Thứ Tư, 8 tháng 5, 2024

 Đấu tranh, phản bác những luận điệu xuyên tạc bản chất của chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

Ở Việt Nam, chế độ dân chủ XHCN được xây dựng dựa trên nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, cùng với thực tiễn xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ XHCN. Dân chủ là bản chất của chế độ XHCN, là mục tiêu, là động lực của sự phát triển đất nước, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân, đặt nhân dân ở vị trí trung tâm, có quyền quyết định những vấn đề hệ trọng của đất nước.

Trước hết, tư tưởng của C.Mác về dân chủ có ý nghĩa đặc biệt, mở ra giai đoạn mới trong nhận thức về dân chủ. Trong tác phẩm Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hêghen (năm 1843), C. Mác đã chỉ ra bản chất của chế độ dân chủ: “Trong chế độ quân chủ, chúng ta có nhân dân của chế độ nhà nước; trong chế độ dân chủ, chúng ta có chế độ nhà nước của nhân dân. Chế độ dân chủ là câu đố đã được giải đáp của mọi hình thức chế độ nhà nước”(1).

Theo đó, chế độ dân chủ xuất phát từ con người, nhân dân là chủ thể tạo ra chế độ nhà nước dân chủ theo ý chí và nguyện vọng của nhân dân. Đồng thời, C.Mác cũng chỉ ra điểm khác nhau căn bản về bản chất giữa chế độ dân chủ và chế độ quân chủ: “Chế độ dân chủ là chế độ nhà nước với tư cách là khái niệm loài. Còn chế độ quân chủ thì chỉ là một trong những giống của chế độ nhà nước, mà lại là một giống tồi. Chế độ dân chủ là nội dung và hình thức. Chế độ quân chủ dường như chỉ là hình thức, nhưng trong thực tế thì nó xuyên tạc nội dung”(2).

Trong tác phẩm Những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản, khi trả lời câu hỏi: Cuộc cách mạng đó sẽ diễn biến như thế nào?, C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ rõ: “ nó tạo ra một chế độ dân chủ và nhờ đó trực tiếp hay gián tiếp tạo ra quyền thống trị chính trị của giai cấp vô sản”(3). Do đó, bản chất của chế độ dân chủ được xác định là hướng tới con người hiện thực, nhân dân hiện thực và được xác định là sự nghiệp của bản thân nhân dân, quyền lực chính trị thuộc về nhân dân.

Kế thừa tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen, V.I.Lênin cũng đưa ra những quan điểm về dân chủ. Trong tác phẩm Nhà nước và Cách mạng, V.I.Lênin viết: “Chế độ dân chủ có một ý nghĩa lớn lao trong cuộc đấu tranh tự giải phóng của giai cấp công nhân chống bọn tư bản”(4). Ông nhấn mạnh đến vai trò, ý nghĩa của chế độ dân chủ đối với việc giải phóng giai cấp công nhân. Sang giai đoạn Chính sách kinh tế mới, V.I.Lênin cho rằng cần phải thực hiện được nền dân chủ XHCN kiểu mới, vượt ra khỏi nền dân chủ tư bản chủ nghĩa, thực hiện phương pháp kết hợp giám sát bên trong và bên ngoài của bộ máy đảng, nhà nước và tăng cường giám sát đối với lãnh đạo cao nhất; thực hiện nền dân chủ XHCN gắn chặt với quần chúng nhân dân. V.I.Lênin  nhấn mạnh: “Dân chủ cho tuyệt đại đa số nhân dân”(5).

Tiếp tục quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về dân chủ và vận dụng sáng tạo vào điều kiện vụ thể của Việt Nam. Trong suốt quá trình hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đề cao vai trò của nhân dân, lấy dân là gốc. Người xác định nhiệm vụ phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, cán bộ nhà nước phải là công bộc của dân, gần dân, tin dân, và “Nhà nước ta là Nhà nước của nhân dân…”(6).

Quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động và vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của đất nước qua từng giai đoạn phát triển của lịch sử. Nền dân chủ XHCN mà Việt Nam xây dựng là nền dân chủ tiến bộ, nhân văn của toàn thể nhân dân lao động, nhân dân đóng vai trò là vị trí trung tâm, là chủ thể của đất nước.

Điều này được thể hiện qua các văn kiện Đại hội Đảng. Tại Đại hội VI (năm 1986), thuật ngữ Dân chủ XHCN được đề cập: “nhà nước chuyên chính vô sản thực hiện chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa”(7). Đại hội nhấn mạnh đến nhiệm vụ của nhà nước đó là phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc. Trải qua các giai đoạn phát triển, dân chủ ngày càng được Đảng nhận thức một cách đầy đủ, sâu sắc, toàn diện hơn và phù hợp với điều kiện cụ thể của đất nước. Đảng chủ trương xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ XHCN, phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, quyền làm chủ của nhân dân. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng nêu rõ: “Đề cao vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong chiến lược phát triển đất nước, trong toàn bộ quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”(8).

Để thực hiện tốt mục tiêu xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ XHCN, góp phần vào thành công của sự nghiệp xây dựng CNXH ở Việt Nam, tác giả bài viết đề xuất một số kiến nghị như sau:

Thứ nhất, Đảng tập trung thực hiện nhiệm vụ trọng tâm là xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân do Đảng lãnh đạo lấy đổi mới hệ thống chính trị là trọng tâm. Bởi, Nhà nước chính là công cụ để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ: “Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có nhiều tiến bộ, tổ chức bộ máy nhà nước tiếp tục được hoàn thiện, hoạt động hiệu lực và hiệu quả hơn; bảo đảm thực hiện đồng bộ các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”(9).

Quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn: quyền làm chủ của người dân được thực hiện có hiệu quả theo phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”; vị trí, vai trò của người dân được đề cao, người dân có quyền tham gia, giám sát và có quyền thụ hưởng những thành quả từ việc thực thi chính sách và được quyết định những công việc hệ trọng của đất nước.

Ở Việt Nam, mọi công dân đều có quyền bầu cử, có quyền tham gia quản lý xã hội một cách trực tiếp, hoặc thông qua người đại diện do mình lựa chọn, ủy thác. Bầu cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp là hình thức dân chủ trực tiếp, là phương thức thể hiện ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân trong xây dựng Nhà nước và cơ quan đại diện, cơ quan quyền lực nhà nước từ Trung ương đến địa phương.

Quyền lực nhà nước có sự thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, được phân công và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan quyền lực nhà nước trong việc thực thi quyền: lập pháp, hành pháp và tư pháp. Tập trung cải cách bộ máy hành chính nhà nước theo hướng tinh gọn, hiệu quả; cán bộ nhà nước thực sự là công bộc của nhân dân, luôn lắng nghe dân, gần dân, tin dân; duy trì mối quan hệ mật thiết với nhân dân; công tác cán bộ có nhiều đổi mới dân chủ, công khai, minh bạch. Nền dân chủ ở Việt Nam là nền dân chủ XHCN, là nền dân chủ của khối đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân với đội ngũ trí thức do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Dân chủ đi đôi với kỷ luật, kỷ cương; quyền lợi đi đôi với trách nhiệm và nghĩa vụ; dân chủ được cụ thể hóa thành pháp luật, dân chủ trong khuôn khổ pháp luật; khắc phục tình trạng vô kỷ luật, dân chủ cực đoan, lợi dụng dân chủ để phá hoại chế độ XHCN. Điều đó, khẳng định được bản chất ưu việt của Nhà nước XHCN Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, phục vụ lợi ích của nhân dân, và ngày càng nhận được sự đồng tình, ủng hộ của người dân, tạo nên niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước.

Thứ hai, Đảng chủ trương thực hiện dân chủ trong toàn hệ thống chính trị, thường xuyên cải cách, đổi mới hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn, hiệu quả; lấy thực hiện phát huy dân chủ trong Đảng là trọng tâm, gắn đấu tranh kinh tế với đấu tranh chính trị; đấu tranh chống các biểu hiện suy thoái, tiêu cực. Đảng nhấn mạnh thực hiện phát huy dân chủ trong Đảng là cơ sở, điều kiện để thực hiện dân chủ trong toàn hệ thống chính trị và toàn xã hội. Khi dân chủ trong Đảng được thực hiện một cách thực chất, nội bộ Đảng luôn đoàn kết thống nhất ý chí và hành động sẽ là điều kiện để mở rộng phát huy dân chủ trong toàn hệ thống chính trị. Ngược lại, nếu dân chủ trong Đảng không được thực hiện một cách có hiệu quả sẽ nảy sinh những hệ lụy làm mất đi sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, chia rẽ nội bộ, gây bè kết phái làm ảnh hưởng đến chất lượng và hiệu quả hoạt động của tổ chức đảng.

Nhận thức rõ được vai trò, ý nghĩa của việc phát huy dân chủ trong Đảng, Đảng luôn quán triệt và thực hiện nhất quán nguyên tắc tập trung dân chủ, tức là tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Đây được coi là nguyên tắc cơ bản, rường cột xuyên suốt quá trình xây dựng, tổ chức, lãnh đạo của Đảng; tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách là hai mặt thống nhất trong một chỉnh thể không thể tách rời.

Những năm qua, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn thực hiện tốt công tác tuyên truyền, giáo dục ý thức chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên; thường xuyên tổ chức đối thoại giữa người đứng đầu các cấp ủy đối với nhân dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân; kiên quyết đấu tranh, phê phán những biểu hiện lệch lạc, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong một bộ phận cán bộ, đảng viên; công tác cán bộ được thực hiện một cách công khai, minh bạch, dân chủ nhằm xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; chú trọng công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực gây ảnh hưởng đến uy tín của tổ chức đảng.

Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, thanh toán, kiểm tra, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, phát hiện sớm, xử lý nghiêm minh các vụ việc, vụ án tham nhũng; kịp thời xử lý, thay thế cán bộ lãnh đạo, quản lý có biểu hiện tham nhũng, lãng phí; xử lý nghiêm những cán bộ nhũng nhiễu, vòi vĩnh, gây phiền hà cho người dân, doanh nghiệp”(10).

Thứ ba, thực tế những thành quả về thực hiện nhân quyền ở Việt Nam đã phản bác lại những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch cho rằng Việt Nam là một nước không có dân chủ và nhân quyền.

Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn đặt vấn đề dân chủ và quyền con người lên hàng đầu. Điển hình, trước ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, Đảng, Nhà nước đã đề ra hàng loạt chính sách bảo đảm an toàn cho người dân; chính sách an sinh xã hội nhằm ổn định cuộc sống cho người dân, đặc biệt là những người có hoàn cảnh khó khăn, các đối tượng ưu tiên. Bên cạnh đó, Đảng và Nhà nước cũng có những chính sách hỗ trợ công dân ở nước ngoài về nước. Những điều này một lần nữa khẳng định mục tiêu của Đảng, Nhà nước Việt Nam đó là “đặt lợi ích của người dân lên trên hết” và cho thấy nỗ lực, quyết tâm của Đảng, Nhà nước trong việc thực hiện nghĩa vụ bảo vệ, bảo đảm, thúc đẩy dân chủ, nhân quyền.

Trong quá trình xây dựng CNXH, Việt Nam đã có nhiều đóng góp to lớn cho phong trào cộng sản và công nhân quốc tế trên cả phương diện lý luận và thực tiễn. Điều này một lần nữa khẳng định đường lối lãnh đạo đúng đắn của Đảng trong suốt chín thập niên qua. Đó là sự thật và sự thật này đã được kiểm chứng bởi lịch sử Việt Nam hiện đại, bởi sự tin tưởng, ủng hộ và đồng thuận xã hội của toàn thể nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam; bởi sự ghi nhận của cộng đồng quốc tế. Đó là cơ sở quan trọng, giáng một đòn mạnh mẽ, đấu tranh, phản bác những âm mưu, luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ XHCN ở Việt Nam; khẳng định tính ưu việt, bản chất dân chủ của chế độ XHCN ở Việt Nam.

Trong suốt quá trình lãnh đạo, Đảng luôn giữ vững lập trường, kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và vận dụng sáng tạo vào tình hình thực tiễn của đất nước để thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng CNXH. Đảng luôn đặt những nhiệm vụ quan trọng, cần thiết phải xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ XHCN, thực hiện phát huy dân chủ trong Đảng là trọng tâm tiến tới thực hiện dân chủ trong toàn hệ thống chính trị; xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.

Trong cuốn sách “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Dân chủ là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, vừa là mục tiêu vừa là động lực của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội; xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thực sự thuộc về nhân dân là một nhiệm vụ trọng yếu, lâu dài của cách mạng Việt Nam. Chúng ta chủ trương không ngừng và phát huy dân chủ, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, trên cơ sở liên minh giữa công nhân, nông dân và trí thức do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo”(11).


_________________

(1), (2) C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.349.

(3) C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.4, Sđd, tr.469- 470.

(4), (5) V. I. Lênin: Toàn tập, t.33, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2005, tr.122, 109.

(6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.216.

(7) ĐCSVN:Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.451.

(8), (9), (10) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.1, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.173, 72, 195.

(11) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr.28.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét