Thứ Năm, 30 tháng 11, 2023

SAU GẦN 40 NĂM ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC XÂY DỰNG ĐẢNG VÀ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ NGÀY CÀNG TRONG SẠCH, VỮNG MẠNH

 


Mô hình chính trị và cơ chế vận hành tổng quát ở nước ta là “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ”. Chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu như: Một là, sức mạnh đại đoàn kết dân tộc được củng cố; dân chủ xã hội chủ nghĩa tiếp tục được phát huy. Hai là, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị được đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ, quyết liệt, có hiệu quả rõ rệt. Ba là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có nhiều tiến bộ, hoạt động hiệu lực, hiệu quả hơn; bảo đảm thực hiện đồng bộ các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Bốn là, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức hoạt động, vận động đông đảo nhân dân tham gia các phong trào thi đua yêu nước, phát huy ngày càng tốt hơn vai trò đại diện quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, hội viên và nhân dân; chủ động tham gia giám sát và phản biện xã hội; làm tốt vai trò cầu nối giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân.



NGƯỜI LÃNH ĐẠO VÀ BÀI HỌC TU DƯỠNG, TRÁNH CÁM DỖ

 NGƯỜI LÃNH ĐẠO VÀ BÀI HỌC TU DƯỠNG, TRÁNH CÁM DỖ


Không chỉ đề cao vai trò, tầm quan trọng của người lãnh đạo: “Một người lo bằng kho người làm”, triết lý người Việt còn nhắc nhở những ai ở cương vị đó phải biết giữ gìn nhân cách, bởi “nhà dột từ nóc”.


Lại có câu ca dao: “Người trên ở chẳng chính ngôi/ Để cho bề dưới chúng tôi hỗn hào” là chân lý cũng là đạo lý, vì người lãnh đạo, nhất là lãnh đạo cấp cao không chỉ phải “lo” đường lối chiến lược, hoạch định chính sách... mà còn phải là mẫu mực nhân cách có ảnh hưởng lớn trong cộng đồng.


Thế nhưng vừa qua, có không ít vị lãnh đạo cấp cao lại “nhúng chàm” để rồi đang ở đỉnh cao quyền lực rơi xuống đáy thân phận bị cáo, trở thành “tấm gương mờ” để người đời bêu riếu... “Tài” và “đức” là hai phạm trù cơ bản cấu thành nhân cách người lãnh đạo. Họ có thể có “tài” nhưng còn thiếu “đức”. Bác Hồ từng dạy người cách mạng phải lấy đức là nguồn, là gốc: “Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”(1). Những “tấm gương mờ” kia còn thiếu đạo đức cách mạng nên sức yếu, không “gánh được nặng” và chẳng “đi được xa”.


Bốn cái cột chống vững chắc của ngôi nhà đạo đức cách mạng, theo Bác Hồ là “cần, kiệm, liêm, chính”. Ngày Quốc khánh 2-9-1947, Người viết bài "Cán bộ và đời sống mới" giải thích rõ vấn đề, đặc biệt nhấn mạnh đến sự “thực hành”: “Muốn được dân tin, dân phục, dân yêu, cán bộ phải tự mình làm đúng đời sống mới. Nghĩa là phải siêng năng, tiết kiệm, trong sạch, chính đáng. Nếu không thực hành bốn điều đó, mà muốn được lòng dân, thì cũng như bắc dây leo trời”(2). Câu nói mang ý nghĩa thời sự sâu sắc, như là nói với hôm nay!


Một phẩm chất hàng đầu của người lãnh đạo là uy tín. Tham ô, đục khoét tức “vô liêm”, không trong sạch thì làm sao “được lòng dân”. Người xưa rất coi trọng chữ “liêm”. Cụ Khổng Tử mỉa mai: “Người mà không liêm, không bằng súc vật”. Cụ Mạnh Tử trăn trở: “Ai cũng tham lợi, thì nước sẽ nguy”. Bác Hồ kế thừa các tinh hoa tư tưởng ấy và minh họa một trường hợp cụ thể. Trong "Nhật ký hành trình của Hồ Chủ tịch bốn tháng sang Pháp", Người có nói về “tấm gương” của Napoléon “đại tài nhưng tham lam”, từ một anh lính làm đến tổng tư lệnh rồi hoàng đế, vẫn chưa thấy đủ, ông còn muốn làm chúa cả thế giới: “Nếu ông Napoléon mà biết dè dặt, không tham muốn quá chừng, thì chắc nước Pháp lúc đó không đến nỗi vì chiến tranh mà chết người, hại của. Mà ông Napoléon cũng giữ được địa vị thiên tử trong một nước giàu mạnh ở Âu châu. Nhưng ông Napoléon đã làm con giời lại muốn làm cả giời, kết quả bị rơi xuống đất... Xưa nay đã nhiều người vì không “tri túc” (chừng mực) mà thất bại”(3). Là người có tài, lại ở vị trí lãnh đạo cao nhất nhưng “kết quả bị rơi xuống đất”, theo Bác Hồ có 3 lý do là “tham lam”, “không khiêm tốn”, “không biết lượng sức mình”. Vì thế mà ông ta mắc bệnh cuồng vọng “đã làm con giời lại muốn làm cả giời”. Hậu quả do người lãnh đạo gây ra, không chỉ mình người đó mà còn cả cộng đồng phải gánh chịu, có khi rất nặng nề.


Soi vào một vài trường hợp cán bộ lãnh đạo cấp cao vừa rồi bị kỷ luật, không thể so sánh về tài năng, nhưng về nguyên nhân và “kết quả” thì thấy họ cũng gần giống như Napoléon vậy!  


Phật giáo coi tính “tham” là nguyên nhân đầu tiên dẫn con người đến “bể khổ”. Khổng Tử coi sự “tham lợi” chỉ có ở kẻ “tiểu nhân”. Bác Hồ dạy cán bộ phải biết: “Ít lòng tham muốn về vật chất”! Mọi cán bộ đều phải thế, cán bộ lãnh đạo càng phải thế!


Về giải pháp ngăn chặn, căn cứ vào tư tưởng biện chứng của Lenin từ “trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng”, đối chiếu với quan niệm về đặc trưng tâm lý người lãnh đạo mới nhất của thế giới hiện nay, thì lời Bác Hồ dạy vẫn là bài học đúng đắn, thiết thực. Cụ thể nhất là lấy gương người tốt-việc tốt hằng ngày để giáo dục lẫn nhau. Đây là một truyền thống văn hóa phương Đông mà chính Bác Hồ giải thích: “Nói chung thì các dân tộc phương Đông đều giàu tình cảm, và đối với họ, một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”. Ở phương Tây, một số vị tổng thống khi nhậm chức thường đặt tay lên cuốn Kinh Thánh là một cách “hứa” sẽ làm theo những lời dạy mẫu mực, tức cũng coi đó là tấm gương. Vấn đề ở chỗ “làm gương” như thế nào, bằng cách nào?


Ở ngay lĩnh vực giáo dục cán bộ, đảng viên, Bác Hồ đã là nhà giáo dục lớn với tư tưởng và các biện pháp mang tính hệ thống, toàn diện, phù hợp. Theo Người, lấy những tấm gương “đảng viên đã vì Đảng, vì giai cấp, vì dân tộc mà oanh liệt hy sinh như đồng chí Lê Hồng Phong, Trần Phú, Hoàng Văn Thụ, Nguyễn Đức Cảnh, Nguyễn Văn Cừ, Lương Khánh Thiện, Minh Khai, cùng trăm nghìn đồng chí khác... Máu xương của các tiên liệt đã thấm nhuần gốc rễ của Đảng ta, làm cho cây nó càng vững, ngành nó càng to, và kết quả khai hoa ngày càng rực rỡ”(4). Hình tượng ẩn dụ “cây” Đảng ta tươi tốt là nhờ “gốc rễ” được “thấm nhuần” máu xương của các bậc tiền bối thật giàu ý nghĩa biểu cảm này được Người nhiều lần nhắc lại. Thế hệ lãnh đạo đầu tiên ấy đã hy sinh trọn vẹn, tuyệt đối cho dân tộc, xứng đáng là tấm gương cho mọi thế hệ kế tục học tập, noi theo.


Bác Hồ từng nhấn mạnh những cán bộ chủ chốt, cấp cao phải tiên phong trong việc nêu gương. Trong "Bài nói chuyện tại phiên họp cuối năm của Hội đồng Chính phủ năm 1963", Người nhắc nhở: “Một điều rất quan trọng nữa là các đồng chí bộ trưởng, thứ trưởng và cán bộ lãnh đạo phải luôn luôn gương mẫu về mọi mặt, phải nêu gương sáng về đạo đức cách mạng: Cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, phải giữ gìn tác phong gian khổ phấn đấu, phải không ngừng nâng cao chí khí cách mạng trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Có như thế mới xứng đáng với đồng bào miền Nam đang chiến đấu vô cùng anh dũng chống đế quốc Mỹ và tay sai của chúng để giải phóng miền Nam và hòa bình thống nhất nước nhà. Nhân dân ta rất tốt. Nếu chúng ta làm gương mẫu và biết lãnh đạo thì bất cứ công việc gì khó khăn đến đâu cũng nhất định làm được”(5). Không chỉ là lời dạy về nội dung, còn là vấn đề phương pháp luận: Phải lấy tấm gương sáng nhất, cụ thể mà gần gũi để giáo dục. Thời điểm ấy, với các bộ trưởng, thứ trưởng... thì có tấm gương nào “sáng” hơn “đồng bào miền Nam đang chiến đấu vô cùng anh dũng”.


Một số cán bộ lãnh đạo mắc khuyết điểm vừa qua có nguyên nhân là phai mờ lý tưởng cộng sản, nhạt phai tinh thần tự nguyện cống hiến, hy sinh vì cách mạng, vì dân nên sa vào chủ nghĩa cá nhân, đúng như Bác nói, họ “coi Đảng như một cái cầu thang để thăng quan phát tài”(6). Xa dân nên thành “quan cách”, không đoái hoài đến đời sống của dân, không chỉ không “cần kiệm” mà còn xa hoa, lãng phí. Do vậy quy trình bổ nhiệm cán bộ cấp cao cần hết sức chặt chẽ. Nhất thiết cán bộ đó phải kinh qua những cương vị lãnh đạo gần với dân, hiểu dân. Bởi có vậy họ mới thấm thía “một hột gạo, một đồng tiền, tức là một số mồ hôi nước mắt của đồng bào” nên có ý thức chi tiêu, sử dụng bất cứ cái gì cũng phải nghĩ đó là của dân. Chỉ khi nghĩ được như lời Bác dạy “hoang phí là một tội ác” thì mới biết trân trọng, giữ gìn tài sản của dân và danh dự của mình.


Những vụ việc ấy cho thấy bài học là còn nhiều cơ quan, tổ chức đảng coi nhẹ công tác tự phê bình và phê bình. Điều ấy có lý do từ căn tính tiểu nông cả nể đã ngàn xưa, với cán bộ chủ chốt thì sự cả nể càng tăng lên nhiều. Lại thêm tâm lý “chín bỏ làm mười”, “xuê xoa”, “an phận thủ thường”, “đấu tranh là... tránh đâu”... nên lãnh đạo mắc khuyết điểm ngày thêm nặng mà không được góp ý, chỉ ra, ngăn chặn.


Rất nhiều lần Bác Hồ nhắc cán bộ phải “gương mẫu”, “nêu gương”, phải là “đầu tàu”... Không ít lần, Người mượn lời Khổng Tử dạy cán bộ mình có đứng đắn, trong sáng mới tề được gia, trị được quốc, bình được thiên hạ... Những lời dạy ấy không chỉ đúng với đạo lý mà còn là khoa học, biện chứng. Để có uy tín, để là tấm gương sáng, với người lãnh đạo-theo lời Bác dạy là phải “thực hành trước” các nguyên tắc “Cần, kiệm, liêm, chính”, “chí công”, “vô tư” . Một phương pháp sư phạm đã trở thành chân lý: Cách tốt nhất để giáo dục, thuyết phục người khác là giáo dục, thuyết phục bằng chính nhân cách mình!


SAU GẦN 40 NĂM ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC KINH TẾ - XÃ HỘI NGÀY CÀNG PHÁT TRIỂN, ĐỜI SỐNG CỦA NHÂN DÂN ĐƯỢC CẢI THIỆN VÀ NGÀY CÀNG ĐƯỢC NÂNG CAO

 


 


 Trước đổi mới, Việt Nam là một nước nghèo, bị chiến tranh tàn phá nặng nề, cuối những năm 70, đầu những năm 80 của thế kỷ XX, khủng hoảng kinh tế - xã hội diễn ra gay gắt, tỉ lệ lạm pháp có lúc lên đến 774,7%, đời sống nhân dân hết sức khó khăn, thiếu lương thực triền miên, khoảng ¾ dân số sống ở mức nghèo khổ. Nhờ thực hiện đường lối đổi mới, nền kinh tế bắt đầu phát triển và phát triển liên tục với tốc độ tăng trưởng tương đối cao, trung bình khoảng gần 7% mỗi năm.

“Quy mô GDP không ngừng được mở rộng, năm 2020 đạt 342,7 tỷ đô la Mỹ (USD), trở thành nền kinh tế lớn thứ tư trong ASEAN. Thu nhập bình quân đầu người tăng khoảng 17 lần, lên mức 3.512 USD; Việt Nam đã ra khỏi nhóm các nước có thu nhập thấp từ năm 2008. Từ một nước bị thiếu lương thực triền miên, đến nay, Việt Nam không những đã bảo đảm được an ninh lương thực mà còn trở thành một nước xuất khẩu gạo và nhiều nông sản khác đứng hàng đầu thế giới. Công nghiệp phát triển khá nhanh, tỉ trọng công nghiệp và dịch vụ liên tục tăng và hiện nay chiếm khoảng 85% GDP. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu tăng mạnh, năm 2020 đạt trên 540 tỷ USD, trong đó kim ngạch xuất khẩu đạt trên 280 tỷ USD. Dự trữ ngoại hối tăng mạnh, đạt 100 tỷ USD vào năm 2020. Đầu tư nước ngoài tăng nhanh, đăng ký đạt gần 395 tỷ USD vào cuối năm 2020”. 

Việc phát triển kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách phát triển đã giúp cho  văn hóa, xã hội phát triển, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt, mức sống và chất lượng sống ngày càng được nâng cao. Tỷ lệ hộ nghèo trung bình mỗi năm giảm khoảng 1,5%; giảm từ 58% năm 1993 xuống còn 5,8% năm 2016 theo chuẩn nghèo của Chính phủ và dưới 3% năm 2020 theo chuẩn nghèo đa chiều (tiêu chí cao hơn trước). Đến nay, hơn 60% số xã đạt chuẩn nông thôn mới; hầu hết các xã nông thôn đều có đường ô tô đến trung tâm, có điện lưới quốc gia, trường tiểu học và trung học cơ sở, trạm y tế và điện thoại.

Việt Nam tập trung hoàn thành xóa mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học vào năm 2000 và phổ cập giáo dục trung học cơ sở năm 2010; số sinh viên đại học, cao đẳng tăng gần 17 lần trong 35 năm qua. Việt Nam tập trung vào việc tăng cường y tế phòng ngừa, phòng, chống dịch bệnh, hỗ trợ các đối tượng có hoàn cảnh khó khăn. Người nghèo, trẻ em dưới 6 tuổi và người cao tuổi được cấp bảo hiểm y tế miễn phí. Đời sống văn hóa cũng được cải thiện đáng kể; sinh hoạt văn hóa phát triển phong phú, đa dạng. Liên hợp quốc đã công nhận Việt Nam là một trong những nước đi đầu trong việc hiện thực hóa các Mục tiêu Thiên niên kỷ. Năm 2019, chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam đạt mức 0,704, thuộc nhóm nước có HDI cao của thế giới, nhất là so với các nước có cùng trình độ phát triển.

Một lời thề

 "Ra đi mang nặng lời thề Chưa thắng giặc Mỹ chưa về Bách khoa" Tại quảng trường này, tháng 9 năm 1971, trên 600 sinh viên trường Đại Học Bách khoa Hà Nội cùng với hàng ngàn sinh viên của các trường Đại Học Tổng Hợp, Đại Học Xây Dựng, Đại Học Kinh Tế Quốc Dân… đã tạm gác bút nghiên, tạm biệt thầy cô, bạn bè và mái trường để lên đường vào Nam chiến đấu. Như một sự sắp đặt của lịch sử, tất cả những người lính trẻ ấy đã được bổ sung vào một mặt trận và cùng tham gia những trận chiến đấu ác liệt nhất để giành lại và gìn giữ từng tấc đất của Thành Cổ Quảng Trị trong mùa hè năm 1972. Trong những cuộc chiến đấu khốc liệt ấy, hàng trăm người lính sinh viên đã không bao giờ được trở lại mái trường thân yêu nữa, họ đã liệt oanh ngã xuống giữa chiến trường. Máu của họ đã thấm đẫm những tấc đất Thành Cổ Quảng Trị hoặc đã hòa vào dòng Thạch Hãn đau thương và anh hùng 

NHỮNG THÀNH TỰU VỀ NHẬN THỨC LÝ LUẬN SAU GẦN 40 NĂM ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC


Mục tiêu, đặc trưng, quan điểm chỉ đạo, định hướng phát triển đất nước và các mốc quan hệ lớn mang tính quy luật trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa tiếp tục được bổ sung, phát triển,  nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam ngày càng sáng tỏ. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình phát triển tổng quát của nền kinh tế Việt Nam. Gắn kết giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; phát huy nhân tố con người, lấy nhân dân làm trung tâm; phát huy vai trò của văn hoá - nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực của sự phát triển. Khẳng định bản chất của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân… Quán triệt sâu sắc phương châm bảo đảm quốc phòng, an ninh là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên… Hoàn thiện và nhận thức sâu sắc hơn đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển…


LỜI BÁC DẠY NGÀY NÀY NĂM XƯA: NGÀY 01 THÁNG 12 NĂM 1962!

     “Để làm tròn nhiệm vụ cao quý của mình, văn nghệ sĩ cần phải rèn luyện đạo đức cách mạng, nâng cao tinh thần phục vụ nhân dân, giữ gìn thái độ khiêm tốn; phải thật sự hòa mình với quần chúng, cố gắng học tập chính trị, trau dồi nghề nghiệp; phải hết lòng giúp đỡ thanh niên, làm cho văn nghệ nước nhà ngày càng thêm trẻ thêm xuân”!

Lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh được trích trong bài nói tại Đại hội Văn nghệ toàn quốc lần thứ III, ngày 01/12/1962, đăng trên Báo Nhân dân, số 3173, ra ngày 02/12/1962. 

Là người đặt nền móng cho nền văn học nghệ thuật cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu đã có công xây dựng một nền văn nghệ mới, thường xuyên sâu sát và có những lời chỉ bảo tận tình, cần thiết cho đội ngũ những người làm công tác văn hóa văn nghệ, đặc biệt là các anh chị em nghệ sĩ. Lời căn dặn của Bác rõ ràng, dễ hiểu nhưng là bài học sâu sắc, tinh tế có giá trị định hướng cụ thể về nhận thức, tư tưởng và hành động nhằm nâng cao tinh thần cảnh giác, mài sắc ý chí chiến đấu cho những người cầm bút.

Thực hiện lời Bác dạy, trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, hàng chục ngàn văn nghệ sĩ đã “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” đến với tiền tuyến lớn, lăn lộn trên các chiến trường đầy khói lửa và có những đóng góp quan trọng cho sự nghiệp thống nhất nước nhà. Sau ngày đất nước thống nhất, đặc biệt là trong công cuộc đổi mới đất nước, đội ngũ văn nghệ sĩ nước nhà tiếp tục phát huy tài năng sáng tạo của mình, thật sự hòa mình vào cuộc sống lao động sản xuất, bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, phấn đấu có nhiều tác phẩm xuất sắc, xứng đáng với tầm vóc của cách mạng, với dân tộc Việt Nam.   

Hiện nay, lời căn dặn của Bác vẫn giữ nguyên giá trị, có ý nghĩa to lớn nhằm động viên văn nghệ sĩ cả nước bồi dưỡng cái tâm và cái tài, khám phá, sáng tạo nên nhiều tác phẩm hay và tốt phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Thực hiện lời dạy của Bác, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến đội ngũ văn nghệ sĩ - những người chiến sĩ tiên phong trên mặt tư tưởng, văn hóa của Đảng và đã xác định rõ trách nhiệm của lực lượng này là cần phải nêu cao trách nhiệm trước nhân dân, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, có tác dụng giáo dục, xây dựng con người; tích cực cổ vũ cái đúng, cái tốt, cái đẹp trong quan hệ giữa con người với con người, giữa con người với xã hội, với thiên nhiên, đồng thời phê phán những thói hư tật xấu, lên án cái ác, cái thấp hèn… Thấm nhuần lời dạy của Bác, mỗi văn nghệ sĩ trong Quân đội cần ra sức học tập nâng cao trình độ, chuyên môn nghiệp vụ, tích cực tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống nhằm không ngừng tự hoàn thiện bản thân; đi sâu bám sát mọi hoạt động của bộ đội, phấn đấu sáng tạo nên nhiều tác phẩm nghệ thuật có giá trị đáp ứng kịp thời nhu cầu thẩm mỹ của bộ đội, góp phần tô thắm thêm phẩm chất cao đẹp “Bộ đội Cụ Hồ” trong thời kỳ mới./.
Môi trường ST!

MÁU XƯƠNG CỦA CÁC ANH HÙNG LIỆT THÂN VÀO MỖI NGỌN NÚI, DÒNG SÔNG

 ⭐MÁU XƯƠNG CỦA CÁC ANH HÙNG LIỆT  THÂN VÀO MỖI NGỌN NÚI, DÒNG SÔNG


Chiến tranh đã đi qua nhưng khi trở lại dòng sông Thạch Hãn, người cựu chiến binh Lê Bá Dương đã nức nở, thổn thức: 

“Đò lên Thạch Hãn ơi...chèo nhẹ 

Đáy sông còn đó bạn tôi nằm 

Có tuổi hai mươi thành sóng nước 

Vỗ yên bờ, mãi mãi ngàn năm”. 

Cũng như năm xưa trong kháng chiến chống Pháp nhà thơ - Người lính tây tiến Quang Dũng đã từng độc hành khúc tráng ca lẫm liệt bi thiết: 

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh Áo bào thay chiếu anh về đất 

Sông Mã gầm lên khúc độc hành”.

Vâng, máu xương của các anh hùng liệt sỹ đã hóa thân vào mỗi ngọn núi dòng sông, đã hóa thân vào mỗi trang thơ, trang văn cho các thế hệ mai sau. Đó chính là tượng đài được dựng nên bất tử trong trái tim mỗi người…


Giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc

Trong suốt cuộc đời mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn xác định đại đoàn kết dân tộc là phương thức, là sức mạnh và là mục tiêu quan trọng nhất của cách mạng Việt Nam. Với tư tưởng ấy, dân tộc Việt Nam đã giành được độc lập và xây dựng đất nước từng bước đạt mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trở thành giá trị văn hóa, giá trị chính trị quý báu của Việt Nam trong thời đại mới. Với Chủ tịch Hồ Chí Minh, nếu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là mục tiêu của cách mạng Việt Nam, Đảng Cộng sản là lực lượng lãnh đạo cách mạng Việt Nam, thì đại đoàn kết dân tộc là sức mạnh của cách mạng Việt Nam và tư tưởng về đại đoàn kết dân tộc là tư tưởng về tập hợp, tổ chức và phát huy sức mạnh của các lực lượng cách mạng trong nước, từ sức mạnh của các lực lượng xã hội, các tổ chức chính trị đến sức mạnh của toàn dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, làm nên nguồn lực tổng hợp nhằm hiện thực hóa mục tiêu cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, đoàn kết, trong đó có đại đoàn kết dân tộc, là một nội dung cơ bản, trung tâm của chính trị Việt Nam hiện đại. Người viết: “Tóm lại chính trị là: 1. Đoàn kết. 2. Thanh khiết từ to đến nhỏ”(1). Tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc được Người xây dựng trên nền tảng đúc rút trí tuệ nhân loại cổ, kim, Đông, Tây về tập hợp và tổ chức lực lượng cách mạng; trên cơ sở tổng kết lịch sử dân tộc Việt Nam, lịch sử cách mạng Việt Nam và nhiều cuộc cách mạng trên thế giới; và nhất là dựa trên những suy tư rất sâu sắc của Người, ở tầm triết học, về bản chất con người, về vị trí và vai trò của con người trong thế giới, phương thức sống và hoạt động của con người..., nói cách khác trên nền tảng nhân sinh quan cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là nhà tư tưởng về đại đoàn kết dân tộc, mà Người trước hết là “nhà hoạt động chính trị chuyên nghiệp” - như chính Người khẳng định, trong đó tư tưởng và thực hành đại đoàn kết dân tộc, lý luận và thực tiễn đại đoàn kết dân tộc liên hệ chặt chẽ với nhau. Chủ tịch Hồ Chí Minh là linh hồn và là trung tâm dẫn dắt quá trình tập hợp và tổ chức lực lượng cách mạng trong thực tiễn. Tư tưởng đại đoàn kết, trong đó đại đoàn kết dân tộc là vấn đề hàng đầu mà Chủ tịch Hồ Chí Minh tính đến khi đứng trước những vấn đề lớn mà cách mạng đặt ra. Thực tiễn cách mạng Việt Nam chứng minh, với tư tưởng và vai trò thực tế của Chủ tịch Hồ Chí Minh, sức mạnh của dân tộc Việt Nam được tập hợp, tổ chức và phát huy cao độ; kết hợp nhuần nhuyễn giữa sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, góp phần làm nên những thắng lợi to lớn của cách mạng Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc cùng với khối đại đoàn kết dân tộc mà Chủ tịch Hồ Chí Minh dày công xây dựng là một di sản vô cùng quý báu cho Đảng ta và dân tộc ta. Trong bối cảnh hiện nay, khi mục tiêu được Đảng ta đưa ra trong Đại hội XIII của Đảng là: “khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại”(2) đang đặt ra mạnh mẽ, thì việc tiếp tục đi sâu nghiên cứu, khai thác, vận dụng một cách sáng tạo những giá trị trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc là nhiệm vụ có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về tầm quan trọng của đại đoàn kết dân tộc. Để giải quyết những vấn đề lớn của cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng việc tổng kết lịch sử. Khi tổng kết lịch sử dân tộc Việt Nam, Người đúc rút một quy luật: “Sử ta dạy cho ta bài học này: Lúc nào dân ta đoàn kết muôn người như một thì nước ta độc lập, tự do. Trái lại lúc nào dân ta không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn. Vậy nay ta phải biết đoàn kết, đoàn kết mau, đoàn kết chắc chắn thêm lên mãi”(3). Đây là quan điểm rất quan trọng, mang tính nền tảng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc, theo đó, việc lực lượng lãnh đạo cách mạng chú trọng củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, việc các tầng lớp nhân dân tích cực, chủ động tham gia khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đó chính là nhận thức và hành động đúng đắn, phù hợp với quy luật. Nhìn vào các phong trào yêu nước của các tầng lớp nhân dân Việt Nam suốt nửa cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX và phong trào đấu tranh của nhân dân nhiều nước thuộc địa chống lại chủ nghĩa thực dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh thấy rõ, nguyên nhân khiến cho hầu hết các phong trào đó, dù nổ ra với tinh thần anh dũng, sẵn sàng hy sinh của nhân dân, nhưng đều thất bại, là do bị chia rẽ và cô lập, các lực lượng yêu nước không được tập hợp và tổ chức lại thành một khối đoàn kết vững chắc. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng dành thời gian nghiên cứu kinh nghiệm các cuộc cách mạng lớn nổ ra trên thế giới như cách mạng Pháp, cách mạng Mỹ và cách mạng Nga, từ đó đúc rút ra những chỉ dẫn quan trọng về đại đoàn kết dân tộc. Người còn đi sâu nghiên cứu nhiều tư tưởng, học thuyết của các nhà lãnh đạo chính trị tầm cỡ, như M. Gan-di, Tôn Trung Sơn..., và đặc biệt, đến với chủ nghĩa Mác - Lê-nin, nhờ vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có được cơ sở lý luận khoa học để luận giải sâu sắc về tầm quan trọng của đại đoàn kết dân tộc, nhận thức đúng đối tượng đại đoàn kết và cách thức tiến hành đại đoàn kết dân tộc. Trên tất cả những cơ sở đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định tầm quan trọng đặc biệt của đại đoàn kết dân tộc: Thứ nhất, đại đoàn kết dân tộc là một trong những vấn đề gốc của cách mạng. Nếu giải quyết thành công vấn đề này thì các vấn đề khác cũng sẽ có điều kiện để giải quyết thành công. Chủ tịch Hồ Chí Minh dùng từ “điểm mẹ” để diễn đạt quan điểm này. Người viết: Đoàn kết là “điểm mẹ. Điểm này mà thực hiện tốt thì đẻ ra con cháu đều tốt”(4). Thứ hai, đại đoàn kết dân tộc là phương thức để tập hợp, tổ chức và phát huy cao độ sức mạnh của toàn thể dân tộc, góp phần quyết định đưa cách mạng Việt Nam đến thắng lợi. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “... nhờ sức đại đoàn kết mà cách mệnh thành công... nhờ sức đại đoàn kết mà kháng chiến sẽ thắng lợi”(5); “Thống nhất nước nhà là con đường sống của nhân dân ta. Đại đoàn kết là một lực lượng tất thắng. Nhờ đại đoàn kết mà cách mạng đã thắng lợi, kháng chiến đã thành công. Nay chúng ta đại đoàn kết thì cuộc đấu tranh chính trị của chúng ta nhất định thắng lợi, nước nhà nhất định thống nhất”(6). Thứ ba, đại đoàn kết dân tộc là chiến lược hàng đầu của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong bất cứ giai đoạn nào của cách mạng, đại đoàn kết dân tộc luôn phải được Đảng Cộng sản Việt Nam quan tâm giải quyết trước hết. Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn, “Trước Cách mạng Tháng Tám và trong kháng chiến, thì nhiệm vụ tuyên huấn là làm cho đồng bào các dân tộc hiểu được mấy việc: Một là đoàn kết. Hai là làm cách mạng hay kháng chiến để đòi độc lập. Chỉ đơn giản thế thôi. Bây giờ mục đích tuyên truyền huấn luyện là: Một là đoàn kết. Hai là xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ba là đấu tranh thống nhất nước nhà”(7). Đảng Cộng sản Việt Nam xây dựng đường lối, chiến lược đại đoàn kết dân tộc và lãnh đạo hệ thống chính trị cùng toàn thể nhân dân tích cực thực hiện đường lối chiến lược đó, làm cho đại đoàn kết dân tộc trở thành một hiện thực đầy sức sống trong cách mạng Việt Nam. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đối tượng đại đoàn kết dân tộc. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân. Trong bài nói chuyên tại Hội nghị đại biểu Mặt trận Liên Việt toàn quốc (tháng 1-1969), Chủ tịch Hồ Chí Minh phát biểu: “Đại đoàn kết tức là trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân ta là công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác. Đó là nền gốc của đại đoàn kết. Nó cũng như cái nền của nhà, gốc của cây. Nhưng đã có nền vững, gốc tốt, còn phải đoàn kết các tầng lớp nhân dân khác. Bất kỳ ai mà thật thà tán thành hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ thì dù những người đó trước đây chống chúng ta, bây giờ chúng ta cũng thật thà đoàn kết với họ”(8). Có thể thấy, ý nghĩa chữ “đại” trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc chính là biên độ của đại đoàn kết được mở rộng tối đa, là đoàn kết với mọi đối tượng có thể đoàn kết được. Vấn đề đặt ra là, đó là những đối tượng nào? Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định các đối tượng của đại đoàn kết bằng phương pháp rất khoa học. Theo Người, dân tộc không phải là một “cộng đồng tưởng tượng”(9), mà là một cộng đồng hiện thực của những con người hiện thực. Để nhận diện đúng cộng đồng ấy, Người tiếp cận cộng đồng dân tộc bằng nhiều “lát cắt” khác nhau: giai cấp, dân tộc, tôn giáo, giới tính, lứa tuổi, vùng miền,... Tùy từng “lát cắt” sẽ chia cộng đồng dân tộc thành những lực lượng xã hội khác nhau, với những đặc điểm về nhu cầu, lợi ích, tâm lý, thái độ,... riêng cùng những mối quan hệ đặc thù. Điều cần lưu ý là, Chủ tịch Hồ Chí Minh không tuyệt đối hóa một lát cắt hay quan hệ nào. Trái lại, áp dụng nhiều “lát cắt” để nhìn sâu vào cái bộ phận, nhưng không dừng ở cái bộ phận mà đi tới cái toàn thể, tức là để nhìn đối tượng đại đoàn kết trong tính chỉnh thể, trong tính tổng hòa khách quan vốn có, theo đúng quan điểm của C. Mác: Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội. Nhận diện một đối tượng đại đoàn kết không phải chỉ trên một phương diện nào đó, chẳng hạn dân tộc hay tôn giáo, mà trong tính tổng hòa đan xen của nó: cùng một đối tượng đại đoàn kết, vừa là con người dân tộc, vừa là con người giai cấp, vừa là con người tôn giáo, vừa là con người lứa tuổi... Cách tiếp cận toàn diện như vậy giúp chủ thể tìm ra những điểm chung để hóa giải các quan hệ khác biệt, mâu thuẫn trong quan hệ giữa các đối tượng đại đoàn kết. Có thể khẳng định, Chủ tịch Hồ Chí Minh phân tích để nhận diện sâu về đối tượng đại đoàn kết trên các phương diện khác nhau và lấy đó làm cơ sở để tổng hợp, để đại đoàn kết là cách tiếp cận độc đáo của Người, vừa khoa học, vừa rất văn hóa, độc đáo, đặc sắc và hiệu quả. Chủ tịch Hồ Chí Minh không tuyệt đối hóa lát cắt nào, nhưng từ góc nhìn chung của đại đoàn kết dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh điểm chung xuyên qua những khác biệt của các thành viên trong cùng một quốc gia - dân tộc, đó là những giá trị liên quan đến lợi ích chung của dân tộc. Đó là cơ sở quan trọng để Người khẳng định rằng, dù giai cấp, tộc người, tôn giáo, vùng, miền khác nhau, dù là trong nước hay nước ngoài..., nhưng là người Việt Nam, thì đều có những lợi ích chung có thể chia sẻ, vì thế, đều có thể và cần thiết tham gia khối đại đoàn kết dân tộc để phấn đấu cho lợi ích chung. Trong bối cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam khi đó, lợi ích chung ấy được Chủ tịch Hồ Chí Minh diễn đạt là “yêu Tổ quốc, yêu hoà bình, yêu thống nhất”, hay “thật thà tán thành hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ”,... Hình ảnh “con Lạc, cháu Hồng”, “con dân nước Việt” mà Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu lên chính là hiện thân cho những giá trị chung trong mỗi đối tượng đại đoàn kết. Rõ ràng, nói đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân, ở đây, tuyệt nhiên không phải là một khẩu hiệu đơn thuần, mà là một chính sách dân tộc, một cương lĩnh hành động được xây dựng trên cơ sở nhận thức khoa học và mang tính khoan dung văn hóa rất sâu sắc. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về nguyên tắc đại đoàn kết dân tộc. Để có thể thực hiện được đại đoàn kết dân tộc, Hồ Chí Minh đã nêu lên một số nguyên tắc chỉ đạo hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn. Thứ nhất, quán triệt nguyên tắc “cầu đồng, tồn dị”, trước hết phải “cầu đồng”, tức là phải tìm ra cái “đồng” mà các bên chia sẻ, lấy đó làm điểm quy tụ để đại đoàn kết. Cái “đồng” đó, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, suy cho cùng chính là lòng yêu nước chân chính trong mỗi con người Việt Nam. Trong Thư gửi đồng bào Nam Bộ trước khi rời Việt Nam sang Pháp dự Hội nghị Phông-ten-nơ-b-lô, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Tôi khuyên đồng bào đoàn kết chặt chẽ và rộng rãi. Năm ngón tay cũng có ngón vắn ngón dài. Nhưng vắn dài đều họp nhau lại nơi bàn tay. Trong mấy triệu người cũng có người thế này thế khác, nhưng thế này hay thế khác đều dòng dõi của tổ tiên ta. Vậy nên ta phải khoan hồng đại độ. Ta phải nhận rằng đã là con Lạc cháu Hồng thì ai cũng có ít hay nhiều lòng ái quốc. Đối với những đồng bào lạc lối lầm đường, ta phải lấy tình thân ái mà cảm hoá họ. Có như thế mới thành đại đoàn kết, có đại đoàn kết thì tương lai chắc sẽ vẻ vang”(10). Thừa nhận rằng, đã là con Lạc, cháu Hồng, thì ai cũng có ít hay nhiều lòng ái quốc, đó chính là quan điểm nhấn mạnh cái “đồng” của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong tiếp cận các đối tượng đại đoàn kết. Cái “đồng” đó còn là những quyền lợi chính đáng khác mà mỗi con người, dù ở giai cấp, tầng lớp, vùng, miền nào..., cũng hướng đến. Nói cách khác, cùng với “độc lập”, thì “tự do”, “hạnh phúc”, “cơm ăn”, “áo mặc”, “học hành”,... cũng là những giá trị chung cần được quan tâm và là điểm tựa để quy tụ, đoàn kết mọi lực lượng xã hội khác nhau vào một sự nghiệp chung. Tìm ra cái chung, lấy cái chung làm điểm tựa, dựa vào cái chung để hóa giải những khác biệt, mâu thuẫn riêng, đó là triết lý rất sâu sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong thực hiện đại đoàn kết dân tộc. Thực hiện nguyên tắc “cầu đồng, tồn dị” thì không chỉ “cầu đồng”, mà còn phải “tồn dị”, tức là phải chấp nhận và tôn trọng những cái khác biệt, miễn là không tổn hại đến cái chung. “Tồn dị” thể hiện tinh thần khoan dung, độ lượng, hay nói theo cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh là “khoan hồng đại độ”. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Tôi cả quyết cam đoan rằng Chính phủ và đồng bào ta sẽ hết sức khoan hồng đại độ. Chẳng những để cho những người đó cải quá tu tâm, quay về với Tổ quốc, mà lại sẵn sàng trọng dụng họ, nếu những người đó có tài nghệ. Một dân tộc đã tự cường, tự lập, dân chủ cộng hòa thì không làm những việc nhỏ nhen, báo thù báo oán”(11). Có khoan hồng đại độ, thì mới có đại đoàn kết, đó cũng là một triết lý đại đoàn kết rất sâu sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Khoan hồng đại độ không chỉ thể hiện cái tâm, mà còn thể hiện cái tầm của chủ thể đại đoàn kết. Hình ảnh thể hiện của tinh thần khoan dung chính là sông to và biển rộng: “Sông to, biển rộng, thì bao nhiêu nước cũng chứa được, vì độ lượng nó rộng và sâu. Cái chén nhỏ, cái đĩa cạn, thì một chút nước cũng đầy tràn, vì độ lượng nó hẹp nhỏ”(12). Cái tâm và cái tầm chủ thể đại đoàn kết dân tộc trái ngược hoàn toàn với sự “nhỏ nhen”, hẹp hòi, định kiến, càng xa lạ với lối ứng xử “báo thù báo oán”. Tinh thần khoan dung, độ lượng, hay khoan hồng đại độ ở Chủ tịch Hồ Chí Minh thực sự chính là tinh thần khoan dung văn hóa, mang tính nhân văn, nhân đạo cực kỳ sâu sắc. Thứ hai, thực hiện nguyên tắc “cầu đồng, tồn dị” nói trên, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, cần được đặt trên nền tảng niềm tin đối với con người. Đứng vững trên quan điểm của chủ nghĩa Mác, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ, “mỗi con người đều có thiện và ác ở trong lòng”(13). Thiện hay ác đó không phải là “tính sẵn”, mang tính tiên thiên, mà do trình độ phát triển của xã hội quy định, do sự tập nhiễm của con người khi sống trong xã hội chưa thực sự đạt đến trình độ văn minh. Thiện hay ác đó cũng không phải là nhất thành bất biến, mà biến đổi tuỳ thuộc vào giáo dục, theo nghĩa là giáo dục từ phía xã hội, cũng như tự giáo dục của mỗi con người. Lực lượng lãnh đạo cách mạng cần phải có niềm tin vào sự tồn tại của cái thiện trong mỗi con người, và khả năng nảy nở, phát triển của nó nếu được tác động đúng hướng, đúng cách, và thái độ cần có của lực lượng lãnh đạo xã hội là phải làm cho cái thiện “nảy nở như hoa mùa Xuân” và cái ác “mất dần đi”. Lòng yêu nước chân chính, những định hướng giá trị tốt đẹp, như “ấm no”, “tự do”, “hạnh phúc”,... trong mỗi con người Việt Nam chính là cái thiện, và vì thế cần có niềm tin và thái độ ứng xử tích cực đối với cái thiện đó. Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “Không được báo thù báo oán. Đối với những kẻ đi lầm đường lạc lối, đồng bào ta cần phải dùng chính sách khoan hồng. Lấy lời khôn lẽ phải mà bày cho họ. Ai cũng có lòng yêu nước, chẳng qua có lúc vì lợi nhỏ mà quên nghĩa lớn. Nói lẽ phải họ tự nghe. Tuyệt đối không được dùng cách kịch liệt”(14). Có thể thấy, niềm tin không chỉ đầy tính khoa học, mà cũng cực kỳ nhân văn ở Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với cái thiện và năng lực hướng thiện của con người là một triết lý nhân sinh cực kỳ quan trọng, là một bệ đỡ cho hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, trong đó có tư tưởng về đại đoàn kết dân tộc, là cơ sở để thực hiện các nguyên tắc đại đoàn kết dân tộc một cách thành công. Đó cũng là một nguyên tắc thực hiện đại đoàn kết dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Thứ ba, đại đoàn kết dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh hướng tới hình thành một cộng đồng gắn bó và thống nhất. Có như vậy, mới tập hợp và phát huy được cao độ sức mạnh của mỗi thành viên trong khối đại đoàn kết tạo nên tổng hợp lực cho cách mạng. Để làm được điều đó, ngoài niềm tin và thái độ đúng, còn cần đến cách ứng xử phù hợp. Trừ bọn “Việt gian bán nước”, trừ bọn “phát xít thực dân”, mà Chủ tịch Hồ Chí Minh gọi là “những ác quỷ mà ta phải kiên quyết đánh đổ”(15), thì “đối với tất cả những người khác thì ta phải yêu quý, kính trọng, giúp đỡ”(16). Khi nói đến cách ứng xử để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, Hồ Chí Minh thường dùng những chữ “thật thà”, “chân thành”, “thân thiết”, “thân ái”, “yêu quý”, “kính trọng”, “giúp đỡ”,... Người viết: “Phong trào giải phóng sôi nổi, nảy nở ra rất nhiều nhân tài ngoài Đảng. Chúng ta không được bỏ rơi họ, xa cách họ. Chúng ta phải thật thà đoàn kết với họ, nâng đỡ họ. Phải thân thiết với họ, gần gụi họ, đem tài năng của họ giúp ích vào công cuộc kháng chiến cứu nước. Chúng ta phải tẩy sạch các bệnh kiêu ngạo, bệnh hẹp hòi, bệnh bao biện”(17). Người còn chỉ dẫn: “Đồng chí ta, tuy có khi khác nhau về chủng tộc hay khác nhau về nguồn gốc giai cấp, nhưng là những người cùng chủ nghĩa, cùng mục đích, cùng sống, cùng chết, chung sướng, chung khổ, cho nên phải thật thà đoàn kết. Muốn đi tới mục đích, không phải chỉ tổ chức là đủ, phải chân thành trong tư tưởng nữa”(18),... Như vậy, dù góc tiếp cận nào: trong đảng hay ngoài đảng, chủng tộc hay giai cấp, thì để thực hiện được đại đoàn kết dân tộc, đều cần có cách ứng xử phù hợp, và cách ứng xử đó có thể khái quát là “cách Thiện”: cách Thiện để tạo ra cái Thiện, để làm cho những mầm Thiện nảy nở như hoa mùa Xuân. Đây cũng là một nguyên tắc quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc còn nhiều nội dung rất phong phú, sâu sắc. Những quan điểm đó chứa đựng những giá trị quan trọng đối với sự nghiệp củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc ở Việt Nam hiện nay. Có thể khái quát là: Một là, đại đoàn kết toàn dân tộc đã, đang và sẽ luôn là một quy luật chi phối sự tồn tại và phát triển của quốc gia - dân tộc Việt Nam. Để có thể xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc, nhiệm vụ xây dựng, củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc luôn phải được đặt lên hàng đầu, phải là nhiệm vụ hàng đầu của Đảng và Nhà nước Việt Nam, và trực tiếp là của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Coi trọng vai trò của đại đoàn kết dân tộc đòi hỏi phải thực sự coi trọng vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong hệ thống chính trị. Hai là, luôn quán triệt quan điểm mở rộng tối đa khối đại đoàn kết dân tộc. Trong xã hội mở và biến đổi nhanh chóng hiện nay, các lực lượng xã hội cấu thành dân tộc rất đa dạng, nhiều khác biệt. Tuy nhiên, dù đa dạng và nhiều khác biệt đến mấy, luôn cần nhìn nhận đó là các lực lượng cần tập hợp vào khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Cần mở rộng các hình thức tập hợp, tổ chức các lực lượng xã hội và có cơ chế để thu hút, quy tụ các hình thức đó vào trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phải thực sự là hiện thân của khối đại đoàn kết toàn dân tộc với các cấp độ tổ chức chặt chẽ và cơ chế hoạt động hiệu quả. Muốn vậy, Mặt trận phải rất thực chất và đầy sức sống, vừa rất thống nhất, vừa đa dạng và sinh động. Ba là, để thực hiện được đại đoàn kết dân tộc trong bối cảnh xã hội phân hoá, phân tầng mạnh mẽ hiện nay, nguyên tắc “cầu đồng, tồn dị” càng hết sức quan trọng. Việc phát hiện và khơi dậy những giá trị, lợi ích chung, cũng như việc chấp nhận và tôn trọng những cái khác biệt sẽ khó khăn hơn, nhưng không thể không thực hiện. Đối với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, phải làm sao để các đại diện trong Mặt trận thật sự đại diện được cho sự đa dạng trong xã hội, đồng thời phải có cơ chế để sự đa dạng tương tác và tồn tại trong mục tiêu thống nhất. Tinh thần căn bản cần quán xuyến ở đây chính là dân chủ và pháp quyền. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là mục tiêu lớn của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, đó phải là nền “pháp quyền nhân nghĩa”. Không phải ngẫu nhiên mà có học giả gọi kỷ nguyên hiện nay là kỷ nguyên của văn hoá, do đó, cách thiện càng là một đòi hỏi về cách ứng xử đối với các lực lượng xã hội khác nhau trong xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc ở Việt Nam hiện nay. Chủ tịch Hồ Chí Minh chưa dùng khái niệm “quyền lực mềm”, “sức mạnh mềm”, nhưng Người nhiều lần chỉ dẫn về việc “bày lẽ phải”, “nói phải”, “thuyết phục”,... trong ứng xử với các đối tượng đại đoàn kết. Ngay đối với Đảng Cộng sản Việt Nam - tổ chức vừa là thành viên, vừa là lực lượng lãnh đạo Mặt trận, ngay từ rất sớm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lưu ý: “Đảng không thể đòi hỏi Mặt trận thừa nhận quyền lãnh đạo của mình, mà phải tỏ ra là một bộ phận trung thành nhất, hoạt động nhất và chân thực nhất. Chỉ trong đấu tranh và công tác hằng ngày, khi quần chúng rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo của Đảng, thì Đảng mới giành được địa vị lãnh đạo”(19). Đó không có gì khác hơn là ứng xử theo cách thiện, là phát huy sức mạnh của sự thuyết phục, là sử dụng sức mạnh mềm. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, được tổ chức và hoạt động “theo nguyên tắc tự nguyện, hiệp thương dân chủ, phối hợp và thống nhất hành động giữa các thành viên”(20) cần và có điều kiện vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc./. --------------------------------- (1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 5, tr. 75 (2) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 35 (3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 3, tr. 256 (4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 10, tr. 589 (5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 601 (6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 10, tr. 360 (7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 14, tr. 161 (8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 9, tr. 244 (9) Khái niệm mà Benedict Anderson nêu ra trong công trình Cộng đồng tưởng tượng - Nguồn gốc và sự lan truyền của chủ nghĩa dân tộc, Nxb. Đại học Sư phạm, Hà Nội, 2018 (10) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 280 - 281 (11) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 39 (12) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 6, tr. 130 (13) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 672 (14) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 471 (15), (16) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 6, tr. 131 (17) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 315 - 316 (18) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 6, tr. 16 (19) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 3, tr. 168 (20) Khoản 2, Điều 4, Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 2015

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: THIÊNG LIÊNG HÌNH TƯỢNG NGƯỜI LÍNH!

     Như sợi chỉ đỏ xuyên suốt chiều dài lịch sử, với tư cách là một thành tố cơ bản, hình tượng người lính đã góp phần hình thành nền văn hóa dựng nước và giữ nước đặc sắc của dân tộc. Lịch sử văn hóa Việt đã điêu khắc một tượng đài người chiến sĩ bằng ngôn ngữ của anh hùng ca, của tình yêu nước, yêu dân, của ý chí căm thù quân xâm lược. Tượng đài ấy luôn sừng sững và tỏa ánh sáng lương tâm thời đại, công lý chính nghĩa, chân lý lịch sử và đạo lý yêu hòa bình, vì con người!

Đó là hình tượng người anh hùng đặt ý chí tự chủ tự cường của dân tộc lên trên hết trong bài thơ “Thần” tương truyền của Lý Thường Kiệt: “Nam quốc sơn hà nam đế cư”. Nếu kẻ thù dám xâm phạm Tổ quốc, đất đai, cương vực của tổ tiên ta, chúng “sẽ bị đánh tơi bời”. Có một cách hiểu, bài thơ được đặt tên “Thần” là một cách vinh danh người lính như “thần” bảo vệ sông núi nước Nam!

Đó là hình tượng những người tướng sĩ trong “Hịch tướng sĩ” của Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn hăng say học tập binh thư, luyện rèn võ bị để chuẩn bị đánh đuổi kẻ xâm lược Mông Nguyên hùng mạnh nhất thế giới thời ấy. Để rồi có một hình tượng người anh hùng thời Trần cắp ngang ngọn giáo mạnh mẽ, hiên ngang đứng trước lịch sử tràn đầy khát vọng giữ gìn Tổ quốc trong bài thơ “Tỏ lòng” của Phạm Ngũ Lão: “Múa giáo non sông trải mấy thu/ Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu...”!

Đó là hình tượng “tướng sĩ một lòng phụ tử” vì “việc nhân nghĩa cốt ở yên dân” mà thương yêu, đoàn kết như cha con “hòa nước sông chén rượu ngọt ngào” trong “Cáo bình Ngô” của Nguyễn Trãi để viết bản hùng ca lịch sử đuổi giặc Minh tàn bạo “Đem đại nghĩa để thắng hung tàn/ Lấy chí nhân để thay cường bạo”!

Đó là hình tượng người lính nghĩa sĩ Cần Giuộc chỉ với những vũ khí thô sơ nhất nhưng sẵn sàng đem mạng sống của mình liều chết với kẻ thù xâm lược Pháp để giữ gìn đất nước!...

Những người lính ấy là hiện thân của tinh thần yêu nước, thương dân, vì dân, ý chí dũng cảm quật cường để tô thắm những trang lịch sử bằng vàng của dân tộc!

Học tập, tiếp thu, kế thừa, kết tinh, phát triển và nâng cao các giá trị văn hóa của lịch sử, hình tượng người lính thời đại Hồ Chí Minh đã viết thêm những kỳ tích mới, được nhân dân yêu mến gọi là “người lính Cụ Hồ”!

Họ đã vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, hy sinh, “mưa dầm cơm vắt”, “máu trộn bùn non” để làm nên một Điện Biên Phủ “chấn động địa cầu” đánh dấu chấm hết cho chủ nghĩa thực dân cũ núp dưới bóng “khai hóa văn minh” để cướp bóc tài nguyên!

Họ đã trở thành “một Thạch Sanh của thế kỷ 20” để chiến đấu và chiến thắng quân xâm lược Mỹ, để đất nước hát khúc khải hoàn thỏa ước mơ cha ông ngàn năm: Độc lập dân tộc và hạnh phúc vững bền!

Họ trở thành người lính tình nguyện làm nhiệm vụ quốc tế giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi nạn diệt chủng man rợ; nhân dân Campuchia ân nghĩa, chân tình gọi bộ đội Việt Nam là “đội quân nhà Phật”!

Trong lịch sử nhân loại có lẽ hiếm hoi có một đội quân anh dũng, yêu nước, nhân văn cao cả, được nhân dân tin tưởng tuyệt đối như đội quân “người lính Cụ Hồ”!

Đất nước phải chịu nhiều thiên tai, lắm giặc giã, do vậy ở thời nào thì cái thiêng liêng, cao cả nhất vẫn là sự quyết tâm giữ vững chủ quyền, là sự hy sinh để bảo vệ nhân dân, bảo vệ độc lập, tự do của Tổ quốc. Yêu hòa bình và rất mực quý trọng con người nên lịch sử Việt Nam có chính sách “ngụ binh ư nông” rất riêng, tạo nên một đặc trưng của con người Việt Nam truyền thống vừa là nông dân, vừa là người lính. Hòa bình là nông dân nhưng khi đất nước có giặc thì họ ra tiền tuyến. Điều ấy góp phần tạo ra một nét bản sắc của tâm hồn Việt Nam giàu yêu thương và rất đỗi anh hùng. Thời hôm nay, anh Bộ đội Cụ Hồ phát huy cao nhất lý tưởng trung với Đảng, hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng để luôn là “tấm khiên” và “thanh kiếm” bảo vệ Tổ quốc. Ở nơi biên giới xa xôi không chỉ có những cột mốc bằng xi măng cốt thép, còn có cả những cột mốc sống canh giữ từng phút bình yên cho đất mẹ. Đó là những anh lính biên phòng đã và đang hy sinh tuổi trẻ, khi cần sẵn sàng hy sinh cả máu vì đất nước. Mẹ Tổ quốc yên tâm có những đứa con yêu ngày đêm giữ trời ta xanh sắc thắm hòa bình, giữ biển ta mãi ngân tiếng hát tự do. Là lực lượng chủ lực trong việc tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn, anh bộ đội lại tiên phong trong xử lý ô nhiễm môi trường hay rà phá bom mìn. Thiên tai ập đến. Nơi nào có lũ cuốn, có núi lở, có rừng cháy... nơi đó bộ đội có mặt sớm nhất để bảo vệ tính mạng, tài sản của dân. Nơi đồng bằng mưa bão ngập đồng, bộ đội dầm mình gặt lúa giúp dân. Bộ đội làm bác sĩ chữa bệnh. Bộ đội làm thầy giáo dạy trẻ cái chữ. Bộ đội tuyên truyền đường lối, chính sách, pháp luật... Ở đâu có bộ đội, ở đó bà con yên tâm. Bộ đội đã đem lại cuộc đời mới cho người dân nơi hẻo lánh nhất. Bộ đội tham gia xây dựng các công trình kinh tế trọng điểm, có đơn vị vươn ra ngoài thế giới góp phần làm ra của cải, mang thu nhập về cho đất nước. Tham gia đội quân gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc, bộ đội thay mặt đất nước tận tụy giúp đỡ, bảo vệ những người dân nghèo khổ nơi châu Phi xa xôi đang cần sự chia sẻ của tình người...

Thiêng liêng danh hiệu Bộ đội Cụ Hồ, bộ đội của dân, vì dân. Quân với dân như máu thịt trong cơ thể Tổ quốc. Từ dân mà ra, được dân quý, dân tin, dân giúp đỡ ủng hộ, Quân đội ta đã tạo ra sự kết tinh cao độ, tập trung trí tuệ, bản lĩnh, niềm tin, sự chủ động của toàn dân nên mãi mãi sẽ là đội quân vô địch. Trong những ngày đại dịch Covid-19 vừa qua, với khẩu hiệu “Chống dịch như chống giặc”, bộ đội nhường chỗ ở, bộ đội làm bác sĩ, y tá, hộ lý, bộ đội làm “bà nội trợ” đi chợ hộ dân... Bộ đội sống cùng dân, chia sẻ, giúp đỡ những công việc bình thường nhất... “Vì nhân dân phục vụ. Vì nhân dân hy sinh”! Đó là mệnh lệnh từ trái tim người lính, là lẽ sống, lý tưởng. Đó là tầm văn hóa cao cả của người lính Cụ Hồ!

Ai cũng một thời trẻ trai. Ai cũng cần có một tổ ấm. Đất nước khẳng định, ghi nhận sự đóng góp lớn lao vì Tổ quốc, đồng thời cũng rất thấu hiểu trách nhiệm và bổn phận của người lính trong vai trò trụ cột của gia đình riêng. Với tinh thần hy sinh, cống hiến, người lính không đòi hỏi nhưng tấm lòng sẽ đáp lại tấm lòng, cả hệ thống chính trị, các cấp chính quyền địa phương sẽ cùng chung tay giúp người lính thêm ấm lòng, yên tâm làm tốt hơn nữa nhiệm vụ!
Yêu nước ST.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng giai cấp nông dân-Vận dụng vào công cuộc xây dựng nông thôn hiện đại

Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến giai cấp nông dân Việt Nam - lực lượng rất to lớn của dân tộc. Xây dựng nông thôn hiện đại, nông dân văn minh theo tư tưởng Hồ Chí Minh là chủ trương nhất quán của Đảng, góp phần quan trọng vào thực hiện mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng giai cấp nông dân Tháng 10-1923, tham luận ở Hội nghị quốc tế nông dân lần thứ nhất, tại Mát-xcơ-va (Nga), Nguyễn Ái Quốc nêu rõ: “Nông dân trong các thuộc địa của Pháp bị hai tầng bóc lột”(1). Trong tác phẩm “Thường thức chính trị” đăng trên báo Cứu quốc dưới bút danh Đ.X, từ ngày 16-1 đến ngày 23-9-1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phân tích sâu sắc đặc điểm, tình hình nông dân dưới chế độ thực dân và phong kiến: “Nông dân thì nghèo khổ đã sẵn, lại bị sưu cao, thuế nặng. Địa chủ lấy địa tô quá nặng, cho vay cắt họng, làm cho nông dân nhiều khi phải bán vợ đợ con. Nếu gặp hạn hán bão lụt, là chết đói đầy đường”(2). Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá rất cao vai trò của giai cấp nông dân, với tư cách là lực lượng cách mạng, là lực lượng có sức mạnh “long trời lở đất”, nếu như được tổ chức lại dưới sự dẫn dắt của đảng cộng sản; đồng thời, Người phân tích rõ, nhấn mạnh nông dân là lực lượng đông đảo trong xã hội, có lòng yêu nước nồng nàn, ý thức cộng đồng sâu sắc. Trong lịch sử dân tộc, giai cấp nông dân luôn là lực lượng chủ lực trong các cuộc đấu tranh giành độc lập và bảo vệ chủ quyền đất nước. Trong báo cáo gửi Quốc tế Cộng sản năm 1923, Nguyễn Ái Quốc chỉ rõ: “Quần chúng nông dân bị bóc lột nhất và cùng khổ nhất, rất yêu nước”(3); do đó, khi xác định vai trò quan trọng của giai cấp nông dân, Người khẳng định: “Cuộc cách mạng vô sản không thể thắng lợi ở các nước nông nghiệp và nửa nông nghiệp nếu như giai cấp vô sản cách mạng không được quần chúng nông dân ủng hộ tích cực. Đó là một sự thực hiển nhiên đối với cả hai cuộc cách mạng - cách mạng tư sản dân quyền và cách mạng vô sản”(4). Nhận thức rõ vai trò của nông dân, từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam vừa được thành lập, Đảng đã có chủ trương vận động nông dân đi theo cách mạng và sớm cử đảng viên đi sâu vào các vùng nông thôn để vận động, tập hợp nông dân. Chính vì thế, nông dân đã tin tưởng theo Đảng làm nên thắng lợi của các phong trào cách mạng giai đoạn 1930 - 1931, 1936 - 1939, 1939 - 1945, mà đỉnh cao là thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, giành chính quyền về tay nhân dân. Trong thư gửi Hội nghị cán bộ nông dân cứu quốc toàn quốc tháng 11-1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Đồng bào nông dân sẵn có lực lượng to lớn, sẵn có lòng nồng nàn yêu nước, sẵn có chí khí kiên quyết đấu tranh và hy sinh”(5) cho độc lập, tự do. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Đa số dân ta là nông dân. Mỗi việc đều phải dựa vào nông dân. Nông dân giác ngộ hăng hái thì kháng chiến mới mau thắng lợi, kiến quốc mới chóng thành công, nông dân mới được giải phóng”(6). Người còn chỉ rõ: “Nông dân là một lực lượng rất to lớn của dân tộc, một đồng minh rất trung thành của giai cấp công nhân./ Muốn kháng chiến kiến quốc thành công, muốn độc lập thống nhất thật sự ắt phải dựa vào lực lượng của nông dân”(7). Đánh giá rõ vai trò của giai cấp nông dân trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, Nghị quyết Đại hội III của Đảng tháng 9-1960 khẳng định: “Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân về thực chất là cuộc cách mạng nông dân do giai cấp công nhân lãnh đạo”(8). Trong bài “Gửi Nông gia Việt Nam” đăng trên tờ báo Tấc đất số 1 ngày 7-12-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Loài người ai cũng “dĩ thực vi tiên” (nghĩa là trước cần phải ăn); nước ta thì “dĩ nông vi bản” (nghĩa là nghề nông làm gốc). Dân muốn ăn no thì phải giồng giọt cho nhiều. Nước muốn giàu mạnh thì phải phát triển nông nghiệp. Vậy chúng ta không nên bỏ hoang một tấc đất nào hết. Chúng ta phải quý mỗi tấc đất như một tấc vàng”(9). Thực tế cho thấy, nông dân là lực lượng sản xuất trực tiếp tạo ra lương thực để nuôi sống xã hội. Trong công cuộc xây dựng nước nhà, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm vấn đề nông dân và nông nghiệp: “Chính phủ trông mong vào nông dân, trông cậy vào nông nghiệp phần lớn./ Nông dân ta giàu thì nước ta giàu. Nông nghiệp ta thịnh thì nước ta thịnh. Nông dân muốn giàu, nông nghiệp muốn thịnh, thì cần phải có hợp tác xã”(10). Người khẳng định: “Các hợp tác xã nông nghiệp là đội quân hậu cần của quân đội chiến đấu ngoài mặt trận. Các xã viên hợp tác xã là chiến sĩ sản xuất, cần phải cố gắng như chiến sĩ ngoài mặt trận. Các xã viên hợp tác xã phải sản xuất tốt để bộ đội và nhân dân ta ăn no đánh thắng. Vì vậy, nhiệm vụ của các hợp tác xã nông nghiệp, của bà con xã viên, của cán bộ công tác ở nông thôn là rất quan trọng”(11). Rõ ràng, từ rất sớm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận thấy rõ vị trí, vai trò của việc hợp tác, liên kết trong nông nghiệp. Tuy nhiên, Người khẳng định, giai cấp nông dân phải có giai cấp công nhân - giai cấp tiên tiến nhất - lãnh đạo, dẫn dắt thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ bài học kinh nghiệm của Cách mạng Tháng Mười Nga, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Thực hiện cho được liên minh công - nông vì đó là sự bảo đảm chắc chắn nhất những thắng lợi của cách mạng. Chỉ có khối liên minh công - nông do giai cấp công nhân lãnh đạo mới có thể kiên quyết và triệt để đánh đổ các thế lực phản cách mạng, giành lấy và củng cố chính quyền nhân dân lao động, hoàn thành nhiệm vụ lịch sử của cách mạng dân tộc, dân chủ và tiến lên chủ nghĩa xã hội”(12). Người đã phân tích rất sâu sắc về liên minh công - nông, nhấn mạnh liên minh quần chúng nông dân đông đảo với giai cấp công nhân là cơ sở chủ yếu để có thể lập ra một mặt trận dân tộc rộng rãi và vững chắc. Trên cơ sở đó, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, giai cấp nông dân đã có nhiều đóng góp quan trọng, to lớn vào thắng lợi của cách mạng Việt Nam, nhất là trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Thực hiện khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”, “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”, nông dân cùng quân dân cả nước đã làm nên chiến thắng Mùa Xuân năm 1975, thống nhất đất nước. Thực hành dân chủ ở nông thôn Thực hiện Chỉ thị số 30-CT/TW, ngày 18-2-1998, của Bộ Chính trị (khóa VIII), “Về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở”, Đảng ta đã có nhiều chủ trương đúng đắn về dân chủ, coi dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước, là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, là mục tiêu và động lực của công cuộc đổi mới. Thể chế hóa chủ trương của Đảng, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh về Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn và nhấn mạnh, nhận thức về dân chủ, thực hành dân chủ của nhân dân, nhất là người đứng đầu cấp ủy, chính quyền các cấp có bước chuyển biến tích cực, thực hiện ngày càng tốt hơn quyền làm chủ của nhân dân. Dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện được chú trọng, bảo đảm công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình của người đứng đầu chính quyền ở cơ sở có bước chuyển biến quan trọng. Người đứng đầu cấp ủy, chính quyền ở cơ sở đã tăng cường tiếp xúc, đối thoại, lắng nghe, tiếp thu, giải quyết bức xúc và nguyện vọng hợp pháp, chính đáng của người dân. Cụ thể hóa Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở năm 2022, các xã, phường, thị trấn triển khai cơ bản đầy đủ những nội dung công khai cho nhân dân biết, bàn thảo, quyết định và giám sát về các dự án, quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, khu, cụm công nghiệp, dân cư; mức giá bồi thường thu hồi đất; công khai kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, chương trình xây dựng nông thôn mới,... Công tác cải cách hành chính, nhất là cải cách thủ tục hành chính theo “cơ chế một cửa”, “một cửa liên thông”, được triển khai tích cực; ý thức trách nhiệm, tinh thần, thái độ phục vụ tổ chức, công dân của đội ngũ cán bộ, công chức ở cơ sở có nhiều chuyển biến rõ nét. Công tác tiếp dân, giải quyết đơn, thư kiến nghị, phản ánh, tố cáo, khiếu nại của công dân được chính quyền cơ sở thực hiện nền nếp, mang lại hiệu quả tích cực. Công tác đối thoại với nhân dân được cấp ủy, chính quyền các cấp chú trọng và thực hiện hiệu quả, kịp thời tháo gỡ khó khăn, giải tỏa bức xúc của người dân, tạo sự đồng thuận xã hội, góp phần củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của cấp ủy, sự chỉ đạo, điều hành của chính quyền ở cơ sở. Việc rà soát, sửa đổi, bổ sung và thực hiện quy ước, hương ước thôn, bản, tổ dân phố bảo đảm theo quy định, phù hợp với truyền thống tốt đẹp của dân tộc, xóa bỏ hủ tục, xây dựng đời sống văn hóa mới. Tuy nhiên, việc thực hiện Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở năm 2022 ở xã, phường, thị trấn có nơi, có việc còn hình thức, chưa thực chất; trong thực hiện phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”, cũng như việc công khai một số chương trình, dự án, công trình ở một số địa phương, cơ sở còn chưa đầy đủ, kịp thời. Việc tiếp thu ý kiến của nhân dân, giải quyết kiến nghị, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp, nguyện vọng chính đáng của nhân dân ở một số nơi còn chưa kịp thời, chưa gắn với thực hiện kỷ luật, kỷ cương, đúng pháp luật. Nguyên nhân của hạn chế, yếu kém nêu trên là do: Công tác lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở năm 2022 chưa được một số cấp ủy, chính quyền ở cơ sở quan tâm đúng mức; công tác nắm bắt tình hình nhân dân, nhất là những vấn đề mới nảy sinh, nhạy cảm, nổi cộm, bức xúc, còn thiếu kịp thời,... Công tác hòa giải ở cơ sở, xử lý mâu thuẫn phát sinh, tránh tạo thành “điểm nóng” có lúc, có nơi làm chưa tốt, còn để xảy ra một số vụ việc lớn, phức tạp, kéo dài. Một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức chưa nêu cao vai trò tiên phong, gương mẫu trong đấu tranh, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, hành vi vi phạm pháp luật. Qua hơn 35 năm thực hiện đường lối đổi mới, Đảng ta đã kế thừa và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ, về xây dựng giai cấp nông dân, xây dựng nông thôn mới. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng định hướng rõ: “Thực hành và phát huy rộng rãi dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ và vai trò chủ thể của nhân dân; củng cố, nâng cao niềm tin của nhân dân, tăng cường đồng thuận xã hội”(13). Nghị quyết số 19-NQ/TW, ngày 16-6-2022, của Hội nghị Trung ương lần thứ năm khóa XIII, “Về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”(14) đề ra quan điểm đúng đắn về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Đây là ba thành tố có quan hệ mật thiết, gắn bó, không thể tách rời, gắn kết chặt chẽ giữa phát triển nông thôn bền vững với quá trình đô thị hóa theo hướng “nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại, nông dân văn minh”; đồng thời, khẳng định nông dân là chủ thể, là trung tâm của quá trình phát triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn và xây dựng nông thôn mới. Nghị quyết đưa ra nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu đầu tiên là nâng cao vai trò, vị thế, năng lực làm chủ, cải thiện toàn diện đời sống vật chất, tinh thần của nông dân và cư dân nông thôn; bảo đảm quyền làm chủ của nông dân và cư dân nông thôn theo phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Để nâng cao chất lượng, hiệu quả thực hành dân chủ ở nông thôn theo Quyết định số 263/QĐ-TTg, ngày 22-2-2022, của Thủ tướng Chính phủ, “Phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021 - 2025”, các cấp, các ngành trong hệ thống chính trị phải thực hiện đồng bộ một số giải pháp, như tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền cơ sở; phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội; nâng cao trình độ dân trí, phát huy vai trò làm chủ của nhân dân, tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ luật, kỷ cương xã hội; nâng cao phẩm chất, năng lực, trình độ, sự nêu gương của đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức; tăng cường hiệu quả sử dụng các phương tiện truyền thông, công nghệ thông tin trong thực hành dân chủ ở cơ sở. Các ban, bộ, ngành trung ương phối hợp chặt chẽ với các tỉnh, thành phố ban hành văn bản hướng dẫn cần thiết theo thẩm quyền; thường xuyên kiểm tra, đôn đốc, chỉ đạo trong quá trình tổ chức thực hiện. Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố có vị trí quan trọng trong việc xây dựng và ban hành kế hoạch thực hiện, như nguồn vốn, mục tiêu, nhiệm vụ, phân công rõ trách nhiệm cho các sở, ban, ngành, các huyện, thị xã, thành phố thực hiện. Tiếp tục hưởng ứng phong trào thi đua “Cả nước chung sức xây dựng nông thôn mới” do Thủ tướng Chính phủ phát động, gắn với cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh” giai đoạn 2021 - 2025, 2025 - 2030. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào xây dựng nông thôn hiện đại và nông dân văn minh Một là, xây dựng nông thôn hiện đại. Vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn xây dựng nông thôn hiện đại, nông dân văn minh là một vấn đề lớn, cần có lộ trình và bước đi thích hợp, sát thực tiễn ở từng vùng, miền của đất nước. Nội dung xây dựng nông thôn hiện đại chính là thực hiện hiệu quả Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021 - 2025 và các giai đoạn tiếp theo. Để xây dựng nông thôn hiện đại, các cấp ủy phải lãnh đạo, chỉ đạo cả hệ thống chính trị phát huy quyền làm chủ của nhân dân, khai thác mọi nguồn lực thực hiện hiệu quả Bộ tiêu chí về xã nông thôn mới và Bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới nâng cao giai đoạn 2021 - 2025. Xây dựng nông thôn hiện đại phải có quy hoạch phù hợp theo định hướng phát triển kinh tế - xã hội, với tầm nhìn lâu dài, có các khu chức năng dân sinh, khu công nghiệp, tiểu - thủ công nghiệp và dịch vụ bảo đảm giải quyết được việc làm có thu nhập cao cho cư dân nông thôn, góp phần thực hiện mục tiêu “ly nông không ly hương”, gắn với bảo vệ tốt môi trường; đồng thời, tăng cường công tác quản lý quy hoạch và tổ chức thực hiện theo quy hoạch hiệu quả. Khai thác, phát huy tối đa nguồn lực để xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, như giao thông, thủy lợi, điện, cơ sở văn hóa, thương mại, thông tin và truyền thông, nhà ở khu vực nông thôn... từng bước đồng bộ, chất lượng, hiệu quả. Xây dựng nông thôn hiện đại gắn với những tiến bộ trong thực hiện tiêu chí về thu nhập, giảm nghèo đa chiều, có tỷ lệ lao động được đào tạo nghề cao, phát triển đa dạng các mô hình liên kết, mô hình hợp tác xã, khuyến nông, phát triển làng nghề,... để sản xuất, kinh doanh có hiệu quả. Xây dựng nông thôn hiện đại phải gắn với phát triển văn hóa - xã hội - môi trường, đặc biệt là lĩnh vực giáo dục và đào tạo, y tế, văn hóa, bảo vệ môi trường, bảo đảm an toàn, vệ sinh thực phẩm; đồng thời, xây dựng nông thôn hiện đại, gắn với xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, với đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, công chức, viên chức có kiến thức, kinh nghiệm, có phẩm chất, đạo đức tốt, luôn gắn bó, gần gũi với nhân dân. Trên cơ sở đó, từng bước phấn đấu đạt được mục tiêu tổng quát của Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới do Thủ tướng Chính phủ phát động. Thực hiện cơ cấu lại ngành nông nghiệp, phát triển kinh tế nông thôn, quá trình đô thị hóa, đi vào chiều sâu, hiệu quả, bền vững; thực hiện xây dựng nông thôn mới nâng cao, nông thôn mới kiểu mẫu và nông thôn mới cấp thôn, bản. Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân nông thôn, thúc đẩy bình đẳng giới. Xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội ở nông thôn đồng bộ và từng bước hiện đại, bảo đảm môi trường, cảnh quan nông thôn “sáng, xanh, sạch, đẹp, an toàn, giàu bản sắc văn hóa truyền thống, thích ứng với biến đổi khí hậu và phát triển bền vững”. Để đạt được mục tiêu to lớn đó, trước hết các bộ, ban, ngành chức năng, cấp ủy, chính quyền các tỉnh, thành phố cần tăng cường tuyên truyền, quán triệt, triển khai các nghị quyết, quyết định, thông tư, hướng dẫn về xây dựng nông thôn mới; tạo sự chuyển biến sâu sắc về nhận thức trong mỗi cán bộ, đảng viên, người dân; phát huy, khai thác mọi nguồn vốn, bao gồm vốn đầu tư, vốn sự nghiệp, vốn trung ương, vốn địa phương, vốn xã hội hóa để xây dựng kết cấu hạ tầng, phát triển kinh tế - xã hội, giữ gìn bản sắc văn hóa nông thôn. Đặc biệt quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức lại sản xuất - yếu tố quyết định việc tăng thu nhập của người nông dân. Việc tổ chức lại sản xuất phải gắn kết chặt chẽ với tổ chức lại xã hội nông thôn theo hướng hợp tác, liên kết trong sản xuất, bảo quản, chế biến, kinh doanh nông sản, các sản phẩm làng nghề và phát triển du lịch nông nghiệp, du lịch cộng đồng,... Hai là, xây dựng nông dân văn minh. Xây dựng nông dân văn minh là vấn đề rất lớn, rất quan trọng của Đảng. Để người nông dân đạt đến trình độ văn minh, đảm nhận được vai trò chủ thể, vị trí trung tâm, thì phải có thời gian, phương pháp, bước đi tích cực, cụ thể. Theo đánh giá của Trung ương, thu nhập và đời sống vật chất, tinh thần của cư dân nông thôn không ngừng được cải thiện, tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh, số hộ khá và giàu tăng. Tuy nhiên, “Đào tạo nghề, giải quyết việc làm, chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn còn nhiều bất cập; lao động nông thôn có xu hướng già hóa; năng suất lao động và thu nhập bình quân của cư dân nông thôn còn thấp, tỷ lệ hộ nghèo còn cao, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số”(15). Người nông dân văn minh trước hết phải là người nông dân có tri thức. Muốn vậy, cấp ủy phải lãnh đạo cả hệ thống chính trị làm tốt công tác tuyên truyền, để mỗi người nông dân chuyển biến được nhận thức của mình về vai trò chủ thể, có tâm thế tự chủ, có kiến thức, kỹ năng, năng lực, bản lĩnh làm chủ bản thân, làm chủ xây dựng, phát triển cộng đồng dân cư nông thôn. Các cơ quan thông tấn báo chí là công cụ sắc bén, thường xuyên chuyển tải thông tin đến người nông dân. Trên cơ sở đó, các ban, bộ, ngành chức năng của Trung ương, cấp ủy, chính quyền các cấp có các giải pháp đồng bộ, khoa học, sát thực tế với từng vùng, miền nông thôn, để từng bước thực hiện trang bị tri thức cho nông dân. Đảng, Nhà nước sớm bổ sung cơ chế, chính sách để hỗ trợ nông dân tiếp cận; đào tạo kiến thức, huấn luyện kỹ năng, cập nhật kỹ thuật, công nghệ tiên tiến, trang bị kiến thức mới, khả năng làm chủ máy móc, thiết bị công nghệ,... cho nông dân. Qua đó, người nông dân sẽ tự cập nhật các vấn đề mới phát sinh trong quá trình sản xuất, kinh doanh, để nghiên cứu, phân tích và giải quyết các yếu tố liên quan đến năng suất, chất lượng, giá thành sản phẩm; đồng thời, chủ động hơn trong xử lý tác động của biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh, sử dụng hiệu quả giống mới, thuốc bảo vệ thực vật, thuốc thú y, bảo đảm an toàn, vệ sinh thực phẩm. Nhà nước tiếp tục bổ sung cơ chế, chính sách để tạo môi trường, điều kiện tốt nhất cho sự gắn kết “bốn nhà”: Nhà nông, nhà nước, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp. Sự gắn kết này ngày càng chặt chẽ, thì tri thức người nông dân được nâng cao, nông nghiệp sẽ phát triển nhanh, bền vững. Cần nghiên cứu để quy hoạch và phát triển các trường đào tạo cho nông dân, con em nông dân, vì muốn có một nền nông nghiệp chuyên nghiệp, phải có đội ngũ nông dân chuyên nghiệp hóa. Muốn có một nền nông nghiệp tri thức, người nông dân phải được trang bị tri thức cần thiết. Ngoài trang bị kiến thức về sản xuất, kinh doanh, quản trị doanh nghiệp, hợp tác xã, cần trang bị cho người nông dân kiến thức về văn hóa để họ chủ động tham gia với cộng đồng, tổ chức các hoạt động vui chơi, thể dục - thể thao, rèn luyện sức khỏe, xây dựng đời sống tinh thần ở nông thôn; đồng thời, trang bị kiến thức để người nông dân tự chủ, tự giác đóng góp sức mình nhằm bảo vệ, tôn tạo, phát huy các di sản, truyền thống, bản sắc văn hóa tốt đẹp của các dân tộc anh em ở các vùng, miền trong cả nước. Người nông dân văn minh là người có ý thức bảo vệ thiên nhiên, bảo vệ môi trường, xây dựng “tình làng, nghĩa xóm”, ủng hộ, tự nguyện xây dựng các tổ hợp tác, hợp tác xã, xây dựng các mối liên kết để phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và phát triển toàn diện nông thôn./. ------------------------ (1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 1, tr. 225 (2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 8, tr. 253 (3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 1, tr. 221 (4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 2, tr. 564 (5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 6, tr. 248 (6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 7, tr. 56 (7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 6, tr. 248 (8) Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t. 21, tr. 663 (9), (10) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 134, 246 (11) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 258 (12) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 391 (13) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 38 (14) Xem: Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr. 39 (15) Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, Sđd, tr. 91

TAO THÀ CHẾT ĐỨNG CÒN HƠN SỐNG QUỲ

 TAO THÀ CHẾT ĐỨNG CÒN HƠN SỐNG QUỲ

“Tao là Quân giải phóng, tao không biết khai, chỉ biết đánh bọn bay!” – Anh hùng Liệt sĩ Trần Quang Đắp đã nhìn thẳng vào mặt kẻ thù và nói trước lúc bị địch sát h.ại dã m.an vào ngày 21/11/1967 tại Làng 5, Hớn Quản, thuộc tỉnh Bình Phước.
Liệt sĩ Trần Quang Đắp sinh năm 1946, quê xã Thiệu Quang, được biên chế vào Đại đội 21 (trinh sát), tháng 2-1966 cùng đơn vị vào Nam chiến đấu. Anh được kết nạp vào Đảng tháng 6-1966. Anh Đắp đã từng đưa nhiều đoàn cán bộ đi trinh sát địa hình, trinh sát trận địa, giúp các đơn vị thuộc Trung đoàn 165 (Sư đoàn 7) chiến đấu hoàn thành nhiệm vụ.
Theo đồng đội của liệt sĩ Trần Quang Đắp kể lại: Sáng ngày 21-11-1967, Đại đội Trinh sát 21 được giao nhiệm vụ dẫn đoàn cán bộ 20 người đi nghiên cứu địa hình. Khi đoàn đi đến Làng 5, Hớn Quản, gặp 2 đại đội Mỹ - ngụy. Ngay lập tức, đơn vị triển khai đội hình chiến đấu, Đại đội trưởng Phùng Bá Thảo bị th.ương, tình thế nguy cấp, quân địch lại quá đông, đồng chí Trần Văn Tính đề xuất cần đánh lạc hướng địch để đoàn cán bộ rút. Anh Trần Quang Đắp bèn chạy ra hướng khác, dùng AK b.ắn liên hồi để thu hút địch. Đồng chí Thảo và đoàn cán bộ rút về sau an toàn. Lúc này, anh Đắp bị thương nặng nhưng vẫn chiến đấu đến viên đ.ạn cuối cùng. Khi hết đ.ạn, đồng chí đã đập nát cây s.úng để v.ũ khí không rơi vào tay quân thù. Bị địch bắt, tr.a tấn rất dã m.an nhưng đồng chí vẫn giữ trọn khí tiết, tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân.
Nhà văn Nguyễn Trọng Liên đã kể lại trong Truyện ký “Dòng m.áu trắng”:
“Thằng sĩ quan ngụy tay lăm lăm khẩu s.úng côn sáu. Trên mặt hắn những vệt m.áu đỏ còn tươi. Sau những trận đòn dã m.an, anh bộ đội trẻ không một câu trả lời. Im lặng. Một tên trong bọn chúng th.ọc lưỡi lê vào sườn anh. M.áu nhuộm đỏ người anh. Vẫn im lặng. Cảnh tượng thật khiếp đảm. Thằng sĩ quan ra lệnh cho đám đàn em rút sợi dây võng của một bộ đội đã bị b.ắn nằm sấp bên cạnh suối. Chúng buộc dây dù vào cổ anh, kéo anh đến một gốc cao su gần đó. Hai thằng trèo lên cây rút anh lên từ mặt đất. Những giọt m.áu hồng vẫn rớt xuống đất từ trên cao. Một đám mây bay qua che lấp ánh mặt trời vừa khuất đi vùng sáng trong khu rừng cao su. Chúng tr.eo cổ anh. Anh đã hy sinh anh dũng… Chúng tôi ngồi trong hầm, m.áu căng trên các thớ thịt, yên lặng để cho những giọt nước mắt tràn xuống. Bọn lính ngụy chia nhau thu gom các x.ác ch.ết. Khoảng nửa tiếng sau một xe nhà binh dừng bên mép lộ. Bọn lính khiêng những x.ác ch.ết lên xe. Thằng chỉ huy ra lệnh hạ x.ác người trên cây cao su xuống và dã m.an dùng lê c.ứa cổ cho đến khi cái đ.ầu rời khỏi thân người. Chúng ném cái đầu lên chiếc xe Reo và cả tụi mất hút cùng chiếc xe sơn màu ghi nhạt. Bà con chúng tui biết rõ bọn thám báo vẫn chưa đi khỏi nơi này nên yên lặng rút về ấp. Cả ấp đều biết về một tấm gương hy sinh dũng cảm của một anh bộ đội Cụ Hồ. Ba ngày sau đó, bà con trong ấp trở lại cánh rừng để làm công tác liệt sĩ, thân người anh đã căng cứng, trương phồng. Trên ve áo nổi hằn lên một đoạn ngắn, vội xé đường chỉ lấy ra một miếng giấy nhỏ ghi dòng chữ Trần Quang Đắp, Thanh Hóa. Nét chữ lờ mờ trong màu thâm của m.áu đã khô. Cũng từ đây chúng tôi mới biết tên người liệt sĩ dũng cảm. Bà con liệm Đắp và chôn anh ở nơi này. Năm ngày sau đó chúng tui mới chôn tấm bia tự tạo trên mộ anh.
Ngay sau đó, họa sĩ Võ Xưởng (sau này là Phó Giám đốc Bảo tàng Quân khu 7) đã ký họa hành động anh hùng của liệt sĩ Trần Quang Đắp với tựa đề: “Ch.ết đứng còn hơn sống quỳ”. Bức tranh đã phác họa khí tiết kiên trung, bất khuất của anh hùng, liệt sĩ Trần Quang Đắp.
Chiến tranh đã lùi xa, nhưng hành động anh hùng, tấm gương hy sinh anh dũng của liệt sĩ Trần Quang Đắp còn sống mãi với đồng đội, với thế hệ mai sau. Hiện nay bức tranh “Ch.ết đứng còn hơn sống quỳ” đang được trưng bày tại Bảo tàng Quân đoàn 4.
Có thể là hình ảnh về văn bản cho biết 'TRÂN QUANG ĐẶP KIÊN CƯỠNG BẤT KHUẤT THA CHẾT ĐỨNG HON SONG QUI'
Tất cả cảm xúc:
33