Thứ Tư, 13 tháng 11, 2024

KIẾN NGHỊ CÁC CHÍNH SÁCH XÃ HỘI CẦN ƯU TIÊN

Một là, quan điểm về chính sách xã hội

Phát triển xã hội mang tính bền vững là hướng đến vì hạnh phúc con người, nhằm mục tiêu vì con người. Cho nên, văn hóa chính là mục tiêu của các chính sách xã hội. Chính sách xã hội hướng đến mục tiêu văn hóa, nhưng khi các vấn đề xã hội được giải quyết tốt, khi đó, vai trò văn hóa với tư cách là động lực sẽ bồi dưỡng nguồn lực con người, cải tạo và xây dựng một xã hội phát triển. Do vậy, mọi đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước phải mở đường cho văn hóa phát triển, phải tạo ra những điều kiện và môi trường thuận lợi cho việc vun đắp những giá trị tinh thần tốt đẹp trong nhân dân, vì nhân dân.

Thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội là mục tiêu xây dựng đất nước. Nói đến công bằng xã hội là nói đến sự ngang bằng giữa người với người về phương diện xã hội, như giữa nghĩa vụ và quyền lợi, giữa cống hiến và hưởng thụ. Điều này khẳng định tầm quan trọng và vai trò của công bằng xã hội trong điều chỉnh các mối quan hệ xã hội. Để đạt được mục tiêu công bằng xã hội, chủ thể quản lý cần kiên quyết đấu tranh phòng chống căn bệnh tham ô, tham nhũng, lãng phí, quan liêu. Thực hiện sự đồng bộ giữa chính sách xã hội với chính sách kinh tế, tăng trưởng kinh tế gắn với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách phát triển, đảm bảo an sinh xã hội, để Việt Nam thật sự đạt đến mục tiêu phát triển dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; chính sách xã hội toàn diện, hiện đại, bao trùm, bền vững, lấy con người làm trung tâm, là chủ thể, mục tiêu, động lực, nguồn lực để phát triển.

Hai là, cần tiếp tục đổi mới tư duy về chính sách xã hội

Ban hành và thực hiện các chính sách xã hội phải đặt trong tổng thể quản lý phát triển xã hội bền vững; giải quyết hài hòa các quan hệ xã hội, bảo đảm tính bền vững trong các chính sách xã hội, nhất là phúc lợi xã hội, an ninh xã hội, đảm bảo quyền con người. Đầu tư cho thực hiện các mục tiêu chính sách xã hội là đầu tư cho sự ổn định và phát triển kinh tế, với vai trò nguồn lực nhà nước là chủ đạo, cùng các nguồn lực quan trọng của doanh nghiệp, xã hội, đóng góp của người dân thông qua các chính sách kinh tế. Từng bước cần nghiên cứu có sự điều tiết vĩ mô chính sách kinh tế gắn với quyền và nghĩa vụ của người dân trong việc thực hiện các chính sách xã hội, cũng như trách nhiệm chính quyền các cấp trong việc ban hành và thực hiện các chính sách xã hội; đồng thời, thực hiện các chính sách xã hội góp phần đảm bảo cân đối dân cư giữa các vùng, miền trên phạm vi cả nước.

Ba là, kết hợp hài hòa giữa chính sách xã hội với thực hiện mục tiêu phát triển bền vững nền kinh tế- xã hội

Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện Chương trình nghị sự 2030 của Liên hợp quốc vì sự phát triển bền vững, theo đó Việt Nam đang nỗ lực để đạt được các Mục tiêu Phát triển Bền vững với 17 Mục tiêu nhằm giải quyết những thách thức phát triển lớn mà người dân Việt Nam, trong đó có các chính sách gắn với chính sách xã hội, như: (1) Chấm dứt mọi hình thức nghèo ở mọi nơi; (2) Xóa đói, bảo đảm an ninh lương thực, cải thiện dinh dưỡng và thúc đẩy phát triển nông nghiệp bền vững; (3) Bảo đảm cuộc sống khỏe mạnh và tăng cường phúc lợi cho mọi người ở mọi lứa tuổi; (4) Đảm bảo nền giáo dục có chất lượng, công bằng, toàn diện và thúc đẩy các cơ hội học tập suốt đời cho tất cả mọi người; (5) Đạt được bình đẳng giới; tăng quyền và tạo cơ hội cho phụ nữ và trẻ em gái; (6) Đảm bảo đầy đủ và quản lý bền vững tài nguyên nước và hệ thống vệ sinh cho tất cả mọi người; (7) Đảm bảo khả năng tiếp cận nguồn năng lượng bền vững, đáng tin cậy và có khả năng chi trả cho tất cả mọi người; ( Đảm bảo tăng trưởng kinh tế bền vững, toàn diện, liên tục; tạo việc làm đầy đủ, năng suất và việc làm tốt cho tất cả mọi người; (9) Xây dựng cơ sở hạ tầng có khả năng chống chịu cao, thúc đẩy công nghiệp hóa bao trùm và bền vững, tăng cường đổi mới; (10) Giảm bất bình đẳng trong xã hội; (11) Phát triển đô thị, nông thôn bền vững, có khả năng chống chịu; đảm bảo môi trường sống và làm việc an toàn, phân bổ hợp lý dân cư và lao động theo vùng; (12) Đảm bảo sản xuất và tiêu dùng bền vững; (13) Ứng phó kịp thời, hiệu quả với biến đổi khí hậu và thiên tai; (14) Bảo tồn và sử dụng bền vững đại dương, biển và nguồn lợi biển để phát triển bền vững; (15) Bảo vệ và phát triển rừng bền vững, bảo tồn đa dạng sinh học, phát triển dịch vụ hệ sinh thái, chống sa mạc hóa, ngăn chặn suy thoái và phục hồi tài nguyên đất; (16) Thúc đẩy xã hội hòa bình, dân chủ, công bằng, bình đẳng, văn minh vì sự phát triển bền vững, tạo khả năng tiếp cận công lý cho tất cả mọi người; xây dựng các thể chế hiệu quả, có trách nhiệm giải trình và có sự tham gia ở các cấp; (17) Tăng cường phương thức thực hiện và thúc đẩy đối tác toàn cầu vì sự phát triển bền vững.

Bốn là, đảm bảo sự gắn kết thực hiện chính sách xã hội và quản lý phát triển xã hội, coi quản lý phát triển xã hội là một bộ phận cấu thành hệ thống các chính sách xã hội

Thực hiện mục tiêu đến năm 2030, nước ta trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; tầm nhìn Việt nam đến 2045 là trở thành quốc gia phát triển, thuộc nhóm các nước có thu nhập cao, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030 nêu về phát triển các chính sách xã hội: “quan tâm tạo điều kiện thuận lợi cho các đối tượng chính sách, người có công, người nghèo, người yếu thế, đồng bào dân tộc thiểu số”; “Phát triển hài hòa giữa giáo dục công lập và ngoài công lập, giữa các vùng miền, ưu tiên các vùng đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, biên giới hải đảo và các đối tượng chính sách”; “Tiếp tục thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội, nhất là cho những người yếu thế, người nghèo”, theo đó cần tập trung vào quản lý phát triển xã hội đòi hỏi cần nghiên cứu ban hành chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển chính sách xã hội gắn với chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội trong từng thời kỳ; cần đổi mới cơ chế phân công, phân cấp trong huy động, phân bổ, tổ chức thực hiện quản lý nhà nước về thực hiện các chính sách xã hội và nghiên cứu đổi mới bộ máy tổ chức các cơ quan quản lý nhà nước từ Trung ương đến địa phương trong quản lý phát triển xã hội cho phù hợp giai đoạn phát triển mới. Ngoài ra, cần có cơ chế chủ động nghiên cứu, nắm bắt và dự báo được những vấn đề chính sách xã hội sẽ nảy sinh, dự báo xu hướng biến đổi cơ cấu xã hội, kiểm soát phân tầng xã hội cũng chính sách huy động nguồn lực để giải quyết các vấn đề xã hội và thực hiện chính sách xã hội.

Năm là, phát triển phúc lợi xã hội bao trùm cần ưu tiên hướng đến trong các chính sách xã hội

Phúc lợi xã hội bao trùm gắn kết chặt chẽ nhiều lĩnh vực, nhưng chủ yếu là bảo đảm các nhu cầu cơ bản, thiết yếu về giáo dục, y tế, văn hóa, nhà ở xã hội, giao thông công cộng, phúc lợi cho người lao động. Trong công cuộc đổi mới của Việt Nam, việc tăng cường phúc lợi xã hội đã trở nên cần thiết để nhà nước có thể đáp ứng những nhu cầu của người dân. Cần tập trung vào những vấn đề thiết yếu nhất của người dân lao động, bảo đảm các thành phần kinh tế được công bằng và khuyến khích người dân tham gia vào công cuộc xây dựng và phát triển nước nhà. Giáo dục là nội dung quan trọng hàng đầu của phúc lợi xã hội, bảo đảm nguồn nhân lực có chất lượng và hạ tầng xã hội cho phát triển đất nước, thúc đẩy công bằng về cơ hội phát triển đối với mọi thành viên xã hội.

Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh tính hiệu quả khi tăng mức đầu tư cho giáo dục, tức xác định chi ngân sách cho giáo dục là đầu tư cho phát triển, tăng chi là cần thiết nhưng phải bảo đảm chi đúng đối tượng, đúng hạng mục chuyên môn, thay vì chi dựa trên tổng biên chế của từng tổ chức, cơ quan, đơn vị mà không phân khai rõ hiệu quả của đối tượng thụ hưởng. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng cũng nêu rõ, cần thực hiện xã hội hóa giáo dục đúng hướng, mà vấn đề lớn là phân loại rõ đâu là hoạt động giáo dục theo yêu cầu của cá nhân người học cùng khả năng chi trả tài chính tương ứng, đâu là hoạt động giáo dục phi lợi nhuận gắn với cơ chế, chính sách tương ứng của Nhà nước. Đối với hoạt động giáo dục phi lợi nhuận, cần sự hỗ trợ của Nhà nước không chỉ chính sách, mà cả nguồn lực, như mặt bằng đất đai mở trường, miễn thuế cho những trường hợp sử dụng thu nhập cá nhân hoặc tài sản thừa kế để đầu tư cho phát triển giáo dục... Giáo dục mầm non có vai trò đặc biệt quan trọng trong bảo đảm phúc lợi xã hội, có lúc, có nơi đã từng thả nổi cho thị trường, dẫn tới những hệ lụy đáng tiếc, như giáo viên bạo hành trẻ nhỏ, chế độ nuôi dưỡng không bảo đảm dinh dưỡng và vệ sinh, an toàn thực phẩm, thiếu phương pháp, phương tiện phù hợp với đặc điểm “giáo dục sớm”... Trong cơ chế thị trường, cần khuyến khích khu vực ngoài công lập đầu tư phát triển các trường đáp ứng yêu cầu những gia đình có khả năng chi trả tài chính gắn với những điều kiện tốt về cơ sở vật chất trường lớp, thiết bị giáo dục, đưa đón học sinh, chế độ bữa ăn,... nhưng các tiêu chuẩn cơ bản (chất lượng giáo viên, tài liệu học tập, bảo đảm vệ sinh, an toàn thực phẩm, điều kiện nuôi dạy...) thì không thể có sự phân biệt giữa khu vực công và khu vực tư.. Hệ thống y tế, chăm sóc sức khỏe bảo đảm phòng ngừa dịch bệnh hiệu quả, đáp ứng nhu cầu khám và chữa bệnh cho người dân mà không làm “nghèo hóa” người có thu nhập thấp, nhờ bảo hiểm y tế toàn dân và giá dịch vụ y tế được kiểm soát bởi vai trò Nhà nước thể hiện tính chất phúc lợi xã hội tiến bộ, hiệu quả và nhân văn. Phúc lợi văn hóa được bảo đảm bằng phát triển các thiết chế văn hóa mang tính chất dịch vụ công cộng mà người thụ hưởng được miễn phí hoặc phí sử dụng thấp; được hưởng thụ các giá trị văn hóa cộng đồng, như công viên, lễ hội, tham quan các di tích, tín ngưỡng, tôn giáo do cộng đồng tự quản; được tiếp cận các sản phẩm văn hóa, nghệ thuật, thể thao miễn phí qua các kênh truyền thông công cộng. Khắc phục sự chênh lệch về trình độ phát triển và đời sống văn hóa giữa các vùng, miền, các giai tầng xã hội, đặc biệt quan tâm đến vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, các khu công nghiệp. Chăm lo đời sống vật chất, tinh thần, nhà ở và phúc lợi xã hội cho công nhân... Đây là những vấn đề rất lớn về phúc lợi xã hội cần chăm lo phát triển vì con người thông qua phát triển hạ tầng xã hội. Phát triển phúc lợi nhằm không ngừng nâng cao chất lượng sống và hạnh phúc của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước đi và từng chính sách phát triển, góp phần giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước./.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét