Thứ Ba, 28 tháng 2, 2023

Một số giải pháp đâú tranh chống quan điểm sai trái của các thế lực thù địch trong thời gian tới

 Để góp phần nâng cao hiệu quả công tác bảo vệ an ninh tư tưởng trong giai đoạn hiện nay, các cấp ủy, tổ chức đảng, hệ thống chính trị và các cán bộ, đảng viên cần thực hiện tốt một số giải pháp cơ bản sau:

Thứ nhất, nâng cao nhận thức của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân về công tác bảo vệ an ninh tư tưởng

Đây là giải pháp có ý nghĩa quan trọng hàng đầu, đặc biệt là trong đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Trước hết, cần nhận thức đúng về mục tiêu, yêu cầu bảo vệ Tổ quốc; vị trí, vai trò của quốc phòng, an ninh trong tình hình mới; nhiệm vụ, nội dung của công tác bảo vệ an ninh tư tưởng, nhận diện chính xác những nhóm đối tượng đang ra sức chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng hiện nay. Trọng tâm của công tác bảo vệ an ninh tư tưởng hiện nay là phải đổi mới nội dung, phương thức, nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác tuyên truyền về chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và luật pháp của Nhà nước; làm rõ những cơ sở lý luận, thực tiễn, hoàn thiện hệ thống lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong tình hình mới. Hệ thống hóa, phổ biến những thành tựu lý luận mà Đảng ta đã đạt được trên cơ sở vận dụng đúng đắn, sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong công cuộc đổi mới. Khẳng định bản chất và mô hình của thể chế chính trị và bộ máy nhà nước đã được xác định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và Hiến pháp năm 2013; đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch theo hướng chủ động, có tính thuyết phục cao. Chủ động tăng cường thông tin tích cực đi đôi với ngăn chặn có hiệu quả, xử lý, xóa bỏ thông tin xấu, độc trên internet, mạng xã hội. Kiên quyết bảo vệ và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thúc đẩy giao lưu và hợp tác trên cơ sở tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại; góp phần ổn định và phát triển kinh tế - xã hội theo đúng chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, nâng cao đời sống của nhân dân lao động.

Trong thời đại bùng nổ thông tin như hiện nay, việc làm chủ thông tin có vai trò hết sức quan trọng, quyết định đến việc định hướng dư luận xã hội theo hướng tích cực, đúng với bản chất sự việc, tránh bị lợi dụng, tạo cơ hội cho các thế lực thù địch xuyên tạc; không để rơi vào thế “bị động”, “chống đỡ” mà phải chủ động, tiến công. Do đó, các cơ quan thông tấn, báo chí phải bảo đảm việc cung cấp thông tin chính thống của Đảng, Nhà nước thường xuyên, kịp thời, chính xác đến cán bộ, đảng viên, chiến sĩ và nhân dân. Đặc biệt, cần quán triệt phương châm cơ bản trong bảo vệ an ninh tư tưởng là phải coi trọng công tác chủ động phòng ngừa, giữ vững bên trong là chính. Mặt khác, phải tích cực đấu tranh làm thất bại âm mưu “diễn biến hòa bình”, các hoạt động phá hoại, gây rối, bạo loạn của các thế lực thù địch; bước đầu đối phó có hiệu quả với mối đe dọa an ninh phi truyền thống, kiềm chế được tốc độ gia tăng tội phạm một cách quyết liệt.

Thứ hai, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo, phát huy vai trò quản lý, điều hành của chính quyền, vai trò tham mưu của cơ quan các cấp đối với công tác đấu tranh, phản bác những luận điệu sai trái, thù địch. 

Các cấp ủy cần tập trung xây dựng tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức; nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, xác định mục đích, nội dung, hình thức, phương pháp đấu tranh tư tưởng đúng đắn, hiệu quả. Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII số 04-NQ/TW, ngày 30-10-2016, “Về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”, gắn với Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15-5-2016, của Bộ Chính trị khóa XII, “Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”. Xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách đồng bộ, phù hợp, các quy chế quản lý thông tin, báo chí, xuất bản, cơ chế cung cấp thông tin, phát ngôn phân rõ trách nhiệm cơ quan chủ trì, cơ quan phối hợp, vai trò, trách nhiệm của cấp ủy, người đứng đầu, cán bộ chủ trì, chủ chốt các cấp. Đồng thời, có chính sách động viên, khích lệ phù hợp, bảo đảm cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện phù hợp để phục vụ nhiệm vụ đấu tranh.

Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, bảo vệ chính trị nội bộ, công tác tổ chức, cán bộ; phòng, chống nội gián, bảo vệ an ninh quốc gia. Thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát và kiên quyết xử lý kịp thời, nghiêm minh các tổ chức đảng, đảng viên vi phạm Cương lĩnh, Điều lệ Đảng; siết chặt kỷ cương, kỷ luật trong Đảng. Các cấp ủy và tổ chức đảng, mọi cán bộ, đảng viên phải chấp hành nghiêm kỷ luật phát ngôn; nghiêm cấm để lộ bí mật của Đảng, Nhà nước, lan truyền những thông tin sai lệch hoặc phát tán những đơn, thư có nội dung xấu, xuyên tạc, vu khống, kích động. Phát huy vai trò, trách nhiệm của cấp ủy các cấp trong phát hiện, xử lý những phần tử “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, cơ hội chính trị; giải quyết triệt để các vấn đề nảy sinh; phòng ngừa, ngăn chặn sự can thiệp, móc nối của các thế lực thù địch. Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác quản lý và sử dụng internet, mạng xã hội theo Luật An ninh mạng, trong đó, chú trọng xây dựng, hoàn thiện pháp luật và các giải pháp kỹ thuật phù hợp với sự phát triển nhanh của internet, mạng xã hội; rà soát, sửa đổi, ban hành mới các văn bản pháp luật, tạo hành lang pháp lý nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý trong các hoạt động sử dụng internet và mạng xã hội; tổ chức tốt công tác thanh tra, kiểm tra việc thực hiện pháp luật và các quy định của Nhà nước về sử dụng internet và mạng xã hội, nhất là Luật An ninh mạng.

Những khó khăn, thách thức trong công cuộc đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch

 Trong những năm qua, việc đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, góp phần giữ vững trận địa tư tưởng của Đảng, ngăn chặn và đẩy lùi các âm mưu chống phá của các thế lực thù địch, giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, củng cố và tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước. Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Trung ương Đảng, Bộ Chính trị và Ban Bí thư, sự hướng dẫn của các cơ quan chức năng, sự quản lý, điều hành của các cấp ủy đảng, người đứng đầu các cơ quan, địa phương, đơn vị..., hầu hết cán bộ, đảng viên, lực lượng vũ trang, các tầng lớp nhân dân đều có nhận thức đúng đắn về chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tin tưởng vào Cương lĩnh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước. Trận địa tư tưởng chính trị được giữ vững, khẳng định địa vị chủ đạo của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong đời sống chính trị - tinh thần ở Việt Nam.

Bên cạnh những kết quả đạt được, vẫn còn một số hạn chế trong công tác đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đó là thiếu đa dạng hóa các hình thức thông tin; chất lượng thông tin chưa hoàn toàn đáp ứng nhu cầu của nhân dân; tính tích cực, chủ động đấu tranh phản bác các thông tin, quan điểm sai trái, thù địch còn hạn chế; chưa phát huy được hết vai trò giám sát, phản biện của các cơ quan báo chí trong đấu tranh chống tiêu cực, tham nhũng, lãng phí và các tệ nạn xã hội… Các cơ quan chức năng có lúc còn thiếu chủ động trong việc định hướng, cung cấp thông tin; thông tin tích cực, chính thống có lúc, có nơi chưa chiếm được thế thượng phong so với các thông tin sai trái, bịa đặt, vu cáo, phản động trên mạng xã hội, internet. Việc khai thác, phát triển những tiện ích, lợi thế của thông tin điện tử, mạng xã hội còn hạn chế…

Công tác thông tin đối ngoại, nhất là tuyên truyền, quảng bá nhằm nâng cao uy tín, vị thế và hình ảnh của Việt Nam ổn định và phát triển ở khu vực và trên trường quốc tế có lúc, có nơi còn hạn chế, nên ở nhiều khu vực, nhân dân thế giới chưa hiểu rõ về tình hình Việt Nam, bị tác động tiêu cực bởi những thông tin, luận điệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực cơ hội, thù địch.

Dự báo trong thời gian tới, công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh chống quan điểm sai trái, thù địch trên lĩnh vực tư tưởng sẽ còn nhiều khó khăn, thách thức. Đặc biệt, trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, cùng với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư là sự phát triển bùng nổ của internet, mạng xã hội toàn cầu và những vấn đề nảy sinh từ mặt trái của nền kinh tế thị trường, các thế lực thù địch, phản động ngày càng có những chiêu thức, thủ đoạn mới tinh vi hơn để chống phá Đảng, Nhà nước và công cuộc đổi mới của đất nước. Ví dụ, trên lĩnh vực kinh tế, âm mưu thông qua hoạt động hợp tác, đầu tư làm cho nền kinh tế phát triển chệch hướng xã hội chủ nghĩa, thiết lập hệ thống và cơ chế kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa tại Việt Nam; từ đó tạo ra nền tảng vật chất, xã hội thuận lợi, hình thành nền “chính trị dân chủ” theo kiểu phương Tây.

Trên lĩnh vực đối ngoại, thông qua hoạt động “ngoại giao thân thiện”, tăng cường giao lưu, trao đổi, đối thoại với Việt Nam trên nhiều lĩnh vực, nhất là về dân chủ, dân tộc, tôn giáo, từ đó lợi dụng quảng bá hình ảnh, giá trị tư bản chủ nghĩa; chủ động tiếp cận, móc nối, hỗ trợ, mua chuộc, lôi kéo các đối tượng, nhất là những phần tử có tư tưởng bất mãn, thù địch, cơ hội, thoái hóa, biến chất, hữu khuynh, cực đoan, tạo dựng lực lượng “nòng cốt” cho “chuyển hóa” và “tự chuyển hóa” tư tưởng ngay từ bên trong. Trong hợp tác, giao lưu về giáo dục, đào tạo, các thế lực thù địch truyền bá các quan điểm, giá trị dân chủ tư sản, làm cho thế hệ trẻ có tư tưởng sùng ngoại, coi thường những giá trị văn hóa dân tộc, chạy theo lối sống thực dụng, chỉ coi trọng giá trị vật chất, bàng quan về chính trị... tạo mầm mống thúc đẩy dân chủ, nhân quyền tư sản, tiến tới xóa bỏ nền dân chủ và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

Nhận diện “Diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực kinh tế

 

Hiện nay, để chống phá cách mạng Việt Nam,  chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đã sử dụng tổng hợp các âm mưu, thủ đoạn trên tất cả các lĩnh vực, trong đó, “Diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực kinh tế luôn được chủ nghĩa đế quốc xem là mũi nhọn.

Có thể khái quát một số nội dung, thủ đoạn mà chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch chống phá cách mạng nước ta trên lĩnh vực kinh tế như sau:

Một là, tuyên truyền xuyên tạc, phủ nhận những tư tưởng kinh tế cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm kinh tế của Đảng Cộng sản Việt Nam. Để thực hiện âm mưu đó chúng triệt để lợi dụng các phương tiện thông tin đại chúng, các loại hình sách, báo, phim ảnh, đào tạo cán bộ, giảng dạy kinh tế ở các trường đại học do chuyên gia nước ngoài thực hiện, chúng tìm cách xuyên tạc, phê phán, đòi xem xét lại những quan điểm, tư tưởng kinh tế của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách kinh tế của Đảng với mục đích xóa bỏ nền tảng tư tưởng kinh tế ở Việt Nam, chuyển hóa nền kinh tế phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa. Chẳng hạn, để phủ nhận học thuyết kinh tế mác-xít, chúng tìm mọi cách xuyên tạc và xóa bỏ học thuyết giá trị thặng dư - hòn đá tảng trong học thuyết kinh tế chính trị của chủ nghĩa Mác, chúng cho rằng, dưới chủ nghĩa xã hội sản xuất hàng hóa cũng bóc lột giá trị thặng dư. Trên cơ sở đó chúng tập trung công kích và phê phán mô hình kinh tế, xuyên tạc bản chất nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà nước ta đã, đang xây dựng và phát triển; chúng cho rằng công hữu nghĩa là vô chủ, là không của ai, không hiệu quả, là nguyên nhân dẫn đến sự trì trệ, khó khăn và nảy sinh các hiện tượng tiêu cực trong xã hội.

Hai là, thông qua các hoạt động viện trợ, đầu tư, liên doanh, liên kết làm biến đổi dần cơ sở kinh tế - xã hội của chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại là một chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta; trong tình hình hiện nay, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch coi đây là thời cơ để thực hiện “Diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực kinh tế, nhằm làm thay đổi cơ cấu kinh tế, cơ sở kinh tế xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Cụ thể: thông qua các hoạt động đầu tư trực tiếp, gây áp lực kinh tế, về chính trị đòi Việt Nam phải tư nhân hóa nền kinh tế, hạn chế vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước; chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch cho rằng kinh tế Nhà nước ở nước ta là ung nhọt, là sân sau của những “nhóm lợi ích” cấp cao, là những tổ mối đục khoét của cải đất nước, để từ đó thúc đẩy khả năng chệch hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường, tự do hóa thị trường theo hướng kinh tế thị trường tự do của chủ nghĩa tư bản. Bằng các hoạt động đầu tư, viện trợ, đào tạo, các thế lực thù địch cố tình tạo sự phát triển chênh lệch giữa các vùng, miền, các ngành kinh tế, sự mất cân đối của nền kinh tế quốc dân, đồng thời đặt ra những điều kiện ràng buộc về mặt chính trị gắn với gây sức ép về chính trị để từng bước can thiệp nội bộ và tạo sự chuyển hóa theo quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản.

Ba là, thực hiện phá hoại nền kinh tế nước ta bằng nhiều hình thức, biện pháp vừa tinh vi, vừa trắng trợn trên các lĩnh vực. Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch sử dụng đồng tiền, vật chất để mua chuộc làm tha hóa một bộ phận cán bộ, đảng viên, tạo ra tâm lý hưởng thụ, lối sống thực dụng, từ đó làm mất uy tín đội ngũ cán bộ, đảng viên, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước. Gần đây, các thế lực thù địch thổi phồng, bóp méo thông tin về những khó khăn của nền kinh tế nước ta nhằm làm rối loạn thị trường và xã hội, hạ thấp uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế bằng việc tung tin thất thiệt về các cán cân kinh tế vĩ mô, thị trường tài chính - tiền tệ, thị trường chứng khoán; chúng lợi dụng vào chính sách mở cửa của nước ta, thông qua các hình thức như đi du lịch, tham quan, hội thảo tại Việt Nam để chúng thâm nhập nắm tình hình kinh tế, chính trị, xã hội, quốc phòng, an ninh ở nước ta. Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch rất quan tâm đến vấn đề dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam. Chúng gặp các đối tượng bất mãn, chống đối, đi vào sâu trong buôn làng để tuyên truyền tôn giáo, xây dựng nhà thờ, mua chuộc các già làng, dụ dỗ thanh niên chạy ra nước ngoài. Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch còn dùng tiền bạc, hàng hóa mua chuộc, lôi kéo, kích động một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số chống đối chính quyền. Các tổ chức người Việt phản động ở nước ngoài tìm cách gửi tiền, hàng hóa về cho thân nhân, gia đình, tuyên truyền về đời sống sung sướng ở các nước phương Tây. Điều này làm cho một bộ phận dân cư trong nước không quan tâm làm ăn mà chỉ trông chờ tiền gửi về từ nước ngoài, một số người hy vọng sang các nước phương Tây để được sung sướng và khi có điều kiện họ sẵn sàng ra đi, kể cả vượt biên trái phép.

Chống lợi dụng tôn giáo để chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc

 Tuy nhiên, một bộ phận nhỏ chức sắc và tín đồ một số tôn giáo không nhận ra thực tế này. Họ có nhiều tham vọng chính trị và bị tác động, ảnh hưởng bởi luận điệu tuyên truyền, lôi kéo, kích động của các thế lực thù địch ở trong và ngoài nước, nên đã có những hành động cực đoan, quá khích chống lại chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về tôn giáo nói riêng và trên các lĩnh vực nói chung. Họ đã lợi dụng tôn giáo, lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo để kích động và tiến hành các hoạt động chống chính quyền, chống chế độ xã hội chủ nghĩa dưới chiêu bài “đấu tranh cho tự do tôn giáo, dân chủ, nhân quyền”. Họ đã liên kết và phụ họa với các thế lực thù địch, các phần tử phản động, chống đối ở cả trong và ngoài nước trong hoạt động chống Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Chiêu bài của họ là đối lập tôn giáo với chế độ xã hội chủ nghĩa, tách các tôn giáo khỏi khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp cách mạng của nhân dân Việt Nam. Để thực hiện điều đó, họ sử dụng các thủ đoạn xuyên tạc chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về tôn giáo, bịa đặt, vu cáo cấp chính quyền phân biệt đối xử, đàn áp tôn giáo để kích động, chia rẽ trong nước và hạ thấp uy tín Việt Nam trên trường quốc tế… Họ coi các đối tượng cực đoan chống đối trong các tôn giáo là lực lượng nòng cốt để lôi kéo tập hợp quần chúng làm đối trọng với Đảng, Nhà nước và thu hút sự chú ý của cộng đồng quốc tế. Cùng với việc hậu thuẫn cho các lực lượng này hoạt động chống phá đất nước, họ còn phối hợp chặt chẽ với các cá nhân, tổ chức quốc tế thiếu thiện chí để bịa đặt, xuyên tạc tình hình tự do tôn giáo ở Việt Nam. Họ cho rằng Chính phủ Việt Nam đàn áp mọi tôn giáo, thường bắt giữ những người biểu tình ôn hòa đòi hỏi "tự do" tín ngưỡng và "tự do" thờ phụng. Nhiều tổ chức tôn giáo không được Chính phủ công nhận và không cấp giấy phép sinh hoạt… Đây là những luận điệu bịa đặt cũ rích được lặp đi, lặp lại với ý đồ chính trị xấu xa.

Điều đó không chỉ gây khó khăn cho công tác tôn giáo mà còn là nguyên nhân và điều kiện để các thế lực thù địch lợi dụng các hoạt động tôn giáo vi phạm pháp luật để gây chia rẽ đoàn kết dân tộc, gây mất an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội; thành lập các hội, nhóm mang danh tôn giáo, đạo lạ, gây mất đoàn kết dân tộc và đe dọa ổn định chính trị - xã hội; hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo mê tín, trục lợi, làm lệch chuẩn văn hóa, đạo đức xã hội.

Nhà nước ta bên cạnh việc tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, cũng nghiêm cấm mọi hoạt động lợi dụng vấn đề tôn giáo để vi phạm pháp luật, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước và công dân. Bất kỳ ai, nếu vi phạm pháp luật dù với bất cứ lý do gì đều sẽ bị xử lý nghiêm minh theo đúng pháp luật.

Có thể khẳng định, những luận điệu cho rằng Việt Nam vi phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo chỉ là những đánh giá chủ quan, phiến diện của một số người thiếu thiện chí với Việt Nam. Những luận điệu sai trái này không thể làm khó Việt Nam trên con đường xây dựng đất nước giàu đẹp, văn minh, mở rộng hợp tác, giao lưu trên trường quốc tế./.

Bảo đảm thực thi quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo

 Với vị trí địa lý nằm ở khu vực Đông Nam Á có ba mặt giáp biển, Việt Nam rất thuận lợi trong mối giao lưu với các nước trên thế giới và cũng là nơi rất dễ cho việc thâm nhập các luồng văn hóa, các tôn giáo. Với sự đa dạng các loại hình tín ngưỡng, tôn giáo, Việt Nam được ví như “bảo tàng tôn giáo” của thế giới. Điều đó đã góp phần làm cho nền văn hóa Việt Nam thêm phong phú và đặc sắc. Hiện nay, ở Việt Nam có 43 tổ chức thuộc 16 tôn giáo được công nhận tư cách pháp nhân; 60 cơ sở đào tạo tôn giáo thuộc Phật giáo, Công giáo, Tin lành, Phật giáo Hòa Hảo.

Việt Nam có chính sách nhất quán là tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân; các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Không được phân biệt đối xử vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo hay vi phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân. Không được lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo để phá hoại hoà bình, độc lập, thống nhất đất nước; kích động bạo lực hoặc tuyên truyền chiến tranh, tuyên truyền trái với pháp luật, chính sách của Nhà nước; chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc, chia rẽ tôn giáo; gây rối trật tự công cộng, xâm hại đến tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự, tài sản của người khác, cản trở việc thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân; hoạt động mê tín dị đoan và thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật khác. Điều đó đã quy định rõ trong Hiến pháp và pháp luật của nước ta.

Ngay sau khi hòa bình lập lại ở miền Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh 234/SL khẳng định: “Việc tự do tín ngưỡng, tự do thờ cúng là quyền lợi của nhân dân. Chính phủ luôn tôn trọng và giúp đỡ nhân dân thực hiện, chính quyền không can thiệp vào nội bộ các tôn giáo”.

Nghị quyết Trung ương 7 (khóa IX) khẳng định “Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đồng bào các tôn giáo là một bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo đúng pháp luật”. Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng cũng đã chỉ rõ: “Quan tâm và tạo điều kiện cho các tôn giáo sinh hoạt theo Hiến chương, Điều lệ của tổ chức tôn giáo đã được Nhà nước công nhận theo quy định của pháp luật, đóng góp tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước”.

Các Hiến pháp của nước ta năm 1946, năm 1959, năm 1980, năm 1992 và năm 2013 đều thể hiện rõ quan điểm nhất quán và xuyên suốt là tôn trọng quyền tự do, tín ngưỡng tôn giáo của nhân dân. Điều 24, Hiến pháp năm 2013 ghi rõ: “Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật”.

Năm 2016, Quốc hội ban hành Luật Tín ngưỡng, tôn giáo và Chính phủ có Nghị định hướng dẫn tổ chức thực hiện. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng phù hợp với yêu cầu của hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo trong thời kỳ mới của đất nước, đồng thời thể hiện sự tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo đảm hơn nữa quyền tự do tôn giáo của nhân dân.

Hiện 95% dân số Việt Nam có đời sống tín ngưỡng, tôn giáo, trong đó có 26 triệu tín đồ, chiếm 27% dân số; có hơn 8 ngàn lễ hội tín ngưỡng, tôn giáo hàng năm, thu hút sự tham gia đông đảo của các tín đồ và quần chúng nhân dân. Đặc biệt, nhiều hoạt động tôn giáo quốc tế lớn được tổ chức thành công ở Việt Nam, trong đó có các sự kiện kỷ niệm 500 năm Cải chánh đạo Tin lành (năm 2017), Đại lễ Phật đản Liên hợp quốc Vesak (năm 2019), Tổng hội dòng Đa Minh thế giới (năm 2019)… Những nỗ lực này của Việt Nam được cộng đồng quốc tế ghi nhận và đánh giá cao.

NÊU CAO TINH THẦN TRÁCH NHIỆM TRƯỚC CỘNG ĐỒNG VÀ XÃ HỘI

 Để tăng cường công tác đấu tranh ngăn chặn âm mưu, thủ đoạn chống phá của thế lực thù địch trên lĩnh vực văn học, nghệ thuật ở nước ta giai đoạn hiện nay, cần chú trọng đến những giải pháp cơ bản sau:

Một là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động đấu tranh ngăn chặn âm mưu thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch trên lĩnh vực văn học, nghệ thuật, coi đây là một mặt trận trọng yếu trong cuộc chiến đấu tranh chống lại các hoạt động chống phá của các thế lực thù địch.  

Hai là, nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước đối với hoạt động văn học, nghệ thuật, nhất là các hội, nhóm hay hoạt động của các nhà văn, nhà thơ, các văn nghệ sĩ bằng những quy định cụ thể; đồng thời có chế tài nghiêm khắc để xử lý những trường hợp vi phạm quy định. Có cơ chế, chính sách phù hợp để huy động những nhà văn, nhà thơ, các văn nghệ sĩ tham gia đấu tranh chống lại các hoạt động lôi kéo, kích động, chống phá của các thế lực thù địch trên các diễn đàn, nhất là trên mạng xã hội.

Ba là, phát huy vai trò của các cơ quan truyền thông, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân trong giám sát, phản biện hoạt động văn học, nghệ thuật. Các cơ quan truyền thông cần phát huy tinh thần trách nhiệm trong việc biểu dương, lan tỏa những hoạt động văn học, nghệ thuật có giá trị tích cực, có tính định hướng theo phương châm “lấy cái đẹp dẹp cái xấu”, đồng thời, lên tiếng phê phán những hoạt động văn học, nghệ thuật phản cảm, đi ngược lại quy định của Đảng, Nhà nước và thuần phong mỹ tục của dân tộc. Các đoàn thể chính trị - xã hôi và nhân dân phát huy vai trò giám sát, phản biện hoạt động của các nhà văn, nhà thơ, các văn nghệ sĩ; kịp thời đóng góp ý kiến để điều chỉnh những hành vi “lệch chuẩn”.

Bốn là, bản thân những người hoạt động trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật phải luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm trước cộng đồng và xã hội; chấp hành nghiêm chỉnh những quy tắc đạo đức nghề nghiệp và quy định về văn hóa ứng xử; nêu cao tinh thần dân tộc, ý thức bảo vệ truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc, biết tận dụng lợi thế, uy tín của người nổi tiếng để tuyên truyền, quảng bá những giá trị tích cực; lên án, bài xích những biểu hiện sai trái, lệch lạc.

Có thể nhận thấy, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trên lĩnh vực văn học, nghệ thuật là một nhiệm vụ rất quan trọng trong cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng ta hiện nay. Để cuộc đấu tranh này thực sự có hiệu quả, ngoài việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước trên lĩnh vực văn học, nghệ thuật mà đội ngũ văn nghệ sĩ, những người làm công tác lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật cũng cần nâng cao nhận thức, bản lĩnh, trách nhiệm của mình trong việc xây dựng nền văn học, nghệ thuật trong sáng, phù hợp với định hướng của Đảng và thị hiếu lành mạnh của nhân dân, tránh để các thế lực thù địch lôi kéo, mua chuộc.

THỰC TIỄN CÔNG TÁC ĐẤU TRANH NGĂN CHẶN ÂM MƯU, THỦ ĐOẠN CHỐNG PHÁ CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH TRÊN LĨNH VỰC VĂN HỌC, NGHỆ THUẬT

 

Trong suốt thời kỳ đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn nhất quán quan điểm: “Phát triển sự nghiệp văn học, nghệ thuật, chăm lo bồi dưỡng và tạo mọi điều kiện cho sự tìm tòi, sáng tạo của đội ngũ văn nghệ sĩ. Đổi mới phương thức hoạt động của các hội văn học, nghệ thuật”. Khoản 2, Điều 60 của Hiến pháp Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 cũng nêu rõ: “Nhà nước, xã hội phát triển văn học, nghệ thuật nhằm đáp ứng nhu cầu tinh thần đa dạng và lành mạnh của nhân dân; phát triển các phương tiện thông tin đại chúng nhằm đáp ứng nhu cầu thông tin của nhân dân, phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Đó là cơ sở chính trị, pháp lý và định hướng quan trọng để phát triển văn học, nghệ thuật của nước ta trong giai đoạn hiện nay.

Thời gian qua, Đảng và Nhà nước rất quan tâm đến việc đấu tranh phòng, chống những âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch trên lĩnh vực văn học, nghệ thuật.  

Ban Chỉ đạo Đề án 213 đấu tranh trên lĩnh vực văn học, nghệ thuật đã phối hợp chặt chẽ với Ban tuyên giáo Trung ương, Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch, các ban ngành, cơ quan phụ trách đấu tranh cấp tỉnh và các địa phương không cấp phép, chấp nhận thành lập các nhóm, hội hoạt động bất hợp pháp, các nhóm hội có biểu hiện sai trái. Đồng thời, vận động cán bộ, đảng viên và người dân không tham gia hội, nhóm, tích cực phát hiện các biểu hiện sai trái của các nhóm đối tượng để đấu tranh chống lại, vạch trần âm mưu và thủ đoạn của thế lực thù địch. Vận động văn nghệ sĩ, trí thức không tham gia các hội nhóm, tổ chức sai trái mà tích cực tìm ra, vô hiệu hóa, kiên quyết không để các đối tượng công khai kế hoạch tuyên truyền thủ đoạn sai trái, thù địch để đấu tranh chống lại các thủ đoạn đó.

Các cơ quan đấu tranh đã phát hiện và chủ động phân loại các nhóm đối tượng với tính chất và mức độ sai phạm, thái độ chính trị sai trái thù địch của các nhóm đối tượng để sử dụng các biện pháp đấu tránh phù hợp, có hiệu quả. Với những đối tượng phức tạp, có hành vi cực đoan, quá khích xâm phạm đến an ninh quốc gia, chủ quyền thì bắt và xử lý trước pháp luật; đối tượng vi phạm ở mức nhẹ hơn thì răn đe, kiềm chế hoặc giáo dục, thuyết phục và tác động để đối tượng không tham gia hội, nhóm, từ bỏ các hoạt động và rời khỏi hội, nhóm.

Ngoài ra, các cơ quan pháp luật cũng xây dựng hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật làm cơ sở trực tiếp hoặc gián tiếp thực hiện nhiệm vụ này như Hiến pháp năm 2013; Luật Xuất bản; Luật Báo chí; Luật An ninh mạng; Luật Điện ảnh; Luật sở hữu trí tuệ; Nghị định 79/2012/NĐ-CP quy định về biểu diễn nghệ thuật, trình diễn thời trang, thi người đẹp và người mẫu, lưu hành, kinh doanh bản ghi âm, ghi hình ca múa nhạc, sân khấu và Nghị định số 15/2016/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 79/2012/NĐ-CP ngày 05 tháng 10 năm 2012 của Chính phủ quy định về biểu diễn nghệ thuật, trình diễn thời trang, thngười đẹp và người mẫu; lưu hành, kinh doanh bản ghi âm, ghi hình ca múa nhạc, sân khấu; Nghị định 75/2010/NĐ-CP quy định xử phạt hành chính trong hoạt động văn hóa; Nghị định số 113/2013/NĐ-CP của Chính phủ về hoạt động mỹ thuật; Quyết định số 3196/QĐ-BVHTTDL ngày 13/12/2021  của Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch ban hành kèm theo “Quy tắc ứng xử của người hoạt động trong lĩnh vực nghệ thuật”. …. Về cơ bản, các văn bản quy phạm pháp luật hiện có đã xác định tương đối rõ ranh giới cho hoạt động sáng tạo, chỉ ra những hành vi, hoạt động không được phép. Các văn bản quy phạm pháp luật trên cũng đã cơ bản tạo ra hành lang pháp lý cho hoạt động sáng tạo văn học, nghệ thuật đồng thời có khả năng ngăn chặn, xử lý những quan điểm sai trái, phản động.

 Tuy nhiên, ở Việt Nam hiện nay, lực lượng lãnh đạo, quản lý trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật còn bộc lộ nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển lĩnh vực văn học, nghệ thuật nói chung, yêu cầu thực hiện nhiệm vụ đấu tranh chống quan điểm sai trái, thù địch trong lĩnh vực này nói riêng. Ở một số hội chuyên ngành văn học, nghệ thuật Trung ương, đội ngũ lãnh đạo, quản lý, nhất là người đứng đầu đã cao tuổi, sức khỏe hạn chế; trong khi đó ở một số hội văn học, nghệ thuật địa phương vẫn còn tình trạng bố trí lãnh đạo hội không có chuyên môn, chưa am hiểu sâu về lĩnh vực văn học, nghệ thuật mình phụ trách. Vì những lý do đó, người lãnh đạo chưa phát huy được vai trò tập hợp đội ngũ, hoặc những người làm chuyên môn không phục, thậm chí có nơi không giữ được đoàn kết nội bộ,…

ÂM MƯU, THỦ ĐOẠN CHỐNG PHÁ CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH TRÊN LĨNH VỰC VĂN HỌC, NGHỆ THUẬT

 Thời gian qua, các kênh truyền thông và các trang mạng xã hội đã được thiết lập để tạo kênh kết nối các lực lượng cực đoan, cơ hội ở trong và ngoài nước để lợi dụng lĩnh vực văn học, nghệ thuật nhằm chống phá Đảng, Nhà nước, đồng thời lập quỹ để cung cấp tài chính, trả nhuận bút cho số văn nghệ sĩ cực đoan. Số văn nghệ sĩ này tiếp tục lợi dụng, núp bóng các tổ chức xã hội dân sự để thành lập các tổ chức đối lập, hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước trên lĩnh vực văn học, nghệ thuật. Các đối tượng này móc nối với các cá nhân, tổ chức nước ngoài thường xuyên thông qua các hoạt động tài trợ, biểu diễn, triển lãm, tọa đàm, hội thảo, giao lưu văn hóa, văn học, điện ảnh, mỹ thuật, sân khấu để tuyên truyền ảnh hưởng, lôi kéo lực lượng văn nghệ sĩ có tư tưởng dao động để khuếch trương lực lượng, tuyên truyền, xuyên tạc chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước; kích động tư tưởng đa nguyên, đòi tự do sáng tác một cách vô chính phủ

Ngoài ra, một bộ phận không nhỏ người Việt ở hải ngoại trong nhiều năm nay đã sử dụng văn học, nghệ thuật làm công cụ tuyên truyền tư tưởng nhằm chống phá Đảng, Nhà nước và sự nghiệp đổi mới của nhân dân ta. Họ tung ra hàng loạt tác phẩm đủ các thể loại như tùy bút, nhật ký, hồi ký, truyện ngắn, tiểu thuyết và thơ… Mục đích của thế lực thù địch là ngụy tạo sự kiện, chứng cứ, làm sai sự thật nhằm hạ bệ thần tượng Hồ Chí Minh, phủ nhận thành quả cách mạng Việt Nam do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Cùng với đó, các thế thực thù địch, chống phá triệt để lợi dụng các kênh ngoại giao, các tổ chức phi chính phủ để gây áp lực hòng tạo ra không gian hoạt động chống đối trong văn học, nghệ thuật trong nước.,… Ngoài ra, các đối tượng này còn tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền, tôn vinh các tác giả, tác phẩm đi ngược lại lợi ích của dân tộc.

Mục đích của hoạt động chống phá trên lĩnh vực văn học, nghệ thuật là tạo ra “mũi đột phá”, “thọc sâu” vào ý thức hệ của nhân dân, nhằm làm tan rã niềm tin, gây hỗn loạn về tư tưởng, tạo ra “khoảng trống” để dần dần đưa hệ tư tưởng tư sản vào và tiến tới xóa bỏ hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa. Sự chống phá được tiến hành rất xảo quyệt, tinh vi nên việc nhận diện chúng không dễ dàng vì nó ẩn khuất trong những vỏ bọc “văn học”, “nghệ thuật”, “những sự kiện có thật”, đánh vào thị hiếu của con người. Các thế lực thù địch đã truyền bá các tác phẩm văn học, hội họa, những chương trình ca nhạc, phim ảnh có nội dung chống chế độ, dưới chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền” để phủ nhận thành quả của cách mạng, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và chế độ xã hội chủ nghĩa. Có những tác phẩm văn học đánh giá sai lệch, phiến diện về cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, làm lẫn lộn hoặc cố tình lập lờ về bản chất, tính chính nghĩa của các cuộc kháng chiến; từ đó, gây ra sự hoài nghi, mất niềm tin của nhân dân vào Đảng và chế độ. Chúng còn đẩy mạnh tuyên truyền sai lệch về quan điểm, đường lối văn học, nghệ thuật của Đảng, rằng: “đường lối văn nghệ của Đảng là cứng nhắc, ép buộc; cáo buộc các tác phẩm phải chịu sự kiểm duyệt chặt chẽ của Nhà nước”, hay vu cáo “sự độc đoán về tư tưởng đã bóp chết văn học, nghệ thuật”, ...

Hiện nay, có khoảng gần 150 hội, nhóm bất hợp pháp, "trong đó có gần 100 nhóm có khuynh hướng hoạt động đối lập chính trị, có quan điểm cực đoan, quá khích, sai trái, thù địch và trong số đó có người nguyên là cán bộ lãnh đạo, tướng lĩnh, các nhà khoa học, văn nghệ sĩ đã có những đóng góp, cống hiến cho cách mạng, cho Đảng và đã từng được nhân dân tin tưởng”(1). Thông qua các nhà xuất bản bên ngoài, nhiều đối tượng văn nghệ sĩ, trí thức có quan điểm cực đoan đã sáng tác, in ấn và phát tán các tác phẩm văn học, thơ ca có nội dung sai trái, chống phá tư tưởng trên lĩnh vực văn học nghệ thuật. “Từ năm 1986 đến nay, công an đã phát hiện 272 tác phẩm văn học nghệ thuật có nội dung sai trái, phản động nhằm chống lại Đảng, Nhà nước và nhân dân ta”(2).

Hoạt động xuất bản phát tán tài liệu bài viết, bản thảo có nội dung nhạy cảm, trái với quy định và mục tiêu tuyên truyền của nhà nước. Đáng chú ý, chúng tán phát vào trong nước hàng chục nghìn tài liệu có nội dung xấu độc, thù địch và một số tác phẩm văn học, nghệ thuật được xuất bản ở nước ngoài có nội dung sai trái về chính trị, lồng ghép những quan điểm trái chiều, phức tạp để tuyên truyền xuyên tạc, kích động... Các lực lượng phản động, cơ hội chính trị đã móc nối, sử dụng một số cán bộ lão thành, có cả cán bộ đương chức, có tướng lĩnh đã nghỉ hưu, bộ phận trí thức, văn nghệ sĩ có biểu hiện tự diễn biếntự chuyển hóa để tạo dựng ngọn cờ”, tập hợp lực lượng chống đối, tán phát trên internet, mạng xã hội bài viết, tư liệu, tài liệu với luận điệu thâm độc, quan điểm sai trái, cổ xúy cho dân chủ tư sảnxã hội dân sựxã hội dân chủ để tuyên truyền kích động, gia tăng các hoạt động chống phá.

Bên cạnh đó, thời gian qua, có không ít văn nghệ sĩ đã tận dụng uy tín cá nhân, tầm ảnh hướng với xã hội để đăng tải trên các trang cá nhân, các blog, tài khoản zalo, trang mạng xã hội facebook để bình luận những vấn đề thời sự, chính trị của đất nước bằng ngôn ngữ của văn chương, nghệ thuật với cái nhìn một chiều, cực đoan. Trên một số tài khoản facebook cá nhân, một số văn nghệ sĩ, trí thức cũng đã đăng tải những trạng thái, những bài thơ, đoạn trích văn xuôi bày tỏ cảm xúc, quan điểm cá nhân trước một số vụ việc trong nước theo hướng phê phán, reo giắc sự hoài nghi về đường lối, chủ trương của Đảng, quy định của chính quyền, ngành nhằm tạo cớ để các thế lực thù địch có dịp chống phá Đảng và chế độ ta.

Những âm mưu, thủ đoạn chống phá trên lĩnh vực văn học, nghệ thuật có tác động không nhỏ đến tư tưởng, tình cảm của một bộ phận nhận dân trong thời gian qua, trong đó có giới trẻ. Có không ít người đã hoang mang, hoài nghi về lịch sử của dân tộc cũng như những thành quả cách mạng của nhân dân. Thậm chí có những người có tâm lý bi quan, chán nản, mất niềm tin vào những giá trị Chân - Thiện - Mỹ. Đó là một nguy hại rất lớn không thể coi thường, xem nhẹ.

Phát huy tối đa sức mạnh mềm văn hóa Việt Nam

 

Phát huy tối đa sức mạnh mềm

văn hóa Việt Nam

 

Theo Thủ tướng Phạm Minh Chính, Việt Nam cần đẩy mạnh xúc tiến đầu tư, tạo đột phá về sản phẩm, dịch vụ, phát huy tối đa sức mạnh mềm của văn hóa.

Chính sách nổi bật có hiệu lực từ tháng 3

 

Chính sách nổi bật có hiệu lực từ tháng 3

Trường hợp được vắng mặt khi khám tuyển nghĩa vụ quân sự, bắt đầu cấp hộ chiếu gắn chip, mở tài khoản quản lý tiền công đức là chính sách nổi bật có hiệu lực từ tháng 3.

Kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng, góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng

Thực tế của Đảng Cộng sản Liên Xô đã chứng minh, một trong những nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ Liên Xô là do đã từ bỏ các nguyên tắc xây dựng Đảng dẫn đến sự tan rã của Đảng.

Đối với Đảng Cộng sản Việt Nam, trong các kỳ đại hội Đảng gần đây, vấn đề kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng là quá trình phát triển nhận thức lý luận của Đảng trên cơ sở tổng kết thực tiễn của 36 năm đổi mới theo hướng mở rộng và bao quát hơn những nội dung cần phải kiên định. Kiên định nguyên tắc là cơ sở để chúng ta phân biệt đối tượng, đối tác trong cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. 

Đại hội lần thứ XIII, Đảng ta lần đầu tiên khẳng định: Kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng, bởi những lý do sau đây:

Thứ nhất, về lý luận, nguyên tắc là vấn đề có tính sống còn đối với một tổ chức. Tuân thủ các nguyên tắc thì tổ chức đó vững mạnh, từ bỏ hoặc thực hiện không nghiêm túc các nguyên tắc thì sẽ dẫn đến tổ chức rệu rã và có nguy cơ tan rã.

Trải qua hơn 90 năm xây dựng và trưởng thành, Đảng ta luôn vận dụng và phát triển sáng tạo những nguyên tắc cơ bản của học thuyết Mác-Lênin về xây dựng Đảng. Tổng kết công tác xây dựng Đảng qua các thời kỳ cách mạng khác nhau, tuy cách diễn đạt về các nguyên tắc xây dựng Đảng có khác nhau một vài điểm nhưng nhìn chung, Đảng ta vẫn luôn khẳng định những nguyên tắc trên cơ sở vận dụng và tuân thủ các nguyên lý cơ bản của Chủ nghĩa Mác-Lênin.

Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Đảng ta phát triển nguyên tắc về nền tảng tư tưởng: “Đảng lấy Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động”. Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Đảng ta khẳng định: “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc”.

Đây là lần đầu tiên Đảng ta xác định: Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ là đội tiền phong của giai cấp công nhân mà còn là đội tiền phong của nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam. Đồng thời, cũng tại đại hội lần này, Đảng ta bổ sung thêm nguyên tắc: “Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”. Tuân thủ nghiêm ngặt những nguyên tắc chủ yếu nói trên trong quá trình xây dựng Đảng là một trong những yếu tố có tính quyết định bảo đảm cho Đảng ta giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam; là cơ sở khoa học để Đảng ta không ngừng chăm lo xây dựng Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, làm cho Đảng luôn xứng đáng vai trò người lãnh đạo cách mạng Việt Nam.

Trên cơ sở những nguyên lý về xây dựng chính đảng kiểu mới của giai cấp công nhân do Lênin nêu ra và thực tiễn hoạt động của Đảng ta, Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI thông qua (các nhiệm kỳ XII và XIII thống nhất giữ nguyên Điều lệ) quy định về các nguyên tắc tổ chức và hoạt động như sau: “Đảng là một tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý chí và hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, thương yêu đồng chí, kỷ luật nghiêm minh, đồng thời thực hiện các nguyên tắc: Tự phê bình và phê bình, đoàn kết trên cơ sở Cương lĩnh chính trị và Điều lệ Đảng, gắn bó mật thiết với nhân dân, Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”.

Từ đó đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn kiên định thực hiện nghiêm 5 nguyên tắc này và đó cũng là một trong những yếu tố quyết định sự thành công của Đảng ta trong thời gian qua.

Thứ hai, quan điểm chỉ đạo là kiên định nhưng không phải là cứng nhắc, giáo điều và cũng không phải là đổi mới vô nguyên tắc.

Văn kiện Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ yêu cầu, nguyện vọng, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; thắt chặt mối quan hệ mật thiết với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng; lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu”.

Trong quá trình thực hiện các nguyên tắc xây dựng Đảng, cần thấm nhuần quan điểm chỉ đạo: Kiên định và đổi mới, kế thừa và phát triển, thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Kiên trì, kiên định nhưng không trở thành giáo điều, cứng nhắc; đổi mới, kế thừa và phát triển nhưng trên cơ sở giữ vững các nguyên tắc chứ không phải là vô nguyên tắc, dân chủ quá đà, lẫn lộn giữa đối tượng, đối tác.

Thứ ba, về thực tiễn, trong nghiên cứu, học tập, quán triệt thực hiện các nghị quyết của Đảng thì chỉ đạo và tổ chức thực hiện vẫn là khâu yếu, chậm được khắc phục nên khi thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Đảng rất cần phải kiên định tuân thủ các nguyên tắc. Nếu ai không tuân thủ sẽ phải chịu trách nhiệm bằng các hình thức kỷ luật của Đảng.

Đánh giá việc thực hiện các nguyên tắc và đổi mới phương thức lãnh đạo, văn kiện Đại hội XIII chỉ ra những ưu điểm sau: “Công tác xây dựng Đảng về chính trị được đặc biệt chú trọng. Kiên định nền tảng tư tưởng của Đảng, đường lối đổi mới và các nguyên tắc xây dựng Đảng”. “Phương thức lãnh đạo của Đảng tiếp tục được đổi mới. Ban hành và thực hiện nhiều quy định bảo đảm giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng, đề cao nguyên tắc pháp quyền, phát huy dân chủ, tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị-xã hội”.

Trong Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về tổng kết công tác xây dựng Đảng và thi hành Điều lệ Đảng nêu rõ ưu điểm: “Đảng ta luôn vững vàng, kiên định Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và không ngừng vận dụng, phát triển sáng tạo phù hợp với thực tiễn Việt Nam; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới và những nguyên tắc về xây dựng Đảng”.

Về hạn chế, khuyết điểm trong việc thực hiện nghị quyết của Đảng nói chung, các nguyên tắc xây dựng Đảng nói riêng vẫn còn những hạn chế, khuyết điểm như Văn kiện Đại hội XIII chỉ ra: “Chỉ đạo và tổ chức thực hiện vẫn là khâu yếu, chậm được khắc phục”.

Đánh giá việc thực hiện các nguyên tắc xây dựng Đảng, Văn kiện Đại hội XIII nêu: “Việc thực hiện các nguyên tắc tổ chức của Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ ở một số nơi chưa nghiêm, thậm chí còn vi phạm, mất đoàn kết nội bộ, có nơi còn biểu hiện cục bộ, lợi ích nhóm. Kiểm soát quyền lực còn lúng túng, hiệu quả thấp”. “Tự phê bình và phê bình ở nhiều nơi còn hình thức. Thực hiện trách nhiệm nêu gương, nhất là của người đứng đầu chưa tạo được sự lan tỏa sâu rộng”.

Một số cấp ủy, tổ chức đảng đã vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc tập trung dân chủ và quy chế làm việc; thiếu trách nhiệm, buông lỏng lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, thiếu kiểm tra, giám sát để xảy ra nhiều vi phạm, khuyết điểm kéo dài. Đây là điều rất đáng trăn trở vì trong nhiệm kỳ Đại hội XII, cấp ủy các cấp đã kiểm tra 264.091 tổ chức đảng và 1.124.146 đảng viên; ủy ban kiểm tra các cấp đã kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm đối với 15.920 tổ chức đảng và 47.701 đảng viên (trong đó có 23.432 cấp ủy viên). Qua kiểm tra, cấp ủy các cấp đã thi hành kỷ luật 1.329 tổ chức đảng và 69.600 đảng viên; ủy ban kiểm tra các cấp đã thi hành kỷ luật 17.610 đảng viên. Riêng Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã thi hành kỷ luật 10 tổ chức đảng và 60 đảng viên; Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã thi hành kỷ luật 169 đảng viên (trong đó có 53 đồng chí là cán bộ diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý). Các cấp ủy đã giám sát 193.993 tổ chức đảng và 528.652 đảng viên; ủy ban kiểm tra các cấp đã giám sát 124.469 tổ chức đảng và 185.731 đảng viên.

Điều cần lưu ý là rất nhiều vi phạm xảy ra từ nhiệm kỳ trước nhưng đến nay mới bị phát hiện và xử lý. Như vậy trước đó, việc tuân thủ các nguyên tắc xây dựng Đảng chưa thật sự được coi trọng, thậm chí bị buông lỏng. Thực trạng này do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân là các nguyên tắc xây dựng Đảng chưa được coi trọng và thực hiện nghiêm túc. Những hạn chế, khuyết điểm nêu trên có nguyên nhân khách quan, nhưng chủ yếu là nguyên nhân chủ quan: Một số cấp ủy, tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên chưa nhận thức đầy đủ, toàn diện, sâu sắc về tầm quan trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong tình hình mới; việc quán triệt các nghị quyết của Đảng ở một số nơi chưa kịp thời, sâu sắc. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện của một số cấp ủy, tổ chức đảng chưa chủ động, sâu sát, thiếu quyết liệt; chưa coi trọng việc tự kiểm tra, xử lý vi phạm. Một số nơi, người đứng đầu chưa phát huy hết trách nhiệm, thiếu bản lĩnh, chưa gương mẫu, còn thụ động, né tránh, trông chờ vào chỉ đạo, hướng dẫn của cấp trên. Việc thực hiện các nguyên tắc tổ chức của Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ ở một số nơi chưa nghiêm, thậm chí còn vi phạm, mất đoàn kết nội bộ, có nơi còn biểu hiện cục bộ, lợi ích nhóm. Kiểm soát quyền lực còn lúng túng, hiệu quả thấp. Sự phối hợp giữa một số cấp ủy với đảng đoàn, ban cán sự đảng có lúc, có nơi thiếu chặt chẽ, hiệu quả chưa cao. Việc phân định trách nhiệm của người đứng đầu trong mối quan hệ với cấp ủy và tập thể lãnh đạo cơ quan, đơn vị chưa rõ; chưa phát huy đúng mức vai trò của cá nhân trong tập thể. Việc xây dựng, phát huy vai trò của các cơ quan tham mưu về công tác xây dựng Đảng có lúc, có nơi chưa được quan tâm đúng mức; một bộ phận cán bộ tham mưu chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.

Trong thời gian tới, để góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết số 35-NQ/TW, ngày 25-10-2018 của Bộ Chính trị khóa XII về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới” cần thực hiện đồng bộ một số nhiệm vụ, giải pháp sau:

Thứ nhất, kiên định những nguyên tắc xây dựng Đảng gắn với thực hiện Nghị quyết số 35-NQ/TW, ngày 25-10-2018 của Bộ Chính trị. Tăng cường tuyên truyền trong cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân về nội dung các nguyên tắc xây dựng Đảng để từ nhận thức sẽ có hành động đúng và tạo sự lan tỏa theo phương châm “lấy cái đẹp, dẹp cái xấu”.

Thứ hai, tập trung xây dựng, thông tin chủ động, chính xác, kịp thời, toàn diện, đúng đối tượng về các hoạt động, sự kiện chính trị, xã hội của đất nước. Nâng cao chất lượng, hiệu quả các chuyên trang, chuyên mục, fanpage, blog, tài khoản mạng xã hội (Zalo, Facebook...) về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch.

Thứ ba, thường xuyên theo dõi, nắm bắt tình hình tư tưởng, kịp thời định hướng dư luận xã hội; thực hiện tốt quy chế phát ngôn, cung cấp thông tin chính thống, kịp thời cho báo chí; công khai kết quả kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng trên các phương tiện truyền thông; xử lý nghiêm những thông tin phản ánh không đầy đủ, phiến diện, tiêu cực một chiều trên báo chí, mạng xã hội.

Thứ tư, quán triệt, thực hiện nghiêm Quy định số 37-QĐ/TW ngày 25-10-2021 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về những điều đảng viên không được làm; Quy định số 22-QĐ/TW ngày 28-7-2021 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng; Quy định số 69-QĐ/TW ngày 6-7-2022 về kỷ luật tổ chức đảng, đảng viên vi phạm, nhằm nâng cao ý thức, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên trong khai thác, sử dụng internet, mạng xã hội; thường xuyên tuyên truyền đến cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, người lao động và các tầng lớp nhân dân nêu cao tinh thần cảnh giác, không tham gia bình luận tiêu cực hoặc chia sẻ những thông tin xấu độc trên không gian mạng.