Từ trước khi chính thức trực tiếp can thiệp vào Việt Nam, cắt đứt đường Trường Sơn là chiến lược được ưu tiên hàng đầu của Lầu Năm Góc. Khi cuộc chiến lên đến đỉnh điểm, nỗ lực này trở thành dự án công nghệ tham vọng nhất, quy tụ những công nghệ tối tân nhất của Mỹ thời bấy giờ. Tuy nhiên, kỳ vọng của giới chức Mỹ đã biến thành thất vọng, kỳ quan công nghệ này trở thành một trong những thất bại tốn kém nhất của Mỹ trong cuộc chiến...
Sự ra đời của “Hàng rào điện tử”
Tháng 6-1961, tướng
Maxwell Taylor, một trong những người soạn thảo kế hoạch Staley-Taylor, cùng
với Edward Lansdale, Phó giám đốc Phòng Tác chiến đặc biệt của Lầu Năm Góc, đưa
ra hai phương án triệt tiêu “nguồn sống” của Cách mạng miền Nam Việt Nam. Một
là dùng không quân đánh phá cơ sở hạ tầng miền Bắc; cách còn lại là thiết lập
phòng tuyến để ngăn chặn dòng tiếp viện hậu cần vào miền Nam.
Lựa
chọn phương án ném bom, tháng 3-1965, Washington khởi động chiến dịch “Rolling
Thunder” (Sấm rền). Nhưng chỉ sau chưa đầy một năm, chiến dịch bị chính Bộ
trưởng Quốc phòng Robert McNamara chỉ trích do không đạt hiệu quả. Đến tháng
1-1966, theo Mỹ, chỉ còn phương án xây dựng phòng tuyến hòng cắt đứt đường
Trường Sơn là triển vọng nhất.
Do vậy,
đã nảy sinh đề xuất ý tưởng về “hàng rào vật lý” gồm 17 căn cứ, nơi quân đội Mỹ
có thể từ đó tấn công tuyến đường. Các căn cứ này được hỗ trợ bởi “hàng rào
điện tử”, có thể phát hiện và theo dõi theo thời gian thực, từ đó giúp không
quân đánh phá một cách chính xác mọi vận động trên tuyến đường. Đến đầu năm 1967,
cụm căn cứ trên bộ với trung tâm đặt tại Khe Sanh được hoàn thiện.
Nhiệm vụ thiết kế “hàng rào
điện tử” được giao cho “Đơn vị Jason”, một hội đồng trực thuộc Cơ quan chỉ đạo
các dự án tiên tiến (ARPA), gồm các nhà khoa học hàng đầu của Mỹ thời điểm đó.
Tháng 8-1966, Lầu Năm Góc chấp thuận kế hoạch do đơn vị Jason soạn thảo.
“Hàng rào điện tử” bao gồm
hàng nghìn thiết bị phát hiện hoạt động của con người và xe cơ giới thông qua
địa chấn, âm thanh, từ trường và cả mùi. Các cảm biến có hình dạng giống như
thực vật nhằm ngụy trang nên có biệt danh “cây nhiệt đới”, được thả từ máy bay
xuống các khu vực nghi có đường hành quân của đối phương, trên một khu vực dài
100km, rộng 10-20km từ cảng Cửa Việt (Quảng Trị) đến phía nam nước Lào. Để
tăng cường hiệu quả phát hiện của “cây nhiệt đới”, không quân Mỹ rải xuống khu
vực hàng triệu quả mìn, từ nhỏ như viên thuốc để tạo tiếng động báo hiệu, đến
đủ mạnh để gây thương tật vĩnh viễn cho người vướng phải.
Mỗi giai đoạn của chương
trình mang nhiều tên gọi nhằm bảo đảm bí mật, nhưng nổi tiếng nhất là tên
“Igloo White” (Lều tuyết trắng). “Mắt thần” của mạng lưới là một tòa nhà rộng
19.000m2, đặt tại căn cứ không quân Nakhon Phanom, đông bắc Thái Lan, là công
trình quân sự lớn nhất Đông Nam Á thời điểm đó.
Các máy bay tác chiến điện tử
EC-121R liên tục túc trực trên không phận quanh vĩ tuyến 17, có nhiệm vụ thu
thập tín hiệu từ các cảm biến, khuếch đại và truyền về trụ sở. Tại “mắt thần”,
đơn vị Jason cùng hàng trăm chuyên gia phân tích và điều khiển các phi vụ ném
bom trên những máy tính hiện đại nhất thời bấy giờ.
Thất
bại của “cuộc chiến từ xa”
Với sở chỉ huy nằm cách chiến
trường hàng trăm cây số, sử dụng công nghệ tiên tiến nhất thế giới, “hàng rào
điện tử” được giới chức Mỹ kỳ vọng sẽ biến cuộc chiến trên đường Trường Sơn thành
“cuộc chiến từ xa”, nơi quân đội Mỹ chiếm thế thượng phong mà không cần binh
lính xông pha trong lửa đạn. Tướng Mỹ William Westmoreland nhiệt tình ủng hộ
chương trình. Ông ta nói: “Tôi thấy một chiến trường được theo dõi liên tục 24
giờ bằng nhiều phương thức. Một chiến trường mà ở đó chúng ta có thể tiêu diệt
bất cứ mục tiêu nào nhờ liên lạc thông suốt và hỏa lực mạnh”.
Nhưng trên thực tế, chương
trình bộc lộ nhiều vấn đề ngay từ lúc triển khai. Do thả từ máy bay, một số
lượng lớn cảm biến bị hỏng khi chạm đất. Số hoạt động được gặp nhiều trục trặc
trong khí hậu khắc nghiệt, dễ bị đánh lừa và phải thay thế thường xuyên. Chi
phí cho mỗi “cây nhiệt đới” lên tới 2.000 USD (tương đương hơn 14.000 USD ngày
nay). Toàn bộ dự án tiêu tốn gần 1 tỷ USD mỗi năm (7,6 tỷ USD ngày nay) để duy
trì hoạt động, là chương trình đắt đỏ nhất trong lịch sử quân sự Mỹ khi đó.
Sau cuộc Tổng tiến công và
nổi dậy Xuân Mậu Thân năm 1968, sự sụp đổ của căn cứ Khe Sanh đánh dấu việc cụm
cứ điểm trên bộ thất bại trong việc cắt đứt đường Trường Sơn. Nhưng do không
còn phương án nào khác, Lầu Năm Góc phải duy trì “hàng rào điện tử”, tuyên bố
rằng chương trình vẫn đạt hiệu quả trong việc “cầm chân” tuyến hậu cần của đối
phương.
Dù phải hứng chịu gần 4 triệu
tấn bom đạn trong suốt thời gian tồn tại, đường Trường Sơn vẫn phát triển thành
một mạng lưới dài tổng cộng gần 20.000km, đưa hơn một triệu tấn vật tư, hàng
trăm nghìn bộ đội vào miền Nam. Trong khi đó, Mỹ không những không đạt được mục
đích chiến lược, mà còn hứng chịu nhiều tổn thất do Quân đội nhân dân Việt Nam
tìm ra cách khắc chế hệ thống cảm biến và bố trí hỏa lực phòng không ngày càng
dày đặc.
Để giữ thể diện, không quân
Mỹ tuyên bố “hàng rào điện tử” đã giúp phát hiện và tiêu diệt hơn 35.000 xe tải
của đối phương! Thế nhưng báo cáo của Thượng viện Mỹ lại khẳng định con số mà
quân đội Mỹ đưa ra “cao hơn rất nhiều so với số xe tải trên toàn lãnh thổ Bắc
Việt”. Cơ quan Tình báo Trung ương (CIA) ước tính Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chỉ
sở hữu toàn bộ khoảng 6.000 xe!
Chương trình tồn tại như một
“hố đen” hút ngân sách quốc phòng Mỹ một thời gian dài kể cả sau khi “người đỡ
đầu” là Bộ trưởng Quốc phòng Robert McNamara từ chức vào tháng 2-1968. “Hàng
rào điện tử McNamara” chính thức ngừng hoạt động sau khi Hiệp định Paris được
ký kết vào năm 1973.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét