Thứ Ba, 31 tháng 10, 2023

Thực hành dân chủ trong xã hội theo tư tưởng Hồ Chí Minh

 

Thực hành dân chủ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, chính là để dân thực sự là chủ và làm chủ xã hội, để dân chủ được phát huy đến cao độ, quyền làm chủ của nhân dân được thực hiện trên thực tế và đi vào thực chất; qua đó, xây dựng chế độ ta thực sự là một chế độ dân chủ và tạo ra “cái chìa khóa vạn năng” để Đảng ta cầm quyền, lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi đến thành công. Thực hành dân chủ chính là quá trình huy động, thu hút sự tham gia và phát huy được tối đa quyền hạn, lực lượng của toàn dân để thực hiện thắng lợi những mục tiêu, nhiệm vụ của cách mạng vì lợi ích của nhân dân, phát triển đất nước. Do đó, “phải thực hành dân chủ, phải làm cho quần chúng hiểu rõ, làm cho quần chúng hăng hái tham gia thì mới chắc chắn thành công. Quần chúng tham gia càng đông, thành công càng đầy đủ, mau chóng”.

Người chỉ rõ, thực hành dân chủ trong xã hội phải hướng đến mục tiêu làm cho dân “ai cũng được hưởng quyền dân chủ tự do”; công bằng và bình đẳng trước pháp luật và trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Dân chủ được Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định là mục tiêu để xây dựng chế độ mới, vì lợi ích của nhân dân. Người quan tâm tới nội dung toàn diện của dân chủ, trong đó có thực hành dân chủ trong xã hội. Mục tiêu dân chủ được thể hiện trước hết ở dân chủ trong kinh tế, dân chủ trong chính trị; cùng với đó, còn là dân chủ trong văn hóa, trong phát triển xã hội và quản lý xã hội, hướng trực tiếp vào việc giải quyết các vấn đề xã hội cấp thiết, tổ chức thực hiện chính sách xã hội và an sinh xã hội cho con người, vì con người. Không chỉ thế, theo Người, thực hành dân chủ còn là phải bảo đảm dân chủ trong đời sống tinh thần của xã hội, nghĩa là phải tạo điều kiện, cơ hội để mọi người dân dám nghĩ, dám nói lên những suy nghĩ, tâm tư, nguyện vọng của mình; đồng thời, phải bảo đảm cho họ có được tự do về tư tưởng, thực hiện dân chủ trong sáng tạo văn hóa và thụ hưởng những thành quả văn hóa.

Bởi quan niệm dân chủ là mục tiêu, nên ngay khi chính thể dân chủ vừa mới ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: Chúng ta phải làm ngay, làm cho dân có ăn, có mặc, có nhà ở, được học hành, được tự do đi lại, được chăm sóc sức khỏe, được hưởng quyền tự do mà họ xứng đáng được hưởng với tư cách người chủ. Người còn nói rõ, dân chỉ biết tới giá trị của tự do, dân chủ khi dân được ăn no, mặc ấm. Nước nhà tranh đấu được độc lập, tự do mà “dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng không làm gì”, chẳng để làm gì. Chính vì vậy, Người yêu cầu Đảng và Chính phủ cũng như đội ngũ cán bộ, đảng viên phải thấm nhuần sâu sắc phương châm “việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh”.

Thực hành dân chủ trong xã hội là biện pháp, chính sách hữu hiệu nhằm thực hiện mục tiêu không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân. Vì vậy, chính sách của Đảng và Chính phủ phải nâng cao đời sống của nhân dân; cán bộ của Đảng và chính quyền các cấp từ trên xuống dưới đều phải hết sức quan tâm đến mọi mặt đời sống của nhân dân. Người thường xuyên nhấn mạnh, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân là cơ sở quan trọng nhất để xây dựng môi trường dân chủ, tạo điều kiện để người dân thực hiện quyền làm chủ của mình. Đồng thời, thực hành dân chủ còn có vai trò, tác dụng giải phóng tiềm năng sáng tạo của nhân dân và trở thành động lực của quá trình xây dựng một xã hội tiến bộ và phát triển, văn minh. Không phải ngẫu nhiên mà Chủ tịch Hồ Chí Minh từng đúc kết: “Có phát huy dân chủ đến cao độ thì mới động viên được tất cả lực lượng của nhân dân đưa cách mạng tiến lên” và thực hành dân chủ chính là “cái chìa khóa vạn năng” có thể giải quyết mọi khó khăn, tạo động lực để phát triển đất nước.

HAIVAN

Thực hành dân chủ trong Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh

 

Thực hành dân chủ trong Đảng là tiến trình thực hiện những quy định, nguyên tắc… của Đảng nhằm bảo đảm quyền của đảng viên một cách thường xuyên, liên tục; trở thành chế độ, nền nếp trong mọi sinh hoạt và hoạt động của Đảng, hướng đến và bảo đảm sự tập trung, thống nhất, tạo sự đoàn kết, nhất trí, tăng cường năng lực lãnh đạo, cầm quyền, sức chiến đấu của Đảng.

Vì quan niệm dân chủ nghĩa là dân là chủ và dân làm chủ, cho nên dân chủ trong Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh thực chất cũng là quyền làm chủ của mỗi đảng viên trong mọi hoạt động của Đảng, là sự bình đẳng của tất cả đảng viên trước Điều lệ, các nghị quyết và các quy định của Đảng. Nếu dân chủ là “của quý báu nhất của nhân dân” thì dân chủ trong Đảng cũng là “của quý báu nhất” của Đảng; thực hành dân chủ trong Đảng cũng là “cái chìa khóa vạn năng” giúp Đảng vượt qua mọi khó khăn, thách thức để hoàn thành sứ mệnh, nhiệm vụ chính trị vẻ vang. 

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, mở rộng thực hành dân chủ trong Đảng là điều cần thiết, bởi lẽ đảng viên của Đảng phải làm việc, lãnh đạo theo phong cách dân chủ, tuân thủ nguyên tắc tập trung dân chủ thì mới xây dựng được nước ta là nước dân chủ, chế độ dân chủ, Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Theo đó, Đảng “phải thật sự mở rộng dân chủ để tất cả đảng viên bày tỏ hết ý kiến của mình; phải gom góp ý kiến của đảng viên để giúp đỡ Trung ương chuẩn bị Đại hội Đảng cho thật tốt”. Ngược lại, sự mất dân chủ trong Đảng sẽ dẫn đến tình trạng mất đoàn kết và làm nảy sinh các thói xấu, rất nguy hại như “không nói trước mặt, chỉ nói sau lưng”, “trong Đảng im tiếng, ngoài Đảng nhiều mồm”, “thậm thà thậm thụt”.

Người nhấn mạnh, Đảng ta phải được tổ chức một cách dân chủ. Điều đó có nghĩa là, tất cả mọi công việc của Đảng đều được toàn thể các đảng viên tham gia, hoàn toàn bình quyền và không có ngoại lệ nào, tiến hành trực tiếp hoặc thông qua các đại biểu; đồng thời, tất cả những người có trách nhiệm trong Đảng, tất cả các ban lãnh đạo và các cơ quan của Đảng đều được bầu ra, đều có trách nhiệm phải báo cáo và có thể bị bãi miễn nếu không hoàn thành nhiệm vụ được giao.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, vấn đề mấu chốt của thực hành dân chủ trong Đảng chính là phải thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, còn được gọi là “dân chủ tập trung”. Dân chủ tập trung không chỉ là nguyên tắc lãnh đạo, mà còn là chế độ lãnh đạo của đảng cầm quyền. “Tập thể lãnh đạo là dân chủ”, “cá nhân phụ trách là tập trung” và “tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách tức là dân chủ tập trung”. Khẳng định vai trò quan trọng của nguyên tắc dân chủ tập trung đối với thực hành dân chủ trong Đảng, Người chỉ rõ: “Lãnh đạo không tập thể, thì sẽ đi đến cái tệ bao biện, độc đoán, chủ quan. Kết quả là hỏng việc.

Phụ trách không do cá nhân, thì sẽ đi đến cái tệ bừa bãi, lộn xộn, vô chính phủ. Kết quả cũng là hỏng việc.

Tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách cần phải luôn luôn đi đôi với nhau”. Như vậy, trong điều kiện một đảng cầm quyền thì tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách vừa là nguyên tắc lãnh đạo, vừa là biểu hiện của nguyên tắc tập trung dân chủ. Đồng thời, sức mạnh của Đảng được tạo dựng bởi đội ngũ cán bộ, nên muốn mở rộng dân chủ trong Đảng thì công tác cán bộ phải thực sự dân chủ, công tâm, minh bạch. 

Người nhấn mạnh, thực hành dân chủ là cơ sở để củng cố và phát triển sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng. Thực hành dân chủ trong Đảng, từ Trung ương đến cơ sở, là nền tảng vững chắc để xây dựng một Đảng đoàn kết, thống nhất, trở thành hạt nhân, động lực xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Chính vì vậy, trong bản Di chúc thiêng liêng, Người căn dặn và yêu cầu “trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi”. 

Thấm nhuần những lời căn dặn của Người, Đảng ta chủ trương tăng cường thực hiện dân chủ trong mọi sinh hoạt của Đảng, coi đây là cơ sở quan trọng để tạo dựng và phát triển sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, tạo nên sức mạnh của Đảng. Đảng chủ trương nâng cao chất lượng sinh hoạt cấp ủy và chi bộ; tạo điều kiện để mọi đảng viên, dù ở cương vị nào cũng được bình đẳng thực hiện quyền và trách nhiệm của mình, được tham gia quyết định công việc của Đảng, được chất vấn, tự phê bình và phê bình trong phạm vi tổ chức về hoạt động của tổ chức đảng và đảng viên ở mọi cấp; trong đó, có quyền được thông tin, thảo luận, nêu ý kiến riêng, được bảo lưu ý kiến và trình bày ý kiến trong tổ chức đảng.

HAIVAN

Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn, để Đảng “là đạo đức, là văn minh” trong giai đoạn hiện nay

 

Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng ta “là đạo đức, là văn minh” có quá trình hình thành và phát triển gần một thế kỷ, vẫn vẹn nguyên giá trị, soi sáng công tác xây dựng Đảng hiện nay. Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh việc nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện các giá trị đạo đức cách mạng theo tinh thần “Đảng ta là đạo đức, là văn minh”.

Xây dựng Đảng “là đạo đức, là văn minh” là vấn đề có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với sự nghiệp cách mạng của nước ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ rằng, Đảng có vững cách mạng mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thì thuyền mới chạy. Cương lĩnh của Đảng khẳng định, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng. Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh một trong 5 quan điểm chỉ đạo, đó là: “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, phát huy bản chất giai cấp công nhân của Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng”. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng ta “là đạo đức, là văn minh”, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay cần tập trung vào một số nội dung sau:

Thứ nhất, tiếp tục kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đội ngũ cán bộ, đảng viên phải không ngừng học tập, nghiên cứu, nâng cao trình độ lý luận chính trị. Xao nhãng, lười biếng, ngại học tập là một khuyết điểm rất lớn, “khác nào người thầy thuốc chỉ đi chữa người khác mà bệnh nặng trong mình thì quên chữa” như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã răn dạy. Phải chữa cái bệnh chủ quan mà nguyên nhân là kém lý luận, khinh lý luận hoặc lý luận suông; đồng thời, phải bỏ tư tưởng học để lấy bằng cấp. Lý luận phải thống nhất với thực tiễn cách mạng Việt Nam.

Trên nền tảng của một hệ thống lý luận khoa học và cách mạng, cái cốt tủy về đạo đức và văn minh của Đảng là phải kiên định đường lối đổi mới vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, thể hiện khát vọng phát triển đất nước Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc, hùng cường, bước tới đài vinh quang, cùng nhịp bước và sánh vai với các cường quốc năm châu, thực hiện thành công tâm nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh và ước vọng của toàn dân tộc.

Thứ hai, Đảng phải luôn luôn quán triệt quan điểm “theo đúng đường lối nhân dân” như Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều lần chỉ dạy. Đảng phải quán triệt sâu sắc, thực hiện nghiêm túc quan điểm “dân là gốc”; thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, kiên trì thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Tài sản lớn nhất, có giá trị nhất của Đảng là lòng dân. Xác định sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; phát huy vai trò làm chủ, sức sáng tạo và mọi nguồn lực của nhân dân là thước đo quan trọng nhất của một đảng đạo đức, văn minh. Đảng ta nhiều lần khẳng định, chính nhân dân là người làm nên những thắng lợi lịch sử; toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Quan liêu, tham nhũng, xa rời nhân dân sẽ dẫn đến những tổn thất khôn lường đối với vận mệnh của đất nước, sự tồn vong của chế độ và của Đảng. Hội nghị Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII nhấn mạnh: “Từ trước đến nay, bất cứ việc gì đáp ứng được nguyện vọng của nhân dân, của toàn Đảng, được nhân dân và toàn Đảng đồng lòng góp sức thì nhất định thắng lợi”.

Thứ ba, để Đảng ta “là đạo đức, là văn minh” thì mỗi cán bộ, đảng viên phải là những người đạo đức, văn minh. Với trọng trách là những người ưu tú nhất của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của cả dân tộc, mỗi cán bộ, đảng viên phải tu thân, chính tâm, rèn luyện, tu dưỡng phẩm chất chính trị, đạo đức, nâng cao năng lực trí tuệ, bản lĩnh, trau dồi, rèn luyện, bồi dưỡng phong cách gần gũi quần chúng, dân chủ, nêu gương trong công việc; phải hằng ngày, suốt đời phấn đấu cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, làm người công bộc tận tụy, trung thành của nhân dân, chống chủ nghĩa cá nhân, nói đi đôi với làm, đời tư trong sáng, nếp sống giản dị; trung thực, trách nhiệm, gắn bó với nhân dân.

Bản lĩnh của cán bộ, đảng viên trước mọi tình huống phức tạp, khó khăn là phải biết bảo vệ cái đúng, cái tốt, cái đẹp; chống cái sai, cái xấu, cái ác, cái giả dối; “phò chính trừ tà”. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng bảo đảm không để lọt vào cấp ủy những cán bộ nhát gan, dễ bảo, “đập đi, hò đứng”, “thấy xôi nói xôi ngọt, thấy thịt nói thịt bùi, theo gió bẻ buồm, không có khí khái”, không dám chịu trách nhiệm, tranh công, đổ lỗi. Bản lĩnh của mỗi cán bộ, đảng viên là dám tự phê bình và phê bình đồng chí mình, tự chỉ trích, dám chịu trách nhiệm trước nhân dân, sẵn sàng từ chức khi nhân dân không còn tín nhiệm. Đảng ta chỉ rõ: “Sức mạnh của Đảng, của mỗi đảng bộ và đảng viên không chỉ ở ưu điểm mà còn ở chỗ nhận rõ và sửa chữa bằng được những vấn đề tồn tại, những sai lầm, khuyết điểm và tự vượt lên chính bản thân mình”.

Với thái độ nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, đánh giá đúng sự thật, Đảng ta “là đạo đức, là văn minh” phải nhận thức sâu sắc về các nguy cơ, nhận diện đúng những biểu hiện và đề ra các giải pháp phù hợp để chủ động đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi có hiệu quả tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; kiên quyết, kiên trì với quyết tâm chính trị cao trong việc tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.

Quán triệt và triển khai Nghị quyết Đại hội XIII về xây dựng “Đảng ta là đạo đức, là văn minh”, cấp ủy, tổ chức đảng các cấp phải “đẩy mạnh giáo dục đạo đức cách mạng, làm cho mỗi cán bộ, đảng viên thấy rõ bổn phận và trách nhiệm của mình, luôn vững vàng trước khó khăn, thách thức và không bị cám dỗ bởi vật chất, tiền tài, danh vọng. Nâng cao ý thức tu dưỡng, rèn luyện và thực hành đạo đức cách mạng. Tăng cường đấu tranh chống các quan điểm, hành vi phản đạo đức, phi đạo đức. Cổ vũ, biểu dương các gương sáng đạo đức, tạo ảnh hưởng sâu rộng trong Đảng và ngoài xã hội”. Đó chính là sự kiên định, vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng ta “là đạo đức, là văn minh” trong giai đoạn hiện nay.

HAIVAN

Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng ta “là đạo đức, là văn minh”

 

Đảng ta “là đạo đức, là văn minh” trước hết thể hiện ở bản chất và mục đích của Đảng, “đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc”. Một đảng đạo đức, văn minh không phải là một tổ chức để làm quan phát tài, mà phải làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Mục đích của người cách mạng là để làm đầy tớ cho nhân dân, một người đầy tớ xứng đáng, trong sạch, trung thành chứ không phải là mục đích thăng quan phát tài”. Nói cách khác, đạo đức cách mạng cao nhất của Đảng và mỗi đảng viên là chí công vô tư. Đảng viên phải thật thà, trung thành, hăng hái; trọng lợi ích của cách mạng hơn tính mệnh của mình; phải hy sinh lợi ích của mình cho Đảng, cho Tổ quốc và dân tộc. Bất kỳ lúc nào, bất kỳ việc gì, người cán bộ, đảng viên đều phải tính đến lợi ích chung, phải đặt lợi ích của Đảng, của dân tộc, của Tổ quốc lên trên hết, trước hết.

Đảng ta “là đạo đức, là văn minh” thể hiện ở bản lĩnh, dũng khí, sự trung thựcthẳng thắn, “không che giấu những khuyết điểm của mình, không sợ phê bình. Đảng phải nhận khuyết điểm của mình mà tự sửa chữa, để tiến bộ, và để dạy bảo cán bộ và đảng viên”. Đảng phải giữ chủ nghĩa cho vững, thành thực trong chính trị với nội dung căn cốt là “đoàn kết và thanh khiết từ to đến nhỏ”.

Bản lĩnh, dũng khí của Đảng không chỉ là gan dạ trước kẻ thù, trong xà lim, án chém, mà còn là dám tự phê bình và phê bình, cả trong nội bộ Đảng và trước nhân dân. Đảng phải biết tự chỉ trích, thành thực trong nhận khuyết điểm, sai lầm để sửa đổi, tự tiến bộ. Đảng không tự phê bình, tự chỉ trích thì không bao giờ tiến bộ được. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ, uy tín của người lãnh đạo là ở chỗ mạnh dạn thực hiện tự phê bình và phê bình, biết học hỏi quần chúng nhân dân, sửa chữa khuyết điểm, để đưa công việc ngày càng tiến bộ, chứ không phải ở chỗ giấu giếm khuyết điểm và e sợ quần chúng nhân dân phê bình. Người nhấn mạnh, một đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một đảng hỏng; một đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó, là một đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính.

Cùng với thái độ chân thành, không che giấu khuyết điểm và thừa nhận khuyết điểm, Đảng còn phải luôn luôn xem xét lại những nghị quyết và những chỉ thị của mình đã được thi hành như thế nào, đi vào cuộc sống đến đâu. Đây là một khía cạnh quan trọng thuộc về tư cách của đảng chân chính cách mạng. Đảng là đạo đức, văn minh chỉ khi các nghị quyết, chỉ thị của Đảng đi vào cuộc sống, được tổ chức triển khai hiệu quả trong thực tiễn. Không che giấu khuyết điểm, dám tự chỉ trích và luôn luôn xem xét lại công tác của Đảng là một cách tự hoàn thiện mình. Đó là một khía cạnh thể hiện văn hóa của Đảng, giá trị của Đảng.

Đảng là đạo đức, là văn minh, tức là phải hiểu dân, học dân, hỏi dânthuận lòng dân, “theo đúng đường lối nhân dân”; “từ trong quần chúng ra, trở lại nơi quần chúng”; “phải đưa chính trị vào giữa dân gian”. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, một đảng văn minh là khi lời nói và việc làm của đảng phải làm cho nhân dân tin, nhân dân phục, nhân dân yêu; ngược lại, mất lòng tin của nhân dân là mất tất cả, bởi “Ý DÂN LÀ TRỜI. Làm đúng ý nguyện của dân thì ắt thành. Làm trái ý nguyện của dân thì ắt bại”. Người nhấn mạnh, việc gì đúng với nguyện vọng của nhân dân thì đều được quần chúng nhân dân ủng hộ và hăng hái đấu tranh; và như vậy, mới thật sự là một phong trào quần chúng. Đảng phải nhận thức sâu sắc được rằng, tư tưởng và hành động của Đảng là vì nhân dân và Đảng mạnh là do sự ủng hộ của nhân dân. Sự lãnh đạo của Đảng không phải là một đặc quyền theo kiểu “đảng trị”, mà là thực hiện sứ mệnh phục vụ nhân dân. Đảng “không sợ kẻ địch nào dù cho chúng hung tợn đến mấy, không sợ nhiệm vụ nào dù nặng nề, nguy hiểm đến mấy, nhưng Đảng Lao động Việt Nam sẵn sàng vui vẻ làm trâu ngựa, làm tôi tớ trung thành của nhân dân”.

Một trong những biểu hiện có giá trị nhất của một đảng đạo đức, văn minh là thực hành dân chủ theo đúng nghĩa “chế độ ta là chế độ dân chủ, dân là chủ và dân làm chủ”. Dân chủ là làm cho người dân có năng lực làm chủ, biết thụ hưởng và dùng quyền làm chủ, dám nói, dám làm, dám phê bình Đảng. Dân chủ là cái chìa khóa vạn năng giúp Đảng có thể giải quyết được mọi khó khăn. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Chế độ ta là chế độ dân chủ, nghĩa là nhân dân làm chủ. Đảng ta là Đảng lãnh đạo, nghĩa là tất cả các cán bộ, từ Trung ương đến khu, đến tỉnh, đến huyện, đến xã, bất kỳ ở cấp nào và ngành nào - đều phải là người đầy tớ trung thành của nhân dân”.

Thuận lòng dân là không làm việc theo lối quan liêu, “quan” chủ; đồng thời, tuyệt đối không “theo đuôi quần chúng”, mà phải “làm theo cách quần chúng”. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, “việc gì cũng phải học hỏi và bàn bạc với dân chúng, giải thích cho dân chúng. Tin vào dân chúng. Đưa mọi vấn đề cho dân chúng thảo luận và tìm cách giải quyết. Chúng ta có khuyết điểm, thì thật thà thừa nhận trước mặt dân chúng. Nghị quyết gì mà dân chúng cho là không hợp thì để họ đề nghị sửa chữa. Dựa vào ý kiến của dân chúng mà sửa chữa cán bộ và tổ chức của ta”. Tuyệt đối không làm việc theo cách đóng cửa lại mà đặt kế hoạch, viết chương trình rồi đưa ra cột vào cổ dân chúng, bắt dân chúng theo. Bởi vì, “làm theo cách quan liêu đó, thì dân oán. Dân oán, dù tạm thời may có chút thành công, nhưng về mặt chính trị, là thất bại”. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Đảng không phải làm quan, sai khiến quần chúng mà phải làm đầy tớ cho quần chúng và phải làm cho ra trò, nếu không quần chúng sẽ đá đít. Muốn như thế phải gần quần chúng, học quần chúng, lãnh đạo quần chúng, cái gì lợi cho quần chúng thì làm, hại cho quần chúng thì tránh. Xa quần chúng là hỏng, cần phải nhớ nhiệm vụ của Đảng là làm đầy tớ cho quần chúng”.

Đạo đức và văn minh của Đảng thể hiện ở tư duy khoa học, cách mạngđổi mới, sáng tạo, tầm nhìn về tương lai, phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của thế giới. Theo V.I. Lê-nin, người cộng sản phải có dũng khí nhìn vào sự thật, phải có gan vứt bỏ những nhận thức của ngày hôm qua không phù hợp với tình hình diễn biến của ngày hôm nay, phải biết “thay đổi sách lược, chọn một con đường khác để đi tới đích của chúng ta, nếu con đường cũ, trong một thời gian nhất định nào đó, xem ra không thích hợp nữa, không đi theo được nữa”. Đó chính là phương châm hành động “dĩ bất biến ứng vạn biến” mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thực hiện trong suốt sự nghiệp cách mạng của mình. Về nguyên tắc, mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là bất di bất dịch, nhưng sách lược phải được thực hiện một cách mềm dẻo. “Ta không thể giống Liên Xô, vì Liên Xô có phong tục tập quán khác, có lịch sử địa lý khác... Ta có thể đi con đường khác để tiến lên chủ nghĩa xã hội”. Thế giới ngày càng đổi mới, nhân dân ngày càng tiến bộ; vì vậy, Đảng phải có đủ gan góc, đủ tinh thần phụ trách để quyết định phương hướng chính trị mới, thay đổi cách thức công tác và đấu tranh, dám bỏ những khẩu hiệu và những nghị quyết đã cũ, không hợp thời, đưa những nghị quyết và khẩu hiệu mới thay vào. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, “tình hình khách quan thay đổi hàng giờ hàng phút, một chủ trương của ta hôm nay đúng, hôm sau đã không hợp thời, nếu ta không tỉnh táo kiểm điểm những tư tưởng hành vi của ta để bỏ đi những cái quá thời, sai hỏng, nhất định ta sẽ không theo kịp tình thế, ta sẽ bị bỏ rơi, bị các bạn tỉnh táo nhanh nhẹn hơn vượt đi trước”.

Kết hợp đức trị với pháp trị” là một nét đẹp tiêu biểu về đạo đức, văn minh của một đảng chân chính cách mạng. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, “sửa chữa sai lầm, cố nhiên cần dùng cách giải thích thuyết phục, cảm hóa, dạy bảo. Song không phải tuyệt nhiên không dùng xử phạt. Lầm lỗi có việc to, việc nhỏ. Nếu nhất luật không xử phạt thì sẽ mất cả kỷ luật, thì sẽ mở đường cho bọn cố ý phá hoại. Vì vậy, hoàn toàn không dùng xử phạt là không đúng. Mà chút gì cũng dùng đến xử phạt cũng không đúng”. Người chỉ rõ, pháp luật phải thẳng tay trừng trị những kẻ bất liêm, dù cho có đang nắm giữ cương vị nào. Tính nghiêm minh của pháp luật kết hợp với giữ vững nguyên tắc, kỷ luật của Đảng từ trên xuống dưới để nhất trí về tư tưởng và hành động là một biểu hiện và phương thức hành động của một đảng đạo đức, văn minh.

HAIVAN

Nhận thức về mục tiêu, lộ trình xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam.

 

Kế thừa các quan điểm từ Đại hội XII về xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam trong tình hình mới, Đại hội XIII của Đảng đã bổ sung, phát triển, xác định rõ hơn mục tiêu, lộ trình hiện đại hóa Quân đội nhân dân Việt Nam, cụ thể là: “Xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại” với lộ trình “Đến năm 2025, cơ bản xây dựng quân đội, công an tinh, gọn, mạnh, tạo tiền đề vững chắc, phấn đấu năm 2030 xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại”. Đây là lần đầu tiên, Đảng xác định rõ mục tiêu và lộ trình hiện đại hóa Quân đội nhân dân Việt Nam.

Việc Đại hội XIII của Đảng đề ra mục tiêu, lộ trình xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam là tư duy mới, phù hợp với xu thế, yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc cũng như tiềm lực của đất nước hiện nay. Cụ thể là:

Một là, về dự báo tình hình, Đại hội XIII của Đảng có những đánh giá: Thế giới đang trải qua những biến động to lớn, diễn biến rất nhanh chóng, phức tạp, khó dự báo. Hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, song đang đứng trước nhiều trở ngại, khó khăn; cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, xung đột cục bộ tiếp tục diễn ra dưới nhiều hình thức, phức tạp và quyết liệt... Chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa cường quyền nước lớn, chủ nghĩa thực dụng trong quan hệ quốc tế gia tăng. Các nước đang phát triển, nhất là các nước nhỏ đứng trước nhiều khó khăn, thách thức mới... Trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương, tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo diễn ra căng thẳng, phức tạp, quyết liệt hơn. Hòa bình, ổn định, tự do, an ninh, an toàn hàng hải, hàng không trên Biển Đông đứng trước thách thức lớn, tiềm ẩn nguy cơ xung đột... Cách mạng công nghiệp lần thứ tư phát triển mạnh mẽ, xuất hiện nhiều hình thái chiến tranh và phương thức tác chiến mới rất hiện đại, công nghệ cao, các thách thức an ninh phi truyền thống ngày càng phức tạp, khó lường. Trước tình hình đó, việc đổi mới tư duy quân sự, quốc phòng, hiện đại hóa quân đội là xu thế chung trên thế giới và nước ta không thể đứng ngoài cuộc.

Hai là, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa đứng trước những yêu cầu, đòi hỏi mới, ngày càng nặng nề, phức tạp hơn. Quân đội nhân dân Việt Nam là lực lượng nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ này, phải làm tốt công tác tham mưu chiến lược với Đảng, Nhà nước về quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc (nhiệm vụ được Đảng ta xác định là trọng yếu, thường xuyên); chủ động xử lý có hiệu quả các tình huống, không để bị động, bất ngờ; vừa ngăn ngừa nguy cơ xung đột, bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc, vừa giữ vững chủ quyền lãnh thổ, biên giới, biển, đảo; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước.

Ba là, xây dựng quân đội tinh, gọn, mạnh, tiến lên hiện đại, đủ sức mạnh bảo vệ Tổ quốc chính là cơ sở quan trọng để thực hiện chủ trương bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa” theo kế sách “chủ động giữ nước từ khi nước chưa nguy”, ngăn ngừa nguy cơ chiến tranh, xung đột, bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng. Sự vững mạnh của quân đội, công an và nền quốc phòng, an ninh là tiền đề để đất nước phát triển ổn định, bền vững, là điều kiện quan trọng mở rộng và thu hút đầu tư, du lịch, thúc đẩy kinh tế phát triển, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.

Bốn là, mục tiêu xây dựng Quân đội mà Đại hội XIII của Đảng xác định phù hợp với điều kiện của nước ta và hoàn toàn có tính khả thi khi kinh tế, xã hội của đất nước tiếp tục phát triển, công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo hơn 35 năm qua đã đạt được nhiều thành tựu trên tất cả các lĩnh vực và chắc chắn sẽ đạt được nhiều thành tựu to lớn hơn nữa; tiềm lực kinh tế và quốc phòng của nước ta có bước phát triển nhanh, có điều kiện đầu tư phát triển công nghiệp quốc phòng theo hướng Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, đồng thời kết hợp mua sắm phương tiện, trang bị vũ khí hiện đại tăng cường sức mạnh cho quân đội, tăng cường sức mạnh bảo vệ Tổ quốc. Thực tiễn hơn 10 năm thực hiện chủ trương “ưu tiên hiện đại hóa một số quân, binh chủng, lực lượng” đã đạt được những kết quả quan trọng và thu được nhiều kinh nghiệm quý. Đây chính là cơ sở vững chắc để đến năm 2025, cơ bản xây dựng quân đội, công an tinh, gọn, mạnh, tạo tiền đề vững chắc, phấn đấu năm 2030 xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại.

Xây dựng quân đội tinh, gọn, mạnh, tiến lên hiện đại là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của toàn quân và toàn dân ta, được triển khai thực hiện dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước. Trong quá trình xây dựng quân đội tiến lên hiện đại, phải thực hiện đúng quan điểm chỉ đạo của Đảng: Quân đội ta tiến lên hiện đại dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa truyền thống dân tộc, dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng Cộng sản Việt Nam. Hiện đại hóa Quân đội nhân dân Việt Nam phải bắt đầu trước hết là xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ; thực hiện “người trước, súng sau”. Mục đích xây dựng quân đội vững mạnh là để phòng thủ và sẵn sàng đập tan mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá, hóa giải nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa.

Để triển khai thực hiện thắng lợi phương hướng, mục tiêu xây dựng nền quốc phòng toàn dân và mục tiêu, lộ trình hiện đại hóa Quân đội nhân dân Việt Nam đến năm 2030 theo Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, cần giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với Quân đội. Cán bộ, chiến sĩ toàn quân, trước hết là cấp ủy, người chỉ huy, chính ủy, chính trị viên phải quán triệt thật sâu sắc và đề cao trách nhiệm trong tổ chức thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII ở cơ quan, đơn vị theo đúng sự lãnh đạo, chỉ đạo của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng. Tiếp tục nâng cao bản lĩnh chính trị, tinh thần cảnh giác cách mạng, tuyệt đối trung thành với Đảng, Tổ quốc và nhân dân; không ngừng nâng cao chất lượng huấn luyện, diễn tập sát thực tế chiến đấu, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Duy trì thực hiện nghiêm nền nếp chính quy, chấp hành kỷ luật; tập trung xây dựng tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh gắn với xây dựng cơ quan, đơn vị vững mạnh, toàn diện “mẫu mực, tiêu biểu”. Bảo đảm thực hiện đồng bộ, toàn diện các giải pháp đã xác định trong định hướng giai đoạn 2021 - 2025 xây dựng quân đội “tinh, gọn, mạnh”, phấn đấu đến năm 2030 xây dựng quân đội hiện đại. Đặc biệt, các quân chủng, binh chủng, lực lượng được xác định tiến thẳng lên hiện đại phải thực sự nỗ lực phấn đấu rất cao để hiện đại hóa đồng bộ cả về con người, tổ chức lực lượng, vũ khí, trang bị, phương thức và trình độ tác chiến cùng các mặt bảo đảm khác, đáp ứng tốt các yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.

HAIVAN

Tư duy mới về xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân.

 

Thế trận là một trong những nội dung cơ bản của xây dựng nền quốc phòng toàn dân, của nghệ thuật quân sự. Trong điều kiện thời bình, chúng ta có điều kiện xây dựng, bố trí thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận phòng thủ chiến lược, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; sẵn sàng chuyển hóa thế trận chiến tranh nhân dân khi có nguy cơ xảy ra chiến tranh xâm lược. Thế trận quốc phòng được xây dựng cả thế trận trong nước và thế trận ở ngoài nước, nhất là các địa bàn trọng điểm chiến lược; liên kết chặt chẽ nội địa với biên giới, đất liền với biển, đảo; biển, đảo gần bờ với xa bờ. Thế trận quốc phòng phải được tổ chức toàn diện bao gồm cả về quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, ngoại giao và “thế trận lòng dân”. Liên quan đến xây dựng thế trận quốc phòng, Đại hội XIII của Đảng có những phát triển mới về nhận thức và tư duy gồm:

Một là, xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc và phát huy mạnh mẽ “thế trận lòng dân”. Xây dựng “thế trận lòng dân” là nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp quốc phòng Việt Nam; là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng và cả hệ thống chính trị.

“Thế trận lòng dân” là nhân tố luôn được Đảng quan tâm trong xây dựng nền quốc phòng. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI “Về chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới” xác định: Tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh của đất nước, coi trọng xây dựng tiềm lực chính trị - tinh thần, “thế trận lòng dân”. Kết hợp chặt chẽ thế trận quốc phòng toàn dân với thế trận an ninh nhân dân. Đại hội XII của Đảng xác định: Tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh; xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh vững chắc;... Xây dựng “thế trận lòng dân”, tạo nền tảng vững chắc xây dựng nền an ninh nhân dân. Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định và phát triển: “Tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh; xây dựng và phát huy mạnh mẽ “thế trận lòng dân” trong nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân; xây dựng và củng cố vững chắc thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân”.

Xây dựng thế trận quốc phòng được tiến hành toàn diện cả về quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, ngoại giao, song phải lấy xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc là then chốt. Mặt khác, bên cạnh tiếp tục coi trọng việc xây dựng “thế trận lòng dân”, thì Đại hội XIII của Đảng đã bổ sung yêu cầu phát huy mạnh mẽ thế trận lòng dân” trong nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân. Điều này cho thấy Đảng ta đặc biệt coi trọng xây dựng nhân tố “thế trận lòng dân” và cần phát huy mạnh mẽ nhân tố này vào thực tiễn xây dựng tiềm lực quốc phòng.

Hai là, tư duy mới trong kết hợp mối quan hệ giữa kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại với quốc phòng, an ninh. Nghị quyết Đại hội XII xác định: Kết hợp chặt chẽ kinh tế, văn hóa, xã hội với quốc phòng, an ninh và quốc phòng, an ninh với kinh tế, văn hóa, xã hội; kết hợp chặt chẽ giữa quốc phòng, an ninh và đối ngoại. Tại Đại hội XIII, Đảng ta đã có sự phát triển tư duy mới về mối quan hệ giữa quốc phòng, an ninh với kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại. Trong đó, nội dung “đối ngoại” không còn tách riêng mà được đặt cùng với “kinh tế, văn hóa, xã hội”. Việc kết hợp này thể hiện tư duy, yêu cầu đòi hỏi hiện nay để phù hợp với vị thế của Việt Nam cũng như xu thế hợp tác quốc tế. Đại hội XIII của Đảng cũng đặt ra yêu cầu cao hơn, không chỉ “kết hợp chặt chẽ” như Đại hội XII của Đảng đặt ra mà còn phải “kết hợp hiệu quả”. Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Kết hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại với quốc phòng, an ninh và giữa quốc phòng, an ninh với kinh tế, văn hóa, xã hội và đối ngoại. Cụ thể hóa và thực hiện có hiệu quả quan hệ giữa nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, Chiến lược bảo vệ Tổ quốc; trong các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại; trong từng địa phương, vùng, địa bàn chiến lược và trong từng nhiệm vụ, chương trình, kế hoạch cụ thể”. Điều này thể hiện tư duy, tầm nhìn vừa chiến lược, toàn diện, vừa cụ thể, thực tiễn để bảo đảm sự kết hợp có hiệu quả.

HAIVAN

 

QUAN ĐIỂM CỦA V.I.LÊNIN VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA

CHÍNH TRỊ VÀ CHIẾN TRANH

 

Chiến dịch quân sự mà Nga tiến hành ở Ucraine chưa có dấu hiệu kết thúc thì ngày 07 tháng 10 năm 2023 lại bùng phát chiến tranh giữa tổ chức vũ trang Hamas và Israel. Để có cách nhìn đa chiều về chiến tranh, bài viết được nêu quan điểm của V.I. Lênin về mối quan hệ giữa chính trị và chiến tranh.

Khi bàn về chiến tranh, C.Mác và Ph.Ăngghen đã khẳng định bản chất của chiến tranh là một hiện tượng chính trị - xã hội mang tính lịch sử. Đó là cuộc đấu tranh vũ trang có tổ chức giữa các giai cấp, nhà nước (hoặc liên minh giữa các nước) nhằm mục đích chính trị nhất định.

Kế thừa và phát triển những tư tưởng tinh hoa nhân loại, các học giả tư sản và trực tiếp là những luận điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về chiến tranh, V.I.Lênin đã chỉ ra bản chất đích thực của chiến tranh. Trong tác phẩm “Chủ nghĩa xã hội và chiến tranh”, V.I.Lênin khẳng định: “Chiến tranh là sự tiếp tục của chính trị bằng những biện pháp khác (cụ thể là bằng bạo lực)” [1].

V.I.Lênin khẳng định chính trị mà chiến tranh tiếp tục là lợi ích (kinh tế) của các giai cấp, là mối quan hệ giữa các giai cấp, các dân tộc. Chiến tranh là sự tiếp tục của chính trị nhưng không đồng nhất với chính trị. Những quan điểm giải thích bản chất chiến tranh không có chính trị là sai lầm, phản khoa học. Chiến tranh sinh ra từ chính trị, thực hiện mục đích chính trị, do lực lượng chính trị lãnh đạo, chỉ đạo. V.I.Lênin khẳng định tất cả mọi cuộc chiến tranh đã từng diễn ra trong lịch sử, kể cả những những cuộc chiến tranh trong thời đại hiện nay đều nhằm mục đích chính trị nhất định, không có cuộc chiến tranh nào phi chính trị cả. Trong xã hội có giai cấp, không có chính trị chung chung, trừu tượng cho toàn bộ xã hội, “Chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế”[2] , phản ánh trực tiếp cơ sở kinh tế, quan hệ chặt chẽ với kinh tế, do kinh tế quyết .

Chính trị là sự thống nhất cả chính trị đối nội và chính trị đối ngoại, trong đó chính trị đối ngoại là sự phản ánh chính trị đối nội. Về mặt nguyên tắc chính trị đối nội và chính trị đối ngoại không tách rời nhau, đối nội là cái quyết định, đối ngoại phục vụ cho đối nội, phản ánh lại chính trị đối nội. V.I.Lênin: “Chiến tranh là sự phản ánh của chính sách đối nội mà nước đó đã thi hành trước đây” [3]. Quan điểm này có giá trị to lớn đối với việc nhận thức bản chất chiến tranh. Vì thế, không nên hiểu sự phụ thuộc của đường lối đối ngoại vào đường lối đối nội như là một cái gì tuyệt đối. Toàn bộ đường lối chính trị, đối nội cũng như đối ngoại, đều do chế độ kinh tế và nhà nước, do cơ cấu giai cấp của xã hội đó quyết định; còn ý nghĩa của đường lối đối nội hay đường lối đối ngoại thì lại thay đổi tùy theo những điều kiện lịch sử cụ thể.

Để đạt được mục đích chính trị trong chiến tranh, các nhà nước, giai cấp sử dụng một công cụ, một phương tiện đặc biệt đó là bạo lực vũ trang (phương thức đặc thù của chiến tranh). Chiến tranh không đồng nhất với chính trị, nó chỉ là sự tiếp tục chính trị bằng thủ đoạn bạo lực vũ trang. Chính trị là mục đích, là nội dung của chiến tranh, còn chiến tranh là một trong những phương thức tiến hành, thực hiện mục đích chính trị của các nhà nước và giai cấp. “Chiến tranh chẳng qua chỉ là chính trị từ đầu đến cuối, chỉ là sự tiếp tục thực hiện cũng những mục đích do cũng các giai cấp đó theo đuổi với những phương pháp khác mà thôi” [4]Trong xã hội có giai cấp, những phương thức thực hiện mục đích chính trị phi vũ trang, như: đe dọa, mua chuộc, dụ dỗ, kinh tế, ngoại giao, bao vây, cấm vận… thì không phải là chiến tranh; chỉ có hành động bạo lực vũ trang mới là chiến tranh. Như vậy, những xung đột vũ trang trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ không phải là sự tiếp tục của chính trị, theo đó những xung đột vũ trang trong thời kỳ này không được gọi là chiến tranh.

Hiện nay, các thế lực phản động khi tiến hành chiến tranh thường tìm cách che đậy mục đích chính trị phản động của nó và xuyên tạc bản chất của chiến tranh với các chiêu bài như bao vây, cấm vận, viện trợ kinh tế và quân sự, kích động nhân quyền, tôn giáo, sắc tộc, dân tộc..v.v.. để phát động các cuộc chiến tranh xâm lược. Theo V.I.Lênin, một cuộc chiến đấu hết sức ác liệt mà không có mục đích chính trị thì không thể gọi là chiến tranh mà chỉ là một trận đánh nhau mà thôi. Qua đó, V.I.Lênin còn chỉ rõ “Bản chất của chiến tranh - tức là cái quyết định trong chiến tranh, thể hiện thực chất của chiến tranh, thể hiện sự khác nhau về chất với trạng thái hòa bình của xã hội - là ở chỗ chiến tranh là sự kế tục chính trị của những giai cấp, nhà nước (khối liên minh) nhất định bằng thủ đoạn bạo lực, bằng đấu tranh vũ trang [5].

Ngày nay, trước những tác động tổng hợp của các nhân tố khách quan và chủ quan, những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới, khu vực; sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ, song những quan điểm của V.I.Lênin về bản chất của chiến tranh đến nay vẫn còn nguyên giá trị, mặc dù có nhiều luận thuyết xuyên tạc, phủ nhận quan điểm của V.I.Lênin về bản chất chiến tranh. Chúng ta luôn khẳng định rằng, các cuộc chiến tranh hiện nay kể cả chiến tranh hạt nhân, chiến tranh sử dụng vũ khí công nghệ cao, các cuộc chiến tranh trong tương lai như “chiến tranh rađa”, “chiến tranh thông tin”, “chiến tranh tin học”, “chiến tranh lai ghép”, “chiến tranh ủy nhiệm”, “Chiến tranh phi quy ước”, “Chiến tranh hỗn hợp”, “Chiến tranh không gian mạng”... bản chất của nó vẫn không thay đổi. Chiến tranh vẫn là sự kế tục của chính trị bằng thủ đoạn bạo lực. Chúng ta phải kiên quyết ngăn chặn mọi cuộc chiến tranh, kiên quyết đấu tranh để tiến tới loại bỏ mọi cuộc chiến tranh ra khỏi đời sống xã hội, đem lại hòa bình và hạnh phúc cho con người./.



[1]V.I.Lênin toàn tập, tập 26, “Chủ nghĩa xã hội và chiến tranh” (1915), Nxb Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, 2006, tr. 397.
[2]V.I.Lênin toàn tập, tập 42, “Lại bàn về công đoàn, về tình hình trước mắt và về những sai lầm của các đồng chí Tơ-Rốt-Xki và Bu-Kha-Rin” (1921), Nxb Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, 2006, tr. 349.
[3]
V.I.Lênin toàn tập, tập 39, “Kinh tế và chính trị trong thời đại chuyên chính vô sản” (1919), Nxb Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, 2006, tr. 361.
[4] V.I.Lênin toàn tập, tập 32, “Chiến tranh và cách mạng” (1917), Nxb Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, 2005, tr. 356.[5]Chủ nghĩa Mác - Lênin bàn về chiến tranh và quân đội, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1976, tr. 18.

 


Tư duy mới về xây dựng lực lượng quốc phòng.

 

Nền quốc phòng Việt Nam dựa vào sức mạnh toàn dân, toàn diện của lực lượng toàn dân và lực lượng vũ trang nhân dân. Lực lượng toàn dân gồm các ngành, các cấp và quần chúng nhân dân; là lực lượng đông đảo nhất, nhanh nhất, kịp thời nhất và là chỗ dựa vững chắc nhất của quốc phòng. Lực lượng vũ trang nhân dân ba thứ quân bao gồm bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân tự vệ, là nòng cốt trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân.

Đại hội XIII của Đảng xác định rõ hơn nhiệm vụ xây dựng lực lượng quốc phòng với mục tiêu xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam tinh, gọn, mạnh, cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại và lực lượng dự bị động viên hùng hậu, dân quân tự vệ vững mạnh. Về nhiệm vụ xây dựng lực lượng quốc phòng, tại Ðại hội XII, Đảng ta mới chỉ xác định: “ưu tiên hiện đại hóa một số quân chủng, binh chủng, lực lượng” nhưng đến Ðại hội XIII, Đảng đã chỉ rõ, phải xây dựng một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại: “xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại”.

Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, công nghệ số đang phát triển mạnh mẽ, tạo đột phá trên nhiều lĩnh vực, trong đó có cả lĩnh vực quốc phòng, tạo ra cả thời cơ và thách thức đan xen đối với mọi quốc gia, dân tộc. Sự xuất hiện của các loại vũ khí, trang bị, kỹ thuật quân sự hiện đại đã làm thay đổi cơ bản tổ chức quân đội, hình thái, phương thức tiến hành chiến tranh. Đặc biệt, sự ra đời của hình thái chiến tranh mạng, chiến tranh vũ trụ, vai trò của trí tuệ nhân tạo, phương tiện tự hành thế hệ mới... đã tác động sâu sắc đến quốc phòng, an ninh thế giới, khu vực và mỗi quốc gia, trong đó có Việt Nam, đòi hỏi Quân đội nhân dân Việt Nam phải có những lực lượng hiện đại để sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu thắng lợi trước mọi kẻ thù xâm lược.

Ðại hội XIII của Ðảng cũng tiếp tục khẳng định, nhấn mạnh và đặt ra yêu cầu phải xây dựng Quân đội nhân dân “vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ. Xây dựng cấp ủy, tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên trong Quân đội... tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Ðảng, Nhà nước và nhân dân”. Đồng thời, bổ sung nhiệm vụ mới: “Xây dựng lực lượng dự bị động viên hùng hậu và dân quân tự vệ vững mạnh, rộng khắp trên các vùng, miền, trên biển. Quan tâm xây dựng lực lượng bảo đảm trật tự, an toàn xã hội cơ sở đáp ứng đòi hỏi của nhiệm vụ giữ gìn an ninh, trật tự”; “Chủ động chuẩn bị về mọi mặt, sẵn sàng các phương án bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và giữ vững an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội trong mọi tình huống”.

Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng lực lượng quốc phòng, cần tập trung xây dựng lực lượng toàn dân, Quân đội nhân dân và dân quân tự vệ, trong đó:

- Với xây dựng lực lượng toàn dân, phải tập trung củng cố vững chắc hệ thống chính trị, bao gồm Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội là hạt nhân của lực lượng quốc phòng, có vai trò quyết định trong huy động, phát huy sức mạnh quốc phòng của đất nước. Bên cạnh đó, cần tập trung xây dựng các lực lượng chuyên trách, lực lượng kiêm nhiệm và lực lượng rộng rãi trong các ngành, các cấp, các lĩnh vực, phù hợp với cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và điều kiện của từng vùng, miền, địa phương trên cả nước.

- Với xây dựng Quân đội nhân dân và dân quân tự vệ, cần tập trung xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân ba thứ quân tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, nhân dân, với Đảng và Nhà nước; có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; có sức mạnh chiến đấu ngày càng cao, tổ chức tinh, gọn, mạnh, cơ động, linh hoạt, hiệu quả; cơ cấu tổ chức đồng bộ, hợp lý, phù hợp với quan điểm, đường lối quốc phòng toàn dân, chiến tranh nhân dân; đồng thời, sẵn sàng phát triển lực lượng đáp ứng yêu cầu của chiến tranh. Theo đó, bộ đội chủ lực phải được tổ chức tinh nhuệ, có khí tài hiện đại và hỏa lực mạnh; trang bị, phương tiện cơ động nhanh, có thể đảm nhiệm tác chiến độc lập và tác chiến hiệp đồng quân, binh chủng. Bộ đội địa phương được tổ chức phù hợp với đặc điểm tình hình, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh của từng địa phương, trên từng địa bàn lãnh thổ, vùng, miền, biên giới, ven biển, hải đảo; được trang bị vũ khí phù hợp, phát huy hiệu quả trong khu vực phòng thủ. Lực lượng dự bị động viên phải được xây dựng hùng hậu, rộng khắp, đủ số lượng, chất lượng cao, phục vụ phát triển Quân đội khi cần thiết. Lực lượng dân quân tự vệ được xây dựng vững mạnh, rộng khắp, chất lượng cao, phù hợp với các địa phương, các thành phần kinh tế, các cơ sở sản xuất - kinh doanh, đơn vị hành chính sự nghiệp. 

HAIVAN

 

CUỘC CHIẾN TRANH GIỮA ISRAEL VÀ HAMAS ĐANG DIỄN RA HIỆN NAY – NHÌN NHẬN CHIẾN TRANH DƯỚI QUAN ĐIỂM C. MÁC VÀ V.I.LÊNIN

Ngày 7/10 Tổ chức vũ trang Hamas phóng khoảng 5.000 quả rocket vào các thành phố Israel, đồng thời tổ chức nhiều mũi xâm nhập sâu vào lãnh thổ đối phương bằng đường biển, đường bộ và dù lượn. Lãnh đạo nhóm tuyên bố hôm nay là ngày khởi đầu "cuộc chiến lớn nhất để chấm dứt tình trạng chiếm đóng" ở Palestine. Israel đã tuyên bố tình trạng chiến tranh và tung các đòn đáp trả...

Chiến tranh xảy ra đã 3 tuần, gần 8000 người đã thiệt mạng, cơ sở vật chất bị tàn phá không thể kể đếm được….Thực tiễn chiến tranh đang xảy ra, chúng ta hãy cùng nhau soi chiếu những nội dung mà C. Mác, Ph. Ăngghen và V.I.Lênin đã dự đoán và bàn định về chiến tranh, để từ đó góp phần khẳng định các Ông đã đúng và mãi mãi vẫn đúng.

Cùng với Ph. Ăng-ghen, C. Mác đã đặt nền móng cho học thuyết Mác – Lê-nin về chiến tranh, làm nên một cuộc cách mạng khi đánh giá, xem xét về bản chất của chiến tranh trong thế giới hiện thực.

Trên cơ sở những tiền đề xã hội và lý luận nhất định. Đó là quá trình kế thừa, tiếp thu có chọn lọc những tư tưởng của nhân loại về chiến tranh và không ngừng đấu tranh phê phán, bác bỏ những quan điểm duy tâm, tôn giáo, siêu hình, phản khoa học của giai cấp tư sản về chiến tranh. C. Mác đã kiên quyết chống lại quan điểm cho rằng, chiến tranh là tất yếu, vốn có, là định mệnh đối với con người và xã hội loài người. Theo C. Mác, chiến tranh nảy sinh và phát triển có nguồn gốc và nguyên nhân của nó. Ông phê phán quan điểm của G. Hêghen và C.Ph. Claudơvit - những người đã xuất phát từ lập trường tư sản để giải thích hiện tượng chiến tranh. Đồng thời, ra sức chống các quan điểm cho rằng, nguồn gốc, nguyên nhân của chiến tranh là do tâm lý, sinh lý, địa lý, dân số, kỹ thuật,… gây nên. Việc đánh giá có phê phán những thành tựu của toàn bộ tư tưởng lý luận quân sự trước Mác trên lập trường cách mạng và khoa học, có tính nguyên tắc của chủ nghĩa duy vật biện chứng đã cho phép Ông tạo ra một bước ngoặt cách mạng thực sự trong quan điểm, tư tưởng, lý luận về chiến tranh.

Trên cơ sở phát hiện các quy luật của đời sống xã hội, lần đầu tiên trong lịch sử, C. Mác đã đưa ra luận điểm thực sự khoa học về chiến tranh; phát hiện ra nguồn gốc, nguyên nhân xuất hiện chiến tranh và chứng minh rằng, có thể loại trừ chiến tranh ra khỏi đời sống xã hội. Xuất phát từ phương thức sản xuất của đời sống vật chất quyết định các quá trình chính trị, xã hội, C. Mác đã xác định rõ bản chất giai cấp của chiến tranh, đó là: chiến tranh là một hiện tượng lịch sử - xã hội, rằng không nên xem xét chiến tranh tách rời sự phát triển xã hội và đấu tranh giai cấp. Ông cương quyết chống lại lý thuyết duy tâm, phản động bào chữa cho những cuộc chiến tranh do giai cấp bóc lột gây ra.

C. Mác đã chứng minh, trong chế độ công xã nguyên thủy, nơi không có chế độ tư hữu, thì cũng không có giai cấp, không có người bóc lột và người bị bóc lột, không có chiến tranh. Nếu những vấn đề tranh chấp giữa các bộ lạc và chủng tộc vì nguồn nước, vì nơi săn bắn,... xuất hiện và thỉnh thoảng biến thành những sự đụng độ vũ trang, thì những sự đụng độ đó mang tính chất tạm thời, ngẫu nhiên. Sự đụng độ vũ trang giữa các bộ tộc và bộ lạc riêng lẻ xảy ra trong chế độ công xã nguyên thủy không thể gọi là chiến tranh, vì nó không bắt nguồn từ bản thân tính chất của các quan hệ xã hội và do đó không có mục đích chính trị rõ ràng.

Theo C. Mác, chiến tranh với tư cách là một hiện tượng chính trị - xã hội xuất hiện khi mà lực lượng sản xuất phát triển đến mức có khả năng tạo ra sản phẩm thặng dư. Cùng với sự phát triển của năng suất lao động, đã diễn ra sự phân công lao động xã hội. Sản xuất phát triển, làm cho sức lao động của con người có khả năng sản xuất ra số lượng sản phẩm nhiều hơn số lượng sản phẩm cần thiết cho sự duy trì sức lao động. Khả năng chiếm đoạt thành quả lao động của người khác xuất hiện và cũng xuất hiện sự bất bình đẳng về kinh tế, tạo ra khả năng người bóc lột người. Do kết quả của việc phân chia xã hội thành giai cấp mà xuất hiện nhà nước, quân đội, cảnh sát, v.v. Cùng với sự xuất hiện chế độ tư hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, giai cấp và nhà nước, đã xuất hiện những cuộc chiến tranh nhằm chiếm đoạt lãnh thổ, tài sản và nô dịch các dân tộc nhỏ yếu. Từ đó, C. Mác cho rằng, chiến tranh là sự kế tục chính trị của một giai cấp, một nhà nước nhất định bằng thủ đoạn bạo lực. Ông đã chỉ ra chiến tranh và chính trị có liên quan với nhau, cơ sở của mọi nền chính trị và mọi cuộc chiến tranh nằm ngay trong bản thân tính chất của chế độ chính trị - xã hội, trong hệ thống các quan hệ sản xuất và quan hệ kinh tế của con người. Đồng thời nhấn mạnh: chính trị bao giờ cũng biểu thị những quyền lợi của một giai cấp nhất định, không có và không thể có chính trị siêu giai cấp, do dó sẽ không có và không thể có các cuộc chiến tranh không mang mục đích chính trị và giai cấp. Tổng kết cuộc chiến tranh Pháp - Phổ (1870 - 1871), C. Mác kết luận: chính trị sau khi dẫn đến chiến tranh thì nó vẫn tiếp tục cả trong thời kỳ chiến tranh..

Hiện nay tình hình thế giới, khu vực đang biến động phức tạp mới, khó dự lường, nhất là trước sự tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng Công nghiệp lần thứ Tư; sự tác động của đặc điểm, tính chất, nội dung, hình thức, sắc thái mới của đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc trong điều kiện mới; vì lợi ích giai cấp, dân tộc của mình, các thế lực hiếu chiến sẽ không ngừng biện minh cho mục đích của mình để tiến hành chiến tranh… chiến tranh đang và sẽ xảy ra sẽ có những đặc điểm mới so với các cuộc chiến tranh trước đây. Song, những quan điểm, tư tưởng, lý luận của chủ nghĩa Mác – Lê-nin về chiến tranh nói chung, của C. Mác nói riêng vẫn tiếp tục là những cơ sở lý luận khoa học, cách mạng cho chúng ta hiểu đúng về bản chất của các cuộc chiến tranh./.

 

CHÀO THÁNG 11.

Tháng 11 đã lại sang

Thu đi, đông đến cải vàng đơm bông
Cúc họa mi nở đầy đồng
Cây tam giác mạch vươn ngồng trổ hoa.

Một năm nữa sắp đi qua
Cuốn theo tất cả hòa vào tự nhiên
Bỏ buông những nỗi buồn phiền
Chào tháng mới! Đón bình yên, an lành 😃


TÌM LẠI THAO TRƯỜNG

 Những người cao tuổi càng già càng nặng lòng với những kỷ niệm tuổi thanh xuân. Những người lính từng tham gia kháng chiến chống Mỹ, cứu nước tuổi 70 cũng vậy, mỗi ngày một nhớ chiến trường và nhớ cả tuổi thanh xuân ra trận. Nhớ đến “cái thuở ban đầu” đời lính, chúng tôi lại nhớ các thao trường huấn luyện năm xưa - năm 1971.

Cùng chung nỗi nhớ thao trường, vừa qua, một nhóm cựu sinh viên-chiến sĩ khu vực Hà Nội chúng tôi đã lên đường tiền trạm, tìm đến Huyện ủy Việt Yên (Bắc Giang) “đặt vấn đề” xin sự trợ giúp thông tin về các địa bàn đóng quân xưa để tổ chức một chuyến đi tìm lại thao trường cũ.
Gặp đồng chí Nguyễn Hồng Đức, Phó Bí thư Thường trực Huyện ủy, thật bất ngờ, cả tổ tiền trạm chúng tôi được hưởng trọn vẹn niềm vui của người lính trở về sau chiến tranh. Với giọng thảng thốt, đồng chí nói: “Sao các chú lại có cái ý định nên thơ là vậy? Các chú về đây với huyện Việt Yên này, với chúng cháu sẽ là một sự kiện văn hóa, một vinh dự lớn, một niềm tự hào, một cơ hội cho cán bộ, đoàn viên, thanh niên các xã đến mà nhìn, mà nghe các chú kể về một thời kỳ lịch sử quê mình. Các chú là những nhân chứng của chiến tranh và những người làm nên chiến thắng. Vậy thì “Áo gấm không tội gì mà đi đêm”! Huyện sẽ tổ chức đón tiếp, chào mừng, các chú không phải lo kinh phí. Năm tháng các chú vào quân ngũ cũng là năm cháu mới chào đời. Các chú đến được càng đông vui huyện càng mừng. Việt Yên hôm nay đã khác hoàn toàn so với năm bảy mốt...”.
Xung quanh bàn tiệc trưa, tổ công tác tiền trạm chúng tôi được Huyện ủy phác thảo luôn chương trình lễ hội hồi hương trở lại thao trường. Một vị đại tá có nghiệp vụ thiết kế đồ họa phác luôn lên màn hình máy tính logo hội quân. Đó là hình ảnh con tàu hỏa nhả khói chạy băng băng xuyên qua những cánh đồng ngập nước mênh mông. Một hình ảnh có thật, mang đầy tính biểu tượng, nhìn rất gợi nhớ. Có thể đấy chính là con tàu chở lính sinh viên năm 1971 từ Hà Nội lên Bắc Giang bàn giao cho các đơn vị huấn luyện. Lính sinh viên Hà Nội ra quân đúng những tuần lũ lụt. Các cánh đồng vùng châu thổ sông Hồng chỉ còn nhú lên vài ngọn lúa lơ thơ...
Ngày đó, xuống tàu, chúng tôi tỏa về các thao trường: Yên Thế, Quế Võ, Việt Yên, Tân Yên. Sư đoàn 325 đã cấp tốc huấn luyện cho chúng tôi kỹ, chiến thuật bộ binh, chuẩn bị quân số bổ sung cho chiến dịch sắp tới. Chính trên mảnh đất Việt Yên (Hà Bắc khi đó) năm đó, chúng tôi được nhận những cú hích đầu tiên, định đoạt cho cả cuộc đời sau này. Chúng tôi lần đầu tiên bóp cò, nổ phát súng đầu tiên của đời lính. Phát súng nhắm vào bia, tính điểm. Trái bộc phá gói lần đầu tiên tập đánh vào lỗ châu mai. Cũng trên mảnh đất ấy, nhiều chàng lính sinh viên chúng tôi được hưởng nụ hôn đầu tiên, vì không có doanh trại, đơn vị phải trọ trong dân. Thao trường của chúng tôi là những chân ruộng mạ, những vạt đồi bạch đàn. Chúng tôi phải tỏa đi các gia đình xin tre về dựng bếp ăn đại đội và dựng mô hình lô cốt, xe tăng địch. Nhiều mái nhà dân còn dột nát, mái nhà võng xuống theo từng cơn mưa, đang chờ sửa chữa, nhưng các bà mẹ Việt Yên vẫn nén lòng để cho chúng tôi chặt đi những cây tre cuối cùng, đem về dựng trại.
Nói về tình quân dân thì dân gian có câu thành ngữ quen thuộc là “nhường cơm sẻ áo”. Đối với chúng tôi khi đó, thành ngữ đó theo nghĩa đen chỉ đúng một nửa. Bởi bà con không phải “sẻ áo”, vì quân trang chúng tôi đầy đủ, chưa hết mùi hồ. Riêng cơm ăn thì độn ngô quá nhiều, bà con trông thấy thương tình lại luộc khoai giấu cho “các con” vào ba lô con cóc. Hình ảnh bà bầm trong thơ Tố Hữu những năm kháng chiến chống thực dân Pháp lại sống lại trong tâm trí chúng tôi: “Xa bầm nhưng lại có bao nhiêu bầm”. Ngay trong các gia đình chúng tôi đóng quân cũng có nhiều gia đình liệt sĩ, quân nhân. Đơn vị chúng tôi trở thành những đứa con chung của đại gia đình Việt Yên.
Cuối năm 1972, có mấy gia đình Tân Yên nửa đêm bật khóc, vì nghe tin toàn bộ trung đội chúng tôi đóng quân ở đó bị B-52 đánh, hy sinh. Mấy cô gái ôm nhau khóc, động viên nhau “chôn chặt mối tình đầu”. Chỉ đến khi hòa bình, bà con mới biết đó là tin giả.../.
Báo QĐND

BIỂU TƯỞNG BẤT DIỆT CỦA TÌNH ĐOÀN KẾT ĐẶC BIỆT VIỆT NAM - LÀO

 Cách đây 74 năm, Ban Thường vụ Trung ương ĐCS Đông Dương quyết định các lực lượng quân sự của Việt Nam chiến đấu và công tác giúp Lào tổ chức thành hệ thống riêng, lấy danh nghĩa là Quân tình nguyện.

Khi nói về sự giúp đỡ của bộ đội tình nguyện và các chuyên gia Việt Nam tại Lào, Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Công an Lào, Đại tướng Vilay Lakhamphong chia sẻ: “Đó là sự giúp đỡ cao đẹp, không đòi hỏi đền đáp, sự giúp đỡ quý báu, vô giá, giúp đỡ vì mối quan hệ hợp tác hữu nghị.”
Cách đây 74 năm, ngày 30/10/1949, Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương đã quyết định: “Các lực lượng quân sự của Việt Nam chiến đấu và công tác giúp Lào tổ chức thành hệ thống riêng và lấy danh nghĩa là Quân tình nguyện.”
Đây là không chỉ là mốc lịch sử quan trọng, đánh dấu bước phát triển và trưởng thành của các lực lượng quân sự trên chiến trường Lào, mà còn khẳng định đường lối, quan điểm đúng đắn của Đảng trong thực hiện nhiệm vụ quốc tế.
Kể từ đó, ngày 30/10/1949 được lấy làm Ngày truyền thống Quân tình nguyện và chuyên gia Việt Nam tại Lào.
Với tinh thần quốc tế vô sản và thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Giúp bạn là tự giúp mình,” chấp hành nghiêm sự lãnh đạo, chỉ đạo của Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng Tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam, lớp lớp các thế hệ cán bộ, chiến sỹ quân tình nguyện và chuyên gia Việt Nam không quản ngại khó khăn, gian khổ, chấp nhận mọi hy sinh sang Lào, cùng kề vai sát cánh với các cán bộ, chiến sỹ Quân Giải phóng Nhân dân Lào và nhân dân các dân tộc Lào tích cực hoạt động, giúp cách mạng Lào đẩy mạnh kháng chiến, kiến quốc, giành được nhiều chiến công vang dội, cùng với quân đội và nhân dân Lào giành thắng lợi hoàn toàn trong 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược (1945-1975).
Với những thành quả đạt được, quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam không chỉ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và Quân đội Nhân dân Việt Nam giao phó, mà còn có những đóng góp to lớn tạo dựng nên mối quan hệ vĩ đại, tình đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện Việt Nam-Lào và Lào-Việt Nam ngày nay.
Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ quốc tế tại Lào, sự thủy chung, trong sáng, luôn hết lòng vì bạn Lào, cùng sự hy sinh vô bờ bến và những chiến công hiển hách của các chiến sỹ quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam đã để lại nhiều tình cảm tốt đẹp, được các lãnh đạo và nhân dân Lào luôn khắc ghi, coi đó là một biểu tượng bất diệt của mối quan hệ thủy chung, trong sáng, có một không hai trên thế giới giữa hai nước Lào-Việt Nam anh em.
Trong phát biểu chào mừng Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ IV Đảng Lao động Việt Nam (năm 1976), ông Kaysone Phomvihane, Tổng Bí thư Đảng Nhân dân Cách mạng Lào khi đó đã khẳng định: “Trong mọi sự thành công của Cách mạng Lào đều có sự đóng góp trực tiếp của Cách mạng Việt Nam. Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam có quyền tự hào vì những đóng góp máu xương vào thắng lợi của quân và dân Lào anh em trong suốt chặng đường dài mấy mươi năm chiến đấu và công tác trên đất nước Triệu Voi anh hùng, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trọng đại mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân trao cho.”
Nguyên Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Lào Choummaly Sayasone nhớ lại: "Trong bất kỳ hoàn cảnh khó khăn nào cũng đều giúp đỡ lẫn nhau… các trận chiến trên cả nước Lào từ Bắc-Trung-Nam đều có quân tình nguyện Việt Nam phối hợp với quân đội nhân dân Lào của chúng tôi. Đó là truyền thống, đó là lịch sử mà hai Đảng, hai nước chúng ta đã tạo dựng, giúp cho mối quan hệ gắn bó giữa hai nước chúng ta, nhất là giữa hai quân đội, đến bây giờ vẫn trường tồn và ngày càng gắn kết."
Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Quốc phòng Lào, Đại tướng Chansamone Chanyalath, nhấn mạnh: “Mục đích chính của Việt Nam trong việc cử quân tình nguyện, chuyên gia quân sự sang giúp Lào là để thực hiện nguyện vọng của Đảng, Nhà nước và nhân dân Lào tiến hành cuộc cách mạng, đấu tranh đánh đuổi giặc ngoại xâm là thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng đất nước Lào, giúp Lào trở thành một đất nước độc lập, hòa bình, dân chủ và thịnh vượng, đúng theo ý nguyện của Đảng, nhân dân các dân tộc Lào là đưa Lào trở thành một đất nước hòa bình, độc lập, dân chủ, thống nhất, thịnh vượng và ý nguyện này hiện đã trở thành hiện thực."
Bộ trưởng Quốc phòng Lào nêu rõ: "Hành động cao cả này đã góp phần tạo nên mối quan hệ hữu nghị đặc biệt vĩ đại của hai Đảng, hai Nhà nước, hai Quân đội và Nhân dân hai nước Lào và Việt Nam.”
Trong khi đó, Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Công an Lào, Đại tướng Vilay Lakhamphong bày tỏ: “Chúng tôi vô cùng biết ơn và ghi nhận sự hy sinh to lớn của các thế hệ chuyên gia dành cho Cách mạng Lào. Các thế hệ lãnh đạo Đảng, Nhà nước Việt Nam đã cử những người con, người cháu, những người mà các đồng chí yêu thương nhất, cử những cán bộ ưu tú nhất, sang giúp Cách mạng Lào chúng tôi. Các đồng chí chuyên gia đã không quản ngại khó khăn, hy sinh xương máu, mồ hôi, công sức, tuổi trẻ chỉ với mong ước cháy bỏng là giúp Cách mạng Lào giành thắng lợi, đất nước Lào được giải phóng.”
Sau khi hòa bình lập lại, hai Đảng, hai nước tiếp tục đồng hành, kề vai, sát cánh trong công cuộc bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước, cùng đạt được những thành tựu to lớn trong phát triển kinh tế-xã hội, điều không chỉ góp phần đảm bảo sự ổn định và phát triển của mỗi nước mà còn giúp tiếp tục củng cố và phát huy mối quan hệ hữu nghị vĩ đại, đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện Việt Nam-Lào theo hướng ngày càng sâu sắc, gắn bó.
Bộ trưởng Kế hoạch Đầu tư, Chủ tịch Ủy ban Hợp tác Lào-Việt Nam, ông Khamjane Vongphosy, nhận định: “Quan hệ hợp tác Lào-Việt Nam ở mọi lĩnh vực đang ngày một tăng cường và đang ở mức cao chưa từng có trong lịch sử quan hệ hai nước.”
Trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực tiếp tục có những diễn biến phức tạp, tiềm ẩn nhiều nhân tố gây mất ổn định, tác động trực tiếp đến sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của hai nước, việc phát huy những thành tựu to lớn trong quan hệ đặc biệt và truyền thống yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng của hai dân tộc Việt Nam và Lào, đặc biệt là truyền thống vẻ vang của quân tình nguyện và chuyên gia Việt Nam tại Lào có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc tiếp tục xây dựng, củng cố vững chắc mối quan hệ hữu nghị, tình đoàn kết đặc biệt, sự hợp tác toàn diện giữa hai Đảng, hai Nhà nước và nhân dân hai nước.
Trong diễn văn đọc tại Thủ đô Hà Nội ngày 18/7/2022 nhân dịp kỷ niệm 45 năm hai nước ký Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: “Đảng, Nhà nước và Nhân dân Việt Nam luôn luôn ủng hộ mạnh mẽ, toàn diện công cuộc đổi mới của Lào; đồng thời hết sức coi trọng và dành ưu tiên hàng đầu cho mối quan hệ đặc biệt vừa là đồng chí, vừa là anh em giữa hai Đảng, hai nước chúng ta. Chúng tôi luôn luôn mong muốn hợp tác, hỗ trợ đất nước Lào với tinh thần ‘giúp bạn là giúp mình,’ xem đây là nhiệm vụ chiến lược; mong muốn cùng Đảng, Nhà nước và nhân dân Lào không ngừng bồi đắp tin cậy chính trị, đẩy mạnh hợp tác an ninh quốc phòng, tăng cường kết nối hai nền kinh tế, không ngừng nâng cao chất lượng hợp tác giáo dục đào tạo, cùng nhau xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, hội nhập sâu rộng; cùng phấn đấu để các thành tựu hợp tác ngày càng tương xứng với tầm vóc của quan hệ đặc biệt Việt-Lào, cũng như kỳ vọng của lãnh đạo và nhân dân hai nước.”
Trong diễn văn đọc tại thủ đô Vientiane cùng ngày nhân sự kiện trên, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Lào Thongloun Sisoulith cũng nhấn mạnh: “Đảng, Nhà nước và nhân dân Lào luôn kiên quyết và sẽ cùng với các đồng chí Việt Nam tiếp tục phát huy truyền thống làm cho mối quan hệ hữu nghị vĩ đại, đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện Lào-Việt Nam mãi mãi trường tồn, tăng cường và nâng cấp sự hợp tác trong các lĩnh vực ngày càng đi vào chiều sâu và có hiệu quả nhằm đem lại lợi ích thiết thực cho người dân hai nước.”
Trên nền tảng của mối quan hệ đặc biệt đã được trui rèn thử thách qua nhiều thập kỷ, cùng với những cam kết mạnh mẽ của lãnh đạo cấp cao nhất, tin tưởng rằng, dù tình hình thế giới và khu vực có nhiều diễn biến phức tạp đến đâu, trong bất cứ hoàn cảnh nào, hai nước Việt Nam và Lào anh em cũng sẽ luôn giữ vững, bảo vệ và phát triển mối quan hệ hữu nghị vĩ đại, tình đoàn kết đặc biệt, sự hợp tác toàn diện, giúp cho quan hệ này ngày càng được củng cố, phát triển, năng động, hiệu quả và thiết thực hơn, đáp ứng lợi ích căn bản và lâu dài của nhân dân hai nước và mãi mãi trường tồn với thời gian./.
TTXVN