Phriđrích
Ăngghen (28.11.1820 – 5.8.1895) là người bạn đồng hành, người đồng chí tin cậy của
C.Mác. Mặc dù chỉ tự nhận mình là 'cây vĩ cầm thứ hai' đứng bên cạnh C.Mác
nhưng Ph. Ăngghen không chỉ có công lớn trong việc cùng với C.Mác xây dựng lên
một học thuyết khoa học và cách mạng mà còn phát triển chủ nghĩa Mác ngày càng
hoàn bị và thực sự trở thành vũ khí lý luận sắc bén của giai cấp công nhân trên
phạm vi toàn thế giới.
NHỮNG DẤU
ẤN TRONG HÀNH TRÌNH TƯ TƯỞNG CỦA PH.ĂNGGHEN
Ph.Ăngghen
sinh ngày 28/11/1820 tại Bácmen, tỉnh Rêni của Vương quốc Phổ (hiện nay là một
phần của nước Đức). Ông là con trai trưởng của một nhà sản xuất sợi dệt giàu có
người Đức. Cha ông là một chủ tư bản lớn, rất sùng đạo, tháo vát về kinh doanh,
giao du rộng, nhưng về chính kiến thì rất bảo thủ. Mẹ ông là một trí thức kinh
tế, nhạy cảm, đôn hậu, hoạt bát, thích hài hước và yêu văn học nghệ thuật.
Khi còn
nhỏ, Ph.Ăngghen học trung học tại Bácmen. Năm 1837, khi mới 17 tuổi, Ph.Ăngghen
đã phải dừng việc học tập để tập trung vào việc kinh doanh theo ý nguyện của
bố. Ông làm việc ở văn phòng của bố gần một năm, sau đó đến Bơremơ làm trong
một hãng buôn lớn. Thời kỳ này, ông đã có điều kiện liên lạc với nhóm nhà văn
cấp tiến “nước Đức trẻ” và cộng tác với tờ báo “Điện tín Đức”. Đây được coi là
bước đệm đầu tiên đưa Ph.Ăngghen tiếp xúc với những vấn đề chính trị.
Mùa xuân
năm 1841, Ph.Ăngghen rời Bơremơ. Sau đó ông đi thăm Thụy Sỹ và miền Bắc nước Ý.
Không bao lâu sau, Ph.Ăngghen đến Béclin và tham gia vào một trung đoàn pháo
binh. Trong những năm tháng tuổi trẻ, Ph.Ăngghen rất yêu thích văn chương và
triết học. Ông đã nhiều lần đăng kí dự thính các lớp giảng dạy triết học ở các
trường đại học và vì thế ông có điều kiện tiếp xúc với nhóm Hêghen trẻ. Cũng
như nhiều người trẻ ở Đức lúc bấy giờ, Ph.Ăngghen rất đề cao tư tưởng của
Hêghen nhưng ông không hoàn toàn đi theo những tư tưởng của nhà triết học nổi
tiếng này.
Năm 1842,
sau khi hết hạn lính, Ph.Ăngghen đến Manchextơ (Anh). Đây là một quãng thời
gian rất quan trọng trên hành trình tư tưởng của ông vì ở đây, Ph.Ăngghen có
điều kiện tiếp xúc với đông đảo các tầng lớp, giai cấp công nhân Anh. Do đó,
ông đã có dịp hiểu biết thêm về tình cảnh của họ. Cũng trong thời gian này,
Ph.Ăngghen có dịp tiếp xúc với những chiến sĩ của phái Hiến chương Anh và bắt
đầu hợp tác trong việc xuất bản những tài liệu về chủ nghĩa xã hội.
Năm 1844, Ph.Ăngghen cho đăng trên tờ “Niên giám Pháp - Đức” tác phẩm “Phê
phán chính trị kinh tế học”. Đây được coi là tác phẩm mở đầu cho tư duy phê
phán của Ph.Ăngghen khi xem xét những tư tưởng về chính trị, kinh tế của các
nhà tư tưởng cùng thời. Điều này được C.Mác - người chủ của tờ “Niên giám Pháp
- Đức” lúc này đánh giá rất cao và coi đây là “một cuốn đại cương tài tình về
khoa học chính trị của giai cấp vô sản”.
Tháng
8/1844, Ph.Ăngghen rời Manchextơ sang Đức. Khi đi ngang qua Paris, ông đã gặp
C.Mác. Từ đây bắt đầu tình cảm cao đẹp và vĩ đại của C.Mác và Ph.Ăngghen; đồng
thời cũng tạo ra những chuyển biến rất quan trọng trên hành trình tư tưởng của
Ph.Ăngghen. Do nhanh chóng bắt gặp những điểm tương đồng về mặt lập trường, tư
tưởng nên Ph.Ăngghen cùng với C.Mác đã viết chung tác phẩm “Gia đình thần
thánh” năm 1845 để chống lại phái Hêghen trẻ. Trong tác phẩm, hai ông đã bước
đầu xây dựng được một số quan điểm về chủ nghĩa xã hội trên lập trường duy vật
cách mạng. Sau đó, khi trở về Đức, Ph.Ăngghen đã viết một tác phẩm riêng có
nhan đề “Tình cảnh của giai cấp lao động ở Anh”. Đây được coi là kết quả của
thời gian ngắn ngủi Ph.Ăngghen sống ở Anh và có điều kiện tiếp xúc với giai cấp
công nhân nơi đây nhưng nó đã cho thấy Ph.Ăngghen bắt đầu nhận ra rằng giai cấp
vô sản không chỉ là những người bị bóc lột đầy đau khổ mà họ còn có khả năng tự
giải phóng giai cấp mình.
Mùa xuân
năm 1845, Ph.Ăngghen đến Bruyxen gặp C.Mác. Hai ông đã bàn bạc, thống nhất và
viết chung một tác phẩm lớn là “Hệ tư tưởng Đức” vào năm 1846 để phê phán tư
tưởng của phái Hêghen trẻ và tư tưởng của Phoiơbắc - một nhà triết học nổi
tiếng ở Đức lúc bấy giờ. Đây được coi là một tác phẩm đánh dấu sự trưởng thành
lớn về mặt tư tưởng của Ph.Ăngghen với bước chuyển từ lập trường dân chủ cách
mạng sang lập trường cộng sản chủ nghĩa; đồng thời nó cũng cho thấy sự rũ bỏ
của Ph.Ăngghen cũng như người bạn của mình là C.Mác khỏi cái bóng của các nhà
triết học lớn của Đức đang có tầm ảnh hưởng rất rộng lúc bấy giờ là Hêghen và
Phoiơbắc để xây dựng cho mình một hệ thống lý luận độc lập.
Tháng
2/1848, cách mạng Pháp nổ ra, cả C.Mác và Ph.Ăngghen bị trục xuất khỏi Bruyxen,
sau đó là Paris. Tháng 1/1849, hai ông đến Côlônhơ lập tờ báo Rênani để đấu
tranh tư tưởng. Ngoài ra, Ph.Ăngghen còn tham gia vào phong trào khởi nghĩa vũ
trang của nhân dân; sau đó phong trào bị đàn áp nên ông sang Thụy Sỹ rồi sang
Anh. Đây được coi là thời kỳ hoạt động thực tiễn đầy sôi nổi của Ph.Ăngghen;
đồng thời cũng cung cấp cho ông những tư liệu sinh động để viết các tác phẩm về
đấu tranh giai cấp và cách mạng như tác phẩm “Chiến tranh nông dân ở Đức” (1848
- 1849), hay tác phẩm viết chung với C.Mác như “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”
(1848), “Cách mạng và phản cách mạng ở Đức” (1851-1852).
Ngoài việc
đồng hành với C.Mác, Ph.Ăngghen còn tự tìm cho mình một hướng nghiên cứu riêng
là khoa học tự nhiên và ngoại ngữ. Đó là tiền đề để Ph.Ăngghen tự ghi tên mình
vào một tác phẩm nổi tiếng là “Biện chứng của tự nhiên”. Đây là tác phẩm đánh
dấu bước chuyển biến rất lớn về mặt tư tưởng của Ph.Ăngghen vì bằng những dẫn
chứng, lập luận thuyết phục về giới tự nhiên, ông đã chỉ ra những nguyên lý,
quy luật, phạm trù cơ bản của cả tự nhiên, xã hội và tư duy con người. Đây là
một tác phẩm lớn được Ph.Ăngghen viết trong suốt 10 năm (1873-1883).
Các năm
sau đó, Ph.Ăngghen còn viết nhiều tác phẩm nổi tiếng như “Tác dụng của lao động
trong việc chuyển biến từ vượn thành người” (năm 1876), “Chống Đuyrinh” (năm
1877-1878), “Nguồn gốc của gia đình, chế độ tư hữu và nhà nước”, “Biện chứng
của tự nhiên” (hoàn thành năm 1883), “Lútvích Phoiơbắc và sự cáo chung và triết
học cổ điển Đức” (năm 1888)…
Trong
những năm cuối đời, Ph.Ăngghen đi sâu vào việc trao đổi những thư từ duy vật
lịch sử, bổ sung và làm rõ thêm những quan điểm duy vật về lịch sử nhằm phân
biệt cách nhìn duy vật biện chứng về lịch sử với cách nhìn tầm thường, thô lỗ
về lịch sử.
Ngày
5/8/1895, Ph.Ăngghen đã qua đời tại Luân Đôn, thọ 75 tuổi. Bình đựng trọ cốt
của Ph.Ăngghen được thả trên bờ biển miền Nam nước Anh - nơi ông vẫn thích đến
đó nghỉ ngơi đúng như tâm nguyện cuối cùng của ông. Cuộc đời của Ph.Ăngghen
không chỉ gắn liền với tình bạn cao đẹp với C.Mác - một tình bạn đã được đi vào
huyền thoại mà còn cho thấy hành trình tư tưởng đi từ “vương quốc của tất yếu”
đến “vương quốc của tự do”. Vì vậy, V.I.Lênin - người học xuất sắc của C.Mác và
Ph.Ăngghen đã khẳng định: “Từ ngày mà vận mệnh đã gắn liền C.Mác với Ph.Ăngghen
thì sự nghiệp suốt đời của hai người bạn ấy trở thành sự nghiệp chung của họ”.
V.I.Lênin cũng khẳng định thêm: “Không thể nào hiểu được chủ nghĩa Mác và trình
bày đầy đủ được chủ nghĩa Mác, nếu không chú ý đến toàn bộ những tác phẩm của
Ăngghen”.
ĐÓNG GÓP VĨ ĐẠI CỦA
PH.ĂNGGHEN VỚI SỰ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC
Trong suốt
40 năm gắn liền với C.Mác, Ph.Ăngghen đã dành trọn cuộc đời mình trong việc xây
dựng lên một học thuyết khoa học hoàn bị và có vai trò to lớn trong việc cỗ vũ,
khích lệ và trở thành vũ khí lý luận cho giai cấp vô sản đấu tranh giải phóng
giai cấp mình và giải phóng xã hội loài người. Những đóng góp vĩ đại của
Ph.Ăngghen đối với sự hình thành, phát triển chủ nghĩa Mác cũng như phong trào
công nhân quốc tế được thể hiện ở những khía cạnh chủ yếu sau:
Ph.Ăngghen
đã có công lao to lớn trong việc xây dựng học thuyết Mác trên cả ba bộ phận cấu
thành là triết học, chủ nghĩa xã hội khoa học và kinh tế chính trị học.
Trên lĩnh
vực triết học, cũng như C.Mác, Ph.Ăngghen tuy xuất thân từ phái Hêghen trẻ nhưng ông
đã có công lao to lớn trong việc xây dựng chủ nghĩa duy vật biện chứng thông
qua những nguyên lý, quy luật, phạm trù. Mặc dù khẳng định những quan điểm duy
vật về lịch sử là một trong hai phát kiến vĩ đại của C.Mác nhưng Ph.Ăngghen
cũng đã có công lao to lớn cung cấp những luận chứng thuyết phục để chứng minh
tính chất duy vật triệt để của học thuyết Mác trong lĩnh vực lịch sử, xã hội;
làm cho chủ nghĩa duy vật trở nên hoàn bị và là “công cụ nhận thức vĩ đại” của
con người. Đặc biệt, bằng việc chỉ ra những quy luật của giới tự nhiên,
Ph.Ăngghen không chỉ khẳng định tính thống nhất vật chất của thế giới mà còn
làm sáng tỏ thêm mối quan hệ giữa triết học và khoa học tự nhiên. Với điều này,
Ph.Ăngghen đã cùng với C.Mác xây dựng được một hệ thống lý luận triết học hoàn
chỉnh với những quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
Trên lĩnh
vực chủ nghĩa xã hội khoa học, với những trải
nghiệm trong thời gian dài ở Anh, Pháp, Đức cùng thời gian cộng tác với C.Mác;
Ph.Ăngghen đã tạo lập và hoàn thiện những quan điểm về chủ nghĩa xã hội khoa
học mà linh hồn của lý luận đó là làm sáng tỏ sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của
giai cấp công nhân - giai cấp có khả năng tổ chức và lãnh đạo xã hội thông qua
Đảng Cộng sản, tiến hành cải biến xã hội từ chủ nghĩa tư bản sang chủ nghĩa xã
hội trên phạm vi từng nước và trên thế giới. Có thể nói, nhờ có lý luận này,
giai cấp công nhân đã từng bước bước lên vũ đài chính trị và xác lập được vai
trò to lớn của mình. Cùng với C.Mác, Ph.Ăngghen đã có công lao trong việc cung
cấp những luận cứ thuyết phục để biến chủ nghĩa xã hội từ không tưởng trở thành
chủ nghĩa xã hội khoa học. Vì vậy, “những chiến lược, sách lược cho cuộc đấu
tranh của giai cấp công nhân và sự hình thành các chính đảng vô sản mà ông đưa
ra trong những năm tháng cuối cùng của cuộc đời hoạt động lý luận và thực tiễn
cách mạng của ông là một cống hiến lớn vào kho tàng chủ nghĩa xã hội khoa học”.
Trên lĩnh
vực kinh tế chính trị học, Ph.Ăngghen đã chứng tỏ là một nhà kinh tế học
xuất sắc khi đã chỉ ra được những quy luật vận động của nền kinh tế tư bản chủ
nghĩa, bóc trần bản chất bóc lột giá trị thặng dư của phương thức sản xuất tư
bản chủ nghĩa. Đặc biệt, khi giúp C.Mác hoàn thành nốt những tập bản thảo còn
dang dở của bộ “Tư bản”, Ph.Ăngghen cũng đã góp phần quan trọng trong việc luận
giải những tư tưởng lớn của C.Mác về đặc trưng của nền kinh tế tư bản chủ
nghĩa.
Như vậy,
có thể nói, chủ nghĩa Mác trên tất cả các phương diện cấu thành của nó, từ nội
dung đến phương pháp, từ những mầm mống đầu tiên đến khi có một diện mạo trưởng
thành, từ những luận chiến đanh thép để tự bảo vệ trước những đòn tấn công,
xuyên tạc của kẻ thù cho đến những tổng kết thực tiễn đặc sắc và những dự báo
khoa học về xã hội tương lai đều in đậm dấu ấn những đóng góp kiệt xuất của
Ph.Ăngghen.
Ngoài việc
hoàn thiện, phát triển chủ nghĩa Mác trên cả ba bộ phận cấu thành, Ph.Ăngghen
còn tích cực đấu tranh chống lại những luận điệu xuyên tạc, lừa bịp của những
kẻ cơ hội, tư sản luôn muốn xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa Mác. Tuy nhiên,
Ph.Ăngghen không bảo vệ chủ nghĩa Mác một cách cực đoan, cứng nhắc. Ph.Ăngghen
từng nhấn mạnh: “Học thuyết của chúng tôi không phải là một giáo điều mà là kim
chỉ nam cho hành động”. Điều đó chứng tỏ ông không coi học thuyết Mác và một hệ
thống đóng, một cái gì đó đã xong xuôi nên Ph.Ăngghen luôn bổ sung, phát triển
bằng thực tiễn sinh động. Chỉ bằng một ví dụ điển hình về việc cùng với C.Mác,
Ph.Ăngghen đã 7 lần viết lại lời tựa cho tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng
sản” qua mỗi lần tái bản đã cho thấy Ph.Ăngghen luôn có ý thức bổ sung, phát
triển chủ nghĩa Mác gắn với điều kiện, hoàn cảnh của mỗi thời kỳ lịch sử.
Cống hiến
vĩ đại của Ph.Ăngghen đối với sự ra đời, phát triển của chủ nghĩa Mác là rất to
lớn và không thể phủ nhận. Đặc biệt, sự kiên định, kiên trì và tinh thần đấu
tranh không khoan nhượng của Ph.Ăngghen đã gợi mở cho chúng ta những bài học
kinh nghiệm sâu sắc trong việc bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin - cấu phần quan
trọng trong nền tảng tư tưởng của Đảng trước sự chống phá ngày càng tinh vi,
quyết liệt của các thế lực thù địch hiện nay.
TS. Lê Thị
Chiên
Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét