Hơn 30 năm đổi mới, đất nước đã đạt những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; tạo tiền đề quan trọng để nước ta tiếp tục đổi mới và phát triển; khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử. Tuy nhiên, đất nước ta cũng đang đứng trước những khó khăn, thách thức không nhỏ. Tình hình thế giới, khu vực diễn biến phức tạp, khó lường, nhất là sự cạnh tranh về chủ quyền, lãnh thổ, biển, đảo ngày càng quyết liệt giữa các nước diễn ra ở nhiều khu vực, trong đó có Biển Đông; sự chống phá quyết liệt bằng chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Trong nước, những hạn chế, khuyết điểm vốn có của nền kinh tế chưa được giải quyết; những hạn chế, yếu kém trong lãnh đạo, quản lý và những vấn đề mới phát sinh đã làm cho kinh tế phát triển thiếu ổn định, chưa bền vững; chất lượng, hiệu quả, năng suất lao động xã hội và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp.
Lợi dụng tình hình đó, các thế lực thù địch, cơ hội chính trị, thậm chí một số cán bộ, đảng viên non kém về bản lĩnh chính trị và sự nhạy cảm về chính trị muốn phủ nhận mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và vai trò lãnh đạo của Đảng. Họ cho rằng “chủ nghĩa xã hội là con đường mù mờ, không có tương lai”, “đi vào ngõ cụt”, “đã bị lịch sử phủ định”; “ngày xưa trong thời kỳ phong kiến đã có chủ nghĩa xã hội đâu mà vẫn giữ được độc lập dân tộc”, “lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa là do ý chí chủ quan của Đảng”; “chủ nghĩa nào, chế độ nào cũng được, miễn là dân giàu, nước mạnh”. Những quan điểm trên đây không thể đứng vững được trước sự phê phán của lý luận và thực tế lịch sử.
Trong thời kỳ trước đây, các triều đại phong kiến tiến bộ ở nước ta đại diện cho dân tộc đã lãnh đạo nhân dân đấu tranh chống ngoại xâm, giành độc lập cho đất nước. Khi đó chưa có chủ nghĩa xã hội. Trên thế giới, lý luận khoa học về chủ nghĩa xã hội được đề cập đến khi chủ nghĩa Mác ra đời, và thực tiễn chứng minh khi Cách mạng Tháng Mười Nga (1917) thành công. Do đó, nếu đặt vấn đề chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong thời kỳ phong kiến là phi lịch sử và không thể dựa vào đó để phủ nhận con đường xã hội chủ nghĩa của nước ta. Những quan điểm phủ nhận trên đã có cái nhìn sai lệch về chủ nghĩa tư bản và xã hội chủ nghĩa, nó cường điệu những thành tựu của chủ nghĩa tư bản mà không thấy hoặc coi nhẹ những khuyết tật, mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản. Hiện tại, chủ nghĩa tư bản vẫn còn tiềm năng phát triển, nhất là về kinh tế, nhờ ứng dụng những thành tựu mới của khoa học và công nghệ. Tuy vậy, về bản chất, chủ nghĩa tư bản dù có những điều chỉnh thích nghi thì vẫn là một chế độ áp bức, bóc lột và bất công.
Những người phủ nhận mục tiêu của cách mạng Việt Nam còn có cái nhìn định kiến với quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội trước đây ở một số nước. Họ đồng nhất chủ nghĩa xã hội hiện nay với những khuyết tật trong mô hình chủ nghĩa xã hội Xô-viết trước đây, không thấy những thành tựu trong đổi mới, cải cách đang diễn ra ở Việt Nam, Trung Quốc, Lào, Cu Ba. Cần phải hiểu rõ rằng: sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu không phải là sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa nói chung, mà chỉ là sự sụp đổ của một mô hình chủ nghĩa xã hội – mô hình chủ nghĩa xã hội tập trung, quan liêu, bao cấp. Chủ nghĩa xã hội với những phẩm giá tốt đẹp vẫn là lý tưởng mà nhân loại tiến bộ đang hướng tới; những giá trị cao cả của nó vẫn tồn tại trong đời sống nhân loại. Điều này được minh chứng rõ ở phong trào xã hội “cánh tả”, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đang từng bước phục hồi.
Thời gian gần đây xuất hiện trên internet và một số ấn phẩm in, tán phát những quan điểm sai trái, như đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác – Lê-nin để từ đó phủ nhận chủ nghĩa Mác – Lê-nin và con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Họ nói “Đảng Cộng sản Việt Nam dẫn dắt dân tộc đi theo đường lối sai lầm về xây dựng chủ nghĩa xã hội”, “thể chế chính trị ở Việt Nam hiện nay là độc đảng, toàn trị, đang kìm hãm tự do, dân chủ, chia rẽ dân tộc”; họ yêu cầu “Việt Nam ngày nay phải chuyển đổi thể chế chính trị từ toàn trị sang dân chủ” Thực chất, họ muốn chúng ta phải thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập; Đảng phải từ bỏ vai trò lãnh đạo của mình, từ bỏ hệ tư tưởng Mác – Lê-nin, từ bỏ con đường xã hội chủ nghĩa để chuyển sang dân chủ tư sản, tức là từ bỏ mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Mai Năm Mới (ST)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét