Tập trung xây dựng và thực hiện
thành công chính sách dân tộc, trên cơ sở đó thực hiện chiến lược đại đoàn kết
toàn dân tộc của Đảng và Nhà nước ta, góp phần phản bác lại những luận
điệu xuyên tạc, cách thức chống phá của các thế lực thù địch.
Để phòng, chống hiệu qủa việc lợi dụng vấn đề dân tộc để chống phá nước
ta của các thế lực thù địch, trước hết chúng ta cần nhìn nhận và đặt vấn đề này
trong bối cảnh mới: Toàn cầu hoá và truyền bá thông tin - công nghệ diển ra
mạnh mẽ; mâu thuẫn trong quan hệ dân tộc diễn ra gay gắt ở nhiều nơi; ngày càng
gia tăng các mối quan hệ đồng tộc, thân tộc xuyên biên giới quốc gia và không
bị phụ thuộc vào chế độ chính trị; vấn đề dân tộc và tôn giáo đan xen, tác động
lẫn nhau; quan hệ dân tộc, quân hệ tôn giáo không bị cản trở bởi biên giới quốc
gia, lịch sử, tâm lý và văn hoá tộc người; các thế lực và tổ chức phản động
trong và ngoài nước ráo riết hoạt động chống phá ta trong vấn đề dân tộc, tôn
giáo;... Trong bối cảnh như vậy, công tác nghiên cứu và công tác chính
sách dân tộc đặt ra yêu cầu cần tiếp tục nghiên cứu cơ bản, tổng kết
lý luận và thực tiễn nhằm xây dựng hệ thống cơ sở lý luận vững chắc, giải pháp
khả thi để góp phần thực hiện thành công các chính sách dân tộc của Đảng và Nhà
nước ta, đồng thời chủ động phòng, chống hiệu quả hơn những nội dung và luận
điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc, tộc người để
chống phá nước ta. Xây dựng và thực hiện chính sách dân tộc cần đặc
biệt ưu tiên các nội dung sau:
Một là, giải quyết vấn đề khác
biệt về nguồn gốc lịch sử và quá trình phát triển của các dân tộc, chính sách
dân tộc và công tác dân tộc của nước ta hiện nay một mặt cần tiếp tục chú ý bảo
tồn, phát huy các bản sắc riêng của từng dân tộc, nhưng không nên đề cập hay
nhấn mạnh quá mức đến sự khác biệt về nguồn gốc lịch sử, quá trình phát triển
của các dân tộc, vì vấn đề này luôn gắn với tâm lý và ý thức dân tộc với tâm lý
và ý thức quốc gia. Đặc biệt, chính sách cần tập trung sâu sắc hơn vào việc
củng cố, tăng cường và nâng cao ý thức quốc gia, ý thức công dân Việt Nam. Phát
triển những nhân tố gắn bó các dân tộc với tổ quốc và lòng tự hào dân tộc cho
người Việt Nam ở trong và ngoài nước.
Hai là, phát triển các mối quan hệ
dân tộc tốt đẹp và giải quyết các vấn đề còn tồn tại hoặc mới nảy sinh, chính
sách dân tộc cần chú trọng tăng cường phát triển và quản lý hiệu quả hơn các
mối quan hệ dân tộc, giảm thiểu mâu thuẫn cục bộ để củng cố khối đại đoàn kết
dân tộc. Trong đó, đặc biệt lưu ý các mối quan hệ dân tộc mang tính chiến lược,
cơ bản nhất là giữa người dân tộc thiểu số với người Kinh đa số; giữa người dân
các dân tộc với quốc gia Việt Nam (tức với Đảng và Nhà nước), mà cụ thể là với
hệ thống chính trị và đội ngũ cán bộ, nhất là cấp cơ sở và các tổ chức, doanh
nghiệp Nhà nước ở địa phương, vì luôn gắn bó chặt chẽ, trực tiếp với nhân dân.
Tăng cường hiệu quả và thiết thực (tránh bệnh hình thức) công tác dân vận, kết
nghĩa hỗ trợ giữa các địa phương, giữa những tổ chức và doanh nghiệp với các
cộng đồng dân cư, giữa các cộng đồng dân cư khác dân tộc với nhau. Khuyến khích
hôn nhân hỗn hợp dân tộc để hình thành những mối quan hệ gia đình, dòng họ,
cộng đồng giữa các dân tộc, các vùng miền.
Ba là, giải quyết các vấn đề về
sự phát triển không đồng đều giữa các dân tộc, vùng miền và địa phương, chính
sách phát triển kinh tế - xã hội và chính sách dân tộc cần gắn kết hơn nữa giữa
kinh tế, văn hóa, xã hội và bảo vệ môi trường một cách hài hòa. Hạn chế dần sự
bất bình đẳng trong phát triển và phân hóa xã hội, nhất là khoảng cách giàu
nghèo giữa các dân tộc, vùng miền và bộ phận dân cư ở trong nước cũng như với
đồng tộc của họ và dân tộc khác ở bên kia biên giới. Qua đó góp phần phòng
chống hiệu quả những âm mưu của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề bất bình
đẳng về phát triển giữa các dân tộc, vùng miền, bộ phận dân cư để chống phá
nước ta.
Bốn là, tăng cường vai trò, ảnh
hưởng của người Kinh trong quá trình phát triển vùng miền núi, vùng dân tộc
thiểu số và xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc cũng như giải quyết các vấn đề
tồn tại và mới nảy sinh, cùng với chính sách quản lý, phát huy các giá trị của
quan hệ dân tộc tốt đẹp truyền thống giữa người Kinh và các dân tộc thiểu số để
phát triển kinh tế - xã hội, cần tăng cường công tác dân vận, tuyên truyền giáo
dục cho người Kinh sinh sống ở vùng dân tộc thiểu số ý thức tôn trọng văn hóa,
lối sống, phong tục tập quán của các dân tộc anh em. Đặc biệt là xây dựng và
phát triển ý thức, phương thức làm ăn chính đáng, hiểu quả đảm bảo cùng có lợi
giữa các dân tộc.
Năm là, giải quyết các vấn đề về
những động thái dân số và sự tái phân bố dân cư, dân tộc, chính sách quản lý và
phát triển dân số, dân cư của Nhà nước ta cần đảm bảo không để tại các địa bàn
trọng yếu về kinh tế, xã hội, chính trị, an ninh, quốc phòng, môi trường, nhất
là vùng biên giới và hải đảo, hình thành những cộng đồng người nước ngoài cùng
gia đình của họ quá tập trung và cư trú lâu dài; các doanh nghiệp nước ngoài
thuê diện tích đất rừng và mặt nước rộng lớn, trong thời gian quá dài; và các
cộng đồng người liên kết theo dân tộc - tôn giáo. Tiến hành phân bố và củng cố
các cộng đồng dân tộc, tôn giáo sinh sống xen kẽ với nhau. Khuyến khích kết hôn
giữa các dân tộc để hình thành những mối quan hệ về kinh tế, xã hội, văn hóa,
gia đình,... Tại những vùng biên giới, vùng trọng yếu của đất nước, cần qui
hoạch các khu vực đủ rộng để xây dựng những khu chính trị, hành chính,
kinh tế, xã hội và văn hóa của Nhà nước Trung ương và chính quyền địa phương;
các mô hình thanh niên lập nghiệp, các khu gia binh; các vùng kinh tế chuyên
canh chất lượng cao; các khu công nghiệp, thương mại và dịch vụ ổn định, phát
triển để làm phên dậu cho đất nước; để người dân ở vùng biên cương không bị ly
tâm ra nước ngoài mà hướng về tổ quốc Việt Nam.
Sáu là, phát huy các giá trị và
hạn chế những tác động tiêu cực của các cộng đồng dân tộc - tôn giáo liên quan
tới các lĩnh vực chính trị, an ninh, quốc phòng, kinh tế, xã hội, văn hóa của
các dân tộc và quốc gia đang diễn ra tại một số địa phương và một số tộc người,
quá trình hoạch định, triển khai chính sách phát triển kinh tế - xã hội và
chính sách dân tộc cần chú ý đến mối quan hệ cũng như sự tác động hữu cơ của
các vấn đề này ở trong và ngoài nước. Tiếp tục hoàn thiện chính sách cho các
dân tộc, tôn giáo phát triển bình đẳng, không để nảy sinh thêm và làm trầm
trọng hơn những mẫu thuẫn cục bộ giữa những người theo và không theo tôn giáo,
giữa tín đồ dân tộc thiểu số và tín đồ dân tộc đa số, giữa các tổ chức tôn giáo
và tín đồ với chính quyền địa phương. Củng cố niềm tin của các tín đồ và chức
sắc tôn giáo đối với chế độ ta, thông qua việc tăng cường tiếp xúc, đối thoại
để khắc phục những vấn đề còn tồn tại; tranh thủ những nhân tố tích cực, thu
hút các tôn giáo và tín đồ góp phần xây dựng quê hướng và bảo vệ đất nước. Tôn
trọng, tranh thủ, sử dụng đội ngũ trí thức, những người có uy tín của tôn giáo
và dân tộc để họ lãnh đạo, tập hợp tín đồ và người dân ủng hộ, phối hợp với
chính quyền thực hiện tốt các chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo, đồng
thời chống lại những tổ chức và hoạt động tôn giáo cực đoan.
Bẩy là, giải quyết vấn đề
bảo tồn và phát huy ngôn ngữ của các dân tộc và phát triển ngôn ngữ quốc gia
hiện nay cần tiến hành nghiên cứu tổng thể về mọi lĩnh vực của ngôn ngữ các dân
tộc ở nước ta hiện nay, đồng thời đánh giá vai trò, ảnh hưởng của các chính
sách, phương tiện thông tin và truyền thông, công tác xuất bản, chương trình
giáo dục song đa ngữ... đến ngôn ngữ trước đây và hiện nay. Trên cơ sở đó, xây
dựng chiến lược tổng thể, chính sách phù hợp, giải pháp khả thi về bảo tồn và
phát huy tiếng nói, chữ viết của các dân tộc trong bối cảnh hiện nay. Tuy
nhiên, cần xác định rõ vai trò, vị trí và ảnh hưởng toàn diện, sâu sắc không
thể thay thế của ngôn ngữ chung quốc gia, nhất là yêu cầu cần phải đẩy mạnh
công tác xây dựng, tăng cường tính thống nhất của văn hóa quốc gia, ý thức quốc
gia và khối đại đoàn kết dân tộc trong bối cảnh hiện nay.
Tám là, giải quyết vấn vấn đề bản
sắc văn hóa của các tộc người với xây dựng văn hóa quốc gia, chính sách bản tồn
và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc hiện nay cần giữ gìn và phát triển những
giá trị văn hóa của các dân tộc có lợi và phù hợp cho việc xây dựng tính thống
nhất của văn hóa quốc gia. Đồng thời cần củng cố, tăng cường và phát triển các
giá trị chung của văn hóa quốc gia, để tiếp nhận có chọn lọc những yếu tố tích
cực của văn hóa nhân loại, góp phần đẩy lùi những ảnh hưởng tiêu cực của văn
hóa ngoại lại và các phương tiện thông tin đại chúng. Qua đó, văn hóa và bản
sắc văn hóa dân tộc trở thành động lực góp phần phát triển kinh tế - xã hội, ổn
định chính trị và bảo vệ vững chắc tổ quốc.
Để thực hiện thành công chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc theo Nghị
quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ XIII và hạn chế sự chống phá
nước ta trên lĩnh vực dân tộc của các thế lực thù địch, từ kết quả nghiên cứu
và tình hình thực tế của đất nước hiện nay cho thấy, trong thời gian tới công
tác dân tộc và nghiên cứu về dân tộc của nước ta cần tiếp tục thực hiện đầy đủ,
nghiêm túc các nguyên tắc, mục tiêu, nhiệm vụ đã được xác định rõ trong những
văn kiện của Đảng, Nhà nước và Hiến pháp, đồng thời chú ý đến một số nội dung
mới cho phù hợp với tình hình thực tiễn của thế giới, khu vực và đất nước. Trên
cơ sở đó góp phần phản bác lại những luận điệu xuyên tạc, cách thức chống phá
của các thế lực thù địch, phản động./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét