Thứ nhất, thực hành
dân chủ trong Đảng là “hạt nhân”, tạo động lực, điều kiện và nêu gương để thực
hiện, phát huy đầy đủ dân chủ trong xã hội; đồng thời, thực hành dân chủ trong
xã hội là điều kiện cần thiết để củng cố, tạo môi trường, xung lực cho thực
hành dân chủ trong Đảng.
Thực hành dân chủ trong Đảng và phát huy dân chủ trong xã hội có
mối quan hệ biện chứng, tác động qua, luôn bổ sung và hoàn thiện lẫn nhau. Đó
là hai mặt của một chỉnh thể. Tuy nhiên, chỉ có tăng cường thực hành dân
chủ trong Đảng rộng rãi, thực hiện tốt trách nhiệm nêu gương thì mới có thể
tiến hành mở rộng và phát huy đầy đủ dân chủ trong xã hội, vì Đảng ta giữ vai
trò lãnh đạo đối với Nhà nước và toàn xã hội. Do vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu
cầu mỗi đảng viên ở bất cứ địa vị nào cũng phải làm gương thực hành dân chủ trong
công tác, để tạo điều kiện cho mỗi người và quần chúng nhân dân nhiệt thành
phát huy sáng kiến, nâng cao hiệu quả công việc.
Quan điểm nhất quán của Chủ tịch Hồ Chí Minh là, có bảo đảm và
phát huy dân chủ ở trong Đảng thì mới bảo đảm được dân chủ của toàn xã hội. Quyền lãnh đạo của Đảng được xuất phát từ sự ủy quyền của
giai cấp công nhân, của dân tộc và của nhân dân; Đảng trở thành hạt nhân chính
trị của toàn xã hội, là nhân tố tiên quyết để bảo đảm tính chất dân chủ của xã
hội. Thực hành dân chủ trong Đảng trở thành yếu tố quyết định, tạo động
lực cho thực hành dân chủ đầy đủ trong toàn xã hội. Người chủ trương
xây dựng các tổ chức của Đảng, Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân vững
mạnh để bảo đảm dân chủ và thực hành dân chủ có hiệu quả, thực chất trong xã
hội. Kế thừa và phát triển những tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bối
cảnh mới, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Đảng lãnh đạo, Nhà nước
quản lý, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội làm nòng cốt để
nhân dân làm chủ. Cấp ủy, tổ chức đảng, các tổ chức trong hệ thống chính trị,
đội ngũ đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức nêu gương thực hành dân chủ,
tuân thủ pháp luật, đề cao đạo đức xã hội”.
Thực tế cho thấy, khi Đảng ta trở thành Đảng cầm quyền, luôn
xuất hiện các nguy cơ thoái hóa, biến chất, sa vào chủ nghĩa cá nhân… của một
bộ phận cán bộ, đảng viên và điều này đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh lưu ý, trù
liệu từ rất sớm. Do vậy, trước tiên, Đảng cần phải kiên quyết chống mọi biểu
hiện, hành vi vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng dưới mọi hình
thức, như dân chủ hình thức, độc đoán, chuyên quyền, lợi dụng, lạm dụng chức
quyền, bất chấp các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước để trục lợi cá
nhân, hoặc chỉ phục vụ cho “lợi ích nhóm” tiêu cực.
Dân chủ trong Đảng là tấm gương phản chiếu dân chủ trong xã hội;
vì vậy, nếu dân chủ trong xã hội chỉ là hình thức, chiếu lệ hay sự mất dân chủ
diễn ra tràn lan thì khó có thể nói đến dân chủ thực sự trong Đảng. Bởi
lẽ, thực hành dân chủ rộng rãi trong xã hội sẽ tạo môi trường, điều
kiện thuận lợi, “bầu không khí” cần thiết và là sự thôi thúc cho thực hành dân
chủ trong Đảng. Và rõ ràng, chỉ trên nền
tảng phát huy quyền làm chủ của nhân dân, mở rộng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
thì dân chủ trong nội bộ Đảng mới càng có thêm sinh lực, sức sống, phản ánh
được thực tiễn xã hội phong phú; tập trung, phát huy được trí tuệ của toàn dân
tộc và nhờ đó mà Đảng ngày càng được củng cố, vững mạnh hơn, đáp ứng ngày càng
tốt hơn yêu cầu, nhiệm vụ chính trị trong bối cảnh mới, để “xứng đáng là người
lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”, như lời căn dặn của
Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Thực hành dân chủ rộng rãi trong xã hội còn góp phần tạo dựng và
củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, tạo điều kiện tiên quyết để nhân
dân có thể tiến cử những người có đủ đức, đủ tài, có tâm huyết, trách nhiệm với
đất nước, không bỏ sót nhân tài, kể cả nhân tài ngoài Đảng. Chỉ có dựa vào nhân
dân, gắn với quá trình dân chủ hóa xã hội thực sự, thì mới có điều kiện phát
hiện, thu hút, tuyển dụng, sử dụng và trọng dụng được nhân tài trong xã hội cho
Đảng, góp phần vào thực hiện có hiệu quả, dân chủ, công khai, minh bạch, công
tâm công tác cán bộ của Đảng - “nhiệm vụ then chốt của then chốt” trong công
tác xây dựng Đảng, có ý nghĩa quyết định đến sự thành bại của sự nghiệp cách
mạng.
Thực hành dân chủ trong xã hội vừa là “chìa khóa” để giải quyết
được những khó khăn, thách thức ngày càng nhiều hơn trước, vừa góp phần thúc
đẩy tính tích cực, chủ động của nhân dân; khẳng định quan điểm nhất quán của
Đảng: “Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới,
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát
từ cuộc sống, nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, lấy hạnh
phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu”.
Thứ hai, thực hành dân chủ trong
Đảng là cơ sở để phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường
sự đồng thuận xã hội, góp phần thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ chính trị của
từng thời kỳ cách mạng.
Chính vì nhận thức rõ vai trò, sức mạnh to lớn của dân chủ nói
chung mà trong tư tưởng Hồ Chí Minh có sự gắn bó chặt chẽ giữa dân với dân chủ,
dân chủ với dân vận và công tác dân vận, dân chủ với đại đoàn kết toàn dân tộc
để tạo nên sức mạnh to lớn nhằm thực hiện và bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp,
chính đáng của nhân dân. Do đó, theo Người,
phải đẩy mạnh thực hành dân chủ, vì có dân chủ mới có đồng thuận xã hội; dân
chủ và đoàn kết phải đi liền với nhau thì mới tạo ra sự đồng thuận xã hội -
tiền đề để phát huy được sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Tư tưởng lớn của
Chủ tịch Hồ Chí Minh là: Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành
công, đại thành công. Đặc biệt, Người nhấn mạnh: “Ngày nay, sự đoàn kết
trong Đảng là quan trọng hơn bao giờ hết, nhất là sự đoàn kết chặt chẽ
giữa các cán bộ lãnh đạo… Muốn đoàn kết chặt chẽ trong Đảng, ắt phải thống nhất
tư tưởng, mở rộng dân chủ nội bộ, mở rộng tự phê bình và phê bình”. Tư tưởng
này của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn còn vẹn nguyên giá trị thời sự. Kinh nghiệm
thực tế cho thấy rằng, chỉ có thực hành dân chủ rộng rãi trong Đảng thì mới tạo
nền tảng vững chắc cho khối đại đoàn kết toàn dân tộc củng cố và phát triển,
tăng cường sự đồng thuận xã hội và sự ủng hộ rộng rãi của các tầng lớp nhân dân
đối với sự lãnh đạo của Đảng, chế độ và nhờ đó, cách mạng Việt Nam mới vượt qua
được muôn vàn khó khăn, thách thức; đạt được nhiều thành tựu to lớn, đi từ
thắng lợi này đến thắng lợi khác, cả trong thời kỳ đấu tranh giành độc lập dân
tộc trước đây và trong công cuộc xây dựng, đổi mới và phát triển đất nước hiện
nay.
Thứ ba, thực hành dân chủ trong
Đảng và trong xã hội đều tạo sinh lực cho sự ra đời những sáng kiến, tinh thần
hăng hái đổi mới, sáng tạo, khắc phục tư duy bảo thủ, giáo điều, sự trì trệ cả
trong Đảng và trong xã hội.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh, “dân chủ, sáng
kiến, hăng hái, ba điều đó rất quan hệ với nhau. Có dân chủ mới
làm cho cán bộ và quần chúng đề ra sáng kiến. Những sáng kiến đó được khen
ngợi, thì những người đó càng thêm hăng hái, và người khác cũng học theo”. Rõ
ràng, chỉ khi phát huy và thực hành được dân chủ rộng rãi thì đảng viên, quần
chúng nhân dân mới đề xuất được nhiều sáng kiến, hăng hái trong thực hiện nhiệm
vụ được giao. Nhận thấy rõ đoàn kết, sáng kiến và sự nhiệt huyết của cán bộ
cũng như của nhân dân chính là kết quả của dân chủ, nên Người yêu cầu “phải
thật sự thi hành dân chủ trong Đảng và trong quần chúng”. Theo Người, một khi có dân chủ thực sự thì mỗi người dân sẽ
dám nói, dám nghĩ, dám làm, dám đề xuất những sáng kiến tâm huyết của mình; đồng
thời, người cán bộ, đảng viên mới có gan dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm
vì lợi ích chung. Có dân chủ thì sẽ khắc phục được thói áp đặt, quan liêu, mệnh
lệnh, cửa quyền, tránh được tư duy bảo thù, trì trệ và mọi người có được quyền
tự do tư tưởng, tự do thảo luận và khi ấy, tự do tranh luận, thảo luận lại
chính là quyền tự do phục tùng chân lý. Do vậy, Người nhấn mạnh, điểm cốt lõi
về thực hành dân chủ ở đây còn là và chính là “làm sao cho nhân dân
biết hưởng quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ của mình, dám nói, dám làm”.
HAIVAN
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét