Thứ Tư, 29 tháng 12, 2021

BAN CHỈ ĐẠO 35 QUÂN ỦY TRUNG ƯƠNG TỔNG KẾT NHIỆM VỤ NĂM 2021, TRIỂN KHAI NHIỆM VỤ NĂM 2022!

      Sáng 29/12, tại Hà Nội, Ban Chỉ đạo 35 Quân ủy Trung ương tổ chức Hội nghị tổng kết nhiệm vụ năm 2021, triển khai nhiệm vụ năm 2022.

Đại tướng Lương Cường, Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam, Trưởng Ban Chỉ đạo 35 Quân ủy Trung ương chủ trì Hội nghị.

Dự Hội nghị có Trung tướng Trịnh Văn Quyết, Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên Quân ủy Trung ương, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, Phó Trưởng ban Thường trực Ban Chỉ đạo 35 Quân ủy Trung ương.

Năm 2021, Ban Chỉ đạo, Cơ quan Thường trực Ban Chỉ đạo 35 Quân ủy Trung ương quán triệt sâu sắc sự chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, trực tiếp là Quân ủy Trung ương, Ban Chỉ đạo 35 Trung ương tập trung triển khai các chủ trương, biện pháp toàn diện, đồng bộ, thống nhất, kịp thời, đạt hiệu quả thiết thực. Cùng với đó là chủ động quán triệt, triển khai cụ thể hóa Nghị quyết XIII của Đảng, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ XI vào hoạt động của cấp ủy, tổ chức Đảng và Ban Chỉ đạo 35 các cơ quan, đơn vị; chủ động tham mưu với Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Quân ủy Trung ương chủ trương, giải pháp lãnh đạo, chỉ đạo tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới; giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý Nhà nước, giữ vững sự ổn định về chính trị, tư tưởng trong Quân đội.

Ban Chỉ đạo, Cơ quan Thường trực Ban Chỉ đạo 35 Quân ủy Trung ương ban hành văn bản chỉ đạo, kế hoạch, hướng dẫn, biên soạn chuyên đề, tài liệu chuyên khảo phục vụ công tác thông tin tuyên truyền trước các sự kiện chính trị của đất nước, công tác phòng, chống dịch COVID-19, vấn đề dư luận trong nước và quốc tế quan tâm, tình an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội trên một số địa bàn... kịp thời định hướng tư tưởng, dư luận trong cán bộ, chiến sĩ và nhân dân, giữ vững trận địa tư tưởng của Đảng trong Quân đội. Đặc biệt, chủ động thông tin tích cực, đẩy mạnh tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, kịp thời phê phán các quan điểm sai trái, thù địch, cơ hội chính trị, thông tin xấu độc...

Cơ quan chức năng và các đơn vị đã quán triệt, thực hiện nghiêm văn bản lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn của trên; duy trì hoạt động có nền nếp; chủ động, nhạy bén nắm tình hình, tập trung tham mưu và chỉ đạo giải quyết kịp thời những vấn đề nảy sinh; đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền trên mặt trận tư tưởng, văn hóa. Các cơ quan báo chí, phát thanh truyền hình quân đội đã bám sát nhiệm vụ chính trị, phối hợp chặt chẽ với cơ quan báo, đài Trung ương, địa phương mở rộng chuyên trang, chuyên mục; đa dạng hóa hình thức thông tin, tuyên truyền, định hướng tư tưởng, dư luận kịp thời, hiệu quả.

Về phương hướng nhiệm vụ năm 2022, Hội nghị xác định, tiếp tục quán triệt và thực hiện Nghị quyết 35 của Bộ Chính trị về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới gắn với chương tình toàn khóa thực hiện Nghị quyết XIII của Đảng, trong đó tập trung thực hiện hiệu quả nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, thực hiện Kết luận số 01 của Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, gắn với Cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ” và 5 chuẩn mực “Bộ đội Cụ Hồ” trong tình hình mới, triển khai Nghị quyết của Quân ủy Trung ương “về phát huy phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”, kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân trong tình hình mới.

Hội nghị cũng xác định, thời gian tới đẩy mạnh hoạt động phong trào thi đua quyết thắng, chủ động phát hiện, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Song song với đó là đẩy mạnh công tác nghiên cứu, đánh giá, dự báo chính xác tình hình, kịp thời thông tin, định hướng tư tưởng bộ đội và nhân dân trước các sự kiện chính trị quan trọng của đất nước, những vấn đề phức tạp, nhạy cảm trong nước, khu vực và quốc tế; chủ động, tích cực bồi dưỡng kỹ năng, nghiệp vụ, bảo đảm cơ sở vật chất, kỹ thuật và công nghệ, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác nghiệp vụ; đa dạng hóa nội dung, hình thức, phương pháp tuyên truyền, xứng đáng vai trò nòng cốt trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa.

Ngoài ra, Hội nghị cũng xác định tiếp tục duy trì nền nếp hoạt động của Ban Chỉ đạo, cơ quan chức năng, lực lượng chuyên môn nghiệp vụ, thống nhất định hướng tư tưởng, triển khai biện pháp tuyên truyền phù hợp, hiệu quả; chủ động nắm chắc tình hình cơ sở, địa bàn, thủ đoạn hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, không để bị động, bất ngờ; phối hợp với cơ quan chức năng quản lý chặt chẽ tình hình chính trị nội bộ, ấn phẩm văn hóa, văn nghệ, ngăn chặn sự thẩm lậu của tài liệu, sản phẩm độc hại vào đơn vị. Xây dựng, củng cố các tổ chức Đảng trong sạch vững mạnh, đơn vị vững mạnh toàn diện, không để diễn biến tư tưởng tiêu cực và đơn thư khiếu nại tố cáo nặc danh, mạo danh với dụng ý xấu trong nội bộ; quan tâm, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của bộ đội; phát huy vai trò của cơ quan nghiên cứu, học viện, nhà trường, cơ quan báo chí trong biên soạn, phát hành các loại tài liệu, tư liệu về công tác thông tin tuyên truyền giữ vững trận địa tư tưởng của Đảng trong Quân đội./.



Yêu nước ST.

CÁI ÁC PHẢI BỊ TRỪNG TRỊ THÍCH ĐÁNG


Ngày 28-12, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Bình Thạnh, TP.HCM đã ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can, tạm giam nghi phạm Nguyễn Võ Quỳnh Trang (26 tuổi, ngụ tỉnh Gia Lai) để điều tra về hành vi hành hạ người khác.


Theo điều tra ban đầu, khoảng 18h ngày 22-12, Bệnh viện Vinmec (phường 22, quận Bình Thạnh) tiếp nhận cháu gái N.T.V.A. (8 tuổi) do cha ruột là T. (36 tuổi, ngụ quận 1, cư trú tại chung cư Saigon Pearl, phường 22, quận Bình Thạnh) đưa đến cấp cứu trong tình trạng hôn mê, ngưng tuần hoàn tim phổi và đã tử vong.


Qua xác minh, lực lượng chức năng được biết T. và Nguyễn Võ Quỳnh Trang có sống chung như vợ chồng từ giữa năm 2020 tại một căn hộ ở Saigon Pearl. Khoảng 14h ngày 22-12, T. đi làm, còn Trang ở nhà dạy học cho cháu A.. Trong quá trình dạy học, cháu A. chậm tiếp thu bài nên bị Trang lớn tiếng la mắng và dùng cây gỗ tròn dài cả mét, đánh nhiều cái vào mông cháu A. và còn dùng chân đá...


Đến khoảng 18h ngày 22-12, cháu A. vào phòng ngủ, bị nôn ói, lúc này Trang phát hiện nên gọi điện cho T. về nhà sơ cứu, và cùng bảo vệ chung cư đưa cháu vào Bệnh viện Vinmec cấp cứu, sau đó cháu gái tử vong.


Tại cơ quan điều tra, Trang khai trong quá trình dạy học, do bực tức việc cháu A. chậm hiểu bài nên đã lớn tiếng la mắng, và dùng cây gỗ đánh, dùng chân đá. Ngoài ra, Trang còn khai trước đó cũng nhiều lần dùng roi mây đánh và la mắng cháu A. trong lúc dạy học.


Kết quả sơ bộ khi giải phẫu, khám nghiệm tử thi, cơ quan chức năng xác định cháu A. tử vong do phù phổi cấp, trên cơ thể có nhiều tổn thương bầm tụ máu, gãy nhiều xương sườn, khu vực phần đầu cũng có vết thương, tụ máu, não phù. Hiện Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Bình Thạnh tiếp tục điều tra xử lý.

-------

LUẬN ĐIỆU DÂN CHỦ CỦA BỌN PHẢN ĐỘNG

Lâu nay, các phần tử cơ hội chính trị, chống đối cho rằng, Việt Nam không có dân chủ vì thực hiện chế độ nhất nguyên, nhất đảng nên “vừa đá bóng, vừa thổi còi” và vì thế dẫn đến dân chủ hình thức hoặc mất dân chủ. Trong khi đó, các tổ chức nhân danh dân chủ phương Tây đã và đang tìm cách cổ suý “tiêu chuẩn nhân quyền” kiểu phương Tây vào Việt Nam, đồng thời tung tin bịa đặt với các luận điệu cho rằng: “Việt Nam thiếu văn hóa dân chủ, không có dân chủ, hạn chế quyền riêng tư của công dân”, “Việt Nam vi phạm nghiêm trọng quyền con người”, “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước và toàn xã hội tức là theo chế độ đảng trị, bằng “đảng chủ”; “một đảng cầm quyền thì không thể có dân chủ, chỉ dẫn đến độc tài, độc trị”; “chế độ một đảng lãnh đạo, độc quyền là trái với nguyên tắc nhà nước pháp quyền”; “chế độ nhất nguyên chính trị, một đảng cầm quyền ở Việt Nam là “vừa đá bóng, vừa thổi còi” dẫn đến ở Việt Nam không có dân chủ hoặc dân chủ hình thức”.

SỰ THẬT VỀ VIỆC TÊN LỬA SAM3 VỀ BIÊN GIỚI NĂM 1972, BỊ TRUNG QUỐC GIỮ LẠI và GS TRẦN ĐẠI NGHĨA "CẢI TIẾN" TÊN LỬA SAM2?

      Những ngày này cách đây 49 năm, Mỹ dùng “pháo đài bay” B-52 đánh vào Hà Nội nhằm gây áp lực ở hội nghị Paris, buộc ta phải nhượng bộ đàm phán về cuộc chiến ở Việt Nam. Cả thế giới nín thở hướng về Hà Nội. Kết thúc chiến dịch 12 ngày đêm, 81 máy bay Mỹ bị bắn hạ (trong đó có 34 “pháo đài bay” B-52), buộc phía Mỹ tuyên bố chấm dứt ném bom Bắc Việt Nam, tiến hành ký kết Hiệp định Paris, chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam.

    Có một sự kiện cho đến bây giờ nhiều người vẫn băn khoăn, đi tìm lời giải bởi chưa có một tài liệu chính thống và không chính thống nào đáng tin cậy về hai vấn đề trên cần được làm rõ:

   1. Có đúng năm 1972 Liên Xô giúp ta tên lửa SAM3 chuyển qua biên giới Trung quốc bị giữ lại ở cửa khẩu Bằng Tường?

   2. Giáo sư Trần Đại Nghĩa là người “cải tiến” tên lửa SAM2 để bắn rơi “pháo đài bay” B-52 ?

      Trên trang fb của anh Thành Hoàng Vĩnh có đăng bài của Đại tá Nguyễn Đình Hậu, nguyên trung đoàn trưởng e 277 và e 276, người nhận nhiệm vụ sang Baku, thủ đô nước Cộng hòa Azerbaizan để chuyển loại tên lửa SAM3 theo kế hoạch viện trợ quân sự khẩn cấp của Liên Xô 

    Anh Hoàng Vĩnh Thành là con trai cố Giáo sư Hoàng Minh Giám (người được Chủ tịch Hồ Chí Minh giới thiệu vào Chính phủ lâm thời đầu tiên của nước VNDCCH ngày 3-9-1945) nên có thể coi đây là một tư liệu lịch sử tin cậy.

   Được sự đồng ý của anh Hoàng Vĩnh Thành, xin trân trọng giới thiệu bài viết !

----------------

     Tháng 6 năm 1972, giữa lúc cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân của Đế quốc Mỹ lên tới đỉnh cao, Trung đoàn 276 do đồng chí Phạm Sơn và Trung đoàn 277 do đồng chí Nguyễn Đình Hậu làm Trung đoàn trưởng được lệnh sang Baku, thủ đô nước Cộng hòa Azerbaizan để chuyển loại tên lửa SAM3 theo kế hoạch viện trợ quân sự khẩn cấp của Liên Xô.

    Việc thành lập 2 trung đoàn ngày ấy được cấp trên ưu tiên tuyệt đối – cán bộ từ kỹ thuật viên các hệ đến cán bộ chỉ huy trung đội, đại đội, tiểu đoàn, trung đoàn đều là những người có kinh nghiệm chiến đấu được chọn lọc từ các đơn vị tên lửa SAM2, còn trắc thủ và pháo thủ cùng một số nhân viên kỹ thuật khác đều là những sinh viên có sức khỏe tốt, có khả năng tiếp thu tốt được tuyển chọn từ nhiều trường Đại học.

    Điều kiện cơ bản này đã giúp 2 trung đoàn tiếp thu chiến, kỹ thuật của loại tên lửa mới rất nhanh.

   Tên lửa SAM3 có nhiều ưu việt hơn SAM2 - ngoài khả năng chống nhiễu tốt, số trận đánh được nhiều hơn, nhịp độ trận đánh được nhanh hơn.

    SAM3 có khả năng diệt các loại máy bay bay ở độ cao 18 Km và ở cự ly 27 Km, thừa sức diệt pháo đài bay B52 của Mỹ bởi chúng thường bay ở độ cao trên dưới 10 Km.

    Tháng 10/1972, hai trung đoàn thực hành diễn tập bắn đạn thật ở trường bắn Ashluk - từ khâu hành quân chiếm lĩnh trận địa, chuẩn bị khí tài, đạn, bệ … và thực hành bắn mục tiêu đều do cán bộ, chiến sỹ ta thực hiện, các bạn Liên Xô chỉ làm nhiệm vụ theo rõi và kiểm tra. Kết quả là cả hai trung đoàn thực hành diễn tập bắn đạn thật, diệt 100% mục tiêu được bạn đánh giá cao.

    Thành tích bước đầu này đưa đến cho cán bộ, chiến sỹ trung đoàn 276 và 277 niềm tin tuyệt đối về khả năng diệt các loại máy bay Mỹ của loại tên lửa mới này. Tất cả đều hăm hở mong nhanh chóng được về nước, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, đặc biệt là bắn rơi nhiều máy bay B52 – đối tượng tác chiến mà tên lửa SAM2 gặp khó khăn vì bị địch gây nhiễu nặng.

Việt Nam ơi! Ta chào người mẹ trẻ

Lại khai sinh thêm một anh hùng

Đứa con vừa chỉ đủ cánh đủ lông

Sẽ bay về trong cơn bão tố

Dập tắt hết những tàn lửa đỏ

Cho đất trời trở lại bình yên

Cho những dòng sông nước sẽ chảy êm đềm

Cho lòng mẹ thôi những đêm trăn trở.

    Mấy câu thơ ngẫu hứng trên đây của Nguyễn Bá Thành phản ánh đầy đủ tâm trạng và khí thế của cán bộ, chiến sỹ trên lửa SAM3 ngày ấy. (Nguyễn Bá Thành là sinh viên Đại học nhập ngũ năm 1972 theo lệnh tổng động viên, được biên chế về trung đoàn 277 rồi sang Baku học tên lửa SAM3. Chiến tranh kết thúc, Bá Thành được về lại trường cũ tiếp tục đèn sách rồi trở thành một Phó Giáo sư, Tiến sỹ khoa học).

    Do hoàn thành kế hoạch diễn tập, bấn đạn thật trước nên trung đoàn 277 về nước sớm hơn trung đoàn 276 mười ngày.

    Tuy có muộn hơn - tối 18/12/1972 mới về nước nhưng trung đoàn 276 vẫn có đủ thơi gian để triển khai chiến đấu.

    Tiếc thay! 12 ngày đêm không lực Hoa Kỳ dùng máy by B52 đánh phá ác liệt vào thủ đô, trái tim cả nước, nhưng trung đoàn 276 và 277 không đánh trả được vì không có đạn.

    Thực tế thì khí tài, bệ phóng, đạn tên lửa SAM3 cùng các thiết bị khác được Liên Xô gửi sang đã về đất Trung Quốc, nằm tại ga Bằng Tường bên kia biên giới Việt-Trung nhưng do mưu đồ đen tối, Trung Quốc đã móc ngoặc với Mỹ nên họ đã cố tình giữ đạn lại, không cho đạn tên lửa về Việt Nam cùng khí tài và bệ phóng, mãi sang tháng 1/1973 họ mới cho ta nhận.

     Một điều có thể khẳng định rằng: Nếu ngày ấy tên lửa SAM3 có đạn bắn thì với lực lượng khá mạnh - 12 đơn vị hỏa lực gồm 48 bệ phóng thì hai trung đoàn 276 và 277 đã cùng với các đơn vị tên lửa SAM2 bắn rơi tại chỗ nhiều máy bay B52 trong mấy ngày đầu buộc Không quân Đế quốc Mỹ phải sớm ngừng gây tội ác.

    Đây là chuyện có thật và hoàn toàn chính xác, xin kể lại để chứng minh rằng ông bạn láng giềng nham hiểm đã hại ta như thế nào, đồng thời cũng là một minh chứng về bài viết “Thông điệp nhắn gửi các thế hệ mai sau”.

     Sau chiến thắng vang dội tháng Chạp năm 1972, có người đưa tin “Đánh được B52 là nhờ có Giáo sư, Viện sỹ Trần Đại Nghĩa nối thêm tầng cho đạn tên lửa SAM2”, cũng có người đưa tin “do có tên lửa SAM3 đánh”. Là nhân chứng lịch sử người thực, việc thực, chúng tôi xin khẳng định rằng hai việc trên đây là không có.

    - Tên lửa SAM2 diệt được các loại máy bay bay ở độ cao 27 Km và ở cự ly xa 34 Km thì cần gì phải nối thêm tầng cho đạn!

    - Tên lửa SAM3 thì như đã nêu trên - Có đạn đâu mà đánh!

    Là những người đã trực tiếp chiến đấu ở các đơn vị tên lửa SAM2 chúng tôi đã gặp rất nhiều khó khăn mỗi lần chiến đấu bị máy bay địch gây nhiễu nặng. Vậy mà trong 12 ngày đêm tháng 12/1972, tên lửa SAM2 của ta đã bắn rơi nhiều máy bay B52 của Mỹ làm nên một Điện Biên Phủ trên không là một chiến công kỳ diệu thể hiện đầy đủ bản lĩnh kiên cường và trí thông minh sáng tạo của bộ đội tên lửa Việt Nam./.

 Ảnh 1: Vài kỷ niệm những ngày dự huấn luyện sử dụng tên lửa SAM 3 tại Trung tâm Sitenchai, Bacu, Azerbaizan năm 1972. Anh Hoàng Vĩnh Thành thứ 2 từ trái qua.

 Ảnh 2: Tiểu đoàn 167, Trung đoàn 276 tên lửa phòng không Pechora (SAM 3) năm 1972 ở Trung tâm huấn luyện tên lửa phòng không Sitenchai, Ba-cu, Azerbaizan. Anh Hoàng Vĩnh Thành thứ 4 từ phải sang, hàng trước (ảnh tư liệu gia đình cung cấp).

Yêu nước ST.

NHÂN LOẠI ĐÃ, ĐANG VÀ SẼ TRỞ VỀ VỚI MÁC!

     Mác, Ăngghen, Lênin không phải là những “nhà tiên tri”, những ông “thầy bói của lịch sử” như mấy ai bôi nhọ hay huyễn hoặc. Các ông là những nhà cách mạng, nhà khoa học chân chính, thiên tài. Chủ nghĩa mà các ông sáng lập và đấu tranh không mệt mỏi để thực hiện nó, là hành động một cách dũng cảm và cách mạng biến cái lôgích phát triển tất yếu của nhân loại, trên cơ sở giải phẫu các xã hội mà loài người đã và đang tồn tại, để các quốc gia, dân tộc đi tới tương lai.

Nói cách khác, lý luận của các ông chỉ giúp loài người lựa chọn điều cần và phải đi con đường dẫn tới chân lý, với những lực lượng tiên quyết, những điều kiện có tính chất cần và đủ, khi đứng ở ngã ba lịch sử của sự lựa chọn và phải quyết định, gồm: Một ngả dẫn đến vũng lầy của sự lầm lẫn, còn ngả kia là đi tới chân trời sáng sủa, tất yếu.

Diễn đạt cụ thể, các nhà sáng lập Chủ nghĩa Mác-Lênin không chỉ đơn thuần giải phẫu các hình thái kinh tế-xã hội, mà bắt đầu từ cấu trúc nền tảng để làm nổi bật lên những vấn đề của chúng và cuối cùng, dự báo sự sụp đổ tất yếu và sự thay thế giữa chúng với nhau hoặc tuần tự hoặc nhảy vọt một cách biện chứng, theo quy luật.

Cố nhiên, chúng ta không thể phủ nhận một điều là, những thập kỷ 70, 80, nhất là những năm 90 của thế kỷ 20, trong quá trình hiện thực hóa lý luận mác-xít, những người cộng sản vấp phải khó khăn to lớn. Đặc biệt, trong thời điểm lịch sử ở vào tình thế có tính bước ngoặt, khi xu thế toàn cầu hóa trở thành phổ biến với xung lực tất yếu và mạnh mẽ là kinh tế tri thức, công việc đó càng trở nên khó khăn gấp bội; và cho thấy, sẽ chỉ “sống sót” những lực lượng chính trị nào có thể đáp lại những thách thức mới của thời đại, tiếp tục đủ sức gánh vác trọng trách đó của lịch sử.

Nhân loại đang trở về với Mác. Nhưng trở về với Mác, với Lênin như thế nào? Tất nhiên sự trở về không phải là sự thuộc lòng học thuyết của các ông, rập khuôn nó và coi nó như “chiếc chìa khóa vạn năng” nào đó, bất chấp những sự thay đổi của lịch sử. Như thế, vô hình đã bóp nghẹt sức sống của Chủ nghĩa Mác-Lênin, điều mà các ông lúc sinh thời đã cảnh báo và lịch sử từng nghiêm khắc phê phán.

Mác không bao giờ và chưa bao giờ tiên thiên, không khi nào rơi vào định mệnh! Nói một cách hình ảnh, ông chỉ vén mây mù để tất cả nhìn thấy trời xanh tất yếu của sự tự do và con đường đi tới nó một cách tự nhiên, còn đi như thế nào lại tùy thuộc vào điều kiện của mỗi quốc gia, dân tộc và tình thế lịch sử cho phép.

Lênin cũng thế. Ông rất căm ghét thói rập khuôn mù quáng. Cả hai ông đòi hỏi sự phê phán nghiêm ngặt học thuyết của các ông chứ không phải khư khư bám giữ những điều có thể là đúng với hôm qua, nhưng hôm nay đã bị cuộc sống vượt qua. Đó chính là nguồn gốc sức sống, con đường phát triển của chính lý luận Mác-Lênin - học thuyết cách mạng phê phán và tự phê phán cách mạng!

Vượt qua tất cả các học thuyết hiện nay, Chủ nghĩa Mác-Lênin đã mở ra một chân trời khám phá và sáng tạo không ngừng. Vì toàn bộ thế giới quan của học thuyết Mác, nói như Ăngghen, không chỉ là một học thuyết mà còn là phương pháp. Nó đưa ra không phải những giáo điều có sẵn mà là những xuất phát điểm để tiếp tục nghiên cứu toàn diện lịch sử./.

Yêu nước ST.

XÂY DỰNG, PHÁT TRIỂN NỀN BÁO CHÍ CÁCH MẠNG CHUYÊN NGHIỆP, NHÂN VĂN, HIỆN ĐẠI

      Từ ngày 29 đến 31/12/2021, Đại hội đại biểu toàn quốc Hội Nhà báo Việt Nam lần thứ XI sẽ diễn ra tại Thủ đô Hà Nội. Đây là sự kiện có ý nghĩa rất quan trọng đối với Hội Nhà báo Việt Nam và giới báo chí cả nước. 

Được sự quan tâm sâu sắc của lãnh đạo Đảng, Nhà nước, sự hỗ trợ, giúp đỡ nhiệt tình, hiệu quả của các bộ, ban, ngành Trung ương, các địa phương và của cả hệ thống chính trị, sự thương yêu, tin cậy của các tầng lớp nhân dân, trong nhiệm kỳ qua, Hội Nhà báo Việt Nam không ngừng nỗ lực, vượt qua nhiều khó khăn thách thức và đã đạt được nhiều thành tựu, kết quả nổi bật, rất đáng tự hào, tạo đà thuận lợi để bước vào một thời kỳ phát triển mới. 

Đổi mới, sáng tạo là tinh thần xuyên suốt của nhiệm kỳ qua với những dấu ấn tốt đẹp. Tinh thần đổi mới sáng tạo ấy được lan tỏa từ Trung ương Hội đến Hội Nhà báo các tỉnh, thành phố, các liên chi hội, chi hội và các cơ quan báo chí./.

Yêu nước ST.

 

ĐẤU TRANH TƯ TƯỞNG, LÝ LUẬN TRONG BỐI CẢNH MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã đề cập một cách toàn diện và sâu sắc những vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội (CNXH) và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam, trong đó hàm ý định hướng nhiều vấn đề về đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, lý luận, thể hiện ở một số điểm sau:

Một là, đấu tranh tư tưởng, lý luận hiện nay thực chất và trước hết là đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn.

Trong phần mở đầu bài viết, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã đặt trở lại vấn đề: “Vì sao Việt Nam lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa?”. Và ngay sau đó, câu hỏi đã được lý giải bằng nhận định từ tình hình thực tiễn trên phạm vi thế giới cũng như ở Việt Nam: “Trước đây, khi còn Liên Xô và hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa thế giới thì vấn đề đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam dường như không có gì phải bàn, nó mặc nhiên coi như đã được khẳng định. Nhưng từ sau khi mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và nhiều nước Đông Âu sụp đổ, cách mạng thế giới lâm vào thoái trào thì vấn đề đi lên chủ nghĩa xã hội lại được đặt ra và trở thành tâm điểm thu hút mọi sự bàn thảo, thậm chí tranh luận gay gắt”. Thực tiễn cho thấy, mô hình CNXH ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ vào thập niên 90 của thế kỷ trước không chỉ làm cho các thế lực chống cộng, cơ hội chính trị vui mừng mà còn là động cơ để chúng gia tăng các hoạt động chống phá, xuyên tạc, tấn công, phủ nhận con đường đi lên CNXH của Việt Nam. Trong “hàng ngũ cách mạng cũng có người bi quan, dao động, nghi ngờ tính đúng đắn, khoa học của chủ nghĩa xã hội”; thậm chí, có người còn “phụ họa với các luận điệu thù địch, công kích, bài bác chủ nghĩa xã hội, ca ngợi một chiều chủ nghĩa tư bản”. Điều này hết sức nguy hại, có tác động tiêu cực đến tâm lý chính trị của không ít cán bộ, đảng viên và nhân dân. Trước thực trạng đó, chúng ta phải tăng cường đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, lý luận, kiên quyết bảo vệ con đường và mục tiêu mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân đã lựa chọn từ năm 1930, đó là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

Đảng Cộng sản Việt Nam là đại diện cho lợi ích của giai cấp công nhân và toàn thể nhân dân lao động. Vì thế, mọi chủ trương, chính sách, pháp luật và hoạt động của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân.

Xét trên cả phương diện lý luận và thực tiễn, sự lựa chọn đó là hoàn toàn đúng đắn: “Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử”(3). Để đạt được những thành tựu như ngày hôm nay, biết bao thế hệ đã phải hy sinh mồ hôi, xương máu. Bởi vậy, càng khó khăn, gian khổ, chúng ta càng kiên định với mục tiêu đã chọn, đấu tranh không khoan nhượng với những luận điệu xuyên tạc, sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng, bảo vệ đường lối cách mạng, khoa học của Đảng Cộng sản Việt Nam đã và đang tiếp tục dẫn dắt dân tộc ta đến bến bờ vinh quang, mang lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho toàn thể nhân dân. Cuộc đấu tranh tư tưởng, lý luận, bảo vệ quan điểm, đường lối của Đảng, bảo vệ thành quả cách mạng là nhiệm vụ hàng đầu trong cuộc đấu tranh giai cấp hiện nay.

Hai là, một nhiệm vụ đặc biệt quan trọng của đấu tranh tư tưởng, lý luận hiện nay là phải tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện.

Về bản chất, Đảng Cộng sản Việt Nam là đại diện cho lợi ích của giai cấp công nhân và toàn thể nhân dân lao động. Vì thế, “mọi đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật và hoạt động của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân, lấy hạnh phúc của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu”(4). Tuy nhiên, đối với bất cứ một đảng cầm quyền nào, nhất là trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay, nguy cơ tham nhũng, quan liêu, thoái hóa... luôn hiện hữu. Do vậy, để giữ vững bản chất, uy tín và năng lực lãnh đạo, Đảng “phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa cá nhân, chống tham nhũng, quan liêu, lãng phí, thoái hóa... trong nội bộ Đảng và trong toàn bộ hệ thống chính trị”(5). Cán bộ, đảng viên cần phát huy tinh thần nêu gương, nâng cao trách nhiệm, kiên quyết chống mọi biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, những biểu hiện bè phái, cục bộ, cá nhân chủ nghĩa... Đây chính là “giặc nội xâm” cực kỳ nguy hại, nếu không chống sẽ làm suy giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng.

Cùng với việc chống giặc “nội xâm”, để bảo đảm “sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc đổi mới và bảo đảm cho đất nước phát triển theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa”(6), chúng ta cần kiên quyết đấu tranh chống những tư tưởng sai trái, thù địch đòi “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập”, tập trung xây dựng “một hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân dân, chứ không phải chỉ cho một thiểu số giàu có”(7). Đây chính là cơ sở để giữ vững niềm tin và tạo sự ủng hộ của nhân dân, góp phần củng cố vững chắc vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam với tư cách là một đảng duy nhất cầm quyền. Bởi vậy, từ thực tế “tình trạng tham nhũng, lãng phí, suy thoái về tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống vẫn diễn ra trong một bộ phận cán bộ, đảng viên”(8), Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng phải được coi là “nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa”.

Ba là, để giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, cuộc đấu tranh tư tưởng, lý luận hiện nay gắn chặt với nhiệm vụ phản bác các luận điệu sai trái, xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.

Hiện nay, “các thế lực xấu, thù địch lại luôn tìm mọi thủ đoạn để can thiệp, chống phá, gây mất ổn định, thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình” nhằm xóa bỏ chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, do đó, cuộc đấu tranh này ngày càng cam go, quyết liệt hơn. Các thế lực thù địch không chỉ sử dụng internet, mạng xã hội, móc nối với các cá nhân, tổ chức trong nước, mà còn sử dụng nhiều phương thức, thủ đoạn mới, rất tinh vi nhằm kích động, lôi kéo sự tham gia của các phần tử chống đối, trong đó có cả một số cán bộ nguyên là lãnh đạo cao cấp đã nghỉ hưu, từ đó hướng lái dư luận xã hội theo ý đồ của chúng, gây hoang mang và làm giảm niềm tin của nhân dân đối với những chủ trương, đường lối của Đảng. Để tạo cơ sở cho công tác đấu tranh, đồng thời tránh sự chủ quan, xơ cứng, giáo điều, trì trệ và lạc hậu về lý luận, chúng ta cần tiếp tục nghiên cứu “tiếp thu, bổ sung một cách có chọn lọc trên tinh thần phê phán và sáng tạo những thành tựu mới nhất về tư tưởng và khoa học để chủ nghĩa, học thuyết của chúng ta luôn luôn tươi mới, luôn luôn được tiếp thêm sinh lực mới, mang hơi thở của thời đại”.  Đây là một yêu cầu cấp bách của công tác lý luận hiện nay.

Không gian trưng bày sách, báo phục vụ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng

Bốn là, đấu tranh tư tưởng, lý luận còn bao hàm việc khẳng định sự thành công của công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng, lãnh đạo.

Sau 35 năm thực hiện đường lối đổi mới đất nước, những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử đạt được trên mọi mặt là kết quả của sự nỗ lực, cố gắng của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta, mà trước hết là do đường lối lãnh đạo sáng suốt, đúng đắn của Đảng. Nhờ có đường lối đổi mới đúng đắn, chúng ta không chỉ thoát khỏi khủng hoảng kinh tế, ra khỏi nhóm các nước có thu nhập thấp từ năm 2008 và duy trì được tốc độ tăng trưởng nền kinh tế tương đối cao trong suốt 35 năm, với mức trung bình khoảng 7% mỗi năm, “kinh tế phát triển…, tỷ lệ nghèo đói giảm nhanh, liên tục; đời sống nhân dân được cải thiện, nhiều vấn đề xã hội được giải quyết; chính trị, xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được bảo đảm; đối ngoại và hội nhập quốc tế ngày càng được mở rộng; thế và lực của quốc gia được tăng cường”(11). Hầu hết các xã ở nông thôn đều có kết cấu hạ tầng tốt, có điện lưới quốc gia… Chúng ta hoàn thành xóa mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học vào năm 2000 và phổ cập giáo dục trung học cơ sở năm 2010; số sinh viên đại học, cao đẳng tăng gần 17 lần trong 35 năm qua. Tuổi thọ trung bình của người dân tăng từ 62 tuổi (năm 1990) lên 73,7 tuổi (năm 2020). Chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam đạt mức 0,704 (năm 2019), thuộc nhóm nước có HDI cao của thế giới, nhất là so với các nước có cùng trình độ phát triển. Đặc biệt, gần đây nhất, những kết quả đạt được trong bối cảnh đại dịch COVID-19 và suy thoái kinh tế toàn cầu được nhân dân và bạn bè quốc tế ghi nhận, đánh giá cao, đã thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

Đất nước ta đã hoàn thành xóa mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học vào năm 2000 và phổ cập giáo dục trung học cơ sở năm 2010

Những thành tựu đổi mới đó đã chứng tỏ rằng,“phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa không những có hiệu quả tích cực về kinh tế mà còn giải quyết được các vấn đề xã hội tốt hơn nhiều so với các nước tư bản chủ nghĩa có cùng mức phát triển kinh tế”. Con đường đi lên CNXH ở nước ta từng bước được hoàn thiện và hiện thực hóa. Những thành tựu đó không phải là một sự may mắn, ngẫu nhiên, mà là “sản phẩm kết tinh sức sáng tạo, là kết quả của cả một quá trình nỗ lực phấn đấu bền bỉ, liên tục qua nhiều nhiệm kỳ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta”(14). Thành quả đó một lần nữa khẳng định: “Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của chúng ta là đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan, với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại” và “đường lối đổi mới của Đảng ta là hoàn toàn đúng đắn, sáng tạo”. Đó là sự thật không thể đảo ngược, là câu trả lời hết sức thuyết phục cho những ai còn nghi ngờ, thậm chí “sám hối” về con đường đi lên CNXH và phủ nhận đường lối đổi mới mà Đảng ta đã khởi xướng và lãnh đạo, là minh chứng sinh động, phản bác đanh thép, bẻ gãy những luận điệu xuyên tạc, sai trái, thù địch.

Cho đến nay, cuộc đấu tranh tư tưởng, lý luận ở nước ta vẫn đang tiếp tục diễn ra ngày càng cam go, phức tạp. Nhằm ngăn chặn những tư tưởng, nhân tố phi xã hội chủ nghĩa, những phần tử bảo thủ, thoái hóa, biến chất; kiên quyết đấu tranh chống các thế lực thù địch xuyên tạc chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta, đòi hỏi chúng ta trước hết cần phải kiên định mục tiêu CNXH, giữ vững thành quả cách mạng, củng cố, tăng cường và phát huy sự đoàn kết thống nhất trong Đảng và trong nhân dân. Đồng thời, cần nghiên cứu thấu đáo lý luận về CNXH và con đường đi lên CNXH ở nước ta, về giai cấp và đấu tranh giai cấp, củng cố lập trường giai cấp; trên cơ sở đó, soi rọi vào thực tiễn để đưa ra những hình thức, phương pháp đấu tranh phù hợp, tránh rơi vào sai lầm, cực đoan hoặc xem nhẹ, bỏ trống trận địa đấu tranh dẫn đến mơ hồ, mất cảnh giác, rơi vào âm mưu “diễn biến hòa bình” của các lực lượng thù địch. Cuộc đấu tranh này còn diễn ra lâu dài và gian khổ, song dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, sự đồng lòng, ủng hộ của nhân dân, chúng ta tin tưởng rằng, mục tiêu xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa ở nước ta sẽ sớm trở thành hiện thực, đáp ứng được lòng mong mỏi, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân./. ST

 

CUỘC ĐẤU TRANH TƯ TƯỞNG, LÝ LUẬN TẤT YẾU, LÂU DÀI

VÀ KHÔNG KHOAN NHƯỢNG HIỆN NAY

Con đường xã hội chủ nghĩa Việt Nam mà chúng ta đi, không gì lay chuyển được. Công tác tư tưởng, lý luận tiếp tục gánh vác sứ mệnh lịch sử cầm nhịp thống nhất toàn dân tộc, “soi đường cho quốc dân đi” trên con đường ấy.

Khi một tư tưởng xuất hiện, tồn tại và phát triển, tự thân nó là một cuộc đấu tranh để tự khẳng định nó; và, tranh đấu với các tư tưởng khác, dù muốn hay không, dưới muôn ngàn hình thức, quy mô, tính chất và mức độ, là quy luật sinh tồn của tư tưởng, đó là lẽ tự nhiên của sự phát triển. Không có con đường nào khác.

Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và sự nghiệp đổi mới xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc đã và đang như vậy. Phương diện tư tưởng, lý luận chính trị của chúng ta cũng như vậy, không nằm ngoài quy luật đó.

Hiện nay, hơn bao giờ hết, sau hơn 32 năm đổi mới, trên đường tiến tới Đại hội XIII của Đảng, cuộc đấu tranh tư tưởng, lý luận đang đối mặt với rất nhiều thử thách. Chúng ta hiểu rằng, có những ý kiến phản biện, đóng góp tâm huyết hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp cho việc hoạch định đường lối và tổ chức thực tiễn từ nhiều người, nhiều phía cả trong và ngoài nước, chúng ta trân trọng ghi nhận và tiếp thu. Nhưng, nếu đem ý kiến phản biện dù đầy thiện chí xây dựng đó tán phát khắp nơi, thậm chí loan tải trên mạng in-tơ-nét để cho người khác lợi dụng, công kích, chống phá,... thì lại đưa câu chuyện ấy sang một hướng khác, dù thấm đẫm sự mong đợi về nhiệt huyết hay thiện tâm nào đó.

Mấy năm nay, với “hàng núi” sách báo chống Đảng, hàng trăm giọng điệu công kích, bôi nhọ, phủ nhận, với hàng nghìn thủ đoạn đủ loại, trên mọi phương diện, đang tràn ngập mạng in-tơ-nét: về nền tảng tư tưởng chính trị của Đảng, về Đảng và sự cầm quyền của Đảng, về thể chế xã hội chủ nghĩa Việt Nam, về hệ thống chính trị và về đội ngũ cán bộ, đảng viên... Những luận điệu xuyên tạc công cuộc đổi mới, sự công kích Đảng, Nhà nước và đất nước ta từ nhiều phía, với nhiều thủ đoạn, ở nhiều mức độ và nhiều tính chất, cả bên trong lẫn bên ngoài, rất phức tạp. Theo đó, xuất hiện đủ loại thái độ và phương cách hành xử gây nên tình trạng trắng đen lẫn lộn, thật giả hỗn mang, rất khó nhận diện và rất nguy hiểm nhưng rất tinh vi.

 

Có người, để ru ngủ và khiến không ít người lãng quên và mất cảnh giác, đã chỉ trích một cách ma mỵ rằng, chúng ta tưởng tượng ra cuộc đấu tranh tư tưởng, lý luận chính trị hiện nay và thổi phồng sự cấp bách cuộc đấu tranh này(!). Không! Chúng ta cũng không tự dựng lên những kẻ thù tư tưởng, lý luận chính trị, như ai đó nói, để huyễn hoặc sự quan trọng của chúng ta hay để khuếch trương lên sự phức tạp những công việc này. Chúng ta xây dựng sự thống nhất xã hội về tư tưởng chứ không phải “đồng phục tư tưởng”(!), kiến tạo nền lý luận trung thành và độc lập, sáng tạo của Việt Nam chứ không phải thứ “lý luận nhập khẩu”, “đầu Ngô mình Sở”(!), như những ai đó bôi nhọ và công kích.

Chúng ta càng không mơ hồ, ảo tưởng, tự ru ngủ mình về “sự thống nhất trong đa dạng” một cách cực đoan nào đó, như họ cổ xúy, rồi rơi vào sự chiết trung theo kiểu “vỗ vai cùng chung sống giữa các tư tưởng, các trào lưu”(!) hay “đã nguội tắt dần cuộc đấu tranh ý thức hệ”(!) giữa các hệ tư tưởng, các thể chế, quốc gia, dân tộc, biểu hiện tập trung giữa các tư tưởng gia ở những chế độ khác nhau... Chúng ta cũng càng không buông tay, thúc thủ, an bài, hoặc bi quan, yếm thế nào đó, rồi rơi vào “vũng lầy” của sự hoang mang, vô định, như những ai đó mong đợi hiện nay. Chúng ta hiểu rằng, bản chất của những sự thật về những hình thái vận động và đấu tranh tư tưởng, lý luận đó đang trở thành phổ biến một cách hết sức phức tạp có thể bị lừa phỉnh hoặc bị che lấp bởi những trào lưu mới mà những kẻ thù tư tưởng của chúng ta chưa bao giờ buông bỏ sự chống phá thâm hiểm, thậm chí kháng cự quyết liệt.

Cuộc đấu tranh về tư tưởng, lý luận chính trị của chúng ta hiện nay đang đối mặt, thậm chí bị chi phối, bị cản trở và phải đối diện với tối thiểu chính những điều đó. Đó là những trở lực chết người trên con đường kiến tạo nền tư tưởng thống nhất, lý luận kiên định, độc lập và sáng tạo bảo đảm dẫn dắt công cuộc đổi mới toàn diện, đồng bộ, dưới ngọn cờ của Đảng.

Lịch sử phát triển của cách mạng nước ta ngày càng cho thấy, càng ở những khúc quanh hay bước ngoặt của nó như hiện nay, điều đó càng hiện diện, càng muôn vẻ, phức tạp và khôn lường nhất. Và, hiện nay, cuộc đấu tranh này hiện diện trên vũ đài lịch sử nước ta nói chung, trên địa hạt tư tưởng, lý luận chính trị nói riêng, khiến chúng ta không thể thể lảng tránh, chối bỏ, hay thúc thủ, bàng quan, càng không dung thứ bất cứ một sự ngụy tạo nào... nếu muốn bảo vệ tiếp tục phát triển độc lập, sáng tạo nền tảng tư tưởng, lý luận chính trị của Đảng đủ sức dẫn dắt và phát triển đất nước trên con đường xã hội chủ nghĩa.

 

Mơ hồ hay buông lỏng cuộc đấu tranh này, chúng ta sẽ thất bại. Bản chất của những kẻ chống phá chúng ta không bao giờ thay đổi.

Và vì thế, cần thiết phải nói thêm rằng, hiện giờ, cuộc đấu tranh này càng nóng bỏng, mang ý nghĩa không khoan nhượng, thậm chí sinh tử hơn hết bao giờ.

 

CHÚNG TA CẦN LÀM GÌ VÀ LÀM NHƯ THẾ NÀO TRONG CUỘC ĐẤU TRANH TƯ TƯỞNG, LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ HIỆN NAY

Vấn đề tư tưởng phải được giải quyết bắt đầu từ tư tưởng, trước khi bằng con đường tổ chức, pháp luật.

Nhưng, không thể chỉ giải quyết triệt để những vấn đề tư tưởng, lý luận bằng chính vấn đề tư tưởng, lý luận một cách thuần túy, thậm chí rất suông.

Trước hết, chúng ta phải có một cương lĩnh về hành động một cách có tư tưởng. Cương lĩnh hành động hiện nay chính là, khi tình hình đã khác trước, cần nhận diện đúng, phân định trúng và có đối sách phù hợp và hiệu quả.

Thực tiễn cho thấy, không thể để tình trạng những người bàn về tư tưởng nhưng hành động phi tư tưởng, thậm chí trái tư tưởng, xỉ nhục tư tưởng. Kinh nghiệm đã và đang chỉ ra rằng, từ sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống tới “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” chỉ là một bước chuyển ngắn, thậm chí rất ngắn, tới mức khôn lường, trở thành kẻ đối lập với nhân dân, với dân tộc, phản bội lại Đảng, phản bội thể chế. Vì thế, mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng, trong cuộc đấu tranh này, phải tự mình trở thành một nhà tư tưởng một cách ngang tầm và trong sạch.

Tự mình phải làm công tác tư tưởng cho chính mình, và phải tự mình trong sạch; và trở nên đúng đắn, tự trọng và ngang tầm theo các quy định về nêu gương: Quy định số 101-QĐ/TW, ngày 07-6-2012, của Ban Bí thư khóa XI, “Về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp”; Quy định số 55-QĐ/TW, ngày 19-12-2016, của Bộ Chính trị khóa XII, “Về một số việc cần làm ngay để tăng cường vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên” và Quy định số 08-QĐi/TW, ngày 25-10-2018, của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, “Trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương”. Chúng ta có tối thiểu hơn 4 triệu “nhà tư tưởng” là đảng viên. Đó là hành động mang tính tư tưởng nhất. Chúng ta không ảo tưởng về điều đó, nếu đảng viên thực sự là đảng viên, lãnh đạo thực sự ngang tầm trọng trách lịch sử. Chỗ nào vắng cán bộ, đảng viên, chỗ đó trận địa tư tưởng bị bỏ trống. Vì thế, việc tổng rà soát, sàng lọc nhằm làm trong sạch đội ngũ đảng viên là trọng sự rất cấp bách, không thể trì hoãn.

Càng không thể giải quyết những lỗi lầm tư tưởng chính trị bằng thứ tư duy đã đẻ ra nó; những vấn đề bất thường của tư tưởng chính trị phải được giải quyết bằng những phương pháp bất thường, tức vấn đề tổ chức và cán bộ. Chấm dứt tình trạng: Người có tư tưởng thì không có quyền được quyết định, người được quyền quyết định lại không có tầm tư tưởng. Đó là cách làm tư tưởng cụ thể nhất, chứ không rơi vào đạo lý suông, tư tưởng chính trị suông. Chọn người xứng đáng và ngang tầm là nhân tố quyết định thành bại công việc này.

Người đứng đầu các cấp trong bộ máy hệ thống chính trị phải là những người lĩnh nhiệm xứng đáng sứ mệnh công tác tư tưởng, lý luận của thế chế một cách gương mẫu và thật sự. Ai không làm tròn trọng trách đó thì nên từ chức hoặc không ngần ngại, buộc phải thay thế họ. Không thể để thảm họa: những ai nhúng chàm tư tưởng; đạo chích, đạo vị, đạo tâm... đi rao giảng về sự cao quý của tư tưởng, sự “soi đường cho quốc dân đi” của lý luận, sự trong sạch, liêm sỉ, liêm chính, nghĩa khí hay quốc sỉ của những người trên địa hạt tư tưởng, lý luận. Đó là tình trạng “a dua tư tưởng, lý luận”, tầm thường hóa tư tưởng, lý luận, “ngụy tư tưởng”, “ngụy lý luận”. Nói cách khác, đó là kiểu làm tư tưởng, lý luận như “mang giấy bọc lửa”. Như thế, vô hình làm phương hại công tác tư tưởng, lý luận của chúng ta; vô hình tiếp tay cho sự lan rộng của sự suy thoái tư tưởng chính trị, tệ hủ bại trong hành động thực tiễn phi tư tưởng, lý luận,... Như thế là, phản tư tưởng nhất, là sự hạ thấp, thậm chí hủy hoại nền móng tư tưởng, lý luận chính trị.

Đòi hỏi cao đối với cán bộ lãnh đạo, nhất là các đồng chí giữ cương vị trọng trách trong bộ máy của Đảng, Nhà nước ở các cấp, các đồng chí Ủy viên Trung ương Đảng, bí thư tỉnh ủy, thành ủy, bộ trưởng, người đứng đầu các ngành, các địa phương, đơn vị và các cán bộ lãnh đạo khác tự giác rèn luyện tầm nhìn chính trị chiến lược, trung thành với lý tưởng, khép mình vào kỷ luật, giữ trọn vẹn liêm sỉ, tự mình trong sạch; làm gương trước nhân dân, trước cấp dưới về hành động chính trị, về danh dự, về sự dũng cảm hành động theo lời nói, về trách nhiệm công việc, về phẩm hạnh chính trị và đạo đức... trong thực thi đường lối của Đảng, vì lợi ích tối cao của nhân dân, của dân tộc và của Đảng. Đồng thời, chủ động tổng kết thực tiễn, phát triển đường lối chính trị của Đảng, làm giàu kinh nghiệm tổ chức thực tiễn mang tính lý luận. Sống và làm việc trong nhân dân để mỗi cán bộ, đảng viên tự soi, tự sửa và tự chỉnh đốn mình. Hóa thân trong các phong trào hành động của nhân dân để dẫn dắt, qua đó để tổng kết kinh nghiệm, trau dồi khả năng và rèn dũa trình độ lý luận của chính mình nhằm phát triển phong trào. Lúc này, một bước tiến trong hành động có giá trị hơn một tá cương lĩnh, nói như C. Mác. Đó là con đường bảo vệ tư tưởng, phát triển lý luận của chúng ta một cách chủ động nhất, ngắn nhất và tự giác nhất.

Tự chỉnh đốn mình đủ năng lực xử lý, nhất là đối thoại, tranh luận một cách dân chủ, bình đẳng và cầu thị với tất cả những ai quan tâm về công tác tư tưởng, với các trào lưu tư tưởng, lý luận từ mọi phía. Đó là hiện thân sinh động và sức sống mạnh mẽ của tư tưởng, lý luận chính trị, của công tác tư tưởng, lý luận, phát triển đường lối chính trị của Đảng dẫn dắt công cuộc đổi mới toàn diện, đồng bộ và hội nhập quốc tế hiện nay.

Và, hơn hết bao giờ, phải chủ động hành động kiên quyết, vì sự sống còn đó.

Cương lĩnh hành động hiện nay là, tiếp tục kiến tạo một đội ngũ chiến lược gia tư tưởng, lý luận hay tối thiểu là các cán bộ tư tưởng, lý luận cấp chiến lược ngang tầm trọng trách của công cuộc đổi mới toàn diện, đồng bộ và hội nhập quốc tế. Vẫn là tiếp tục công việc về tổ chức và cán bộ, nếu được tiến hành hiệu quả, thì chính là giải pháp phát triển tư tưởng, lý luận hữu hiệu nhất. Kinh nghiệm lịch sử tư tưởng và đấu tranh tư tưởng, lý luận ngày càng xác thực rằng, lý do tồn tại của tổ chức đảng, và các lãnh tụ xứng đáng với danh hiệu đó là, ngoài nhiều điểm khác, đảng và lãnh tụ còn phải thông qua một công tác lâu dài, kiên cường, thiên hình vạn trạng nhiều mặt của tất cả các đại biểu giác ngộ của giai cấp mình mà thu hoạch được những kiến thức cần thiết, - ngoài kiến thức và kinh nghiệm là tính nhạy bén chính trị cần thiết để giải quyết một cách chính xác và mau lẹ những vấn đề chính trị phức tạp.

Nói một cách hình ảnh, đã đến lúc, về mặt tổ chức bộ máy, không thể để tồn tại những ông “Đông Quách”, những “con thò lò sáu mặt”, “ăn cây táo rào cây xoan nâu” trong đội ngũ, trước hết trong đội ngũ cán bộ cấp chiến lược và nguyên cấp này, trước hết trên địa hạt tư tưởng, lý luận. Nếu để duy tồn, vô hình trung, tối thiểu đã làm phương hại theo kiểu “quả bí thối từ ruột thối ra”, thậm chí chặt cụt động lực của các nhà tư tưởng, lý luận; mặt khác sẽ thủ tiêu và tự thủ tiêu cả hai: cán bộ và bộ máy làm công tác tư tưởng, lý luận. Và, thậm chí làm băng hoại ngay cả bộ máy làm công tác tổ chức và kiểm tra, thanh tra và bảo vệ pháp luật vì “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trực tiếp đối với công tác tư tưởng, lý luận, khi trận địa tư tưởng, lý luận bị xâm hại và bị chi phối bởi những tệ nạn đó.

Cần thiết rà soát, sàng lọc, để tái kiến tạo đội ngũ và hệ thống các bộ máy này, để tư tưởng, lý luận có khả năng dẫn dắt và bảo đảm phát triển công cuộc đổi mới toàn diện, đồng bộ đúng hướng. Đó là phương lược và nghệ thuật hiện thời. Cần toàn dụng đức trị và pháp trị trên phương diện này. Đội ngũ chúng ta phải tự mình trở nên mạnh mẽ, dũng cảm và kiên quyết ngang tầm yêu cầu của lịch sử! Đó chính là hiện thân và hành động tư tưởng, lý luận nhất.

Đó là phương sách xây kết hợp phòng, chống chủ động và hiệu quả nhất trên địa hạt tư tưởng, lý luận!

Cương lĩnh hành động lúc này là, tổng soát xét, tiếp tục đổi mới toàn diện và căn bản hệ thống tổ chức, cơ chế vận hành và thể chế về công tác tư tưởng, lý luận chính trị. Tối thiểu có 3 loại công việc nổi bật:

 

Về hoàn thiện cơ chế vận hành: Đâu là tư tưởng, đâu là lý luận, đâu là tư tưởng lý luận chính trị? Ai làm, làm với ai, làm như thế nào? Các binh chủng tư tưởng, lý luận hiện nay ra sao: về chức năng, nhiệm vụ, về tổ chức bộ máy và phương thức vận hành thế nào? Duy tồn tình trạng hiện nay liệu có còn tương thích không? Nếu không, thì sẽ làm gì? Phải chăng cấp bách cơ cấu lại chiến lược hệ thống đào tạo, truyền thông, tuyên giáo các cấp, các cơ quan nghiên cứu... theo hướng tập trung, thống nhất, rõ việc, gọn nhẹ, rõ trách nhiệm cá nhân phụ trách, trên cơ sở đổi mới chức năng, nhiệm vụ độc lập từng cơ quan bảo đảm sự thống nhất giữa công tác tổng kết thực tiễn với phát triển tư tưởng, lý luận?

Trên cơ sở đó, định biên, tuyển chọn dân chủ hóa nhằm kiến tạo đội ngũ cán bộ tư tưởng, lý luận tương xứng theo hướng tinh hoa, chuyên nghiệp và văn hóa hóa. Sàng lọc nghiêm khắc và kiến tạo chặt chẽ theo hướng tinh lọc, ngăn chặn chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa dân túy, chủ nghĩa cá nhân... bảo đảm sự trong sạch, tương thích đội ngũ này.

Về đổi mới thể chế hoàn bị: Đâu là thể chế cơ bản, đâu là mắt xích chủ yếu? Đâu là thể chế bất biến, cái thể chế khả biến là đâu? Đâu là sức mạnh tổng hợp giữa công tác giáo dục - cơ quan hành động trên địa hạt tư tưởng, lý luận với công tác tổ chức và pháp luật... Theo đó, cần phân định rõ không chỉ về định tính mà cần định lượng cụ thể lực lượng làm công tác tư tưởng, lý luận, trước hết là cấu trúc lại hệ thống báo chí và đội ngũ những người làm báo, hợp thành binh chủng tư tưởng, lý luận chỉnh thể đổi mới và ngang tầm. Các thiết chế cần và đủ bảo đảm vận hành toàn bộ công tác này bao gồm những gì, chúng ra sao; những gì thuộc về chuyên ngành, những gì thuộc về liên ngành, tối thiểu là các lĩnh vực và phương tiện làm công việc tư tưởng, lý luận, tổ chức và pháp luật, trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, hội nhập quốc tế trong “thế giới phẳng”, cố nhiên cả không “phẳng” hiện nay?

Theo đó, tiếp tục chỉnh đốn lĩnh vực báo chí truyền thông và các phương tiện truyền thông xã hội. Sẽ là khiếm khuyết, thậm chí thất bại, nếu thiếu hoặc buông lỏng loại công việc này. Kinh nghiệm ban hành và thực thi Luật An ninh mạng của Ô-xtrây-li-a vào tháng 2-2019, sự ra đời của ngành công nghiệp an ninh mạng của Xin-ga-po vào tháng 3-2019, bảy lĩnh vực quản lý mạng xã hội của Anh vào tháng 4-2019 mới đây... đã cho chúng ta những kinh nghiệm tham chiếu đáng suy ngẫm trên lĩnh vực này. Vì, những người chống phá tư tưởng, những kẻ thù lý luận đã và đang sử dụng những phương tiện ấy như những “cây cầu tư tưởng” đi thẳng vào trái tim khối óc của chúng ta, gây tác họa rất nguy hiểm ở không ít nơi, đối với không ít người, lại tỏ ra rất nhiệm màu. Họ âm mưu tạo nên tình trạng “mù màu về tư tưởng”, “hỗn loạn về lý luận” để làm rối tình hình chính trị, hạ bệ cơ sở lý luận chính trị mác-xít, nhằm phá hoại đường lối chính trị của Đảng; qua đó bôi nhọ, làm phá sản chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh ở nước ta.

Đổi mới, xây dựng và hoàn thiện các thiết chế toàn diện, toàn vẹn, mạnh mẽ, và đồng bộ bảo đảm giữa tự do, dân chủ và pháp luật một cách minh bạch, công khai và nhân bản, trên bình diện tư tưởng, lý luận một cách chủ động và nghiêm khắc.

Về trách nhiệm cơ quan hoạch định chiến lược chính trị, cơ chế và thể chế và cơ quan có thẩm quyền quyết định: Đây là việc to lớn, đa diện của các cấp ủy, chính quyền các cấp.... Xin nói gọn: Cấp bách thực thi quyết sách của Bộ Chính trị, Trung ương Đảng khóa XII về công tác này, một cách căn cơ, chiến lược, tổng hợp và khả thi, trong tầm nhìn tới năm 2030, trước mắt trên lộ trình tiến tới Đại hội XIII của Đảng.

Đó là những công việc cần kíp thực thi hiện nay đối với Đảng, và của chính công tác tư tưởng, lý luận chính trị của Đảng. Không như thế không thể nói tới việc bảo vệ tư tưởng, lý luận, càng không thể nói tới việc phát triển độc lập hay sáng tạo đột phá về tư tưởng, lý luận, dù chỉ là một bước nhỏ!

Con đường xã hội chủ nghĩa Việt Nam mà chúng ta đi, không gì lay chuyển được. Công tác tư tưởng, lý luận tiếp tục gánh vác sứ mệnh lịch sử cầm nhịp thống nhất toàn dân tộc, “soi đường cho quốc dân đi” trên con đường ấy.

Và, dù cho kẻ thù của chúng ta câu kết với những phần tử từ bên trong, điên cuồng công kích, phá hoại, Đảng ta đứng vững trên nền móng tư tưởng chính trị và phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, thâu hóa và góp phần phát triển tinh hoa tư tưởng, lý luận của nhân loại, với sự ủng hộ và bảo vệ của nhân dân, công cuộc đổi mới toàn diện, đồng bộ dưới ngọn cờ của Đảng, dân tộc ta nhất định vượt qua mọi trở lực, như 89 năm qua, tiếp tục tiến lên, nhịp bước cùng thời đại. ST

 

NHỮNG VẤN ĐỀ CỐT TỬ CÓ Ý NGHĨA MẤT CÒN TRONG CUỘC ĐẤU TRANH TƯ TƯỞNG, LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ HIỆN NAY

Nhìn toàn cục, hiện tại có thể hình dung 8 loại vấn đề cốt tử và chủ yếu mệnh hệ chung quanh vấn đề này, mà các phần tử chống phá tập trung mũi nhọn, bằng mọi thủ đoạn và hình thức đang ra sức công kích từ bên ngoài và gieo rắc mối hoài nghi, chia rẽ từ bên trong. Và, ở mức độ này hay tính chất khác, trong đội ngũ chúng ta có một số người “bị sập bẫy”, rồi phụ họa, thậm chí ủng hộ những biểu hiện, âm mưu, thủ đoạn ấy.

Thứ nhất, công phá nền tảng tư tưởng chính trị và thủ tiêu ý thức hệ.

Với đủ giọng điệu nhiều cung bậc, họ phê phán, công kích trực diện vào chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa Lê-nin... hòng làm phân tâm, gây hoài nghi trong những người hoạch định chiến lược, bôi nhọ và cuối cùng đánh sập nền tảng chính trị và cơ sở tư tưởng của đường lối chính trị của Đảng. Đây là thủ đoạn hết sức thâm độc và có sức công phá lớn, nhằm thẳng vào nền tảng chính trị tư tưởng của Đảng và tác họa khôn lường, nhằm lật đổ Đảng từ những vấn đề căn bản, có ý nghĩa cốt tử.

Chung quanh vấn này, nổi bật mấy loại chủ yếu: Tiếp tục công kích vào các loại vấn đề cơ bản thuộc hình thái kinh tế - xã hội, phương thức sản xuất, động lực phát triển xã hội, vai trò và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, phương pháp tư duy và phương pháp cách mạng,... Thủ đoạn mới là, họ chuyển từ sự bôi nhọ cái gọi là “du nhập ngoại lại” sang đánh tráo khái niệm, thay thế các khái niệm... nhằm cổ xúy cho cái gọi là “đảo lộn” tư duy, gây rối loạn về phương pháp luận. Thổi phồng những cái gọi là “chủ thuyết phát triển nhân loại mới”, đem đối lập C. Mác với V.I. Lê-nin; đối lập Hồ Chí Minh với V.I. Lê-nin, thổi phồng một cách cực đoan tư tưởng Hồ Chí Minh,... cốt phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lê-nin, vô hình hạ bệ tư tưởng Hồ Chí Minh, rốt cuộc nhằm phủ nhận, công phá và đánh sập nền tảng chính trị tư tưởng của Đảng.

Và, họ đánh lừa được không ít người. Có không ít loại ý kiến theo đuôi và phụ họa của những người non kém về chính trị, bạc nhược về tư tưởng.

Thứ hai, bôi nhọ, xuyên tạc đường lối chính trị và công phá thể chế chính trị.

Đây là “tử huyệt” mà các luận điệu thù địch tập trung sức công phá, ở nhiều mức độ: nhẹ thì tung hỏa mù, đánh lạc hướng, gây nên tình trạng nghi ngờ, mất phương hướng hành động; nặng thì không từ mọi chiêu bài, thủ đoạn nhằm phủ nhận tính cách mạng, cơ sở khoa học và bôi nhọ thực tiễn lịch sử cách mạng nhằm xuyên tạc và phủ nhận đường lối chính trị của Đảng.

Trong rất nhiều phương diện chung quanh vấn đề này, xin nhấn mạnh mấy loại luận điệu tập trung công kích trụ cột đường lối chính trị và thể chế chính trị Việt Nam: 1- Bài xích, phủ nhận kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, 2- Cổ xúy đa nguyên chính trị, đòi “tam quyền phân lập”, vu khống chế độ toàn trị, dựng lên và thổi phồng “lỗi hệ thống”... nhằm xóa bỏ thể chế hiện tồn, 3- Tán dương và cái gọi là “khuyến nghị” thực thi phát triển “xã hội dân sự”; 4- Lợi dụng việc sửa đổi Hiến pháp và các luật nhằm làm sai lệch những vấn đề cơ bản nhất về chế độ sở hữu, về quyền con người, quyền dân tộc,...

Chuyển hóa đường lối chính trị, thông qua việc chia rẽ, mua chuộc đội ngũ các nhà chính trị hoạch định đường lối, và là con đường ngắn nhất chuyển hóa chế độ. Lợi dụng “lợi ích nhóm” và các “nhóm lợi ích”, họ tán dương và dùng mọi giọng điệu để bôi nhọ, khoét sâu những vấn đề này nhằm phân hóa từ trong nội bộ Đảng, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, phá nát chiến lược cán bộ, tạo sự gây hấn, phân hóa giữa các loại cán bộ trong hệ thống chính trị của chúng ta.

Thứ ba, tung hỏa mù về “đảng trị” và vu khống Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền.

Họ bài xích Đảng, với các mánh lới và giọng điệu vừa tinh vi, vừa trắng trợn: 1- Đảng tự cho mình đứng trên tất cả, nghị quyết của Đảng cao hơn và bất chấp Hiến pháp, chỉ cần Hiến pháp không cần Đảng; 2- Độc đảng tất yếu sẽ là chế độ toàn trị, cần phải đa đảng mới hy vọng có dân chủ, mới có chế độ dân chủ; 3- Cần lập các trường phái trong Đảng mới thực sự dân chủ, nếu Đảng muốn xây dựng nền dân chủ đích thực của đất nước; 4- Đảng tự cho mình quyền lãnh đạo đất nước, xưa nay có Đảng đâu mà dân tộc vẫn tồn tại và phát triển; 5- Đa thành phần kinh tế nhất định sẽ dẫn tới đa đảng chính trị; 6- Cần “phi chính trị hóa” và tôn trọng tính độc lập của các lực lượng vũ trang, không cần sự lãnh đạo của Đảng; 7- Giai cấp công nhân đã hết vai trò, tới lượt và chỉ có trí thức mới là lực lượng dẫn dắt xã hội thay vì giai cấp công nhân, trong cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; 7- Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền phi chính đáng, phi chính danh...v.v. và v.v.. Vô vàn các giọng điệu hằn học, bôi nhọ, phủ nhận, xuyên tạc bất chấp mọi lý lẽ thông thường.

Thứ tư, chia rẽ phá hoại mối quan hệ mật thiết giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước.

Sức mạnh của Đảng sẽ mất, nếu tách khỏi cơ sở xã hội - chính trị là nhân dân. Đó chính là pháp lý được ghi trong Hiến pháp, trong vị thế “vừa là người lãnh đạo, vừa là người đày tớ thật trung thành của Nhân dân” và đạo lý sống được thừa nhận trong xã hội, với tư cách là “đứa con nòi của giai cấp lao động” của Đảng. Chúng âm mưu đánh sập đạo lý của Đảng chúng ta với nhân dân, phủ nhận sự chính danh, chính pháp giữa Đảng với Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.

Các luận điệu đó, cốt chia rẽ, âm mưu kích động đối lập Đảng với nhân dân, tạo sự xa cách, oán thán, thù ghét, tẩy trừ cán bộ và đảng viên của Đảng, dưới mọi hình thức. Chúng cổ xúy cho bảo trợ và tham gia các tổ chức “xã hội dân sự” tự phát. Chúng ngụy tạo, tô vẽ, thổi phồng những biểu hiện riêng lẻ, những khuyết điểm để thổi phồng quy kết thành bản chất của một đảng cầm quyền và đã làm phân tâm không ít bộ phận dân cư.

Thứ năm, khoét sâu vấn đề tôn giáo, dân tộc, nhân quyền với thể chế xã hội chủ nghĩa nhằm phá vỡ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chống lại nhân dân.

Đây là các duyên cớ để các luận điệu thổi phồng sự thật, khoét sâu sự ngăn cách thù oán do chúng tưởng tượng và dựng lên, để mưu đồ đối lập Đảng với tôn giáo, kích động sự kỳ thị giữa các dân tộc trong cộng đồng 54 dân tộc anh em, nhằm chia rẽ nội bộ các dân tộc, giữa đồng bào có đạo và không theo đạo, giữa các tôn giáo với nhau, đào sâu hố ngăn cách giữa đồng bào các tôn giáo với Đảng, Nhà nước. Chúng thường gắn vấn đề dân tộc với vấn đề tôn giáo, kích động vấn đề nhân quyền, phá rối từ cơ sở, tiến tới lật đổ vai trò lãnh đạo của Đảng bằng các hình thức “cách mạng màu”.

Các thủ đoạn thường thấy là, kích động đòi đất, đòi nơi thờ tự vô lối, đòi hành lễ phi pháp luật, tụ tập đông giáo dân gây mất an ninh thực hiện cái gọi là “bất tuân dân sự”; chia rẽ, kích động đồng bào các dân tộc thiểu số biểu tình gây bạo loạn... dưới chiêu bài nhân quyền, tự do, dân chủ; móc nối với các tổ chức quốc tế, với các thế lực thù địch từ nước ngoài để làm rối tình hình trong nước.

Họ kích động, hà hơi tiếp sức những người nhân danh “lòng yêu nước”, mưu toan khởi hấn, xuống đường biểu tình vô lối, để “đục nước béo cò”, “mượn gió bẻ măng”... mưu lợi cho mình và phe nhóm mình.

Thứ sáu, thông qua vấn đề chính trị gia và quan hệ giữa các nhà lãnh đạo chính trị, giữa các lực lượng nhằm xâm hại thể chế xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Đây là vấn đề xung yếu nhất. Ngụy tạo mâu thuẫn trong Bộ Chính trị, tưởng tượng sự chia rẽ Ban Chấp hành Trung ương Đảng với Quốc hội và Chính phủ; thổi phồng sự khác biệt, cao hơn là mâu thuẫn giữa các thế hệ lãnh đạo, các cá nhân lãnh đạo các cấp, nhất là cấp chiến lược... với âm mưu thúc đẩy tan rã nội bộ và tự tan rã thế chế. Họ ngụy tạo những trang điện tử giả danh cán bộ cấp cao của Đảng, Nhà nước để tung tin giả, công kích nội bộ nhằm gây nghi kỵ lẫn nhau, tạo nên sự hỗn mang tư tưởng rất nguy hiểm.

Âm mưu đó nham hiểm không kém thủ đoạn kích động tư tưởng “sứ quân”, “cát cứ”, gây chia rẽ vùng, miền, đòi “dân sự hóa” Quân đội nhân dân, ly gián Quân đội nhân dân với Công an nhân dân, “phi chính trị hóa” các lực lượng này, âm mưu cái gọi là thông qua “hạ bệ thần tượng” nhằm “bắn con chim đang bay”(!)...

Thứ bảy, chung quanh vấn đề quan hệ quốc tế, võ đoán các nguy cơ cái gọi là “đu dây bên miệng hố”, kích động cái gọi là “bài”, “thoát” nước này, liên minh với nước khác, cốt phá hoại đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa trong hội nhập quốc tế của Đảng ta, cổ xúy cho chủ nghĩa ly khai, xâm hại nhân dân, phá vỡ sự thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc.

Đây là một đích ngắm của đủ loại mưu đồ, đủ giọng điệu, với các phương tiện hiện đại, có sức công phá lớn và hết sức nguy hiểm.

Mục tiêu của chúng là thông qua “diễn biến hòa bình”, làm suy yếu Việt Nam từ bên ngoài, gây hằn thù trong các mối bang giao quốc tế của ta nhằm cô lập ta trong cộng đồng quốc tế. Kích động, chia rẽ các đối tác quốc tế với nhau, các đối tác quốc tế chiến lược với chúng ta... Nghĩa là, họ muốn thể chế của ta sụp đổ.

Bằng nhiều “cây cầu” (truyền thông giả mạo, sách báo, núp sau các tổ chức quốc tế, các tổ chức tôn giáo...), với thủ đoạn “mưa dầm thấm sâu”, “tổ mối đục ruỗng chân đê”... chúng dựng hư chuyện, thổi phồng hiện tượng riêng lẻ quy kết vô lối thành bản chất của Đảng, của chế độ... hòng hạ thấp, đánh sập vị thế và uy tín Việt Nam trên trường quốc tế. Họ hà hơi tiếp sức cho những tổ chức đối lập trú ngụ ở ngoài biên giới quốc gia, âm mưu di trú quốc nội, gây bạo loạn, lật đổ chế độ.

Thứ tám, các trào lưu tư tưởng, lý luận du nhập, thẩm thấu bằng mọi con đường, âm mưu gặm nhấm, công phá làm băng hoại dưới mọi hình thức, quy mô và mức độ tư tưởng, lý luận của chúng ta từ nền tảng.

Đó là chủ nghĩa tự do mới, chủ nghĩa dân túy, chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa bá quyền với vô vàn hình thức... đang thâm nhập từ bên ngoài cấu kết với chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa bè phái, chủ nghĩa hưởng lạc, dưới nhiều biến thể, tồn tích rất lâu từ bên trong với âm mưu làm băng hoại nền tảng tư tưởng của chúng ta bằng đủ quy mô, tính chất và mức độ; làm chệch hướng con đường xã hội chủ nghĩa; làm rã rời sự cố kết đồng thuận toàn dân tộc ta; đánh sập vị thế, năng lực và uy tín cầm quyền của Đảng ta và cô lập nước ta trên trường quốc tế.

Những trào lưu tư tưởng, lý luận đó thâm nhập vào nước ta bằng các con đường giao lưu tư tưởng, thông qua hội nhập quốc tế, bằng thủ đoạn kinh tế, văn hóa... hết sức tinh vi, biến ảo; và chúng thường trú ngụ và phát tác từ các phần tử thoái hóa, biến chất, nằm ở tất cả các cấp của hệ thống chính trị, thúc đẩy nhanh quá trình “tự diễn biến hòa bình” công phá từ bên ngoài thúc đẩy quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” từ trong nội bộ rất nguy hiểm.

Tất cả nhằm thủ tiêu Đảng, cô lập đất nước ta và chuyển hóa thể chế chính trị một cách nhanh nhất, ngắn nhất và nguy hiểm nhất. ST

 

 

KHÔNG NGỪNG ĐẤU TRANH TRÊN MẶT TRẬN TƯ TƯỞNG, LÝ LUẬN

Trong chiến lược “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch chống phá cách mạng Việt Nam, âm mưu cơ bản, lâu dài là xóa bỏ chủ nghĩa xã hội ở nước ta, xóa bỏ Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, thủ tiêu sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, hướng lái cách mạng Việt Nam đi theo quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản. Vì vậy, mọi lúc, mọi nơi, mọi điều kiện chúng ta cần liên tục đấu tranh nhằm bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong tình hình mới.

Thực hiện âm mưu “Diễn biến hòa bình”, các thế lực thù địch luôn coi tấn công trên mặt trận tư tưởng, lý luận là “mũi đột phá” hòng làm tan rã niềm tin, gây rối loạn về tư tưởng, lý luận, tạo ra những “khoảng trống” để dần đưa hệ tư tưởng tư sản thâm nhập vào cán bộ, đảng viên và nhân dân, nhằm chuyển hóa, xóa bỏ tư tưởng xã hội chủ nghĩa (XHCN).

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng chỉ rõ: “Bốn nguy cơ mà Đảng ta đã chỉ ra còn tồn tại, có mặt còn gay gắt hơn... Tham nhũng, lãng phí, quan liêu, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ cũng như những mâu thuẫn xã hội còn diễn biến phức tạp. Các thế lực thù địch tiếp tục tăng cường chống phá Đảng, Nhà nước và đất nước ta”.

Qua đó, Đảng ta đã xác định rõ, nhiệm vụ đấu tranh tư tưởng, lý luận trở thành mặt trận nóng bỏng hàng đầu của công tác tư tưởng, lý luận, trực tiếp liên quan đến mục tiêu, lý tưởng, sự ổn định, phát triển bền vững của đất nước, sự mất còn của chế độ XHCN, đến vận mệnh của dân tộc. Do đó, trên mặt trận tư tưởng, lý luận hiện nay phải kiên quyết đấu tranh chống lại những quan điểm, tư tưởng sai trái của các thế lực thù địch và những phần tử cơ hội chính trị, khắc phục những nhận thức lệch lạc; đồng thời, tích cực bảo vệ và phát triển Chủ nghĩa Mác -Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam, bảo vệ và phát triển những giá trị tốt đẹp trong truyền thống văn hóa dân tộc, chủ động định hướng giá trị đúng đắn đối với sự phát triển của con người và xã hội Việt Nam. Do vậy, phải quán triệt sâu sắc quan điểm: “Gắn kết chặt chẽ giữa “xây” và “chống”, lấy “xây” là cơ bản, “chống” phải quyết liệt, hiệu quả. Kết hợp giữa nhiệm vụ trước mắt và nhiệm vụ lâu dài; nâng cao khả năng tự phòng, chống của cán bộ, đảng viên và nhân dân trước âm mưu, thủ đoạn và hoạt động của các thế lực thù địch, đối tượng phản động, cơ hội chính trị”. Phải kiên quyết khắc phục mọi biểu hiện thụ động, bị động, hoặc chỉ hô hào chung chung, nhưng trên thực tế không đấu tranh. Trong điều kiện bình thường, nếu chúng ta chủ quan, lơ là, không thường xuyên quan tâm đầy đủ, thấu đáo đến công tác tư tưởng, thì khi xuất hiện những tình huống bất thường, những biến động về KT-XH... sẽ rất dễ dẫn đến sự phân tâm, hoang mang, dao động, thậm chí mất phương hướng chính trị trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và quần chúng.

Khi quán triệt, thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, cơ quan, đơn vị và đội ngũ cán bộ, đảng viên cần nhận thức rõ vai trò, trách nhiệm của mình đối với nhiệm vụ đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, lý luận; trong đó cần tập trung thực hiện tốt một số giải pháp cơ bản sau:

Phát huy tốt vai trò của cấp ủy, tổ chức đảng trong lãnh đạo tiến hành công tác tư tưởng, lý luận; nâng cao tính chiến đấu và sức thuyết phục trong đấu tranh tư tưởng, lý luận.

Căn cứ tính chất, đặc điểm của từng loại hình tổ chức đảng để xác định chức năng, nhiệm vụ cụ thể trong đấu tranh tư tưởng, lý luận. Cần nhận rõ công tác tư tưởng, lý luận có vai trò quan trọng hàng đầu trong hoạt động lãnh đạo và công tác xây dựng Đảng, có ý nghĩa quyết định bảo đảm cho Đảng có nền tảng tư tưởng vững chắc, có cương lĩnh chính trị và chiến lược phát triển KT-XH của đất nước được xây dựng trên cơ sở khoa học; có quan điểm, đường lối và chính sách đúng đắn, phù hợp với quy luật vận động phát triển của xã hội và hợp lòng dân, giữ vững được sự đoàn kết thống nhất trong cấp ủy, chính quyền cũng như trong mỗi địa phương, cơ quan, đơn vị, tạo được lòng tin và sự ủng hộ của toàn dân. Đồng thời, xây đắp nền tảng chính trị - tinh thần của chế độ và sự đồng thuận xã hội, định hướng và quy tụ sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN.

Đề cao vai trò, trách nhiệm của cán bộ chủ trì, cơ quan tuyên giáo và Ban chỉ đạo 35 các cấp.

Căn cứ đặc điểm, nhiệm vụ của địa phương, cơ quan, đơn vị trong từng thời kỳ, đội ngũ cán bộ chủ trì các cấp phải đề ra được các biện pháp chỉ đạo và tổ chức thực hiện nhiệm vụ đấu tranh tư tưởng, lý luận có hiệu quả; phát huy tính chủ động, tích cực, sáng tạo của mọi cán bộ, đảng viên, của mọi cấp, mọi ngành. Cơ quan tuyên giáo phải phát huy vai trò là cơ quan tham mưu, đồng thời trực tiếp tổ chức tiến hành các hoạt động đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận. Ban chỉ đạo 35 của Trung ương cần có sự chỉ đạo thường xuyên, tạo sự thống nhất giữa các bộ, ban, ngành trong định hướng đấu tranh; có cơ chế cung cấp thông tin cho Ban chỉ đạo 35 cấp trực thuộc Trung ương và các cơ quan thông tấn, báo chí; định hướng kịp thời trước những vấn đề nảy sinh tác động đến dư luận, tâm trạng xã hội trong tình hình hiện nay.

Có cơ chế phối hợp chặt chẽ ở các cấp và phát huy vai trò, trách nhiệm của mọi cán bộ, đảng viên tham gia đấu tranh tư tưởng, lý luận.

Với tính chất hệ trọng và nhạy cảm của nhiệm vụ đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, lý luận, phải coi trọng việc giáo dục, động viên, phát huy vai trò, trách nhiệm của mọi cán bộ, đảng viên, tạo nên lực lượng đông đảo, rộng khắp đấu tranh trên mặt trận này. Thực tiễn luôn vận động, phát triển, theo đó lý luận cũng luôn phát triển với những nội dung mới. Mặt khác, các thế lực thù địch luôn tìm cách đưa ra những chiêu thức mới, những luận điệu và cách thức chống phá mới. Vì thế, mỗi cán bộ, đảng viên phải thường xuyên được giáo dục, cập nhật tình hình. Cần công khai hóa các thông tin cần thiết liên quan đến đấu tranh tư tưởng, lý luận trước hết trong cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên và các tổ chức quần chúng, để định hướng dư luận, tạo sự đồng thuận, thống nhất cao trong toàn xã hội, góp phần đấu tranh vạch trần các quan điểm sai trái, thù địch để bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng trong bối cảnh hiện nay. ST

CĂN CỨ ĐỂ ĐÀO TẠO CÁN BỘ THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH


“Độ bền của chuỗi xích phụ thuộc vào độ bền của mắt xích yếu nhất”. Từng chi tiết hoạt động tốt là điều kiện quan trọng bảo đảm cho cả hệ thống bộ máy hoạt động tốt. Tuyển chọn, giáo dục, rèn luyện, bồi dưỡng để có và sử dụng tốt đội ngũ cán bộ có chất lượng cao là điều kiện cơ bản bảo đảm cho bộ máy tổ chức Đảng và các cơ quan công quyền vận hành tốt, có hiệu quả và ít “bệnh tật”.

Trong công tác đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng cán bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh diễn đạt một cách cụ thể và thiết thực: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”; “Có cán bộ tốt thì việc gì cũng xong”. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ có vị trí rất quan trọng, đặc biệt trong điều kiện Đảng cầm quyền. Đào tạo huấn luyện luôn cần đi đôi với việc sử dụng có hiệu quả đội ngũ cán bộ. Muốn vậy “phải biết rõ cán bộ”, “phải cất nhắc cán bộ cho đúng”; “phải khéo dùng cán bộ”; “phải giúp cán bộ cho đúng”; “phải giữ gìn cán bộ”, v.v (1). Muốn lựa chọn cán bộ đúng, theo Người cần phải căn cứ vào:

“... Những người tỏ ra rất trung thành và hăng hái trong công việc, trong đấu tranh.

- Những người liên lạc mật thiết với dân chúng, hiểu biết dân chúng. Luôn luôn chú ý đến lợi ích của dân chúng...

- Những người có thể phụ trách giải quyết các vấn đề trong những hoàn cảnh khó khăn...

- Những người luôn giữ đúng kỷ luật.

... Đó là những khuôn khổ để lựa chọn cán bộ” (2).

Để bồi dưỡng, rèn luyện đội ngũ cán bộ có đủ năng lực, phẩm chất, đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước kiểu mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tổng kết những cách làm việc với đội ngũ cán bộ như sau:

- Chỉ đạo những phương hướng đường lối công tác cho cán bộ, để họ phát huy năng lực và tinh thần sáng tạo trong những công việc cụ thể.

- Nâng cao trình độ cho cán bộ bằng cách tạo điều kiện để họ học thêm lý luận và chuyên môn.

- Thường xuyên kiểm tra rút kinh nghiệm, sửa chữa những khuyết điểm, phát huy ưu điểm trong quá trình công tác.

- Khi họ sai lầm thì dùng cách thuyết phục, cải tạo, giúp họ sửa chữa.

- Giúp đỡ họ bảo đảm những điều kiện sinh hoạt, chăm sóc họ khi đau ốm. Tùy theo điều kiện có thể giúp đỡ họ giải quyết những vấn đề gia đình”./ ĐT

Nội dung chủ yếu của chiến lược “diễn biến hòa bình”


Diễn biến hòa bình trên lĩnh vực chính trị là khâu đột phá, giữ vai trò quan trọng hàng đầu, nội dung chủ yếu là chống phá hệ tư tưởng, đường lối chính trị, hệ thống chính trị, thể chế chính trị, thúc đẩy tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” về chính trị trong nội bộ: chống phá hệ tư tưởng chính trị, đường lối chính trị nhằm làm phai nhạt, tiến tới xoá bỏ chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, làm suy thoái, biến đổi tư tưởng chính trị cách mạng sang tư tưởng chính trị phản động, phản cách mạng; tiến công vào các thành tố quan trọng nhất trong hệ thống chính trị, thể chế chính trị, tập trung mũi nhọn phê phán, phủ định, làm tha hóa Đảng và Nhà nước; tác động vào công tác tổ chức, cán bộ, xây dựng lực lượng ngầm, tìm cách tạo dựng “ngọn cờ” để tập hợp lực lượng chống đối; đòi Việt Nam cải cách hệ thống pháp luật, tiến tới xóa bỏ lực lượng lãnh đạo, chuyển hóa bộ máy quản lý, điều hành đất nước và xã hội.

Diễn biến hòa bình trên lĩnh vực kinh tế là khâu mũi nhọn, nội dung chủ yếu là chống phá đường lối, chính sách kinh tế; làm chuyển hóa chế độ sở hữu, cơ cấu, thành phần kinh tế; hình thành môi trường kinh tế có lợi cho CNTB; từng bước xâm nhập, chiếm lĩnh những địa bàn, lĩnh vực kinh tế quan trọng và nhạy cảm; thúc đẩy tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” về kinh tế: chống phá và thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” đường lối, chính sách kinh tế, chế độ sở hữu, cơ cấu, thành phần kinh tế; hỗ trợ khu vực kinh tế tư nhân, từng bước thực hiện tư nhân hoá nền kinh tế; hình thành môi trường kinh tế có lợi cho CNTB; từng bước xâm nhập, chiếm lĩnh những địa bàn, lĩnh vực kinh tế quan trọng và nhạy cảm.

Diễn biến hòa bình trên lĩnh vực văn hóa - xã hội là khâu quan trọng, nội dung chủ yếu là chống phá đường lối, chính sách văn hóa - xã hội;  thúc đẩy tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” làm chệch hướng giá trị văn hóa, đạo đức và giáo dục - đào tạo; lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền để chia rẽ nội bộ, kích động chống đối, gây rối loạn bên trong CNXH: chống phá đường lối, chính sách văn hóa - xã hội; thúc đẩy chệch hướng giá trị văn hóa, đạo đức; làm suy thoái, biến đổi đạo đức, lối sống theo hướng tha hóa, suy đồi; thúc đẩy biến đổi cơ cấu xã hội - giai cấp, phân tầng và phân hóa xã hội theo mô hình xã hội TBCN; lợi dụng mâu thuẫn, khiếu kiện, chống tham nhũng để kích động biểu tình, bạo loạn lật đổ; truyền bá lối sống thực dụng, đồi trụy, cá nhân cực đoan; tuyên truyền, xuyên tạc và vu cáo Việt Nam vi phạm dân chủ, nhân quyền; triệt để khoét sâu vấn đề dân tộc, tôn giáo, lấy đó làm “ngòi nổ” gây mất ổn định chính trị, kinh tế, rối loạn xã hội ở Việt Nam.

Diễn biến hòa bình trên lĩnh vực quốc phòng - an ninh là khâu then chốt, chống phá về đối ngoại là khâu hỗ trợ quan trọng, nội dung chủ yếu là chống phá đường lối, chính sách quốc phũng - an ninh, đối ngoại; thực hiện phi chính trị hóa quân đội và công an: chống phá đường lối, chính sách quốc phũng - an ninh của Đảng, nhà nước; truyền bá tư tưởng tự do, dân chủ tư sản trong cán bộ, chiến sĩ LLVT; tìm cách xúc tiến “phi chính trị hoá” quân đội, công an; thúc đẩy hợp tác quân sự, an ninh để lôi kéo Việt Nam, đồng thời vừa răn đe, gây sức ép, tìm cách tạo chỗ đứng chân; tuyên truyền cho sức mạnh quân sự phương Tây, đặc biệt sức mạnh vũ khí công nghệ cao; kích động mâu thuẫn, gây chia rẽ nội bộ, phá hoại đoàn kết cán binh, đoàn kết quân dân; tổ chức các hoạt động tình báo, gián điệp, gây cơ sở và phá hoại từ bên trong; nhen nhóm “cách mạng màu”, kích động gây bạo loạn lật đổ; khi gặp tình huống và thời cơ thuận lợi có thể tổ chức lực lượng phản ứng nhanh gây xung đột vũ trang, hỗ trợ cho lực lượng phản động bên trong tiến hành bạo loạn ở những địa bàn xung yếu, thực hiện chia cắt chiến lược, tổ chức tập kích đường không vào những mục tiêu chiến lược của ta, không loại trừ khả năng tạo cớ tiến hành chiến tranh xâm lược khi thời cơ chín muồi; triệt để lợi dụng mở cửa, hội nhập để chuyển hóa Việt Nam; chia rẽ Việt Nam với các nước láng giềng, bạn bè truyền thống. ĐT

 

NHẬN THỨC VỀ CHIẾN LƯỢC DIỄN BIẾN HÒA BÌNH CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH ĐỐI VỚI CÁCH MẠNG NƯỚC TA

 


Diễn biến hòa bình” là một chiến lược chống CNXH và CNCS do các thế lực thù địch với CNXH tiến hành nhằm thủ tiêu chế độ XHCN trên phạm vi toàn thế giới, chống phá độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội của các quốc gia, dân tộc bằng các biện pháp phi vũ trang, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ các nước XHCN và các nước độc lập dân tộc, lái chệch hướng phát triển của quốc gia, dân tộc theo quĩ đạo của CNTB.

Chủ thể chỉ đạo, điều khiển chiến lược “diễn biến hòa bình” là các thế lực thù địch với CNXH và độc lập dân tộc. Chủ thể tiến hành, thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” bao gồm những phần tử cầm đầu lực lượng phản động bên ngoài và phản động trong nước; lãnh tụ các đảng phỏi đối lập; những phần tử cơ hội, phản bội trong ban lãnhđạo cấp cao của đảng cầm quyền, chính quyền, quõn đội, an ninh, cảnh sỏt; một bộ phận quần chúng bất mãn với chính quyền và chế độ bị kích động, lừa gạt hoặc bị mua chuộc. Đối tượng của “diễn biến hòa bình” lúc đầu là các nước XHCN và phát triển theo định hướng XHCN, sau đó mở rộng ra một số nước độc lập dân tộc.

Mục tiêu sâu xa của chiến lược “diễn biến hòa bình” là thủ tiêu chế độ XHCN trên phạm vi toàn thế giới, phá hoại nền độc lập của các quốc gia, dân tộc, thiết lập một thế giới “nhất thể húa TBCN”. Mục tiêu trực tiếp đối với các nước XHCN và phát triển theo định hướng XHCN là thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ các nước XHCN và các nước độc lập dân tộc, đối với các nước XHCN nhằm tạo ra sự vận động chệch hướng của quốc gia, dân tộc theo quĩ đạo của CNTB; đối với các nước độc lập dân tộc nhằm tạo ra tình trạng mất ổn định về kinh tế và chính trị, suy thoái từ bên trong, đi đến khủng hoảng toàn diện, từ đó ngày càng lệ thuộc vào CNTB. Chiến lược “diễn biến hòa bình” mang tính chất phản cách mạng, phản động; tính chất dân tộc; tính chất giai cấp; tính chất toàn cầu; tính chất phi vũ trang.

Phương thức thực hiện chiến lược diễn biến hòa bình” là tiến công tổng hợp, toàn diện, “mềm, ngầm, sâu”, dựa vào lực lượng đối lập phản động trong nước, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” bên trong của đối tượng là chính; lấy chính trị làm đột phá; kinh tế làm mũi nhọn; dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền làm ngòi nổ; quốc phòng - an ninh làm then chốt; ngoại giao làm hỗ trợ; đấu tranh phi vũ trang là chủ yếu, kết hợp bạo loạn lật đổ, thực hiện răn đe quân sự từ bên ngoài, gây áp lực để làm tan rã, sụp đổ chế độ.ĐT