Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ khẳng định: “Chủ nghĩa cá nhân đẻ ra trăm thứ bệnh nguy hiểm: Quan liêu, mệnh lệnh, bè phái, chủ quan, tham ô, lãng phí...
Chủ
nghĩa cá nhân là một kẻ địch hung ác của chủ nghĩa xã hội.
Người cách mạng phải tiêu diệt nó”, mà Người còn nhấn mạnh rằng “thắng lợi của
chủ nghĩa xã hội không thể tách rời thắng lợi của cuộc đấu tranh trừ bỏ chủ
nghĩa cá nhân”.
Những
cán bộ, đảng viên sa vào chủ nghĩa cá nhân, mang nặng tư tưởng cá nhân chủ
nghĩa trong mình là những người đã suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức,
lối sống. Trong mọi mặt công tác và cuộc sống đời thường, họ không còn thấm
nhuần đạo đức cách mạng, thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư;
không còn gương mẫu, tiền phong, thống nhất giữa nói và làm; không còn xứng
đáng vừa là người lãnh đạo, vừa là người đày tớ thật trung thành của nhân dân
như Chủ tịch Hồ Chí Minh căn
dặn.
Họ
quên mất rằng “Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát tài. Nó phải làm
tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung
sướng”, nên, trong họ cái tôi luôn được đề cao. Họ luôn coi mình là trung tâm,
có quyền hưởng thụ, chăm chăm tính đếm lợi ích của cá nhân mình và người thân,
dòng họ mình mà không màng đến lợi ích của Tổ quốc và nhân dân. Vì thế, khi đã
để những chứng bệnh cá nhân chủ nghĩa nảy sinh, thì dần dần tinh thần đấu tranh
và tính tích cực của họ bị kém sút, chí khí anh dũng và phẩm chất tốt đẹp của
người cách mạng cũng kém sút; họ quên rằng tiêu chuẩn số một của người cách
mạng là sống có lý tưởng, vì lý tưởng của Đảng mà hành động.
Họ
kiêu ngạo, công thần, tự cao tự đại, chỉ thích “nhìn từ trên xuống” khi phê
bình người khác mà không muốn người khác phê bình mình. Họ sợ tự phê bình hay
bị người khác phê bình sẽ làm mất đi cái uy thế, cái thể diện, cái uy tín của
họ, nên “họ không lắng nghe ý kiến của quần chúng. Họ xem khinh cán bộ ngoài
Đảng”. Không dừng ở đó, “họ yêu cầu hưởng thụ, yêu cầu nghỉ ngơi, họ muốn lựa
chọn công tác theo ý thích cá nhân mình, không muốn làm công tác mà đoàn thể giao
phó cho họ. Họ muốn địa vị cao, nhưng lại sợ trách nhiệm nặng”. Thậm chí có
những người còn cho rằng mình là “cứu tinh’ của dân, “công thần” của Đảng nên
đã “kể công” với Đảng, “muốn Đảng phải “cảm ơn” họ. Họ đòi ưu đãi, họ đòi danh
dự và địa vị. Họ đòi hưởng thụ”. Khi không được thỏa mãn thì họ quay sang bất
mãn, “oán trách Đảng”, vì cho rằng mình “không có tiền đồ”, “bị hy sinh”, thậm
chí theo đuôi và cổ xúy cho những đối tượng phản động, cơ hội nhằm bôi đen sự
thật, chống phá Đảng và chế độ.
Trong
công việc, vì không muốn “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ” và tự cho
mình quyền hành động tự do, vô tổ chức, vô kỷ luật, nên họ độc đoán, chuyên
quyền và mắc các trọng bệnh là “con đẻ” của chủ nghĩa cá nhân như: Bệnh chủ
quan, bệnh hẹp hòi, bệnh khai hội, bệnh nể nang, bệnh tham lam, bệnh lười
biếng, bệnh kiêu ngạo, bệnh hiếu danh, thiếu kỷ luật, óc hẹp hòi, óc địa
phương, óc lãnh tụ, bệnh “hữu danh vô thực”, kéo bè kéo cánh; bệnh cận thị,
bệnh tị nạnh, bệnh xu nịnh, a dua, bệnh quan liêu, bệnh bàn giấy, bệnh nóng
tính, bệnh lụp chụp... Những chứng tật bệnh này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ
trong nhiều bài viết, bài nói và bài phát biểu của mình; và cũng theo Người,
những “bệnh cá nhân” này không chỉ gây bức xúc, làm suy giảm niềm tin của quần
chúng nhân dân với những cán bộ, đảng viên đã và đang suy thoái, mà còn đe dọa
vai trò lãnh đạo của Đảng.
Trong
quan hệ với quần chúng, họ tự cho rằng “mình cái gì cũng giỏi, họ xa rời quần
chúng". Họ không muốn học hỏi quần chúng mà chỉ muốn làm thầy quần chúng. Họ
mắc bệnh quan liêu, mệnh lệnh”, nên đóng cửa, ngồi bàn giấy, xây dựng kế hoạch,
viết chương trình rồi dùng mệnh lệnh “cột vào cổ dân chúng, bắt dân chúng
theo”, ép dân chúng làm. Vì tự cho mình quyền là “quan phụ mẫu”, nên những cán
bộ, đảng viên để chủ nghĩa cá nhân chi phối này thậm chí trong công tác lãnh
đạo, chỉ đạo thực hiện còn không bàn bạc, không giải thích với quần chúng;
không cho quần chúng phát biểu, tham gia ý kiến đóng góp mà chỉ “bắt buộc dân
chúng làm theo mệnh lệnh” của mình. Vì tự cho mình quyền được “ăn trên ngồi
trốc”, nên những vị “cha mẹ dân” này không cần biết đến cơ sở, cũng không quan
tâm đến tâm tư, nguyện vọng, ý kiến xác đáng của quần chúng... khiến “quần
chúng không tin, không phục, càng không yêu họ. Chung quy là họ không làm nên
trò trống gì”.
Tất
cả những chứng bệnh nêu trên đều do chủ nghĩa cá nhân sinh ra; đều xuất hiện ở
những người suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn
biến", "tự chuyển hóa". Tất cả những “bệnh cá nhân” này dường
như không chững lại mà còn tiếp tục nảy nở cùng với thời gian. “Chúng” đã, đang
và sẽ xuất hiện với những biểu hiện mới, khi công khai, khi ngấm ngầm, song dù
ở dưới dạng nào thì “chúng” cũng đều trái với đạo đức cách mạng, trái với tinh
thần cần, kiệm, liêm, chính và vì thế “chúng” đều vi phạm Điều lệ Đảng, kỷ luật
đảng và các nguyên tắc của một Đảng Mácxít-Lêninnít chân chính, cách mạng. Tất
cả những “trọng bệnh” này đều đòi hỏi mỗi người cán bộ, đảng viên phải nghiêm
túc tự soi để nhận diện đúng và tự sửa/tự khắc phục bằng những phương pháp hữu
hiệu theo chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh!
Đấu
tranh để trừ bỏ, khắc phục các chứng bệnh của chủ nghĩa cá nhân là
“tranh đấu với kẻ địch trong người, trong nội bộ, trong tinh thần, là một khó
khăn, đau xót”. Đó là cuộc đấu tranh khó khăn, phức tạp, gian khổ, đau đớn, lâu
dài mà Đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên không được nản chí, buông xuôi. Dùng
đạo đức cách mạng, thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư theo chỉ
dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh để khắc phục những “bệnh cá nhân”, để kiên quyết
loại bỏ kẻ địch nội xâm ra khỏi mỗi con người, ra khỏi mỗi cấp ủy, tổ chức đảng
từ Trung ương đến
địa phương là nhiệm vụ trọng tâm hiện nay.
Vì
rằng, “trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ “cộng sản” mà
ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức.
Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước”, cho
nên để đấu tranh trừ bỏ, khắc phục những “bệnh cá nhân”, thì:
Một
là, đối với mình: Mỗi cán bộ, đảng viên đều phải thấm nhuần lời căn dặn của Chủ
tịch Hồ Chí Minh: “Quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng. Đó là
điều chủ chốt nhất. Ra sức làm việc cho Đảng, giữ vững kỷ luật của Đảng, thực
hiện tốt đường lối, chính sách của Đảng. Đặt lợi ích của Đảng và của nhân dân
lao động lên trên, lên trước lợi ích riêng của cá nhân mình. Hết lòng hết sức
phục vụ nhân dân. Vì Đảng, vì dân mà đấu tranh quên mình, gương mẫu trong mọi
việc”. Trong đó, chú trọng việc tự rèn mình, tự sửa mình để phòng, tránh sự
kiêu ngạo, tự mãn, tự túc, vì tự mãn, tự túc sẽ thoái bộ, lạc hậu, sẽ không thể
tiến bộ. Đồng thời, phải tìm tòi, học hỏi trong nhân dân; trong đồng nghiệp,
đồng chí; trong cấp trên và cả cấp dưới để cầu tiến bộ, để học lấy điều hay của
người mà làm giàu tri thức khoa học, nghiệp vụ, kỹ năng lãnh đạo, quản lý của bản
thân mình, nhằm hoàn thành tốt nhiệm vụ Tổ quốc và nhân dân giao phó.
Hai
là, đối với tổ chức: Quán triệt yêu cầu xây dựng Đảng về đạo đức, nỗ lực “rèn
luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thực dụng,
“lợi ích nhóm”, những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống” gắn với phát huy vai trò nêu gương theo Quy định số 08-QĐi/TW ngày
25-10-2018 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về trách nhiệm nêu gương của cán
bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên
Ban Chấp hành Trung ương, với Quy định số 37-QĐ/TW ngày 25-10-2021 của Ban Chấp
hành Trung ương Đảng về những điều đảng viên không được làm... để kiên quyết
làm đúng nghị quyết của Đảng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn. Trong
công tác lãnh đạo và chỉ đạo thực hiện, trọng trách càng cao càng yêu cầu người
cán bộ, đảng viên phải luôn đặt lợi ích của Đảng, lợi ích của tập thể, của nhân
dân lên trên hết, trên tinh thần “đạo đức cách mạng đòi hỏi lợi ích của cá nhân
phải phục tùng lợi ích chung của tập thể”.
Ba
là, đối với công việc: Mỗi người đều phải “ra sức học tập Chủ nghĩa Mác-Lênin”,
“học tập cái tinh thần xử trí mọi việc, đối với mọi người và đối với bản thân
mình; là học tập những chân lý phổ biến của Chủ nghĩa Mác-Lênin để áp dụng một
cách sáng tạo vào hoàn cảnh thực tế của nước ta. Học để mà làm. Lý luận đi đôi
với thực tiễn” và “luôn luôn dùng tự phê bình và phê bình để nâng cao tư tưởng
và cải tiến công tác của mình và cùng đồng chí mình tiến bộ”. Trong mọi công
việc, trước khi quyết định đều phải nghiên cứu, tìm hiểu, điều tra rõ ràng, xem
xét kỹ lưỡng, vì lợi ích chung. Khi đã triển khai thực hiện thì phải quyết tâm
làm và làm đến cùng, chứ không làm nửa vời, được chăng hay chớ; đồng thời, phải
phát huy vai trò tiền phong của mình, của đội ngũ cán bộ, đảng viên để khắc
phục mọi khó khăn, trở ngại hoàn thành nhiệm vụ. Trong quá trình triển khai,
không vì thành tích, sự hiếu danh, hiếu vị và tiền tài mà bất chấp tổn hại, bất
chấp quy luật khách quan...
Bốn
là, đối với nhân dân: Một trong những phương pháp để đấu tranh thắng lợi, trừ
bỏ được các “bệnh cá nhân” chính là người cán bộ, đảng viên hòa mình với quần
chúng thành một khối, tin quần chúng, hiểu quần chúng, lắng nghe ý kiến của
quần chúng. Do lời nói và việc làm, đảng viên, đoàn viên và cán bộ làm cho dân
tin, dân phục, dân yêu, đoàn kết quần chúng chặt chẽ chung quanh Đảng; tổ chức,
tuyên truyền và động viên quần chúng hǎng hái thực hiện chính sách và nghị
quyết của Đảng. Vì thế, luôn gắn bó mật thiết với nhân dân, dựa vào nhân dân để
xây dựng Đảng, để giám sát cán bộ, đảng viên ở cơ quan và địa bàn cư trú cũng
chính là một trong những “biệt dược” để chữa được các “bệnh cá nhân”. Và cũng
vì thế, khi đội ngũ cán bộ, đảng viên hướng về nhân dân, vì nhân dân hết lòng,
hết sức phụng sự với tinh thần liêm chính, với phương châm “việc gì lợi cho
dân, ta phải hết sức làm; việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh” như Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn, thì nhất định sẽ không còn sự lợi dụng, lạm dụng
quyền lực để tham ô, tham nhũng, lãng phí, cũng như sẽ không còn những cán bộ
vi phạm kỷ luật đảng, vi phạm pháp luật phải xử lý như thời gian qua.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét