Thứ Tư, 30 tháng 11, 2022

Tăng cường mở rộng thông tin và phát huy dân chủ nội bộ trong sinh hoạt tự phê bình và phê bình của các tổ chức đảng


Tính dân chủ, kịp thời, chính xác là một trong những đặc tính căn bản của tự phê bình và phê bình trong Đảng. Việc mở rộng thông tin, phát huy dân chủ trong tự phê bình và phê bình được xem là phương pháp tốt nhất để nâng cao chất lượng hoạt động của tự phê bình và phê bình trong mỗi cấp ủy, tổ chức đảng, cúng như các tổ chức trong hệ thống lãnh đạo, chỉ huy, chỉ đạo.

Tăng cường mở rộng thông tin là điều kiện để phát huy và mở rộng dân chủ trong tự phê bình và phê bình. Vì vậy nhất thiết phải tăng cường, mở rộng thông tin đến đảng viên; trước hết là thông tin về đường lối, chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước, nhất là các quan điểm mới để thống nhất nhận thức, định hướng tư tưởng, hướng dẫn hành động đúng cho đảng viên. Những thông tin xoay quanh tình hình và nhiệm vụ của Quân đội, của đơn vị, những vấn đề liên quan đến chức năng, nhiệm vụ của cá nhân và tập thể. Mỗi đảng viên cần phải nắm chắc những diễn biến của tình hình thế giới, tình hình trong nước, âm mưu thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch để nhận dạng kẻ thù, về tình hình quân đội, đơn vị, yêu cầu nhiệm vụ, ưu, nhược điểm trong thực hiện nhiệm vụ... Tuy nhiên, phải tuỳ theo tính chất thông tin và trình độ đối tượng cụ thể mà cung cấp cả những thông tin phản diện (thông tin ngược) về thực trạng tiêu cực, tham những, lãng phí trong hệ thống chính trị đất nước, quân đội... Không được tùy tiện đưa thông tin không đúng đối tượng. Để phát huy dân chủ, đẩy mạnh thông tin cần đề cao vai trò làm chủ của đảng viên, công khai hóa, mở rộng dân chủ trong sinh hoạt và hoạt động, đảng viên được dân chủ bàn bạc, quyết định các vấn đề theo đa số gắn với tập trung, với việc tăng cường sự lãnh đạo của chi uỷ, tổ chức đảng. Các vấn đề tự phê bình và phê bình đều phải tuân thủ nguyên tắc Đảng, kỷ luật quân đội, có tổ chức và được lãnh đạo, chỉ đạo.


Xây dựng và phát huy vai trò của cấp uỷ đảng trong nâng cao tự phê bình và phê bình ở các tổ chức cơ sở đảng, nhất là ở các chi bộ đảng


Một nội dung quan trọng nhằm xây dựng và phát huy vai trò của trung tâm đoàn kết, hạt nhân lãnh đạo là cấp uỷ đảng trong tự phê bình và phê bình. Mọi hoạt động của tổ chức đảng đều phụ thuộc vào vai trò, chất lượng của cấp uỷ, nó ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng tự phê bình và phê bình.

Với các tổ chức cơ sở đảng, cấp uỷ phần đông đều do các đồng chí chỉ huy, cán bộ chủ trì tham gia, ngoài làm chuyên môn, các đồng chí này lại đảm nhiệm hoạt động của cấp uỷ viên, nên ít nhiều đều có sự chi phối, phân tán, nên phần nào cũng gây ảnh hưởng đến hoạt động tự phê bình và phê bình. Với đặc điểm trên, nên yêu cầu hoạt động xây dựng Đảng nói chung, hoạt động tự phê bình và phê bình ở các tổ chức cơ sở đảng nói riêng, cần tích cực xây dựng đội ngũ cấp uỷ viên, các đồng chí này phải là những người thực sự gương mẫu, mẫu mực trong nhận thức và hành động, trong lời nói và việc làm, là những đồng chí thẳng thắn, trung thực, dám bảo vệ cái đúng, phê phán cái sai, có tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái, kỷ luật tự giác nghiêm minh, thực sự là những tấm gương trên nhiều phương diện. Việc tiếp tục bồi dưỡng cấp uỷ viên là cán bộ, nắm chắc các nguyên tắc, nền nếp, chế độ quy định về phương pháp tự phê bình và phê bình là việc làm rất cần thiết; hơn ai hết cấp uỷ phải nhận thức sâu sắc nhất về bản chất, mục đich, ý nghĩa của tự phê bình và phê bình, nắm vững nguyên tắc tính Đảng, tính giáo dục, tính khách quan, trung thực, thẳng thắn...trong tự phê bình và phê bình. Đồng thời mỗi cấp uỷ viên và tập thể cấp uỷ cần phải nắm chắc, bám sát tình hình đơn vị, quản lý tốt đảng viên về mọi mặt nhận thức tư tưởng, hoàn cảnh, năng lực và hành động thực tế. Từ đó có kế hoạch chủ động, kịp thời lãnh đạo tự phê bình và phê bình trong tổ chức cơ sở đảng, khuyến khích nhận thức, hành động tích cực, ngăn chặn, loại bỏ tư tưởng, hành động sai trái của mỗi cán bộ, đảng viên trong quá trình tu dưỡng và phấn đấu. Cấp uỷ cần kết hợp chặt chẽ giữa tự phê bình và phê bình với công tác khen thưởng, đề bạt bổ nhiệm, đánh giá cán bộ... theo đúng chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của mình, nhằm tạo sự tin tưởng, đoàn kết trong tự phê bình và phê bình. Làm được điều đó một cách khách quan, vô tư, trung thực sẽ giúp cho người có thành tích muốn được tập thể đánh giá mình chính xác, người còn có hạn chế, khuyết điểm cũng muốn được mọi người góp ý, để tự sửa mình cho hoàn thiện hơn, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Theo Hồ Chí Minh“Mục đích là cốt lợi cho công việc”. Hiện nay do trình độ đội ngũ cán bộ đảng viên có sự phát triển cao hơn, đa số là những đồng chí có tri thức khoa học, có hiểu biết, được rèn luyện thực tiễn, có lòng tự trọng rất cao. Vì thế trong lãnh đạo, chỉ đạo tự phê bình và phê bình cấp uỷ cần kết hợp nhiều hình thức, tuỳ theo tính chất của những hạn chế, khuyết điểm, tính khí riêng của mỗi đảng viên mà chủ động gặp riêng nhắc nhở, góp ý, không nhất thiết phải làm trước tập thể, đó cũng là phương pháp tự phê bình và phê bình mà hiệu quả của nó đôi khi là rất lớn. 


VẤN ĐỀ VỀ ỨNG XỬ VĂN HÓA TRÊN MẠNG XÃ HỘI HIỆN NAY Ở VIỆT NAM

 Những năm gần đây, cùng với sự phát triển của xã hội, công nghệ thông tin nói chung, internet và các trang mạng xã hội (MXH) nói riêng đã và đang ảnh hưởng rất lớn đến mọi mặt đời sống xã hội và sinh hoạt của con người.. Khi mà con người đã coi mạng xã hội là “môi trường xã hội”, thì văn hóa ứng xử ở đó lại là một vấn đề cần được quan tâm.

Mạng xã hội là một thành tựu khoa học kỹ thuật của con người. Nó đem con người đến gần với nhau hơn. Nó giúp người ta nói lên suy nghĩ của mình được nhiều hơn. Và đặc biệt, nó giúp cho người truyền tải cảm hứng, giúp cho cộng đồng gần gũi nhau hơn. Tới đây, với cuộc cách mạng 4.0, các nhà khoa học còn mong muốn xây dựng sự tương tác mạnh mẽ hơn giữa thế giới ảo và thế giới thật. Dễ thấy, sự tác động của hai thế giới, “ảo” và “thật” đã gần nhau lắm. Tuy nhiên, thời gian gần đây, nhiều câu chuyện không hay đã diễn ra trên mạng xã hội cho thấy, việc cộng đồng trong xã hội kêu gọi xây dựng văn hóa ứng xử trên mạng xã hội đang trở nên cấp thiết. Có ý kiến cho rằng, việc xây dựng văn hóa phải xuất phát từ hai phía, từ cơ quan quản lý nhà nước và từ mỗi người dân.

Thực tế thời gian qua cho thấy sự vào cuộc quyết liệt của các cơ quan quản lý nhà nước, nhất là Bộ Thông tin và Truyền thông nên đã hạn chế được nhiều tài liệu xấu độc từng được lưu truyền trên mạng xã hội. Các doanh nghiệp cung cấp mạng xã hội như Facebook, Google, Twitter hay YouTube cũng đã thể hiện thái độ đồng tình, ủng hộ khi chấp hành đầy đủ việc gỡ bỏ những thông tin bịa đặt, xấu độc.

Cách đây khoảng chục năm, sự bùng nổ với nhiều hệ lụy của game online, các nhà chức trách ở nhiều nước đã quản lý tài khoản game qua số công dân. Việc này được cho là đã giảm tải, hạn chế rất nhiều tác động tiêu cực do game online gây ra. Tuy nhiên, mạng xã hội khác game online ở chỗ, người ta biết rõ con người sử dụng tài khoản nhưng lại không thể kiểm soát được những điều họ bình luận, tương tác với cộng đồng mạng. Do đó rất cần sự vào cuộc của cư dân mạng để xây dựng một nền văn hóa mạng trong sạch, lành mạnh.

 

Giáo dục nâng cao trình độ kiến thức hiểu biết về thực hiện nguyên tắc tự phê bình và phê bình cho cán bộ đảng viên, nhất là đội ngũ cán bộ chủ trì các cấp hiện nay

 

Đây là giải pháp quan trọng hàng đầu nhằm tạo cơ sở, điều kiện cơ bản để xây dựng động cơ, thái độ và phương pháp, phong cách tự phê bình và phê bình một cách đúng đắn nhất.

Hiệu quả mọi hoạt động thực tiễn của con người, đều bắt nguồn trước hết từ khả năng nhận thức bản chất quy luật vận động của đối tượng, của hoạt động thực tiễn. Tự phê bình và phê bình trong Đảng nói chung, trong mỗi cán bộ đảng viên nói riêng được xem như một hoạt động khoa học về xây dựng Đảng, xây dựng con người, là văn hóa của mỗi cán bộ, đảng viên và tổ chức đảng. Vì vậy, nhất thiết nó phải được tiến hành trên cơ sở của sự hiểu biết toàn diện, của trình độ khoa học xây dựng Đảng, xây dựng con người, xây dựng tổ chức. Nâng cao chất lượng tự phê bình và phê bình ở các tổ chức, mỗi cán bộ đảng viên trước hết phải nâng cao trí tuệ, trình độ hiểu biết mọi mặt... cần bồi dưỡng họ nắm vững lý luận Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về tự phê bình và phê bình. V.I Lênin đã từng chỉ ra nếu tự cao, tự đại không thấy những thiếu sót và sai lầm của mình, mưu toan che dấu những cái ấy trước quần chúng là hiểm họa lớn nhất đối với một Đảng cách mạng vô sản. Hồ Chí Minh đã từng dạy: "Phê bình là quyền lợi và nhiệm vụ của mọi người, là thực hành dân chủ. Cấp dưới có quyền phê bình cấp trên. Nhân dân có quyền phê bình cán bộ, phê bình chính quyền, Đảng và các đoàn thể. Mọi người có quyền phê bình nhau để cùng nhau tiến bộ" “Đảng không che dấu khuyết điểm của mình, không sợ phê bình. Đảng phải nhận khuyết điểm của mình mà tự sửa chữa để tiến bộ, và để dạy bảo cán bộ và đảng viên". Bồi dưỡng giáo dục quan điểm của Đảng về vai trò, nội dung, phương pháp tự phê bình và phê bình đội ngũ cán bộ đảng viên, qua đó xây dựng động cơ, thái độ, trách nhiệm chính trị, phương pháp tự phê bình và phê bình cho đảng viên và hệ thống tổ chức đảng.


Hiểu về sự cần thiết của thực hiện tự phê bình và phê bình trong xây dựng Đảng hiện nay

  

Cần phải hiểu tự phê bình và phê bình là vấn đề có tính nguyên tắc của công tác xây dựng, hoạt động lãnh đạo của Đảng, thuộc tính phản ánh bản chất cách mạng, khoa học của Đảng Cộng sản Việt Nam, là đặc trưng không tách rời của phong cách công tác người đảng viên Cộng sản, phương pháp quan trọng trong giáo dục cho cán bộ đảng viên của Đảng. Không có tự phê bình và phê bình thì không thể đấu tranh có kết quả với những thiếu sót, khó khăn trong công tác, thói trì trệ, sức ỳ và sự thủ cựu của nhận thức và hành động của mỗi cá nhân và tập thể lãnh đạo. Theo nghĩa đó thì tự phê bình và phê bình là một công cụ sắc bén, biến cái mới, tiên tiến, tiến bộ thành hiện thực trong hoạt động lãnh đạo của Đảng ta nói chung, và mỗi cán bộ đảng viên nói riêng. 

 Thực tế của tự phê bình và phê bình trong Đảng vừa qua tuy đạt được những kết quả bước dầu, song còn nhiều hạn chế. Các Nghị quyết của Đảng trong nhiều nhiệm kỳ qua về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự thoái hóa về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ đã chỉ ra nhiều nguyên nhân khách quan, chủ quan, trong đó nhấn mạnh“Nguyên tắc tập trung dân chủ” ở nhiều nơi bị buông lỏng; việc thực hiện tự phê bình và phê bình có chỗ, có nơi còn không nghiêm, chưa có cơ chể để bảo vệ người đấu tranh phê bình trong các tổ chức.

Tự phê bình và phê bình là hoạt động có tính nguyên tắc, là quy luật tất yếu trong sự tồn tại, vận động phát triển của Đảng Cộng sản. Tự phê bình và phê bình có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong đời sống và hoạt động lãnh đạo của Đảng, là biện pháp hữu hiệu để xây dựng, củng cố sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, phương tiện để giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ đảng viên, vũ khí sắc bén đấu tranh khắc phục những sai lầm, khuyết điểm, phát huy những ưu điểm, tu dưỡng rèn luyện hoàn thiện mình, vươn lên ngang tầm yêu cầu nhiệm vụ lãnh đạo trong mỗi giai đoạn. tự phê bình và phê bình còn là phương tiện hữu hiệu thực hiện việc thanh Đảng, để loại bỏ khỏi Đảng những phần tử cơ hội, thoái hoá, biến chất làm cho Đảng luôn trong sạch vững mạnh. Trong suốt quá trình ra đời và phát triển, lãnh đạo cách mạng nước ta, Đảng ta luôn coi trọng và làm tốt việc tự phê bình và phê bình trong nội bộ. Nhờ đó Đảng luôn giữ vững được uy tín trước quần chúng nhân dân, khẳng định được vai trò lãnh đạo độc tôn đối với sự nghiệp cách mạng nước ta trước đây cũng như trong giai đoạn cách mạng mới hiện nay.

 

MỘT SỐ BIỆN PHÁP KIỂM SOÁT TIN XẤU, ĐỘC HẠI TRÊN MẠNG XÃ HỘI

 

Những năm qua, để ngăn chặn những nội dung xấu độc tràn lan trên mạng xã hội, các cơ quan chức năng đã thực hiện nhiều biện pháp nhằm kiểm soát, hạn chế những thông tin xấu, độc hại trên mạng xã hội, và đạt được nhiều kết quả tích cực.

Cụ thể, ngày 28/5/2021, căn cứ trên tình hình thực tế, Bộ Thông tin và Truyền thông đã ban hành Công văn số 1800/BTTTT-PTTH&TTÐT "Về việc tăng cường công tác quản lý, xử lý thông tin vi phạm trên mạng xã hội" nhấn mạnh sự phát triển mạnh mẽ của mạng xã hội những năm gần đây, đặc biệt là hai mạng xã hội Facebook và Youtube với "những tác động cả tiêu cực và tích cực đối với đời sống xã hội", đồng thời khẳng định việc tăng cường công tác quản lý để hạn chế những tác động tiêu cực của mạng xã hội, xử lý kịp thời các hành vi vi phạm của người sử dụng; yêu cầu Google đóng nhiều kênh Youtube khác của người dùng trong nước có nội dung vi phạm pháp luật.

Tuy nhiên, Công văn chưa đề cập đến mạng xã hội TikTok, một mạng xã hội có cơ chế hoạt động khác biệt so với Youtube và Facebook, đã có từ năm 2016. Ðáng nói hơn, hiện nay chính Facebook và Youtube dường như cũng đã nhanh chóng học hỏi cơ chế hoạt động của TikTok, với sự ra đời của Facebook Stories và Youtube Shorts? Thực tế này đòi hỏi các cơ quan quản lý cần tiếp tục bám sát sự dịch chuyển của xu thế mạng xã hội, để có những biện pháp xử lý, ngăn chặn kịp thời, hiệu quả.

Nhiều ý kiến cho rằng, với mức xử phạt các hành vi vi phạm trên môi trường mạng xã hội hiện còn quá nhẹ, người vi phạm chủ yếu chỉ bị xử phạt hành chính với mức phạt vài triệu đồng là chưa đủ sức răn đe. So với món lợi "khổng lồ" từ quảng cáo, truyền thông trong một clip viral (phổ biến), thì mức phạt này chỉ là quá nhỏ.

Chính bởi hình phạt chưa thích đáng cho hành vi vi phạm cũng là một trong những nguyên nhân gây ra tình trạng "ngập tràn rác" trên không gian mạng. Mà với TikTok, những rác mạng ấy chính là miếng mồi béo để các TikToker câu like, câu view, tăng tương tác. Do đó các cơ quan chức năng cần nghiên cứu, rà soát, cân nhắc mức xử phạt các hành vi vi phạm trên môi trường mạng xã hội để đủ sức răn đe, ngăn chặn, đặc biệt, phải có chế tài đặc thù xử phạt đối với những hành vi vi phạm đã bị xử lý nhiều lần.

Về phía TikTok, trước phản ứng của dư luận, nền tảng xã hội này đã cố gắng xây dựng và cập nhật thường xuyên bộ Tiêu chuẩn cộng đồng, để từ đó thực hiện công tác kiểm duyệt nội dung, bảo đảm sức khỏe thể chất và tinh thần cho người sử dụng. Như từ tháng 3/2019, TikTok đã nâng cấp chế độ và dịch vụ dành riêng cho thanh thiếu niên. Người dùng có thể sử dụng ứng dụng để bật chế độ dành cho thanh thiếu niên theo yêu cầu, cho phép họ xem các video đã được sàng lọc để phù hợp với lứa tuổi.

Tuy nhiên, thực tế TikTok đang cho thấy có nhiều lỗ hổng trong cách thức kiểm duyệt nội dung dựa trên "Tiêu chuẩn cộng đồng", cũng như cách vận hành các chế độ dành cho thanh thiếu niên không thật sự bám sát đối tượng. Chính vì vậy, TikTok cần phải siết chặt hơn trong khâu kiểm duyệt với những nội dung độc hại, nỗ lực tìm ra biện pháp cải thiện công nghệ thuật toán của mình để có khả năng phán đoán tốt hơn cho các nội dung kiểm duyệt, góp phần xây dựng một nền tảng mạng xã hội với những video giải trí sạch và chất lượng.

Và trên hết, người dùng TikTok cần phải cẩn trọng, có ý thức tự bảo vệ mình khi sử dụng mạng xã hội, thông qua việc tự tạo một "bộ lọc" phù hợp cho bản thân. Hiện nay, mạng xã hội TikTok đã có cơ chế ngăn chặn và báo cáo các nội dung phản cảm, vô bổ, thậm chí gây hại cho cộng đồng.

Do đó, để bảo vệ mình, người dùng cần sử dụng hiệu quả các tính năng này. Với những người sáng tạo nội dung trên TikTok cần phải lưu ý xây dựng những nội dung tuân thủ theo pháp luật, phù hợp với tiêu chuẩn đạo đức và thuần phong mỹ tục của Việt Nam.

Riêng với đối tượng trẻ em, thanh thiếu niên, gia đình và nhà trường cần phối hợp giáo dục nâng cao nhận thức của các em khi sử dụng mạng xã hội. Ðứng trước "ma trận" những trào lưu trên nền tảng TikTok, nếu không được trang bị những kiến thức cần thiết và các biện pháp sử dụng nền tảng một cách an toàn, đối tượng thanh thiếu niên rất dễ bị đầu độc bởi những nội dung xấu và thậm chí vô tình trở thành nạn nhân của những trào lưu độc hại.

 

Mối quan hệ giữa “tự diễn biến” và “Tự chuyển hóa” với Chiến lược “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch


Mối quan hệ  tự diễn biếntự chuyển hóa” với  diễn biến hòa bình

Các Nghị quyết Đại hội của Đảng luôn chỉ rõ là các thế lực thù địch tiếp tục thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”, gây bạo loạn lật đổ, sử dụng các chiêu bài “dân chủ”,“nhân quyền” hòng làm thay đổi chế độ chính trị, xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam ở nước ta. Trong nội bộ, những biểu hiện xa rời mục tiêu của CNXH, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có những diễn biến phức tạp; và rằng trong tình hình mới nhận định rõ là những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có xu hướng công khai và ngày càng nghiêm trọng hơn.

Những nhận định trên đây cho thấy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có mối quan hệ chặt chẽ với Chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Một chiến lược do bọn phản động điều khiển từ bên ngoài, thường xuyên tác động vào làm cho“tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” luôn vận động theo hướng tiêu cực ngay bên trong nội bộ mỗi tổ chức và con người của ta. Vì vậy để chống lại Chiến lược phản động của địch, ngăn chặn nội bộ ta “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” cần phải nhận thức được những vấn đề cơ bản về “diễn biến hòa bình” như: “diễn biến hòa bình” là gì? Chủ thể chỉ đạo, điều khiển, tiến hành, thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” là ai? Mục tiêu của chiến lược “diễn biến hòa bình” là gì? Chiến lược “diễn biến hòa bình” có những tính chất cơ bản nào? Phương thức thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” là gì? Nội dung chủ yếu của chiến lược “diễn biến hòa bình” bao gồm những vấn đề gì?.

 


Mối quan hệ giữa “tự diễn biến” và “Tự chuyển hóa”

  

Mối quan hệ  tự diễn biến với tự chuyển hóa

Nghiên cứu nội hàm các khái niệm “tự diễn biến” và “tự chuyển hóa” cho thấy các khái niệm này đều chỉ quá trình tự biến đổi của bản thân chủ thể (sự vật, hiện tượng, cá nhân, tổ chức…), dẫn đến chủ thể ở giai đoạn sau trở thành khác biệt với chính nó ở giai đoạn trước. Nguyên nhân “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” chủ yếu là do tự biến đổi từ bên trong của chủ thể. Những tác động từ bên ngoài không giữ vai trò quyết định nhưng có thể thúc đẩy nhanh hơn hoặc kìm hãm, làm chậm lại quá trình tự biến đổi của chủ thể.

Trong tự nhiên, “tự diễn biến” và “tự chuyển hóa” của các sự vật, hiện tượng là quá trình tự biến đổi của chủ thể theo các quy luật của tự nhiên, không mang ý nghĩa tiêu cực hoặc tích cực; nội hàm các khái niệm “tự diễn biến” và “tự chuyển hóa” của các sự vật, hiện tượng tự nhiên tương đối gần nhau, không có những khác biệt cơ bản.

Trong lĩnh vực xã hội, đối với chủ thể là con người (cá nhân, tổ chức…), “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của cá nhân, tổ chức… diễn ra theo các quy luật của nhận thức, tư tưởng, tâm lý, các quy luật của xã hội; “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của chủ thể có thể mang ý nghĩa tiêu cực hoặc tích cực, do đó việc nhận thức, xem xét, đánh giá quá trình tự biến đổi của chủ thể cũng trở nên phức tạp hơn nhiều.

Sự khác biệt cơ bản giữa “tự diễn biến” và “tự chuyển hóa” trong lĩnh vực xã hội thể hiện chủ yếu ở mức độ và trạng thái tự biến đổi của bản thân chủ thể (cá nhân, tổ chức…), trong đó “tự diễn biến” chỉ mức độ và trạng thái đang biến đổi của bản thân chủ thể (cá nhân, tổ chức…), còn “tự chuyển hóa” chỉ mức độ và trạng thái đã biến đổi của bản thân chủ thể (cá nhân, tổ chức…) sang dạng hoặc hình thái khác. Giữa “tự diễn biến” và “tự chuyển hóa” trong lĩnh vực xã hội có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, trong đó quá trình “tự diễn biến” là điều kiện, tiền đề dẫn đến “tự chuyển hóa”, còn “tự chuyển hóa” thể hiện kết quả của quá trình “tự diễn biến” đã đạt đến độ, trong đó tự biến đổi của bản thân chủ thể (cá nhân, tổ chức…) từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất và ngược lại đã đến điểm nút nhảy vọt.


NỀN TẢNG TIKTOK HIỆN ĐANG CHI PHỐI ĐỜI SỐNG GIỚI TRẺ NHƯ THẾ NÀO

Trong thời gian gần đây, có thể nhận thấy nhiều trào lưu độc hại trên TikTok đang nở rộ và phát triển mạnh mẽ trong giới trẻ, thậm chí là vượt qua cả Youtube và Facebook.

Ðiều này có thể lý giải bằng cơ chế hoạt động của TikTok. Khác với hai "đàn anh" là Youtube hay Facebook, TikTok cung cấp cho người dùng một chế độ xem tự do và đơn giản hơn, tư duy lý trí của người dùng không còn cần thiết khi các yếu tố kích thích như âm thanh, hình ảnh xuất hiện liên tục. Người dùng chỉ cần bật TikTok là có nội dung xem tức thì, mà không cần suy nghĩ lựa chọn. Nếu người dùng không thích nội dung đang phát, phần tiếp theo video đã sẵn sàng để xuất hiện.

Ngay cả việc lựa chọn nội dung xem của người dùng cũng là một quá trình được hình thành dựa vào đề xuất của thuật toán. Ðể hiểu nhu cầu của người dùng, TikTok thống kê chính xác xem người dùng có tích cực phản hồi về các video được hệ thống đề xuất hay không? Ðiều đó thể hiện qua thời gian xem, lượt tương tác, từ đó hệ thống sẽ dần dần làm rõ sở thích của người dùng, và hình thành một phong cách thống nhất. Người dùng sẽ tin tưởng chắc chắn vào các ý kiến, quan điểm đã được xác lập và thậm chí trở nên thỏa mãn, và mất đi khả năng suy nghĩ, phân tích, sàng lọc thông tin, mất đi cả quyền lựa chọn độc lập và tư duy lý trí trong quá trình tham gia TikTok.

Có thể thấy đối tượng sử dụng mạng xã hội TikTok đa phần là những người trẻ, thanh thiếu niên đang trong quá trình phát triển và hoàn thiện nhận thức, dễ bị thu hút bởi những nội dung mới, "lạ", "độc", thậm chí là quái gở, phản cảm, trái với thuần phong mỹ tục, chuẩn mực đạo đức. Với cơ chế hoạt động của TikTok, clip càng thu hút nhiều người xem, những nội dung này lại càng được đề xuất, lên xu hướng, rồi nghiễm nhiên trở thành trào lưu.

Từ đây, giới trẻ lại tiếp thu và làm theo, đu theo xu hướng một cách mù quáng khiến cho những trào lưu vô thưởng vô phạt, thậm chí độc hại có cơ hội phổ biến nhiều hơn. Hậu quả là có không ít trẻ em là nạn nhân "nhiễm độc" thụ động từ chính những trào lưu nguy hiểm trên TikTok. Trong số các trường hợp này có thể kể đến trường hợp bốn học sinh Trường trung học cơ sở ở huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc đã bắt chước video trên TikTok rồi rủ nhau lên đường cao tốc Nội Bài-Lào Cai ném đá vào xe ô-tô đang lưu thông; hay bé trai 10 tuổi ở Thành phố Hồ Chí Minh phải nhập viện trong tình trạng vẹo cổ, đầu nghiêng sang một bên sau khi bắt chước một trò chơi nguy hiểm trên mạng xã hội.

 

Tìm hiểu về “Tự chuyển hóa”


Tự chuyển hóa” là gì?

Theo Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học, “chuyển hóa” là “biến đổi sang dạng hoặc hình thái khác”, do đó “tự chuyển hóa” là quá trình bản thân chủ thể (sự vật, hiện tượng, cá nhân, tổ chức…) tự biến đổi sang dạng hoặc hình thái khác biệt với chính nó ở giai đoạn trước.

Đối với các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, “tự chuyển hóa” là quá trình tự biến đổi từ những thay đổi về lượng đến đến những thay đổi về chất… và ngược lại của chủ thể theo các quy luật của tự nhiên. Nguyên nhân “tự chuyển hóa” chủ yếu là do tự biến đổi từ bên trong của sự vật, hiện tượng. Các tác động từ bên ngoài không giữ vai trò quyết định nhưng có thể thúc đẩy nhanh hơn hoặc kìm hãm, làm chậm lại quá trình tự biến đổi của sự vật, hiện tượng.

Như vậy, trong tự nhiên “tự chuyển hóa” của các sự vật, hiện tượng là quá trình tự biến đổi của chủ thể theo các quy luật của tự nhiên, không mang ý nghĩa tiêu cực hoặc tích cực.

Trong lĩnh vực xã hội, đối với chủ thể là con người (cá nhân, tổ chức…), “tự chuyển hóa” cũng là quá trình bản thân chủ thể tự biến đổi, dẫn đến chủ thể ở giai đoạn sau trở thành khác biệt với chính nó ở giai đoạn trước. Nguyên nhân “tự chuyển hóa” chủ yếu là do tự biến đổi từ bên trong của cá nhân, tổ chức…; các tác động từ bên ngoài có thể thúc đẩy nhanh hơn hoặc kìm hãm, làm chậm lại quá trình tự biến đổi của cá nhân, tổ chức... Quá trình tự biến đổi của chủ thể diễn ra theo các quy luật của nhận thức, tư tưởng, tâm lý, các quy luật của xã hội, do đó “tự chuyển hóa” của cá nhân, tổ chức… có thể mang ý nghĩa tiêu cực hoặc tích cực.


Tìm hiểu về “Tự diễn biến”

 


Tự diễn biến” là gì?

Theo Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học, “diễn biến” là “diễn ra sự biến đổi”, do đó “tự diễn biến” là quá trình bản thân chủ thể (sự vật, hiện tượng, cá nhân, tổ chức…) đang có sự tự biến đổi; xu hướng của sự tự biến đổi này sẽ dẫn đến chủ thể ở giai đoạn sau ngày càng trở thành khác biệt với chính nó ở giai đoạn trước.

Đối với các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, “tự diễn biến” là quá trình tự biến đổi từ hình thức đến nội dung, từ hiện tượng đến bản chất… của chủ thể theo các quy luật của tự nhiên. Nguyên nhân “tự diễn biến” chủ yếu là do tự biến đổi từ bên trong của sự vật, hiện tượng. Các tác động từ bên ngoài không giữ vai trò quyết định nhưng có thể thúc đẩy nhanh hơn hoặc kìm hãm, làm chậm lại quá trình tự biến đổi của sự vật, hiện tượng.

Như vậy trong tự nhiên, “tự diễn biến” của các sự vật, hiện tượng là quá trình tự biến đổi của chủ thể theo các quy luật của tự nhiên, không mang ý nghĩa tiêu cực hoặc tích cực.

 Trong lĩnh vực xã hội, đối với chủ thể là con người (cá nhân, tổ chức…), “tự diễn biến” cũng là quá trình bản thân chủ thể tự biến đổi, dẫn đến chủ thể ở giai đoạn sau trở thành khác biệt với chính nó ở giai đoạn trước. Nguyên nhân “tự diễn biến” chủ yếu là do tự biến đổi từ bên trong của cá nhân, tổ chức…; các tác động từ bên ngoài có thể thúc đẩy nhanh hơn hoặc kìm hãm, làm chậm lại quá trình tự biến đổi của cá nhân, tổ chức... Quá trình tự biến đổi của chủ thể diễn ra theo các quy luật của nhận thức, tư tưởng, tâm lý, các quy luật của xã hội, do đó “tự diễn biến” của cá nhân, tổ chức… có thể mang ý nghĩa tiêu cực hoặc tích cực.


 


MỘT SỐ ẢNH HƯỞNG TIÊU CỰC ĐẾN TỪ CÁC TRÀO LƯU TRÊN NỀN TẢNG TIKTOK

 

Thời gian gần đây, những trào lưu độc hại, phản cảm trên mạng xã hội TikTok ngày càng nở rộ và phát triển tràn lan, gây ra những hậu quả khó lường đối với chính người dùng và xã hội. Khác với Facebook và Youtube, người dùng không mất thời gian truy cập trang và gõ tìm kiếm, thay vào đó những nội dung trên TikTok sẽ tự động tìm đến người dùng. Do đó nếu không tỉnh táo, người sử dụng mạng dễ bị dẫn dắt, lôi cuốn vào các nội dung xấu độc, trào lưu nguy hiểm.

Tính đến thời điểm hiện nay, mạng xã hội TikTok đang trở thành một nền tảng nổi bật và phát triển nhanh chóng, phổ biến rộng rãi, đặc biệt là trong giới trẻ. Theo số liệu trên trang Statista, nếu như năm 2017, mạng xã hội này chỉ có khoảng 65 triệu người dùng thì tính đến tháng 1/2022, số người sử dụng mạng xã hội TikTok đã lên tới hơn một tỷ tài khoản. Sau gần bảy năm phát triển, TikTok đã trở thành một trong những mạng xã hội được sử dụng nhiều nhất trên toàn thế giới.

Ở Việt Nam, số người sử dụng mạng xã hội TikTok cũng tăng nhanh. Với đặc điểm là những video được đăng tải có nội dung ngắn gọn, dễ xem, dễ nhớ, TikTok trở thành một công cụ hiệu quả để lan tỏa những thông điệp tích cực đến cộng đồng, đặc biệt là trong cuộc chiến với đại dịch Covid-19.

Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, TikTok cũng đã và đang bộc lộ nhiều tiêu cực. Dạo một vòng TikTok, không khó để bắt gặp những trào lưu phản cảm, độc hại như: Sex jokes (trò đùa tình dục); nhảy múa khoe thân; quảng cáo phim 18+, thuốc kích dục; giả vờ nghiện ma túy; kỳ thị vùng miền,… gây ra làn sóng tranh cãi gay gắt trong dư luận.

Ðặc biệt, gần đây, trào lưu "săn mây" trên máy bay của một TikToker có đông người theo dõi đã mở màn cho hàng loạt trào lưu gây mất an ninh, an toàn hàng không. Cụ thể, một TikToker với gần 10 triệu người theo dõi, đã cố tình đặt chiếc điện thoại di động trên cửa sổ, bên tấm bảo vệ, rồi kéo tấm chắn che cửa sổ khi máy bay đang cất cánh để ghi lại khung cảnh bên ngoài trong suốt hành trình. Clip của TikToker này đã thu hút hơn 2 triệu lượt xem, và hàng trăm người bắt chước, khiến Cục Hàng không phải lên tiếng cảnh báo, vì hành động này gây ảnh hưởng đến an toàn chuyến bay và tính mạng của hành khách.

Sự việc chưa lắng lại thì chỉ một vài ngày sau, trên TikTok lại xuất hiện trào lưu "nhảy múa trên đường băng". Khởi đầu trào lưu là việc một TikToker đăng tải video mình uốn éo trên đường băng khi máy bay đang di chuyển. Nối tiếp trào lưu đó, một nữ hành khách khác lại "gây bão" mạng xã hội khi thản nhiên ngồi xổm lên băng chuyền hành lý tại sân bay Tân Sơn Nhất khiến dư luận bất bình. Thậm chí, nhiều trào lưu trên TikTok còn đặt người tham gia vào nguy hiểm khi bày ra những thử thách chết người. Thí dụ như thử thách "Blackout", là việc nín thở hoặc tự gây nghẹt thở cho chính mình càng lâu càng tốt, cho đến khi đạt được trạng thái choáng váng. Hành động này nguy hiểm đến mức nó có thể gây tổn thương não hoặc tử vong. 

Ðây là một vài trào lưu nổi bật trên TikTok, song qua đó khiến chúng ta không khỏi lo ngại đến những hệ lụy xấu có thể gây ra cho xã hội.

 

TÌNH TRẠNG CÂU LIKE PHẢN CẢM TRÊN TIKTOK

 Gần đây, đoạn clip TikToker N. làm từ thiện nhưng sử dụng từ ngữ phản cảm đã vướng phải chỉ trích dữ dội của cộng đồng mạng.

Trong đoạn clip bị chỉ trích, TikToker liên tục sử dụng những câu nói khiến người nghe khó chịu: "Hello (xin chào) bà già nghèo khổ giữa trời đông cô đơn", "Nghèo mà còn chê đồ ăn nữa, vậy thôi khỏi ăn", "Chúc bà nhiều sức khỏe, vượt qua mùa đông cô đơn nghèo khổ, bớt nghèo lại đi nha, không ai giúp hoài đâu"...

Tuy có hành động giúp đỡ nhưng thái độ và cách nói chuyện của TikToker mang đến cảm giác thiếu tôn trọng, thậm chí có phần miệt thị người nghèo. Đoạn clip có hơn 4,6 triệu lượt xem trước khi bị xóa khỏi nền tảng TikTok. Nhiều người cho biết N. chỉ đang cố tình tạo nội dung "bẩn" để câu tương tác.

Việc xây dựng nội dung mang tính sáng tạo để thu hút người xem là không sai, nhưng bất chấp các chuẩn mực đạo đức và quy tắc ứng xử thông thường để "hút view" là điều không thể chấp nhận. Thái độ tiêu cực và những lời nói miệt thị người nghèo không chỉ khiến hình ảnh N. xấu đi mà còn dễ ảnh hưởng đến nhiều nhóm đối tượng theo dõi N., trong đó có không ít các bạn nhỏ.

Việc lợi dụng từ thiện để tạo danh tiếng cho bản thân của TikToker này đã bị tẩy chay mạnh mẽ trên mạng xã hội. Nhiều người cho biết sẽ không sử dụng dịch vụ từ các nhà hàng, tiệm cà phê, quán ăn mà TikToker này hợp tác.

Khi mạng xã hội phát triển và trở thành không gian sinh hoạt thứ hai của con người, việc sử dụng nền tảng này để kiếm tiền dần trở nên phổ biến. Nhiều bạn trẻ như TikToker N. sẵn lòng thực hiện những nội dung mang tính phản cảm để hút người xem về phía mình.Ngoài ra, có không ít người xây dựng nội dung một cách qua loa, vô bổ hoặc cố tình đi ngược quy chuẩn để tạo ra "nét riêng" nhưng chỉ làm xấu đi bộ mặt xã hội.

Phê phán luận điệu phủ nhận “không có thời đại quá độ lên chủ nghĩa xã hội”

 

Sau khi chế độ xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ, các thế lực thù địch lợi dụng sự kiện này để công kích, xuyên tạc Chủ nghĩa Mác-Lênin, bài bác những luận điểm cơ bản nhất về thời đại.

LUẬN ĐIỆU SAI TRÁI VỀ THỜI ĐẠI NGÀY NAY

Nhận thức rõ đặc điểm và xu hướng phát triển của thời đại cũng như cục diện và tình hình thế giới là một việc rất cần thiết. Hiểu biết sâu sắc về thời đại giúp ta tìm thấy xu hướng tất yếu trong vô vàn những hiện tượng phức tạp, mang tính ngẫu nhiên của đời sống xã hội, giúp ta nhìn xa trông rộng, nắm bắt khuynh hướng và quy luật phát triển của nhân loại để vừa có thể lựa chọn được hướng đi phù hợp với sự phát triển của lịch sử; lường trước được những thách thức phức tạp, tránh được những vấp váp sai lệch trên đường đi; từ đó sẽ không bị chao đảo hoặc bị cuốn trôi trước phong ba bão táp của thời cuộc và đời sống chính trị quốc tế.

V.I.Lênin từng chỉ rõ: Khi phân tích bất cứ vấn đề xã hội nào, phải đặt trong bối cảnh lịch sử nhất định, vì chỉ có dựa trên cơ sở hiểu biết những đặc điểm cơ bản của một thời đại, người ta mới có thể tính đến những đặc điểm chi tiết của nước này hay nước khác. Nói cách khác, vấn đề thời đại là căn cứ khách quan và tiền đề cần thiết để các chính đảng đi theo Chủ nghĩa Mác phân tích tình hình, xác định nhiệm vụ, phân chia trận tuyến, xây dựng chiến lược, hoạch định chính sách, triển khai thực hiện một cách khoa học.

Chính vì lẽ đó, khi bàn về những vấn đề lớn của cách mạng, trước đây cũng như hiện nay, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta bao giờ cũng bắt đầu bằng việc phân tích đặc điểm, nội dung, xu thế phát triển của thời đại và nhận định các mặt của tình hình thế giới để xác định đúng con đường đi của cách mạng Việt Nam và đề ra đường lối đối nội, đối ngoại đúng đắn, sáng tạo.

Cả trên phương diện lý luận và thực tiễn là như vậy, nhưng hiện nay, một số luận điệu sai trái cho rằng: Thật không tưởng khi nói thời đại ngày nay là quá độ lên chủ nghĩa xã hội, vì vậy, từ Đại hội XIII trở đi, không nên nói đến chủ nghĩa xã hội nữa. Cụ thể hơn, họ cho rằng làm gì có thời đại quá độ; nội hàm, đặc điểm, xu thế của thời đại là sự mơ hồ; hai nội dung cốt yếu của thời đại đã bị lịch sử phủ định. Bởi thế, khi không còn Liên Xô và hệ thống XHCN nữa thì Việt Nam làm sao có thể đi lên chủ nghĩa xã hội được.

Đây là luận điệu sai trái cần phải phê phán, vì những lý do cơ bản sau:

THỜI ĐẠI MỚI DO CÁCH MẠNG THÁNG MƯỜI KHAI SÁNG

Theo nghĩa chung nhất, thời đại lịch sử được hiểu là toàn bộ thời kỳ phát triển của một hình thái kinh tế - xã hội hoặc những giai đoạn chủ yếu trong hình thái ấy.

Tuyên bố tại Hội nghị đại biểu các đảng cộng sản và công nhân các nước XHCN tháng 11/1957 tại Moscow (Liên Xô) đã khẳng định: “Nội dung cơ bản của thời đại chúng ta là sự quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, mở đầu bằng Cách mạng Tháng Mười vĩ đại ở nước Nga”.

Thực tế cho thấy, Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi và nhà nước XHCN đầu tiên ra đời năm 1917 đã đánh dấu chấm hết thời đại độc tôn của chủ nghĩa tư bản, mở ra thời đại mới, thời đại của sự quá độ lớn lao nhất trong lịch sử loài người, tiến tới một xã hội hiện thực không còn người bóc lột người, không còn nô dịch giữa người và người. Chế độ XHCN non trẻ đã vượt qua hàng loạt thử thách khắc nghiệt nhất của lịch sử, hiện diện cả ở châu Âu, châu Á, châu Mỹ, phát triển mạnh mẽ với nhiều ưu việt về chính trị, kinh tế, xã hội.

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn xác định nhận thức rõ bản chất, nội dung của thời đại cũng như cục diện và tình hình thế giới là một nhiệm vụ hết sức quan trọng. Trong khi khẳng định thời đại ngày nay vẫn là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta nhận rõ tình hình phức tạp, quanh co và rất lâu dài của quá trình chuyển biến xã hội nên đã hướng vào đánh giá trực tiếp những động thái, đặc trưng, xu hướng và tính chất trong giai đoạn hiện nay của thời đại.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Đảng năm 1991 đã nêu rõ: “Đặc điểm nổi bật trong giai đoạn hiện nay của thời đại là cuộc đấu tranh giai cấp và dân tộc gay go, phức tạp của nhân dân các nước vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Chủ nghĩa xã hội hiện đứng trước nhiều khó khăn, thử thách. Lịch sử thế giới đang trải qua những bước quanh co, song loài người cuối cùng nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội vì đó là quy luật tiến hóa của lịch sử”.

Tiếp đó, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) nêu rõ: “Đặc điểm nổi bật trong giai đoạn hiện nay của thời đại là các nước với các chế độ xã hội và trình độ phát triển khác nhau cùng tồn tại, vừa hợp tác vừa đấu tranh, cạnh tranh gay gắt vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Cuộc đấu tranh của nhân dân các nước vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, phát triển và tiến bộ xã hội dù gặp nhiều khó khăn, thách thức nhưng sẽ có những bước tiến mới. Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội”.

THẾ GIỚI CÓ NHIỀU BIẾN ĐỘNG NHƯNG KHUYNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN THỜI ĐẠI KHÔNG THAY ĐỔI

Xem xét trên cơ sở lý luận và thực tiễn lịch sử xã hội loài người đều cho thấy, mỗi bước chuyển từ một hình thái kinh tế - xã hội này đến hình thái cao hơn đều diễn biến trong thời gian rất dài, có khi vài trăm năm hoặc vài nghìn năm. Vậy nên việc Đảng ta phân định giai đoạn hiện nay của thời đại “quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới” là tư duy sáng tạo, có tính khoa học xác thực và cần thiết. Theo đó, việc nghiên cứu đặc điểm và xu hướng phát triển của thời đại cũng được thực hiện trong khung khổ giai đoạn hiện nay của thời đại.

Khi đã xác định thời đại ngày nay là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, mở đầu bằng Cách mạng XHCN Tháng Mười vĩ đại ở nước Nga, thì rõ ràng nội dung của thời đại ngày nay có hai vấn đề chính: Một là, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội; hai là, mở đầu bằng Cách mạng XHCN Tháng Mười vĩ đại ở nước Nga. Nhận định về nội dung thời đại như vậy là sự khái quát mang tính lý luận và thực tiễn sâu sắc, đầy tính thuyết phục.

Tuy nhiên, sau khi chế độ XHCN ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ, các thế lực thù địch lợi dụng sự kiện này để công kích, xuyên tạc Chủ nghĩa Mác-Lênin, bài bác những luận điểm cơ bản nhất về thời đại. Lập luận của luận điệu sai trái là, nếu nói thời đại hiện nay là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội thì nay chủ nghĩa xã hội sụp đổ rồi, thời đại này đương nhiên là của chủ nghĩa tư bản; rằng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản đã tàn lụi thì dù có trăm năm sau cũng không thể gượng dậy được nữa.

Cách nhìn nhận như vậy rõ ràng là thiếu kiến thức lịch sử và thiển cận. Quá trình chuyển biến và thay thế một thời đại này bằng thời đại khác không thể diễn ra nhanh chóng được mà phải qua một chặng đường dài. Quá trình đó là một xu thế tất yếu của xã hội loài người, nhưng diễn ra quanh co, phức tạp, chứa đựng nhiều biến cố, có cả bước tiến mạnh mẽ và cũng có cả những bước thụt lùi.

Sự đổ vỡ của XHCN ở Đông Âu và Liên Xô đương nhiên là tổn thất nặng nề đối với phong trào cộng sản. Sự sụp đổ ấy có nhiều nguyên nhân, nhưng nó không thuộc về bản chất của chế độ XHCN, càng không phải vì thế mà làm mất đi nội dung thời đại. Lịch sử đã cho thấy thời đại tư bản chủ nghĩa thay thế thời đại phong kiến đâu phải dễ dàng.

Quá trình chuyển biến đó diễn ra hàng mấy trăm năm, trải qua biết bao phức tạp bởi sự chống trả quyết liệt của các thế lực phong kiến. Tình hình hiện nay cũng tương tự như vậy. Thế lực đế quốc không từ một thủ đoạn nào để mưu toan chặn đứng phong trào cộng sản. Điều đó càng thể hiện tính chất phức tạp của thời đại ngày nay.

Kẻ thù tư tưởng của chúng ta công khai tuyên bố rằng, chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô đã sụp đổ thì giá trị của Cách mạng Tháng Mười Nga cũng chấm hết. Đây là kết luận vội vã và hồ đồ. Đành rằng thành quả mà Cách mạng Tháng Mười Nga đem lại đã bị đổ vỡ tại ngay quê hương của nó, nhưng đó không phải là sự chấm dứt lý tưởng cao đẹp của Cách mạng Tháng Mười Nga.

Vả chăng, lịch sử đã chứng minh, không có một cuộc cách mạng nào, kể cả các cuộc cách mạng vĩ đại nhất, lại đủ khả năng kết thúc ngay công việc xóa bỏ xã hội cũ và xây dựng xong ngay xã hội mới. Quá trình chuyển từ xã hội phong kiến lên xã hội tư bản chủ nghĩa đã phải trải qua hàng trăm năm với nhiều cuộc cách mạng tư sản: Cách mạng Anh năm 1688, các cuộc cách mạng tư sản Pháp vào các năm 1830, 1848, 1871.

Sự đột phá của Cách mạng Tháng Mười Nga làm cho chủ nghĩa tư bản bị đổ vỡ một mảng lớn. Thế giới bừng tỉnh, bung ra với sức mạnh mới của sự hình thành và phát triển của chủ nghĩa xã hội làm sụp đổ hoàn toàn hệ thống thuộc địa, giải phóng xã hội, giải phóng con người.

Thành quả của Cách mạng Tháng Mười Nga đã tạo cho loài người có khả năng kìm giữ sự lộng hành của chủ nghĩa tư bản, làm thay đổi cả những yếu tố bên trong của chủ nghĩa tư bản. Những thay đổi trong chiến lược kinh tế, chính trị để thích nghi, những thay đổi trong các chính sách phúc lợi xã hội ở các nước tư bản phát triển hiện nay đều bắt nguồn từ kết quả của xã hội đấu tranh của những người lao động và sâu xa hơn là được ảnh hưởng những yếu tố tích cực của Cách mạng Tháng Mười Nga.

Từ những phân tích trên đây, chúng ta càng thống nhất với nhận định của Đảng ta rằng, tình hình cụ thể trong từng thời kỳ của thế giới có những biến động nhưng điều đó không làm thay đổi nội dung của thời đại; loài người vẫn đang trong thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Các mâu thuẫn cơ bản trên thế giới vẫn tồn tại và phát triển, có mặt sâu sắc hơn, nội dung và hình thức biểu hiện có nhiều nét mới.

CHẶNG ĐƯỜNG QUÁ ĐỘ ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM

Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội tuy không còn có sự giúp đỡ của Liên Xô và các nước XHCN như trước nhưng trong giai đoạn mới của thời đại, khi cách mạng khoa học - công nghệ và toàn cầu hóa đời sống thế giới, tất cả các nước đều ở trong mối liên hệ phụ thuộc lẫn nhau, không một nước nào sống biệt lập mà có thể phát triển được.

Sự hợp tác kinh tế với các nước bằng nhiều hình thức sinh động trên nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi, tôn trọng độc lập, chủ quyền của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau dưới bất kỳ hình thức nào, sẽ tranh thủ vốn, kỹ thuật, công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý, phục vụ cho việc phát triển kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Đó cũng là một khả năng thực tế mà chúng ta đã và đang cố gắng tận dụng, đưa nước ta hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới.

Như vậy, từ một nước kinh tế kém phát triển, nếu chúng ta biết tranh thủ những thời cơ, thuận lợi và biết vượt qua những thách thức, nguy cơ, chúng ta có thể “phát triển rút ngắn” lên XHCN bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa theo quan điểm của V.I.Lenin-người đã có đóng góp to lớn vào lý luận về sự “phát triển rút ngắn” và Chính sách kinh tế mới (NEP). Nó đã được thực tiễn khảo nghiệm mà ngày nay Đảng ta đang vận dụng một cách sáng tạo, phù hợp với thực tiễn cách mạng nước ta.

Xuất phát từ tình hình như thế, chúng ta có thể tin tưởng vững chắc rằng Việt Nam đang trong tư thế vươn tầm, kiên định con đường đã lựa chọn, đã có đủ sức lực và trí tuệ để tiến bước cùng thế giới, tiến cùng thời đại; phấn đấu hiện thực hóa mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh./.

50 năm Hiệp định Pari - Mốc son lịch sử

 

Tọa đàm khoa học “50 năm Hiệp định Pari - Mốc son lịch sử” nhằm đánh giá sâu sắc vị trí, vai trò quan trọng của Hiệp định Pari và Hội nghị Pari trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất nhất nước; từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm trong công cuộc đổi mới, xây dựng đất nước hiện nay.

Hướng đến kỷ niệm 50 năm Ngày ký Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam (27/01/1973 - 27/01/2023), chiều 29/11, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật phối hợp với Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam và Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam tổ chức Tọa đàm khoa học “50 năm Hiệp định Pari - Mốc son lịch sử” dưới hình thức trực tiếp kết hợp trực tuyến tại điểm cầu Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh.

Cách đây 50 năm, ngày 27/01/1973, Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam (gọi tắt là Hiệp định Pari) được ký kết, là kết quả của cuộc đấu tranh kiên cường, bất khuất của nhân dân ta ở cả hai miền đất nước, đã tạo ra bước ngoặt mới trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc, là mốc son trong trang sử vàng của nền ngoại giao cách mạng Việt Nam.

Trong thời gian khoảng 5 năm (từ 1968-1973), Hiệp định Paris đã trải qua 201 phiên họp công khai, 45 cuộc họp riêng cấp cao, 500 cuộc họp báo, 1.000 cuộc phỏng vấn và đã có hàng nghìn cuộc mít tinh chống chiến tranh, ủng hộ Việt Nam. Cuối cùng, đúng 12 giờ 30 phút (giờ Pari) ngày 22/01/1973, tại Trung tâm các Hội nghị quốc tế Clêbe, Hiệp định chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam đã được Cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ và Kítxinhgiơ ký tắt.

Ngày 27/01/1973, Hiệp định chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam đã được ký chính thức giữa Bộ trưởng Ngoại giao các bên.

Thắng lợi của Hiệp định Pari và Hội nghị Pari cách đây vừa tròn 50 năm đã để lại nhiều bài học sâu sắc, những bài học đó đã tiếp sức cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta hôm nay thêm vững tin bước vào giai đoạn phát triển mới với những thuận lợi và khó khăn, thời cơ và thách thức đan xen. Thực hiện thắng lợi mục tiêu Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng về đối ngoại và hợp tác quốc tế: Nâng cao năng lực hội nhập, thực hiện hiệu quả các cam kết quốc tế, các hiệp định thương mại tự do; lồng ghép với các kế hoạch, chương trình phát triển kinh tế - xã hội. Phát huy hơn nữa ngoại giao văn hóa, đóng góp thiết thực vào quảng bá mạnh mẽ hình ảnh quốc gia và tăng cường sức mạnh tổng hợp của đất nước.

Phát biểu khai mạc Tọa đàm, PGS.TS. Phạm Minh Tuấn, Giám đốc - Tổng Biên tập Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật nhấn mạnh, Tọa đàm khoa học “50 năm Hiệp định Pari - Mốc son lịch sử” nhằm đánh giá sâu sắc vị trí, vai trò quan trọng của Hiệp định Pari và Hội nghị Pari trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất nhất nước; từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm trong công cuộc đổi mới, xây dựng đất nước hiện nay.

Tại tọa đàm, các nhà khoa học uy tín, các nhà lãnh đạo, quản lý giàu kinh nghiệm trong công tác ngoại giao của các ban, bộ, ngành đã cùng đánh giá sâu sắc vị trí, vai trò quan trọng của Hiệp định Paris và Hội nghị Paris trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất nhất nước; khẳng định đây là đỉnh cao thắng lợi của mặt trận ngoại giao nước ta thời kỳ chống Mỹ cứu nước, là mốc son trong trang sử vàng của nền ngoại giao cách mạng Việt Nam.

Trong đó, bên cạnh phân tích ý nghĩa của Hiệp định Pari, đồng chí Vũ Khoan, nguyên Bí thư Trung ương Đảng, nguyên Phó Thủ tướng Chính phủ đã nêu bật những bài học đi đến thắng lợi của Hiệp định Paris đó là sự kết hợp, kiên quyết, kiên trì, khôn khéo và khẳng định thắng lợi của Hiệp định Pari và Hội nghị Pari có giá trị trường tồn với lịch sử dân tộc.

Tọa đàm cũng giới thiệu bài phỏng vấn đồng chí Nguyễn Thị Bình, nguyên Phó Chủ tịch nước, nguyên Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, Trưởng đoàn đàm phán của Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tại Hội nghị 4 bên tại Pari nhân kỷ niệm 50 năm Hiệp định Pari về kết thúc chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam (27/01/1973 - 27/01/2023).

Với tinh thần nhất trí cao, các đại biểu nhấn mạnh, thắng lợi của Hiệp định Pari và Hội nghị Pari đã phản ánh tinh thần quyết chiến, quyết thắng, ý chí quật cường đấu tranh bền bỉ bảo vệ chân lý, giành độc lập, tự do của cả dân tộc Việt Nam. Cuộc đấu tranh này phản ánh đầy đủ sự lãnh đạo tài tình của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, trí tuệ của nền ngoại giao cách mạng Việt Nam, dựa vào chính nghĩa của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Hội nghị Pari và Hiệp định Pari mãi mãi đi vào lịch sử cách mạng Việt Nam nói chung và lịch sử ngoại giao Việt Nam  thời đại Hồ Chí Minh nói riêng như một dấu son không bao giờ phai mờ. Hiệp định Pari còn là minh chứng tất yếu của sự nghiệp đấu tranh chính nghĩa của dân tộc Việt Nam được sự ủng hộ mạnh mẽ của nhân dân tiến bộ toàn thế giới.

Tọa đàm cũng là dịp tôn vinh và tri ân công lao, đóng góp của các thành viên phái đoàn đàm phán, các thế hệ cán bộ, chiến sĩ tham gia phục vụ Hội nghị, thi hành Hiệp định Pari và các tầng lớp nhân dân đã làm nên thắng lợi vẻ vang của nền ngoại giao Việt Nam nói riêng, của cách mạng Việt Nam nói chung; khẳng định tinh thần yêu nước, ý chí tự lực, tự cường, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, qua đó khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc trong mỗi người Việt Nam, nhất là đối với thế hệ trẻ hiện nay./.

Huy Lê

Đừng để vấn nạn bạo lực học đường làm ảnh hưởng đến sự phát triển nhân cách của học sinh hiện nay

Tình trạng bạo lực học đường hiện nay đang trở nên khá phổ biến tại hầu hết những quốc gia trên thế giới. Tại Việt Nam, bạo lực học đường hiện nay đang là một vấn nạn trong nhà trường. Nghiêm trọng hơn tình trạng này ngày càng phổ biến với mức độ nghiêm trọng ngày càng cao. Theo báo cáo của cơ quan phòng, chống tôi phạm Liên hợp quốc, mỗi năm trên thế giới có khoảng 4-6 triệu học sinh có liên quan trực tiếp đến bạo lực học đường. Số liệu này ngày càng tăng, khiến bạo lực học đường trở thành vấn đề chung của giáo dục quốc tế. Tại Việt Nam, bạo lực học đường hiện nay đang là vấn đề rất nghiệm trọng. Theo một số liệu của Bộ Giáo dục và Đào tạo, chỉ trong một năm học, toàn quốc xảy ra gần 1600 vụ học sinh đánh nhau trong và ngoài trường học. Cũng theo một số thống kê, khoảng 5.200 học sinh thì có một vụ đánh nhau và 11.000 học sinh thì có một em bị thôi học vì đánh nhau. Những số liệu này cho thấy, tình trạng bạo lực học đường đang là vấn đề nhức nhối tại mọi cấp học, lớp học với mức độ gia tăng ngày càng cao và hậu quả ngày càng lớn. Nghiêm trọng hơn, đối tượng phạm tội ngày càng có xu hướng trẻ hóa, mức độ phạm tội ngày càng nghiêm trọng, hành vi bạo lực cũng ngày càng đa dạng hơn. Những vụ giết người, cướp tài sản, hiếp dâm của học sinh, sinh viên cũng ngày càng nhiều. Đáng lo ngại hơn, trên đây chỉ là số liệu được thông báo. Còn rất nhiều trường hợp bị nhà trường hay học sinh dấu đi nhằm giữ thể diện cho thanh danh của nhà trường. Bạo lực học đường không chỉ diễn ra theo hình thức đánh nhau, mà một số học sinh khác còn bị tấn công về mặt tinh thần. Điều này ảnh hưởng nghiêm trọng đến suy nghĩ, lối tư duy của học sinh bị bạo hành sau này. Vậy nguyên nhân của nạn bạo lực học đường xuất phát từ đâu? Theo các chuyên gia đó là: Thứ nhất, từ chính bản thân học sinh, đó là sự chuyển biến về tâm lý của bản thân học sinh đối tượng từ 12-17 tuổi. Giai đoạn này hình thành nhân cách ở con người, cùng với đó là tâm lý không ổn định và với một cái tôi cá nhân quá cao (mà không biết sử dụng đúng cách). Trong giai đoạn này chỉ cần những tác động kích thích xấu từ thế giới bên ngoài cũng khiến các em học theo, dẫn đến nhiều vụ đánh nhau tại trường học hay cũng chính là nguyên nhân dẫn đến bạo lực học đường ở việt nam. Thứ hai, từ phía nhà trường. Do giáo dục của nhà trường còn nặng về kiến thức văn hóa, đôi khi lãng quên đi nhiệm vụ giáo dục con người “tiên học lễ, hậu học văn”. Mặt khác cuộc sống thực dụng chạy theo đồng tiền của một phần xã hội đã đẩy ngã những giá trị quan trọng của nhà trường, đạo đức của một bộ phận thầy cô giáo. Thứ ba, từ phía gia đình. Do sự giáo dục chưa đúng đắn từ cha mẹ, cha mẹ thường nặng lời quát tháo con cái cũng dễ dẫn đến những tình trạng bạo lực học đường ở việt nam. Xã hội phát triển phụ huynh ít quan tâm tới con cái hoặc phụ huynh bị stress và xả stress bằng bạo hành gia đình lên chính con cái của mình, hoặc bạo hành ngay trước mặt con trẻ những vụ bạo hạnh gia đình như này cũng không phải là chuyện hiếm gặp. Thứ tư, từ phía xã hội. Do ảnh hưởng từ môi trường văn hóa bao lực như phim ảnh, sách báo, game bạo lực, đồ chơi mang tính bạo lực (kiếm, súng..). Những hình ảnh này được phát tán công khai trên mạng xã hội, khi trẻ em vị thành niên xem ảnh hưởng khá lớn đến tâm lý sau này. Để có thể khắc phục bạo lực học đường hiện nay, cần có những giải pháp thiết thực và hợp lý và thực hiện một cách nghiêm ngặt. Học sinh, sinh viên, cần có ý thức rèn luyện và tìm hiểu, nâng cao kiến thức, kỹ năng, ý thức về hành động cũng như hậu quả của những hành động bạo lực đó. Trong gia đình không nên chỉ chú trọng đến kết quả học tập của con mà không chú ý đến việc các em nghĩ gì hay cách xử sự của con với bạn bè; cha mẹ cần là những người bạn đồng hành của con cái. Tránh tạo vỏ bọc cứng nhắc vì sẽ tạo tâm lý ý lại, dựa dẫm và hưởng thụ. Với nhà trường, cần chủ động trong việc trao đổi thông tin với gia đình học sinh cũng như chính quyền địa phương để có thể nắm bắt tình hình cũng như biểu hiện của học sinh. Đội ngũ giáo viên chủ nhiệm cần chủ động nắm chắc tình hình để có biện pháp giải quyết ngay khi học sinh có biểu hiện của những hành vi tiêu cực và bạo lực. Tăng cường hơn nữa giáo dục kỹ năng sống cho trẻ, trang bị nhận thức đúng đắn cho học sinh về hành động đẹp, tăng cường tinh thần trách nhiệm cũng như ý thức đấu tranh đẩy lùi bạo lực học đường. Ngoài ra, cấp ủy, chính quyền địa phương, tổ chức đoàn thể hay lực lượng công an cũng cần đảm bảo sự lãnh đạo thống nhất, nêu cao ý thức cũng như tinh thần trách nhiệm, phát huy tối ưu vai trò của mình trong hoạt động phòng ngừa bạo lực học đường.

Cởi bỏ tâm lý “sợ sai” cho cán bộ

 Trong bối cảnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng ở nước ta đang rất quyết liệt, có một bộ phận nhỏ cán bộ, công chức, viên chức, kể cả cán bộ lãnh đạo, quản lý còn có tâm lý e dè, ngại ngần, sợ sai trong thực thi công vụ của mình dẫn đến không dám làm việc. Và câu chuyện này đã thực sự “nóng” tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XV đang diễn ra.

 

Phát biểu tại diễn đàn Quốc hội, một số đại biểu Quốc hội nhận định rằng, hạn chế về việc cán bộ, công chức đùn đẩy, né tránh, ảnh hưởng rất lớn đến việc triển khai thực hiện nhiệm vụ và phục vụ nhân dân. Cụ thể, qua các cuộc tiếp xúc cử tri, các đại biểu Quốc hội nhận thấy có 3 nhóm: Cán bộ còn hạn chế về năng lực có tình trạng sợ không dám thực hiện nhiệm vụ; cán bộ có năng lực nhưng ý thức, tinh thần trách nhiệm còn hạn chế nên có chuyện nghe ngóng, né tránh; còn đối tượng thứ ba là một số cán bộ bây giờ không muốn làm, không dám làm vì có thể chính sách pháp luật chưa đủ nên trước làm có thể đã không đúng. Hoặc làm xong rồi không biết có sai hay không? Sai cũng không biết sai chỗ nào nên nếu bây giờ vẫn làm đúng như vậy thì sẽ phát sinh nhiều vấn đề.

Và chính hệ quả của tâm lý e dè, lo lắng, sợ trách nhiệm đã tạo sức ì rất lớn, sự trì trệ trong cơ quan công quyền. Điều này đã làm cho hàng chục thậm chí hàng trăm những dự án ì ạch trong triển khai, trải qua nhiều năm vẫn chưa đưa vào sử dụng, thậm chí “đắp chiếu” cả thập kỷ vẫn chưa tháo gỡ được hết những khó khăn, vướng mắc…

Tìm ra nguyên nhân để có giải pháp triệt tiêu tâm lý “sợ sai”, “sợ trách nhiệm” này, trên nghị trường Quốc hội, nhiều vấn đề đã được đề cập. Trong đó, có cả việc chưa có sự đồng bộ của hệ thống pháp luật đối với một số vấn đề, dẫn đến tình trạng “đối với vấn đề này áp dụng luật này thì đúng, nhưng khi thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, điều tra thì lại sai. Áp dụng vào thời điểm này thì đúng, nhưng sau đó kiểm tra thời điểm khác thì lại sai" – như đại biểu Quốc hội Nguyễn Hữu Thông (đoàn Bình Thuận) phát biểu.

Đáng lưu ý, có nguyên nhân chính từ yếu tố con người, khâu tổ chức thực hiện, trách nhiệm của người đứng đầu trong quá trình tổ chức triển khai nhiệm vụ. Có đại biểu phân tích, với cán bộ có năng lực hạn chế có tình trạng sợ không dám làm, với cán bộ có năng lực nhưng rõ ràng ý thức và tinh thần còn hạn chế, có chuyện nghe ngóng, né tránh, và còn cả tình trạng “không muốn làm và không dám làm”. Thậm chí "có cán bộ tâm sự rằng, thà đứng trước hội đồng kỷ luật còn hơn đứng trước hội đồng xét xử".

Thực tế cho thấy, cán bộ biết sợ sai là tốt, như vậy sẽ tránh được những hậu quả đáng tiếc có thể xảy ra. Nhưng sợ đến mức không dám làm, không dám hành động gì vì không biết làm như thế đúng hay sai là không thể chấp nhận được và cần phải xem lại trình độ năng lực, phẩm chất đạo đức của cán bộ, đảng viên đó. Bởi chính cách tư duy, hành động như vậy dù vì lý do gì thì sự xuất hiện của những nhân tố cực đoan ấy đã là tác nhân gây cản trở công việc chung, thậm chí đi ngược với những chủ trương, chính sách của Đảng, ảnh hưởng đến quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Bởi Đảng, Nhà nước “mạnh tay”, quyết liệt trong công tác phòng chống tham nhũng, xử lý cán bộ vi phạm là nhằm “xốc lại” bộ máy, làm trong sạch đội ngũ cán bộ đảng viên và giúp hệ thống chính trị mạnh lên chứ không phải là làm cho đội ngũ cán bộ vin vào đó bao biện cho hành vi sợ trách nhiệm, sợ sai.

Một số đại biểu Quốc hội cho rằng, muốn giải quyết vấn đề này, phải có giải pháp quyết liệt, chấn chỉnh càng sớm càng tốt để không ảnh hưởng đến việc thực hiện nhiệm vụ kể cả khu vực công và tư. Đó là các bộ ngành trung ương một mặt thường xuyên rà soát cơ chế, chính sách nhằm điều chỉnh cho đồng bộ phù hợp với thực tế. Mặt khác, sớm cụ thể hóa các chủ trương của Đảng bằng các văn bản quy phạm pháp luật để áp dụng vào thực tiễn cuộc sống. Cùng với đó, thực hiện mạnh mẽ cải cách lề lối làm việc theo hướng phân cấp rõ ràng cho các cấp trong thứ bậc hành chính, đồng thời xử lý hợp lý các vấn đề về tổ chức bộ máy và biên chế để bảo đảm hoạt động hiệu lực, hiệu quả…

Chắc chắn một thể chế mạnh mẽ, minh bạch, rõ ràng và hiệu lực cao sẽ tạo môi trường làm việc tối ưu, giúp cho công chức, viên chức yên tâm làm việc, thu nhập chính đáng từ lương đủ nuôi mình, gia đình mình và quan trọng hơn họ được pháp luật bảo vệ…

Nhưng nói gì thì nói, nếu chỉ nói lỗi là do vướng mắc của chính sách pháp luật thì e rằng chưa đủ. Bởi Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã thẳng thắn đề cập đến cơ chế bảo vệ cán bộ với “6 dám”: “Có chính sách khuyến khích và cơ chế phù hợp bảo vệ những cán bộ đảng viên có ý chí chiến đấu cao, gương mẫu thực hiện các nguyên tắc của Đảng và pháp luật của Nhà nước, dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách và quyết liệt trong hành động vì lợi ích chung”.

Đặc biệt, Bộ Chính trị đã có Kết luận 14-KL/TW về chủ trương khuyến khích và bảo vệ cán bộ “6 dám” bằng việc luật hóa, cụ thế hóa để tạo cơ chế bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm… và khuyến khích cán bộ có tư duy sáng tạo, cách làm đột phá cũng được đặt ra.

Chính kết luận 14-KL/TW về việc bảo vệ cán bộ nêu rõ: Khi cán bộ thực hiện thí điểm mà kết quả không đạt hoặc chỉ đạt được một phần mục tiêu đề ra hoặc gặp rủi ro, xảy ra thiệt hại thì cấp có thẩm quyền phải kịp thời xác định rõ nguyên nhân khách quan, chủ quan, đánh giá công tâm để xem xét, xử lý phù hợp, nếu thực hiện đúng chủ trương, có động cơ trong sáng, vì lợi ích chung thì được xem xét miễn hoặc giảm nhẹ trách nhiệm. Đó chính là “trụ đỡ” quan trọng để cán bộ sáng tạo, đột phá tìm hướng đi mới cho sự phát triển. Đây chính là “liều thuốc” giúp cán bộ cởi bỏ tâm lý sợ sai trong thực hiện nhiệm vụ được giao.

Đó cũng là một cách “khích tướng” đội ngũ cán bộ để ngày càng xuất hiện nhiều tư duy mới, cách làm mới, đột phá mới nhằm mang lại những bước ngoặt phát triển mới cho đất nước nói chung, cho từng ngành, lĩnh vực, địa phương nói riêng.

Đất nước không thể có những đột phá nếu cán bộ không dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm. Để cán bộ dám nghĩ, dám trên cơ sở Kết luận 14-KL/TW của Bộ Chính trị, một số ý kiến cho rằng, Trung ương cần “lượng hóa” bằng quy định cụ thể để có thể đánh giá cán bộ. Muốn thế cần phải xây dựng cơ chế cụ thể, luật hóa bằng một văn bản quy phạm pháp luật về đánh giá và bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm. Như thế sẽ dễ thực hiện hơn trong thực tế. Đây cũng là giải pháp để tạo môi trường làm việc tối ưu, năng cao năng suất lao động; tháo gỡ, giải quyết những “điểm nghẽn”, “nút thắt” trong thực tiễn, thúc đẩy sự phát triển./.

Thu Hà