Trong các
cuộc chiến tranh giữ nước suốt chiều dài lịch sử dân tộc, cùng với sử dụng sức
mạnh quân sự để đánh bại kẻ thù xâm lược, dân tộc Việt Nam đã phát huy cao độ
yếu tố chính nghĩa và nhân văn của cuộc chiến tranh đang tiến hành để đánh bại
kẻ xâm lược phi nghĩa. Tiếp nối truyền thống đó, trong và sau Chiến dịch Điện
Biên Phủ, Đảng, Chính phủ và Quân đội nhân dân Việt Nam luôn nhất quán chủ
trương đối xử khoan hồng, nhân đạo đối với tù, hàng binh.
Thực hiện
chủ trương của Bộ Chính trị mở cuộc tiến công chiến lược trong Đông Xuân
1953-1954, để toàn quân thực hiện tốt chính sách đối với tù, hàng binh, ngày
27/11/1953, Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam phổ biến bản “Tóm tắt
chính sách đối với tù hàng binh của Tổng cục Chính trị trong Đông Xuân
1953-1954” tới tất cả các đơn vị, với nội dung gồm năm điểm:
“1- Binh
lính địch đã hạ vũ khí hay chịu bắt làm tù binh thì đối xử tử tế, không khinh
bỉ dọa nạt, không vuốt ve suồng sã, đồng thời phải đề cao cảnh giác.
2- Tuyệt
đối không chửi mắng, đánh đập, bắn giết tù hàng binh.
3- Phải cứu
chữa tù hàng binh bị thương.
4- Không
được lấy đồ dùng và tiền bạc riêng của tù hàng binh. Vũ khí quân dụng và tài
liệu quân sự thì phải tịch thu quỹ công.
5- Luôn
luôn tuyên truyền giải thích giác ngộ cho tù hàng binh” (1).
Cũng trong
tháng 11/1953, Cục Địch vận, Tổng cục Chính trị được giao nhiệm vụ nghiên cứu,
tổ chức các trại tù binh, hàng binh tiền phương; chỉ đạo củng cố lại các trại
của Cục, các trạm tù binh, hàng binh của các đại đoàn, trung đoàn để chuẩn bị
mọi mặt cho việc tiếp nhận tù, hàng binh.
Tháng
1/1954, Đại tướng, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp ban hành “Năm điều kỷ luật chiến
trường thi hành trong chiến dịch Đông-Xuân”, trong đó xác định rõ chính sách
đối xử nhân đạo và chấp hành đúng chính sách thương binh, tử sĩ một nội dung
cốt lõi của năm điều kỷ luật đó.
Để toàn bộ
cán bộ, chiến sĩ nắm vững và thực hiện tốt chính sách tù, hàng binh, các đơn vị
đã tổ chức quán triệt và yêu cầu tất cả mọi người đều phải nghiêm chỉnh chấp
hành. Theo kế hoạch đã chuẩn bị sẵn, toàn bộ tù, hàng binh được các đại đoàn
đưa ngay về tuyến sau cách mặt trận 3-4 km, từ đó chuyển giao cho các trại tù
binh. Tại các trại, họ được chăm sóc y tế và ăn uống đầy đủ theo chế độ quy
định; đồng thời được phổ biến, giáo dục chính sách khoan hồng, nhân đạo của
Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, từ đó, giúp họ yên tâm, ổn định tinh thần,
tâm lý.
Chiến dịch
Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi với số tù, hàng binh lớn chưa từng có trong
kháng chiến chống Pháp. Yêu cầu công tác quản lý, dẫn giải về phía sau, giáo
dục và bảo đảm đời sống, ăn, ở cho họ đặt ra rất lớn. Đối với số tù binh bị
thương, bị bệnh nặng không thể đi theo các đoàn dẫn giải về phía sau, Bộ Chỉ
huy mặt trận thiết lập bốn trạm quân y dã chiến tổ chức cứu chữa và nuôi dưỡng.
Bộ Tổng Tư lệnh đã phóng thích và trao trả ngay tại mặt trận cho phía Pháp 858
sĩ quan và binh sĩ Pháp bị thương, trong đó có một tù binh nữ duy nhất là cứu
thương Geneviève de Gallard được Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc cách cho thả trước
(2).
Ngoài số tù
binh nêu trên, toàn bộ tù, hàng binh ở Điện Biên Phủ sau khi phân loại sơ bộ,
được tổ chức thành từng đoàn theo đội ngũ, được dẫn giải về phía sau theo hai
hướng: Điện Biên Phủ-Yên Bái, Tuyên Quang và Điện Biên Phủ - Thanh Hóa. Đây là
những địa điểm đã chuẩn bị sẵn các trại để tiếp nhận, quản lý, giáo dục, chăm
sóc sức khỏe và dự định sẽ là nơi trao trả cho phía Pháp. Sau thời gian khoảng
từ 28 đến 40 ngày tùy theo từng cung đường, các đoàn tù, hàng binh về đến vị
trí tập kết. Thực hiện đúng các điều khoản của Hiệp định Geneva và những thỏa
thuận ở Hội nghị Trung Giã với phía Pháp, tùy theo điều kiện cụ thể, toàn bộ tù
binh đã được Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trao trả cho phía Pháp hoặc tổ
chức cho hồi hương hay ở lại Việt Nam làm ăn sinh sống theo nguyện vọng. Đợt
trao trả thứ nhất bắt đầu từ ngày 15/8/1954 và đợt cuối kết thúc vào hạ tuần
tháng 9/1954.
Cùng với
việc thực hiện chính sách nhân đạo đối với tù, hàng binh tại mặt trận Điện Biên
Phủ, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa còn nêu rõ chính sách đối với binh lính và nhân
viên chính quyền Bảo Đại tự nguyện bỏ hàng ngũ trở về quê hương, gia đình ở
vùng tạm chiếm. Tháng 3/1954, Hội đồng Chính phủ thông qua Chính sách đối với
ngụy binh và nhân viên ngụy quyền bỏ hàng ngũ địch trở về với Tổ quốc, trong đó
nêu rõ: “Sĩ quan, binh lính ngụy bỏ hàng ngũ địch trở về với Tổ quốc được khoan
hồng, được hưởng tự do và quyền lợi công dân. Những người mang vũ khí về với
kháng chiến, những người giết địch lập công thì sẽ được khen thưởng tùy theo
công trạng.
Nhân viên
ngụy quyền bỏ hàng ngũ địch trở về với Tổ quốc sẽ được khoan hồng, được hưởng
tự do và quyền lợi công dân… Sĩ quan, binh lính ngụy quân, nhân viên ngụy quyền
có gia đình ở vùng tự do mà bỏ hàng ngũ địch về nhà làm ăn lương thiện sẽ được
chiếu cố” (3).
Chính sách
khoan hồng, nhân đạo của Chính phủ đối với binh sĩ người Việt trở về với Tổ
quốc được tuyên truyền rộng rãi, cùng với tác động của những thắng lợi ở khắp
các chiến trường, đặc biệt là ở Điện Biên Phủ, đã tác động sâu sắc tới tư
tưởng, tinh thần binh sĩ và nhân viên chính quyền địch. Từ cuối năm 1953 đến
tháng 9/1954, có tới hơn 15 vạn binh sĩ, sĩ quan trong “Quân đội quốc gia” của
chính quyền Bảo Đại bỏ ngũ trở về quê (4). Trước tình hình đó, Trung ương nêu
rõ chủ trương đối với binh lính bỏ về quê gồm bốn điểm, trong đó nhấn mạnh việc
lập trạm chiêu đãi tiếp nhận, chính quyền xã phải sắp xếp công ăn việc làm cho
họ nếu họ không có điều kiện sinh sống, cấm không được phát động quần chúng
tiến hành tố cáo…” (5).
Những chủ
trương kịp thời và đầy tính nhân văn của Đảng, Chính phủ và Quân đội nhân dân
Việt Nam đã góp phần làm cho binh lính người Việt ổn định tâm lý, yên tâm trở
về gia đình, quê hương làm ăn; đồng thời, những chính sách đó cũng góp phần
nhanh chóng ổn định tình hình sau chiến tranh, bảo đảm trật tự, trị an và đời
sống, sinh hoạt của đông đảo nhân dân.
Trong và
sau chiến dịch Điện Biên Phủ, Đảng, Nhà nước, Quân đội và nhân dân Việt Nam đã
thực hiện nhất quán chính sách khoan hồng, nhân đạo đối với tù, hàng binh... Đó
chính là một nét đặc sắc của truyền thống văn hóa quân sự Việt Nam./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét