V.I.Lênin nhà tư tưởng vĩ đại, nhà lý luận chính trị kiệt xuất, lãnh tụ lỗi lạc của phong trào cộng sản toàn thế giới đã có những đóng góp lớn lao cho sự nghiệp đấu tranh vì hòa bình, độc lập, tự do cho các dân tộc, vì hạnh phúc của toàn thể nhân loại. Những di sản mà Lênin để lại cho toàn thể nhân loại tiến bộ là vô cùng to lớn trên cả phương diện lý luận và từ chính thực tiễn hoạt động cách mạng của Người. Ðối với cách mạng Việt Nam, tư tưởng của V.I.Lênin không chỉ là ngọn đuốc soi đường cho cách mạng giải phóng dân tộc đi đến thắng lợi cuối cùng mà vẫn đang tiếp tục chỉ dẫn cho mỗi bước đi trong chặng đường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong tình hình mới.
Hòng thực
hiện âm mưu làm chệch hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay, một trong
những mục tiêu các thế lực thù địch tập trung thực hiện chính là đòi xóa bỏ sự
lãnh đạo duy nhất, trực tiếp, toàn diện, tuyệt đối, mọi mặt của Ðảng Cộng sản
Việt Nam với cách mạng Việt Nam.
Ðể thực
hiện mục tiêu này, các đối tượng tuyên truyền luận điệu: Ðảng Cộng sản Việt Nam
lấy chủ nghĩa Mác – Lênin làm nền tảng tư tưởng mà theo quan điểm của chủ nghĩa
Mác – Lênin thì chính trị nảy sinh trên cơ sở kinh tế, phản ánh kinh tế và
chính trị do kinh tế quyết định. Bởi vậy theo họ, ở Việt Nam thời kỳ đổi mới
đang thực hiện chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần, nhiều hình thức
sở hữu cho nên theo quy luật kinh tế quyết định chính trị thì Việt Nam phải
tiến hành đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập; chỉ có thực hiện đa nguyên, đa
đảng đại diện cho lợi ích của các giai cấp, lực lượng khác nhau trong xã hội
thì mới thật sự bảo đảm dân chủ, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Ðây là sự
xuyên tạc vô căn cứ và cũng không đúng với quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin
về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị.
Xuất phát
từ lập trường duy vật biện chứng, chủ nghĩa Mác – Lênin khẳng định, trong mối
quan hệ giữa kinh tế và chính trị, đúng là chính trị là sự phản ánh kinh tế,
kinh tế quyết định chính trị, sự biến đổi của đời sống chính trị suy cho cùng
bắt nguồn từ sự biến đổi của đời sống kinh tế.
Tuy nhiên,
về vấn đề này V.I.Lênin khẳng định: “Chính trị là sự biểu hiện tập trung của
kinh tế”; “chính trị tức là kinh tế được cô đọng lại”.
Ở đây,
V.I.Lênin đã chỉ rõ rằng: chính trị phản ánh kinh tế và xét đến cùng do kinh tế
quyết định nhưng chính trị không phải là tấm gương soi của kinh tế theo nghĩa
kinh tế có gì thì chính trị phải có cái đó. Nghĩa là chính trị không phản ánh
tất cả những quan hệ vô cùng phong phú, đa dạng, phức tạp của kinh tế mà chỉ
phản ánh những quan hệ đặc trưng cốt lõi nhất của kinh tế, đó chính là quan hệ
sản xuất mà trung tâm nhất là quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất. Do đó, khi
nhìn vào bất kỳ một quốc gia, dân tộc nào thì căn cứ vào quan hệ sản xuất thống
trị và quan hệ sở hữu thống trị, chi phối trong kinh tế, chúng ta có thể nhận
diện rõ bản chất chế độ chính trị của quốc gia đó là như thế nào. Theo đó, một
nền kinh tế do chế độ sở hữu tư nhân thống trị và chi phối (thiểu số giai cấp
thống trị nắm trong tay những tư liệu sản xuất vật chất chủ yếu trong xã hội)
thì tất yếu không thể có một nền chính trị thật sự dân chủ dành cho mọi giai
cấp tầng lớp trong xã hội mà đó chỉ là nền dân chủ dành cho thiểu số giai cấp thống
trị. Ngược lại chỉ khi nào chế độ công hữu giữ vai trò chủ đạo, chi phối trong
nền kinh tế (mọi giai tầng cùng nhau sở hữu những tư liệu sản xuất vật chất chủ
yếu) thì mới có cơ sở để xây dựng một chế độ chính trị thật sự dân chủ cho tất
cả mọi giai cấp, tầng lớp, mọi người dân trong xã hội.
Từ đây,
C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin đã luận chứng cho việc muốn có một nền dân chủ
thật sự tiến bộ dành cho tất cả mọi giai tầng trong xã hội thì nhất định phải
dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, chừng nào chưa làm được điều này
thì sẽ không làm thay đổi bản chất của chế độ chính trị dù nó có tồn tại dưới
hình thức nào đi chăng nữa.
Từ luận
điểm của V.I.Lênin soi chiếu vào thực tiễn Việt Nam thời kỳ đổi mới có thể
thấy: bước sang thời kỳ đổi mới Ðảng ta chủ trương khôi phục lại cơ cấu kinh tế
nhiều thành phần, nhiều hình thức sở hữu và coi đây là đặc trưng xuyên suốt
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Ðiều này được khẳng định ngay
từ Ðại hội VI (1986) – Ðại hội đánh dấu đường lối đổi mới sâu sắc và toàn diện
trên tất cả các lĩnh vực của Ðảng: “coi nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần
là một đặc trưng của thời kỳ quá độ”.
Tuy nhiên,
điểm cần lưu ý ở đây là các thành phần kinh tế Việt Nam không phát triển tự do
mà phát triển theo định hướng chung định hướng xã hội chủ nghĩa với sự chi phối
của chế độ công hữu về những tư liệu sản xuất chủ yếu và vị trí chủ đạo của
kinh tế nhà nước. Chủ trương này được thể hiện nhất quán ngay từ những nhiệm kỳ
Ðại hội đầu của thời kỳ đổi mới: Ðại hội VII: “thực hiện nhất quán chính sách
kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa”; Ðại hội VIII: “phát
triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản
lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Và ngay tại Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được Ðảng ta thông qua
tại Ðại hội VII năm 1991 cũng chỉ rõ một trong 6 đặc trưng của chủ nghĩa xã hội
mà Việt Nam xây dựng đó là: “Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực
lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu”.
Do đó, mô
hình kinh tế tổng quát mà Việt Nam lựa chọn trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với đặc trưng cơ bản:
gắn tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong từng
bước đi, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển, bảo đảm kết quả
tăng trưởng kinh tế phải phục vụ cho lợi ích của toàn thể nhân dân vì những mục
tiêu của chủ nghĩa xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Ðiều này
được Ðảng khẳng định rõ trong Văn kiện Ðại hội XIII tổng kết sau 35 năm tiến
hành công cuộc đổi mới đất nước: “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội. Ðó là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành
đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Ðảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm
định hướng xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh” phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước”.
Như vậy,
với một nền kinh tế chung phát triển thống nhất theo định hướng xã hội chủ
nghĩa với sự chi phối của chế độ công hữu về những tư liệu sản xuất chủ yếu và
vị trí chủ đạo của kinh tế nhà nước thì việc có một Ðảng duy nhất cầm quyền,
lãnh đạo Nhà nước, cách mạng và xã hội – Ðảng Cộng sản Việt Nam “Ðội tiên phong
của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và
của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân
dân lao động và của cả dân tộc” tất yếu vẫn đi theo quy luật kinh tế quyết định
bản chất của chế độ chính trị như các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác – Lênin đã
chỉ ra và cũng hoàn toàn đúng với quan điểm của V.I.Lênin.
Ðồng thời
cần phải nhận thức sâu sắc một sự thật rằng, đa nguyên, đa đảng không đồng nhất
với dân chủ và nhất nguyên chính trị, một đảng cầm quyền không đồng nhất với
phản dân chủ như những gì mà các thế lực thù địch vẫn rêu rao, tuyên truyền.
Dân chủ hay không, dân chủ đến đâu và nền dân chủ đó dành cho ai, cho một giai
cấp hay toàn thể xã hội xét đến cùng vẫn phụ thuộc vào chính bản chất của chế
độ kinh tế nhất là chế độ sở hữu như V.I.Lênin đã chỉ rõ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét