rõ rệt
trong công tác xây dựng, Chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững
mạnh, được nhân dân tin yêu, đồng tình, ủng hộ. Đặc biệt, đến Đại hội XIII,
Đảng đã xác định mục tiêu cao hơn và sát hợp hơn với tình hình mới, đó là: xây
dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện.
Do đó, công tác xây dựng và chỉnh
đốn Đảng đã đạt được một số kết quả tích cực như: Ða số cán bộ, đảng viên phát
huy được vai trò tiên phong, năng động, sáng tạo trong công tác, lao động, rèn
luyện. Việc thực hiện tự phê bình và phê bình đẩy mạnh đấu tranh chống tệ quan
liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, xử lý nghiêm những cán bộ, đảng viên vi
phạm pháp luật nghiêm trọng được nhân dân đồng tình, ủng hộ. Ðảng đã kiên trì
và nghiêm túc thực hiện nhiệm vụ then chốt về xây dựng Ðảng trên cả ba mặt
chính trị, tư tưởng và tổ chức. Công tác bảo vệ chính trị nội bộ được các cấp ủy,
tổ chức đảng quan tâm chỉ đạo, góp phần bảo vệ Ðảng về chính trị, tư tưởng và tổ
chức; đã làm rõ và kết luận nhiều trường hợp về lịch sử chính trị của cán bộ, đảng
viên góp phần nâng cao chất lượng công tác bố trí, sử dụng cán bộ, kết nạp người
vào Ðảng; …
Bên cạnh những kết quả đạt được,
công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng vẫn còn những hạn chế nhất định: Một bộ phận cán bộ, đảng viên,
trong đó có cả cán bộ lãnh đạo, quản lý nhận thức chưa đầy đủ ý nghĩa, tầm quan
trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; chưa nêu cao tinh thần trách nhiệm,
thiếu gương mẫu, phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí chiến đấu, đặc biệt là sa
vào chủ nghĩa cá nhân, nói không đi đôi với làm, vi phạm kỷ luật Đảng, vi phạm
pháp luật của Nhà nước. Cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Ðảng, tự phê
bình và phê bình trong các cấp ủy, tổ chức đảng, đảng viên chưa đạt yêu cầu đề
ra, chưa tạo được chuyển biến cơ bản, chưa góp phần tích cực ngăn chặn và đẩy
lùi tệ tham nhũng, lãng phí, quan liêu. Việc xử lý kỷ luật đối với những người
đứng đầu để xảy ra tham nhũng, lãng phí ở ngành, địa phương, đơn vị chưa kịp thời,
kiên quyết. Công tác kiểm tra trong Ðảng còn yếu, chất lượng và hiệu quả chưa
cao; nhiều khuyết điểm, sai lầm của đảng viên, tổ chức đảng chậm được phát hiện
và khắc phục. Công tác giám sát trong Ðảng và giám sát của nhân dân đối với các
hoạt động của Ðảng, Nhà nước, cán bộ, đảng viên chưa được quan tâm, chưa đáp ứng
yêu cầu công tác xây dựng Ðảng trong tình hình mới…
Một số nguyên nhân dẫn đến những
hạn chế, khuyết điểm nêu trên là do một số cấp uỷ, tổ chức đảng, cán bộ lãnh đạo,
quản lý, nhất là người đứng đầu, chưa nhận diện đầy đủ mức độ suy thoái, “tự diễn
biến”, “tự chuyển hoá” tại địa phương, cơ quan, đơn vị mình; chưa quyết tâm và
có biện pháp chỉ đạo đủ mạnh, còn thụ động, trông chờ vào sự chỉ đạo, hướng dẫn
của cấp trên; không thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, chưa gương mẫu,
thẳng thắn phê và tự phê, đấu tranh với những biểu hiện suy thoái, “tự diễn biến”,
“tự chuyển hoá”, thậm chí còn mắc vào chủ nghĩa cá nhân, cục bộ, lợi ích nhóm,
thờ ơ trước khó khăn, bức xúc của nhân dân…
Do đó, để thực hiện tốt công tác
xây dựng, chỉnh đốn Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh, trong thời gian tới, Đảng
ta cần tập trung thực hiện đồng bộ, có hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp sau:
Một là, tăng cường xây dựng
Đảng về chính trị
Hiện nay, một bộ phận
cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, nghĩa là xa rời hệ tư tưởng
của Đảng, phê phán hoặc xuyên tạc lý luận, tư tưởng khoa học và cách mạng đó.
Do vậy, nhiệm vụ của Đảng hiện nay là tăng cường nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh một cách căn bản, có hệ thống, sâu sắc; thường xuyên bám
sát thực tiễn, tổng kết lý luận, làm rõ bản chất cách mạng, khoa học và giá trị
bền vững của hệ tư tưởng chính trị của Đảng.
Xây dựng Đảng về
chính trị đặt ra yêu cầu không ngừng bổ sung, phát triển Cương lĩnh, đường lối
đổi mới của Đảng, đồng thời, phòng ngừa nguy cơ sai lầm về đường lối. Bản lĩnh
chính trị của Đảng phải được nâng cao. Đó là sự kiên định và không ngừng vận dụng,
phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với thực
tiễn Việt Nam trong từng giai đoạn; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh; chủ động, bình tĩnh vượt qua khó khăn, thách thức,
không dao động trong bất cứ tình huống nào, “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”; nêu
cao tinh thần độc lập, tự chủ, đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên hàng đầu; thẳng
thắn tự phê bình, phê bình, thừa nhận khuyết điểm, yếu kém và quyết tâm sửa chữa.
Xây dựng Đảng về chính trị đòi hỏi
nâng cao bản lĩnh, năng lực dự báo và chất lượng công tác hoạch định đường lối,
chính sách phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu hướng phát triển của thời đại,
tạo bước đột phá để phát triển. Kịp thời thể chế hóa, cụ thể hoá, triển khai
đúng đắn, hiệu quả chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của
Nhà nước, khắc phục sự yếu kém trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện. Nâng
cao lập trường, bản lĩnh chính trị, trình độ, trí tuệ, tính chiến đấu của cấp uỷ,
tổ chức đảng và của mỗi cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản
lý chủ chốt các cấp, cán bộ cấp chiến lược. Thực hành dân chủ trong Đảng gắn liền
với tăng cường kỷ luật, kỷ cương của Đảng. Tổ chức thực hiện nghiêm túc, có hiệu
quả việc tự phê bình, phê bình, chất vấn trong nội bộ Đảng.
Hai là, coi trọng xây dựng Đảng
về tư tưởng
Xây dựng Đảng về tư tưởng luôn là
vấn đề cấp thiết. Đảng ta phải là một khối thống nhất về tư tưởng và hành động.
Toàn Đảng từ Trung ương đến cơ sở, mọi cán bộ, đảng viên phải kiên định lập trường,
không hoang mang, dao động, phải kiên trì mục tiêu và lý tưởng của mình. Hiện
nay, đứng trước thời cơ và thách thức mới, Đảng cần tiếp tục kiên định lập trường
nhằm nâng cao tinh thần trách nhiệm lãnh đạo đất nước thực hiện thành công sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, đáp ứng tấm lòng mong mỏi của Chủ tịch Hồ Chí
Minh.
Để xây dựng Đảng vững mạnh về tư
tưởng, vấn đề cần ưu tiên hàng đầu hiện nay là tăng cường đẩy mạnh tuyên truyền,
học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương
thức công tác tư tưởng theo hướng chủ động, thiết thực, kịp thời và hiệu quả. Nắm
chắc, dự báo đúng, định hướng chính xác, xử lý đúng đắn, kịp thời các vấn đề tư
tưởng trong Đảng, trong xã hội. Chú trọng nắm bắt, định hướng dư luận xã hội, bảo
đảm thống nhất tư tưởng trong Đảng, đồng thuận cao trong xã hội. Đẩy mạnh tổng
kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, hoàn thiện hệ thống lý luận về đường lối đổi
mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Thực
hiện nghiêm tiếp tục đổi mới mô hình tổ chức, phương thức hoạt động, nâng cao
chất lượng, hiệu quả hoạt động của các cơ quan nghiên cứu lý luận. Từng bước
đưa hoạt động trao đổi lý luận của Đảng ta với một số đảng cầm quyền, đảng tham
chính ở một số nước đi vào chiều sâu, hiệu quả. Đầu tư thích đáng cho việc xây
dựng, phát triển đội ngũ cán bộ lý luận; có chế độ, chính sách thoả đáng nhằm
thu hút, trọng dụng các chuyên gia đầu ngành.
Tiếp tục đổi mới việc học tập,
quán triệt nghị quyết của Đảng bảo đảm thiết thực, hiệu quả. Đổi mới căn bản
chương trình, nội dung, phương pháp giáo dục lý luận chính trị theo phương châm
khoa học, thực tiễn, sáng tạo và hiện đại; đưa việc bồi dưỡng lý luận, cập nhật
kiến thức mới cho cán bộ, đảng viên nhất là cấp chiến lược đi vào nền nếp, nhất
quán từ Trung ương đến cơ sở, phù hợp với từng đối tượng, chú trọng chất lượng,
hiệu quả, siết chặt kỷ luật, kỷ cương. Kiên quyết và thường xuyên đấu tranh phản
bác các quan điểm sai trái, thù địch, cơ hội chính trị; đấu tranh, ngăn chặn, đẩy
lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự
diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ.
Ba là, tăng cường xây dựng
Đảng về đạo đức
Đạo đức cách mạng là suốt đời đấu
tranh, phấn đấu cho lý tưởng, mục tiêu, sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc,
vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hết lòng hết sức phụng sự Tổ quốc, phục
vụ nhân dân, đặt lợi ích của quốc gia, dân tộc, của nhân dân lên trước lợi ích
của cá nhân mình, chống chủ nghĩa cá nhân. Đó là “cần, kiệm, liêm, chính, chí
công vô tư”; không quan liêu, lãng phí, tham ô; có lối sống khiêm tốn, giản dị,
không màng danh vọng, địa vị, không ham muốn vật chất; ra sức học tập lý luận,
chuyên môn, nâng cao trình độ học vấn, trí tuệ, rèn luyện tư tưởng, trung thực
và nêu cao tinh thần trách nhiệm hoàn thành tốt nhất công việc được giao. Phải
có tình cảm trong sáng, tình đồng chí thương yêu lẫn nhau, gắn bó với nhân dân,
gương mẫu về mọi mặt.
Để xây dựng Đảng về đạo đức cần
nêu cao tinh thần tự giác tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của cán bộ, đảng viên. Đẩy
mạnh giáo dục đạo đức cách mạng, thực hiện thường xuyên, sâu, rộng, có hiệu quả
việc học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh gắn với việc
thực hiện các nhiệm vụ chính trị. Thực hiện nghiêm các quy định của Đảng về
trách nhiệm nêu gương, chức vụ càng cao càng phải gương mẫu. Coi trọng kiểm
tra, giám sát trong Đảng kết hợp với phát huy vai trò giám sát của cơ quan dân
cử, của Mặt trận Tổ quốc, báo chí và nhân dân đối với cán bộ, đảng viên thực hiện
các quy định nêu gương.
Nghiên cứu, bổ sung,
hoàn thiện các giá trị đạo đức cách mạng theo tinh thần “Đảng ta là đạo đức, là
văn minh” cho phù hợp với điều kiện mới và truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân
tộc. Đẩy mạnh giáo dục đạo đức cách mạng làm cho mỗi cán bộ, đảng viên thấy rõ
bổn phận và trách nhiệm của mình, luôn vững vàng trước khó khăn, thách thức và
không bị cám dỗ bởi vật chất, tiền tài, danh vọng. Nâng cao ý thức tu dưỡng,
rèn luyện và thực hành đạo đức cách mạng. Tăng cường đấu tranh chống các quan
điểm, hành vi phản đạo đức, phi đạo đức. Cổ vũ, biểu dương các gương sáng đạo đức,
tạo ảnh hưởng sâu rộng trong Đảng và ngoài xã hội.
Bốn là, tập trung xây dựng đội ngũ cán
bộ, nhất là cấp chiến lược và người đứng đầu các cấp, gắn với đổi mới, sắp xếp
tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả
Cán bộ
là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng; công tác cán bộ là khâu “then
chốt” của công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị. Xuyên suốt các thời kì,
quan điểm, tư tưởng chỉ đạo về công tác cán bộ luôn được Đảng ta quán triệt và
tập trung lãnh đạo, chỉ đạo toàn diện, đồng bộ. Văn kiện Đại hội XIII xác định: “Tập
trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ phẩm chất,
năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Hoàn thiện thể chế, quy định về công
tác cán bộ, tiêu chuẩn chức danh, tiêu chí, cơ chế đánh giá cán bộ. Xây dựng
đội ngũ cán bộ, trước hết là người đứng đầu có bản lĩnh chính trị vững vàng, có
đạo đức trong sáng, năng lực nổi bật, dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu
trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách, dám
hành động vì lợi ích chung, có uy tín cao và thực sự tiên phong, gương mẫu, là
hạt nhân đoàn kết”.
Xây dựng đội ngũ cán bộ phải xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ
mới; thông qua hoạt động thực tiễn và phong trào cách mạng; đặt trong tổng thể
của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; gắn với đổi mới phương thức lãnh đạo của
Đảng và kiện toàn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động
hiệu lực, hiệu quả. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp có lý
tưởng cách mạng, có bản lĩnh chính trị, đạo đức trong sáng, hết lòng phụng sự
Tổ quốc, phục vụ nhân dân, có năng lực, trình độ, dám nghĩ, dám làm, luôn nỗ
lực hành động vì lợi ích chung đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Chủ động phát hiện nguồn cán bộ lãnh
đạo, quản lý các cấp. Tăng cường cán bộ có bản lĩnh chính trị, trình độ, năng
lực cho địa bàn trọng điểm, lĩnh vực khó khăn, phức tạp; khắc phục tình trạng
khép kín trong công tác cán bộ. Thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung
dân chủ; tăng cường kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ. Bảo đảm quy
định, quy trình, công tâm, khách quan, chặt chẽ, thận trọng trong công tác cán
bộ. Không để lọt người không đủ tiêu chuẩn, điều kiện, có biểu hiện cơ hội
chính trị, tham vọng quyền lực vào đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý.
Năm là, thắt
chặt mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng
Đảng
Nói về sức mạnh của nhân dân, người Anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi
từng khẳng định: Chở thuyền là dân, lật thuyền cũng là dân, sức dân như
nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng cho rằng: “Trong bầu trời không gì quý bằng
nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”.
Do đó, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng là quan điểm nhất quán, xuyên suốt
trong quá trình lãnh đạo cách mạng của Đảng ta, được khẳng định trong các Cương
lĩnh, Nghị quyết. Văn kiện Đại hội XIII đề ra yêu cầu: “Phát huy vai trò, sự
tham gia của nhân dân trong xây dựng, ban hành, tổ chức thực hiện các chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trên cơ sở bảo
đảm hài hoà lợi ích giữa Nhà nước, doanh nghiệp và nhân dân, giữa các vùng, địa
phương; quan tâm đến các đối tượng yếu thế trong xã hội. Tiếp tục hoàn thiện,
cụ thể hoá, thực hiện tốt cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm
chủ” và phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát,
dân thụ hưởng.”
Theo đó, nhân dân trực tiếp phản ánh, góp ý với cấp ủy đảng các chủ
trương, đường lối lớn của Đảng; góp ý kiến, kiến nghị đối với tổ chức đảng và
chính quyền, phát hiện những yếu kém, khuyết điểm của tổ chức đảng và cán bộ,
đảng viên, nhất là phát hiện những biểu hiện tham nhũng, tiêu cực, lãng phí,
“lợi ích nhóm”. Đảng, Nhà nước đã có nhiều
chủ trương, biện pháp để phát huy vai trò của nhân dân trong xây dựng, chỉnh
đốn Đảng một cách trực tiếp, hiệu quả. Người đứng đầu cấp ủy, chính quyền các
cấp phải tăng cường trách nhiệm giải trình, thực hiện nghiêm quy định của Đảng,
Nhà nước về tiếp, đối thoại với công dân; tiếp nhận và kịp thời chỉ đạo giải
quyết các vấn đề nhân dân phản ánh, khiếu kiện.
Sáu là, đẩy mạnh xây dựng
Đảng về tổ chức; tiếp tục đổi mới, hoàn thiện tổ chức bộ máy và nâng cao hiệu
quả hoạt động của hệ thống chính trị; phát huy vai trò, trách nhiệm của các cơ quan
dân cử, mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII của Đảng chủ trương hướng mạnh vào tiếp tục đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ
máy của Đảng và hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn, nâng cao hiệu lực, hiệu
quả lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, đồng bộ với đổi
mới kinh tế, văn hoá, xã hội, con người... đáp ứng yêu cầu nâng cao năng lực
lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa. Tiếp tục hoàn thiện mô hình tổ chức của hệ thống chính trị. Tổng kết các
mô hình thí điểm về tổ chức bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị, khắc phục sự
chồng chéo và những bất hợp lý trong tổ chức của Đảng và tổ chức bộ máy của hệ
thống chính trị. Đẩy mạnh thực hiện tinh giản biên chế gắn với cơ cấu lại đội
ngũ cán bộ, công chức, viên chức theo vị trí việc làm.
Đồng thời, tiếp tục phát
huy vai trò, trách nhiệm của các cơ quan dân cử, mặt trận Tổ quốc, các tổ chức
chính trị - xã hội thông qua việc nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt
động giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp; giám sát, phản biện xã hội,
góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ
chức chính trị - xã hội và báo chí.
Bảy là, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, kỷ
luật đảng; kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực và
xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên vi phạm
Tổ chức Đảng các cấp cần cải tiến, đổi mới phương pháp, quy trình, kỹ
năng thực hiện công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng theo hướng chặt chẽ,
khoa học hơn; trong đó, tập trung vào việc phát hiện sớm, phòng ngừa, ngăn chặn
từ xa khuyết điểm, vi phạm của tổ chức đảng, đảng viên nhằm tạo chuyển biến
mạnh mẽ đối với công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng, kết hợp phòng ngừa
với xử lý vi phạm kỷ luật. Tăng cường kiểm tra, giám sát tổ chức đảng, người
đứng đầu, cán bộ chủ chốt ở những lĩnh vực, địa bàn, vị trí công tác dễ xảy ra
tham nhũng, tiêu cực, có nhiều khiếu kiện kéo dài. Tăng cường kiểm soát tài
sản, thu nhập của cán bộ theo quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Xây
dựng đội ngũ cán bộ các cơ quan kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, bảo vệ pháp
luật có bản lĩnh vững vàng, liêm chính, trung thực, có dũng khí đấu tranh, có
kiến thức, kỹ năng chuyên sâu./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét