Thứ Tư, 18 tháng 8, 2021

CÁCH MẠNG THÁNG TÁM – ĐỈNH CAO HỘI TỤ SỨC MẠNH “Ý ĐẢNG, LÒNG DÂN”


   Cách đây 76 năm, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân ta đã nhất tề đứng lên tiến hành cách mạng Tháng Tám thành công, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Một trong những nhân tố có tính quyết định thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là do Đảng ta đứng đầu là lãnh tụ Hồ Chí Minh đã thực hiện tốt đường lối đoàn kết toàn dân tộc, liên hiệp mọi lực lượng yêu nước, không phân biệt tôn giáo, xu hướng đảng phái chính trị, giai cấp, trong một Mặt trận Dân tộc thống nhất.

     NƠI HỘI TỤ “Ý ĐẢNG, LÒNG DÂN”

   Dù ở mỗi thời kỳ cách mạng, trong từng nhiệm vụ mang những tên gọi khác nhau nhưng có thể nói Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam chính là nơi hội tụ của “ý Đảng, lòng Dân”, là nơi tập hợp các giai cấp, các tầng lớp trong xã hội để thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ của cách mạng. Ngay từ khi ra đời, Đảng ta đã xác định rất rõ mục tiêu, nhiệm vụ cách mạng là đánh đổ đế quốc thực dân và phong kiến, giành chính quyền về tay nhân dân, đưa người dân từ thân phận nô lệ trở thành người làm chủ đất nước. Ngay từ khi thành lập, trong Chánh cương vắn tắt, Đảng ta xác định nhiệm vụ của cách mạng đó là: “Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến, làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập...”.

   Cần khẳng định, đường lối chiến lược và sách lược của cách mạng mà Đảng ta xác định là hoàn toàn đúng đắn. Trên cơ sở nền tảng ấy, trong quá trình lãnh đạo căn cứ vào biến chuyển cụ thể của tình hình từng giai đoạn, Đảng ta không ngừng bổ sung, phát triển cho sát hợp, đáp ứng kịp thời yêu cầu. Những mục tiêu, nhiệm vụ của cách mạng mà Đảng ta xác định đó cũng là khát vọng cháy bỏng của nhân dân ta - khát vọng được làm chủ đất nước, được sống trong hòa bình, độc lập, tự do. Sự thống nhất giữa “ý Đảng, lòng Dân” đã trở thành sợi dây gắn kết cả dân tộc Việt Nam lại với nhau tạo thành sức mạnh tổng hợp của cách mạng. Xuyên suốt quá trình lãnh đạo, Đảng ta luôn nhất quán và đặt nội dung ấy vào nhiệm vụ trung tâm của cách mạng.

   Từ năm 1930 đến 1945, Đảng ta đứng đầu là lãnh tụ Hồ Chí Minh đã bám sát tình hình thế giới và trong nước, đề ra nhiều chủ trương, đường lối, giải pháp cách mạng đúng đắn, phù hợp lãnh đạo toàn dân kết thành một khối đứng lên đấu tranh giành thắng lợi.

   Ngay sau khi thành lập, Đảng ta đã kịp thời lãnh đạo quần chúng nhân dân đứng lên đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược và phong kiến bằng cao trào cách mạng 1930-1931 mà đỉnh cao là Xô Viết Nghệ - Tĩnh. Mặc dù chưa thành công và bị thực dân Pháp dìm trong biển máu nhưng cao trào cách mạng 1930-1931 đã khẳng định sức mạnh của quần chúng nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đây chính là cuộc tổng diễn tập đầu tiên nhằm chuẩn bị thế và lực cho tổng khởi nghĩa cách mạng Tháng Tám sau này.

   Tình hình thế giới và trong nước sau cuộc tổng diễn tập lần thứ nhất có những diễn biến mới. Tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương (tháng 7-1936), Đảng ta xác định nhiệm vụ chiến lược của cách mạng tư sản dân quyền Đông Dương là chống đế quốc và chống phong kiến; nhiệm vụ trực tiếp, trước mắt là đấu tranh chống chế độ phản động thuộc địa, chống phát xít, chống chiến tranh, đòi tự do, dân sinh, dân chủ, cơm áo và hòa bình.

   Để thực hiện nhiệm vụ đó, Đảng ta xác định thay đổi chủ trương, hình thức và phương pháp cách mạng, bằng việc kêu gọi các đảng phái chính trị, các tổ chức quần chúng và nhân dân hành động, đấu tranh thông qua phong trào dân chủ 1936-1939. Mục tiêu của phong trào dân chủ là đòi tự do, dân sinh, dân chủ, cơm áo và hòa bình. Phương pháp đấu tranh là kết hợp các hình thức công khai và bí mật, hợp pháp và bất hợp pháp. Để tập hợp quần chúng nhân dân, phát huy được sức mạnh “lòng dân”, Đảng ta chủ trương thành lập Mặt trận Thống nhất nhân dân phản đế Đông Dương. Bằng sức mạnh đoàn kết và tinh thần đấu tranh kiên quyết của quần chúng, phong trào dân chủ 1936-1939 đã buộc chính quyền thực dân phải nhượng bộ một số yêu sách cụ thể trước mắt về dân sinh, dân chủ. Thông qua phong trào, quần chúng nhân dân được giác ngộ về chính trị, tích cực tham gia vào Mặt trận Dân tộc thống nhất và trở thành lực lượng chính trị hùng hậu của cách mạng… Có thể nói phong trào dân chủ 1936-1939 là cuộc tổng diễn tập lần thứ hai chuẩn bị cho Cách mạng Tháng Tám năm 1945.

   Trước những biến đổi nhanh chóng của tình hình thế giới và trong nước từ khi Chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra, ngày 6/11/1939, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 6 được triệu tập. Trên cơ sở phân tích, nhận định tình hình thế giới và trong nước, Hội nghị đã đề cập tới việc tận dụng thời cơ chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền và đề ra đường lối đấu tranh vũ trang nhằm lật đổ chính quyền thực dân, phong kiến, thành lập chính quyền cách mạng. Với đường lối cách mạng được đề ra tại Hội nghị Ban Chấp Hành Trung ương Đảng lần thứ 6, cách mạng Việt Nam bước vào một giai đoạn mới - giai đoạn trực tiếp chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa vũ trang lật đổ chính quyền thực dân, phong kiến, giành độc lập dân tộc và chính quyền về tay nhân dân.

   Đặc biệt, trước những chuyển biến mạnh mẽ của tình hình trong nước và những biến động to lớn, mau lẹ của tình hình thế giới, tháng 5/1941, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 8 của Đảng họp dưới sự chủ trì của lãnh tụ Hồ Chí Minh để quyết định sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược. Nghị quyết Hội nghị đã chỉ rõ: “Trong lúc này, quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc. Trong lúc này, nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia, dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, của giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”.

   Để thực hiện được mục tiêu, nhiệm vụ đó, vấn đề đặt ra là phải tập hợp, đoàn kết được mọi lực lượng, mọi giai cấp, mọi tầng lớp trong xã hội vào một mặt trận dân tộc thống nhất. Nhằm giải quyết vấn đề này, ngày 19/5/1941, Mặt trận Dân tộc thống nhất chống phát-xít Pháp - Nhật lấy tên là Việt Nam Độc lập Đồng minh, gọi tắt là Việt Minh được thành lập. Trong tuyên bố của mình, Việt Minh đã chỉ rõ: “Việt Minh chủ trương liên hiệp hết thảy các giới đồng bào yêu nước, không phân biệt giàu nghèo, già trẻ, gái trai, không phân biệt tôn giáo và xu hướng chính trị, đặng cùng nhau mưu cuộc dân tộc giải phóng và sinh tồn". Việt Minh cũng nhận thấy rõ tinh thần và ý chí cách mạng của quần chúng nhân dân là rất lớn, nhân dân luôn sẵn lòng hy sinh tài sản và tính mạng để thực hiện mục tiêu làm chủ đất nước, sống trong hòa bình, độc lập, tự do.

   Bằng những chủ trương đúng đắn, chỉ trong thời gian ngắn dưới ngọn cờ cứu quốc của Mặt trận Việt Minh, mọi giai cấp, tầng lớp trong xã hội đã quy tụ, tập hợp, phát huy cao độ tinh thần cố kết cộng đồng, khơi dậy tinh thần yêu nước, ý chí đấu tranh anh dũng, quật cường của toàn dân tộc để góp phần vào thành công của cách mạng. Có thể nói dưới sự lãnh đạo của Đảng và ngọn cờ cứu quốc của Mặt trận Việt Minh, tinh thần yêu nước, sức mạnh quật cường của “lòng Dân” được nhân lên gấp bội. Các đoàn thể cứu quốc như: Công nhân cứu quốc, Nông dân cứu quốc, Thanh niên cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc… là những hình thức được Mặt trận Việt Minh tổ chức và phát triển rộng khắp. Khi sức mạnh của “ý Đảng, lòng Dân” hội tụ thì tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh công nhân - nông dân - trí thức cùng các tầng lớp lao động khác đã thực sự trở thành động lực chủ yếu của cách mạng.

   Đầu tháng 8/1945, tình hình thế giới, đặc biệt là Chiến tranh thế giới thứ 2 diễn ra theo chiều hướng có lợi cho cách mạng Việt Nam. Đảng ta đứng đầu là lãnh tụ Hồ Chí Minh đã nhìn thấy thời cơ ngàn năm có một đang đến gần. Trong bối cảnh cùng lúc phải đối phó với nhiều lực lượng quân sự nước ngoài tràn vào Việt Nam giải giáp quân đội Nhật, Đảng ta nhận thấy nếu không đón bắt được thời cơ và kịp thời hành động thì cách mạng sẽ khó khăn. Từ những nhận định, phân tích ấy, chớp thời cơ Đảng ta đã đoàn kết và khơi dậy, phát huy sức mạnh của “lòng Dân”, phát động Tổng khởi nghĩa, giành chính quyền trên toàn quốc. Chỉ trong vòng 15 ngày cuối tháng 8/1945, cuộc Tổng khởi nghĩa đã giành thắng lợi hoàn toàn, chính quyền trong cả nước về tay nhân dân.

     BẢO VỆ VÀ NHÂN LÊN SỨC MẠNH “Ý ĐẢNG, LÒNG DÂN” TRONG THỜI KỲ MỚI

   Sự thật đã chứng minh thuyết phục, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 chính là thắng lợi của sức mạnh “ý Đảng, lòng Dân”, của sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc biết chớp thời cơ, vùng lên đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng dân tộc. Thế nhưng, đâu đó vẫn có một số tổ chức, cá nhân thù địch với Việt Nam cố tình bóp méo, xuyên tạc tính chất và ý nghĩa của vấn đề lịch sử này.

   Do động cơ, mục đích đen tối, họ cố tình phủ nhận rằng, chẳng có sự thống nhất, tinh thần đoàn kết nào, dưới sự lãnh đạo của ai cả mà đó chỉ là hành động "bột phát, vô thức" của người dân phẫn uất do bị áp bức, bóc lột đứng lên giành chính quyền. Khi bàn về vai trò của các tầng lớp, các giai cấp trong Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945, họ cho rằng giai cấp nông dân Việt Nam đã nhận thức được “mệnh trời” và vai trò của mình. Bằng cái nhìn chủ quan, phiến diện, thiển cận đó họ cho rằng, thắng lợi của cách mạng Tháng Tám năm 1945 vai trò nổi dậy của giai cấp nông dân Việt Nam mới là quyết định.

   Luận điệu trên không nằm ngoài mục tiêu phủ nhận giá trị lịch sử của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, phủ phận sức mạnh của sự thống nhất “ý Đảng, lòng Dân”, của khối đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam). Nhưng họ đã lầm. Sự thật lịch sử quá rõ ràng và vô cùng thuyết phục. Cách nhìn nhận phi lý, phản khoa học, những luận điệu sai trái, lập lờ đánh lận con đen của họ không thể lừa bịp được nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới và những người Việt Nam chân chính.

   Hơn thế, tinh thần đại đoàn kết, sự thống nhất đã trở thành nét đẹp truyền thống của dân tộc Việt Nam. Được hun đúc qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, tinh thần đoàn kết, sự thống nhất đã trở thành một trong những nét đẹp trong văn hóa dân tộc. Nét đẹp ấy càng được khẳng định trong thời đại Hồ Chí Minh toàn thể dân tộc Việt Nam là một. Có thể nói cách mạng Tháng Tám năm 1945 là đỉnh cao tỏa sáng rực rỡ của sự thống nhất “ý Đảng, lòng Dân”, của tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc.

   "Nước mất thì nhà tan", mỗi người dân Việt Nam luôn nhận thức rõ, ý thức sâu sắc điều này và tinh thần ấy luôn thường trực trong mỗi người con nước Việt. Từ thực tiễn lịch sử, nhân dân Việt Nam từng tổng kết, đúc rút, chỉ khi nào có sự thống nhất “ý Đảng, lòng Dân”, không ngừng xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc vững chắc, thì khi ấy mới tập hợp phát huy được sức mạnh nội lực của đất nước, mới xây dựng và bảo vệ nước nhà được hòa bình, thịnh vượng. Cũng chính trên nền tảng ấy mà nhân dân ta đã không cam chịu thân phận, kiếp đời nô lệ, một lòng đi theo Đảng, triệu người như một quyết vùng lên giành độc lập, tự do cho dân tộc, giành địa vị làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh cho mình.

   Có thể nói, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là biểu tượng tuyệt vời của sự thống nhất “ý Đảng, lòng Dân”, của tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc. Cùng với đó cần phải khẳng định, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 nổ ra và thành công gắn với vai trò lãnh đạo của Việt Minh, của Đảng ta và lãnh tụ Hồ Chí Minh. Chúng ta không phủ nhận vai trò to lớn của quần chúng nhân dân, trong đó có giai cấp nông dân. Nhưng cần phải nhớ rằng, sự nhất tề vùng lên của quần chúng nhân dân nói chung, của giai cấp nông dân nói riêng không phải là "vô thức, bột phát" vì "phẫn uất" như một số tổ chức, cá nhân thù địch với Việt Nam từng xuyên tạc, mà đó là sự vùng lên có giác ngộ, được tổ chức, theo đường hướng lãnh đạo của Mặt trận Việt Minh, của Đảng Cộng sản Đông Dương.

   Bảy mươi sáu năm nhìn lại, chúng ta càng hiểu hơn về sự kiện vĩ đại nhất của Việt Nam trong thế kỷ XX, càng thấy rõ hơn giá trị tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc, của sự thống nhất “ý Đảng, lòng Dân”, của độc lập, tự do, hòa bình, thống nhất. Bài học về sự thống nhất “ý Đảng, lòng Dân”, về tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc đến nay vẫn còn nguyên tính thời sự. Bởi chỉ khi lòng dân được quy về một mối và tất cả cùng hướng niềm tin vào Đảng - đó sẽ là sức mạnh vô địch để cả dân tộc băng qua mọi khó khăn, thử thách, tiếp tục làm nên các kỳ tích mới trong công cuộc đổi mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa./.

LÃNH TỤ THIÊN TÀI HỒ CHÍ MINH VÀ THẮNG LỢI CỦA CÁCH MẠNG THÁNG TÁM

 

   Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là thắng lợi của tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng dân tộc mà ý nghĩa của những tư tưởng đó vẫn còn giá trị lâu dài.

   Thắng lợi Cách mạng Tháng Tám và sự ra đời của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa là một trong những thắng lợi vĩ đại nhất của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ 20, là mốc son chói lọi trong lịch sử ngàn năm của dân tộc..

   Thắng lợi đó gắn liền với công lao to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ thiên tài của Đảng và nhân dân ta, Người thầy vĩ đại của Cách mạng Việt Nam, Anh hùng giải phóng dân tộc, Danh nhân văn hóa thế giới.

     Chủ tịch Hồ Chí Minh với những quyết định lịch sử

   Mùa Thu năm 1945, cả dân tộc Việt Nam vùng lên lật đổ ách thống trị của phátxít Nhật, đánh đuổi thực dân Pháp, xóa bỏ chế độ phong kiến, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.

   Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 là một trong những chiến công vĩ đại nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta, là bản hùng ca bất diệt trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc.

   Trong bản hùng ca ấy, không thể không kể đến vai trò lĩnh xướng của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

   Người đã có những quyết định quan trọng, góp phần to lớn tạo nên thắng lợi của cách mạng mùa Thu năm ấy, làm thay đổi vận mệnh nước nhà.

   Quyết định đầu tiên có ý nghĩa vô cùng quan trọng chính là việc người thanh niên Nguyến Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước vào ngày 5/6/1911.

   Từ Bến cảng Nhà Rồng, với một quyết tâm cháy bỏng “nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành,” trải bao khó khăn, vất vả Người đã tiếp cận với Luận cương của V.I. Lenin, từ đó hình thành nên con đường cứu nước.

   Quyết định quan trọng thứ hai của Chủ tịch Hồ Chí Minh là thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 3/2/1930. Sự ra đời của Đảng với hệ thống tổ chức chặt chẽ và cương lĩnh cách mạng đúng đắn đã chấm dứt tình trạng khủng hoảng về lãnh đạo cách mạng kéo dài mấy chục năm đầu thế kỷ 20.

   Sự ra đời của Đảng là sự chuẩn bị tất yếu đầu tiên có tính chất quyết định cho những bước phát triển trong tiến trình lịch sử cách mạng của dân tộc Việt Nam, được mở đầu bằng thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945 và sự ra đời của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.

   Ngay từ ngày mới thành lập "Đảng đã giương cao ngọn cờ cách mạng, đoàn kết và lãnh đạo toàn dân đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp. Màu cờ đỏ của Đảng chói lọi như Mặt Trời, xé tan màn đêm đen tối, soi đường dẫn lối cho nhân dân vững bước tiến lên con đường thắng lợi trong cuộc cách mạng phản đế, phản phong.”

   Quyết định quan trọng tiếp theo của Chủ tịch Hồ Chí Minh là trở về nước vào ngày 28/1/1941 và chọn Cao Bằng là nơi xây dựng căn cứ cách mạng. Ở đây, Người và các đồng chí bắt tay vào công tác vận động, tập hợp và tổ chức lực lượng quần chúng.

   Sau thời gian xây dựng thí điểm các đoàn thể cứu quốc, Trung ương Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quyết định thành lập Mặt trận Việt Minh ngày 19/5/1941.

   Đây là quyết định về tổ chức có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với cách mạng Việt Nam lúc này.

   Cùng với sự ra đời của Mặt trận Việt Minh là sự phát triển mạnh mẽ của các đoàn thể trong mặt trận, như Nông dân cứu quốc, Công nhân cứu quốc, Thanh niên cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc, Nhi đồng cứu quốc…

   Dưới ngọn cờ của Mặt trận Việt Minh, mọi tầng lớp nhân dân yêu nước được tập hợp đoàn kết tham gia phong trào đứng lên đánh đổ thực dân xâm lược giành độc lập tự do. Có thể nói, sự ra đời của Mặt trận Việt Minh là yếu tố quyết định cho thắng lợi Cách mạng Tháng Tám.

   Song song với việc thành lập Mặt trận Việt Minh, để làm cơ sở và nòng cốt cho đấu tranh chính trị, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cho xây dựng lực lượng vũ trang mà đầu tiên là thành lập đội vũ trang Cao Bằng, làm nhiệm vụ bảo vệ căn cứ cách mạng, huấn luyện chính trị quân sự cho các đội tự vệ, dân quân du kích địa phương, hậu thuẫn cho các cuộc đấu tranh của quần chúng.

   Đến tháng 12/1944, lãnh tụ Hồ Chí Minh đã ra Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân và giao cho đồng chí Võ Nguyên Giáp phụ trách.

   Ngay sau khi thành lập đội đã gây được tiếng vang lớn với chiến thắng diệt gọn 2 đồn địch ở Phay Khắt và Nà Ngần. Uy tín của đội lan tỏa khắp cả nước và nhiều địa phương cũng đã chủ động thành lập các đội vũ trang.

   Lực lượng vũ trang không ngừng lớn mạnh đã tạo điều kiện vô cùng quan trọng cho thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám.

     Cách mạng Tháng Tám thành công, khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hòa

   Với sự chuẩn bị kỹ lưỡng về căn cứ cách mạng, tổ chức chính trị, lực lượng cách mạng đặc biệt là đội quân vũ trang tinh nhuệ, cùng với yếu tố thuận lợi về thời cơ cách mạng, quân và dân ta đồng loạt đứng dậy tiến hành khởi nghĩa giành chính quyền.

   Theo đó, từ ngày 13 đến 15/8/1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng họp tại Tân Trào (Tuyên Quang) nhận định thời cơ đã đến, quyết định Tổng khởi nghĩa trong toàn quốc, giành chính quyền trước khi quân đồng minh vào Đông Dương.

   Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định “Lúc này, thời cơ thắng lợi đã tới, dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn, cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập.”

   Ngay trong đêm ngày 13/8/1945, Ủy ban khởi nghĩa đã ra Quân lệnh số 1, phát lệnh tổng khởi nghĩa. Ngày 16 và 17/8/1945, Quốc dân Đại hội họp tại Tân Trào tán thành chủ trương tổng khởi nghĩa của Đảng Cộng sản Đông Dương, thông qua 10 chính sách lớn của Việt Minh, thành lập Ủy ban Dân tộc giải phóng do Người làm Chủ tịch. Trong thư kêu gọi đồng bào cả nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta.”

   Cuộc Tổng khởi nghĩa đã nhanh chóng giành được thắng lợi, tiêu biểu là các cuộc khởi nghĩa ở Hà Nội (19/8), Huế (23/8), Sài Gòn (25/8).

   Đặc biệt, ngày 19/8/1945, khởi nghĩa thắng lợi ở Hà Nội gây tiếng vang lớn trong cả nước. Cuộc khởi nghĩa nổ ra thắng lợi ở Hà Nội đã góp phần làm tan rã nhanh chóng toàn bộ hệ thống bộ máy chính quyền tay sai của Nhật trong cả nước.

   Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh, 25 triệu đồng bào ta, với tinh thần "đem sức ta mà giải phóng cho ta" đã nhất tề vùng lên giành chính quyền trong 15 ngày, từ 13 đến 28/8/1945. Chính quyền trong cả nước đã thuộc về nhân dân.

   Ngày 2/9/1945 tại quảng trường Ba Đình, trước hàng chục vạn người dân nước Việt, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập, tuyên bố trước quốc dân và thế giới về sự ra đời của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, mở ra một kỷ nguyên mới, đó là kỷ nguyên của độc lập, tự do, tạo thế và lực cho sự phát triển của cách mạng Việt Nam trong thời đại mới.

     Biểu tượng sức mạnh dân tộc và tinh thần thời đại

   Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Trước hết đã chứng minh rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện đã lãnh đạo nhân dân tiến hành Cách mạng Tháng Tám thành công, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam).

   Sau này, Đảng ta đã tiếp tục lãnh đạo nhân dân đánh thắng các cuộc chiến tranh xâm lược, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, tiến hành công cuộc đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc nền độc lập của Tổ quốc.

   Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là hội tụ của ý chí độc lập tự chủ, tự lực, tự cường của dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng; là thắng lợi vĩ đại của chủ nghĩa Marx-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh được Đảng ta vận dụng một cách sáng tạo để “lựa tình thế, chọn thời cơ,” đưa ra những quyết sách đúng đắn, sáng tạo ở tầm chiến lược.

   Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 cũng chứng minh rằng, một dân tộc dù nhỏ bé nhưng nếu có truyền thống nồng nàn yêu nước, ý chí tự lực, tự cường, thông minh, sáng tạo dưới sự lãnh đạo của đảng cách mạng chân chính thì vẫn có thể làm nên những sự kiện vĩ đại có tầm vóc và đi vào lịch sử của dân tộc và thế giới.

   Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là động lực mạnh mẽ cổ vũ toàn thể dân tộc Việt Nam kiên cường, bất khuất tiếp tục sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội, thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới đưa nước ta phát triển để có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày hôm nay.

   Không chỉ có ý nghĩa quan trọng đối với dân tộc Việt Nam, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945 đã cổ vũ mạnh mẽ cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp bức chống ách nô dịch của chủ nghĩa đế quốc, mở ra thời kỳ tan rã của chủ nghĩa thực dân trên toàn thế giới.

   Đánh giá ý nghĩa lịch sử của Cách mạng Tháng Tám, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Chẳng những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: Lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc.”

   Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là thắng lợi của tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng dân tộc mà ý nghĩa của những tư tưởng đó vẫn còn giá trị lâu dài.

   Nhiều bài học kinh nghiệm trong Cách mạng Tháng Tám của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh có thể vận dụng vào sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước hiện nay.

   Đó là bài học về chớp thời cơ và tận dụng thời cơ để giành thắng lợi. Bài học về tập hợp, đoàn kết, lôi cuốn toàn dân tham gia sự nghiệp cách mạng, tham gia sự nghiệp xây dựng đất nước; nâng cao ý thức tự lực tự cường, phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của dân tộc, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế.

   Bài học về xây dựng và củng cố nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân; giữ vững ổn định chính trị, xã hội, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, tạo thuận lợi cho công cuộc xây dựng đất nước Việt Nam: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh…

   Trong bối cảnh dịch bệnh COVID-19 đang diễn biến phức tạp hiện nay, việc áp dụng các bài học trên, nhất là bài học về phát huy tinh thần đại đoàn kết, yêu thương đùm bọc lẫn nhau… sẽ tạo nên sức mạnh to lớn, góp phần giúp chúng ta đẩy lùi dịch bệnh.

   Đã 76 năm trôi qua nhưng thắng lợi và ý nghĩa lịch sử của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 vẫn là một sự kiện diệu kỳ trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước vĩ đại của dân tộc ta.

   Diễn ra và giành thắng lợi trong một thời gian ngắn, nhưng Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã để lại nhiều bài học quý báu cho Đảng và nhân dân ta trong hành trình hướng đến tương lai./.

Thủ đoạn bôi lem thành quả, ý nghĩa lịch sử Cách mạng Tháng Tám

Cách đây 76 năm, nhân dân ta đã nhất tề vùng lên tiến hành Tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám, tạo bước ngoặt trong lịch sử phát triển của dân tộc. Đó là kết quả của sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, là thành quả của sự đoàn kết, đồng lòng, nỗ lực, vượt qua mọi khó khăn, thử thách, gian khổ, hy sinh của toàn dân tộc Việt Nam.

Vậy nhưng, đến hẹn lại lên, vào thời điểm kỷ niệm Cách mạng Tháng Tám, một số phần tử cơ hội chính trị trong và ngoài nước, một số tổ chức, báo đài thiếu thiện chí, chống phá Việt Nam lại cố tình đăng tải các bài viết phủ nhận ý nghĩa và thành quả vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám đối với dân tộc ta. 

Trên Facebook, YouTube, các đối tượng đã đăng tải nhiều bài viết cho rằng, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là “sai lầm lịch sử”, là “đi ngược lại sự bảo hộ của mẫu quốc”, không có gì thay đổi chế độ xã hội ở Việt Nam, chẳng qua chỉ là thay từ chế độ “vua trị” sang chế độ “đảng trị”. Họ còn cho rằng, thắng lợi mà Việt Nam giành được đó là “sự ăn may của lịch sử khi Nhật thua trong Chiến tranh thế giới thứ hai, chứ Đảng Cộng sản Việt Nam chẳng có tài cán gì”; vu cáo “Cách mạng Tháng Tám thực chất chỉ là một cuộc cướp chính quyền”; “Tổng khởi nghĩa là do quốc gia đề xướng nhưng cộng sản nhảy ra cướp công”; “Đảng Cộng sản Việt Nam đã hứng được quả ngọt trời cho là tình thế của Pháp, Nhật và hào khí của dân tộc lúc đó để cướp chính quyền cho riêng mình”...

Một số lại quy kết: “Cách mạng Tháng Tám là nguyên nhân dẫn đến hai cuộc chiến tranh đẫm máu ở Việt Nam”; “nếu không có Cách mạng Tháng Tám, nước ta đã giàu mạnh từ lâu và không mất dân chủ như bây giờ”; “Cách mạng Tháng Tám là mở ra thời kỳ Đảng đã áp đặt một chế độ độc tài toàn trị, một đảng duy nhất nắm quyền thống trị với một nhà nước “chuyên chính vô sản”... 

Những gì mà các cá nhân, tổ chức chống phá, các phần tử cơ hội theo chủ nghĩa xét lại đã xuyên tạc, bôi lem về ý nghĩa lịch sử của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 chính là luận điệu xuyên tạc nhằm hạ thấp uy tín, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh; hạ thấp, phủ nhận sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam; xem nhẹ giá trị lịch sử và ý nghĩa thời đại của Cách mạng Tháng Tám năm 1945.                                   

Nhìn lại lịch sử, thành công của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là kết quả của sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, là thành quả của sự đoàn kết, đồng lòng, nỗ lực vượt qua mọi khó khăn, thử thách, gian khổ, hy sinh của dân tộc. Đặc biệt, thành công của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là nhờ tư duy sắc sảo, nhạy bén, sáng tạo, quyết đoán của Đảng, Bác Hồ trong xác định, lựa chọn thời cơ tiến hành Tổng khởi nghĩa. Điều này được thể hiện trên các điểm sau:

Thứ nhất, Cách mạng Tháng Tám không phải là “sai lầm lịch sử” hay là “sự ăn may”. Từ những năm còn bôn ba tìm đường cứu nước, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác ngoài con đường cách mạng vô sản”. Các cao trào cách mạng 1930-1931, 1936-1939, 1939-1945 thực sự là những “cuộc tổng diễn tập” là tiền đề cho Cách mạng Tháng Tám thành công. Khi tình thế và thời cơ cách mạng chín muồi, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát lệnh Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước đúng vào thời điểm thuận lợi nhất.

Thắng lợi vĩ đại của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là kết quả của một quá trình chuẩn bị đầy đủ lực lượng cách mạng của Đảng ta. Đồng thời, là kết quả của việc Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ động, tích cực theo dõi tình hình, dự đoán chính xác thời cơ và kiên quyết lãnh đạo nhân dân đứng lên chớp thời cơ “nghìn  năm có một” để tiến hành Tổng khởi nghĩa. Trong hai yếu tố chủ quan và khách quan thì yếu tố chủ quan là động lực chính, quyết định đến thắng lợi, hoàn toàn không phải thụ động “ăn may”.

Thứ hai, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã xóa bỏ sự thống trị của thực dân, phát xít và phong kiến, xây dựng nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên trong lịch sử dân tộc. Đó không phải là sự chuyển giao từ chế độ “vua trị” sang “đảng trị” mà là sự thay đổi về bản chất từ chế độ “quân chủ phong kiến” sang chế độ “dân chủ cộng hòa”, từ chế độ cai trị tàn bạo của thực dân, phong kiến sang chế độ nhân dân làm chủ dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Cách mạng Tháng Tám đã giải phóng đồng bào ta khỏi chế độ quân chủ chuyên chế và xiềng xích thực dân”. Đồng thời, đối với công cuộc xây dựng một chế độ xã hội mới, khác hẳn về chất so với chế độ phong kiến, thực dân và đến quốc: “Cách mạng Tháng Tám đã xây dựng cho nhân dân ta cái nền tảng Dân chủ Cộng hòa và thống nhất độc lập”.

Thứ ba, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 không phải là nguyên nhân dẫn đến hai cuộc chiến tranh đẫm máu ở Việt Nam. Sau khi nhân dân ta giành được chính quyền, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chưa được bao lâu, ngày 23/9/1945, thực dân Pháp quay lại cướp nước ta một lần nữa. Trước tình thế đất nước đang “ngàn cân treo sợi tóc”, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thực hiện nhiều chính sách để gìn giữ hòa bình, tránh cuộc chiến tranh đổ máu.

Tuy nhiên, “chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa”. Với tinh thần “Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”, quân và dân ta đã trường kỳ kháng chiến và giành thắng lợi, làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, buộc Pháp phải ký Hiệp định Geneva tôn trọng độc lập, chủ quyền của Việt Nam và các nước trên bán đảo Đông Dương. Song, Pháp đã cấu kết và “bật đèn xanh” cho đế quốc Mỹ nhảy vào xâm lược Việt Nam và Đông Dương, buộc nhân dân ta phải tiếp tục bước vào cuộc trường chinh chống Mỹ cứu nước kéo dài 21 năm sau đó.

Bằng đường lối lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt và tinh thần đấu tranh anh dũng kiên cường, bất khuất, bất chấp mọi gian khổ hy sinh, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta giành thắng lợi vẻ vang, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Chính vì vậy, nguyên nhân sâu xa, trực tiếp dẫn đến hai cuộc kháng chiến của nhân dân ta chính là bản chất hiếu chiến xâm lược của chủ nghĩa thực dân, đế quốc chứ không phải một lý do nào khác và đương nhiên không phải do Cách mạng Tháng Tám. 

Thứ tư, nếu không có Cách mạng Tháng Tám, Việt Nam không thể có cơ đồ, vị thế, uy tín và tiềm lực như hiện nay. Trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, nước Việt Nam là một nước thuộc địa nửa phong kiến nghèo nàn, lạc hậu, không có tên trên bản đồ thế giới; trình độ dân trí thấp, với 95% dân số không biết viết, không biết đọc. Nạn đói năm 1945 do phát xít Nhật gây ra đã cướp đi sinh mạng của hơn hai triệu người, bằng khoảng 10% dân số của cả nước vào thời điểm đó.

Ngay sau khi tuyên bố độc lập, ngày 3/9/1945, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã nêu 6 nhiệm vụ cấp bách, trong đó cứu đói là nhiệm vụ hàng đầu và phong trào “diệt giặc đói” được triển khai ngay. Chiến thắng giặc đói là một trong những thành tựu lớn đầu tiên của Nhà nước cách mạng, đã thể hiện tính ưu việt của chế độ mới, của chính quyền nhân dân, góp phần củng cố khối liên minh công nông.

Nhờ đường lối đúng đắn và bằng những chủ trương, biện pháp phù hợp, Đảng ta đã xây dựng, củng cố chính quyền của dân, do dân, vì dân, xây dựng cơ sở kinh tế - chính trị - xã hội, bảo đảm cho các cuộc kháng chiến giành thắng lợi, thống nhất non sông. 

Ngày nay, qua 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, với sự nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển toàn diện. Đất nước ta vượt qua khủng hoảng kinh tế, trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình thấp, đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Chính trị, xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường. Kinh tế tăng trưởng khá, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN từng bước hình thành, phát triển. Thế và lực, uy tín của đất nước được nâng cao.

Trong dịp 75 năm Quốc khánh nước ta, Tổng Thư ký Liên hợp quốc Antonnio Guterres đã gửi lời chúc mừng Việt Nam và nhấn mạnh: “Việt Nam là hình mẫu của các nước đang phát triển, các nước vươn lên từ đói nghèo, từ đổ nát chiến tranh và ngày nay đã trở thành một nước có thu nhập trung bình”.

Những thành tựu to lớn và ý nghĩa lịch sử kết tinh sức sáng tạo của Đảng và Nhân dân Việt Nam đã khẳng định con đường đi lên CNXH của nước ta là phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế của thời đại; khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đó là minh chứng sinh động phản bác các luận điệu tuyên truyền xuyên tạc, bôi lem ý nghĩa lịch sử Cách mạng Tháng Tám.

Mai Năm Mới (Nguồn Báo CAND)

“Quản lý bộ đội tốt, bảo đảm đời sống vật chất và tinh thần tốt trong mọi hoàn cảnh”.

Lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh được trích trong bài nói tại Đại hội Thi đua “Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược của các lực lượng vũ trang nhân dân” tổ chức ngày 07 tháng 8 năm 1965 tại Thủ đô Hà Nội. Đây là Đại hội đầu tiên của các đơn vị anh hùng, chống Mỹ, cứu nước. Tại Đại hội này có 367 đơn vị quân đội, công an vũ trang và dân quân tự vệ toàn miền Bắc được tặng danh hiệu đơn vị Quyết thắng.

Là người sáng lập và rèn luyện Quân đội ta trưởng thành, lớn mạnh, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến sự nghiệp xây dựng, phát triển quân đội một cách toàn diện, chính qui, hiện đại; Người đã dành cả tấm lòng thương yêu vô bờ như tình cảm cha con, bác cháu, đồng chí cho toàn thể cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam với sự quan tâm ân cần đặc biệt về mọi mặt.

Học tập và làm theo lời Bác Hồ dạy “Quản lý bộ đội tốt, bảo đảm đời sống vật chất và tinh thần tốt trong mọi hoàn cảnh”, cấp ủy, chính ủy, chính trị viên, người chỉ huy các cấp trong toàn quân luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, làm tốt công tác giáo dục, quản lý, rèn luyện và chăm lo bảo đảm tốt đời sống vật chất, tinh thần cho bộ đội. Các đơn vị đã làm tốt công tác quản lý bộ đội từ khâu tuyển chọn, gọi công dân nhập ngũ và trong suốt quá trình tại ngũ của người quân nhân với quy trình chặt chẽ, thống nhất; các đơn vị đóng quân và làm nhiệm vụ ở vùng biên giới, hải đảo, nhà giàn DK1… cấp ủy, chỉ huy đơn vị đã có nhiều chủ trương, giải pháp, mô hình, cách làm sáng tạo để bảo đảm tốt nhất đời sống vật chất, tinh thần cho bộ đội bảo đảm cho mọi cán bộ, chiến sĩ yên tâm công tác, gắn bó với đơn vị, nhiều phong trào, mô hình đã được triển khai đạt hiệu quả thiết thực trên thực tế, tiêu biểu: “Đơn vị là nhà, đồng đội là người thân”, “Đồn là nhà, biên giới là quê hương, bà con các dân tộc là anh em ruột thịt”, “Đảo là nhà, tàu là nhà, biển cả là quê hương”…; cán bộ, chiến sĩ toàn quân luôn tin tưởng và chấp hành nghiêm đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, điều lệnh, điều lệ, kỷ luật của quân đội; có phẩm chất đạo đức cách mạng trong sáng, có ý chí, nghị lực phấn đấu đúng đắn, thường xuyên, liên tục, sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.

 


Bộ đội được dân yêu, dân tin, dân phục thì nhất định thắng lợi”.

Là lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong buổi nói chuyện tại Hội nghị quân sự lần thứ 5, họp đầu tháng 8 năm 1948.

Quân đội nhân dân Việt Nam, quân đội của dân, do dân và vì dân, được sinh ra và lớn lên từ phong trào cách mạng của quần chúng nhân dân. Trải qua hơn 70 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành dưới sự lãnh đạo, giáo dục, rèn luyện của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã không ngừng lớn mạnh, lập nhiều chiến công hiển hách, xứng đáng là lực lượng nòng cốt của nền quốc phòng toàn dân, chiến tranh nhân dân trong sự nghiệp giải phóng dân tộc trước đây, cũng như xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa ngày nay. Sức mạnh chiến đấu, chiến thắng của Quân đội ta được bắt nguồn từ nhiều yếu tố; trong đó, sự giúp đỡ, đùm bọc của nhân dân có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng, không chỉ là nguồn cung cấp sức người, sức của cho quân đội, mà chính nhân dân còn là lực lượng luôn giúp đỡ, nuôi dưỡng, đùm bọc bộ đội trong mọi điều kiện, hoàn cảnh.

Thấu triệt lời Bác Hồ dạy, thực hiện chức năng, nhiệm vụ đội quân chiến đấu, công tác và lao động sản xuất, cán bộ, chiến sĩ quân đội không chỉ chiến đấu bảo vệ nhân dân, mà luôn giữ mối liên hệ mật thiết với nhân dân, quan tâm giúp đỡ nhân dân trong lao động sản xuất, phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới, tham gia phòng chống thiên tai, cứu hộ, cứu nạn, khắc phục hậu quả chiến tranh… Đặc biệt, các binh đoàn, đoàn kinh tế - quốc phòng đã gắn kết chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với tăng cường quốc phòng - an ninh, thực hiện công tác dân vận, góp phần bảo đảm an sinh xã hội, tạo công ăn việc làm cho người dân, giúp dân chuyển đổi vật nuôi, cây trồng, bao tiêu sản phẩm, giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, xây dựng đời sống văn hóa mới, làm thay đổi bộ mặt nông thôn trên địa bàn chiến lược trọng yếu. Đồng thời, chủ động tuyên truyền, nâng cao ý thức cảnh giác cho các tầng lớp nhân dân, đấu tranh có hiệu quả với mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch trên địa bàn, bảo vệ cấp ủy, chính quyền địa phương, củng cố đoàn kết các dân tộc và tình hữu nghị với các nước láng giềng. Cán bộ, chiến sĩ toàn quân phải luôn tự hào, giữ gìn và phát huy phẩm chất cao đẹp “Bộ đội Cụ Hồ” trong tình hình mới, tạo sức lan tỏa sâu rộng trong toàn quân và xã hội, góp phần bồi dưỡng nhận thức, tư tưởng, tình cảm, khơi dậy ý chí quyết tâm của quần chúng nhân dân trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân ngày càng vững chắc, xứng đáng với sự tin yêu của Đảng, Nhà nước, nhân dân.


 Vũ khí tốt mà tinh thần hèn, thì cũng vô dụng”.

Câu nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bài “Máy bay “phản lực” phản Mỹ”, đăng trên Báo Cứu quốc, số 2135,  ngày 04 tháng 8 năm 1952.

Đây là thời điểm cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của quân và dân ta bước vào giai đoạn quyết liệt; với sự giúp sức của các đồng minh, thực dân Pháp tập trung huy động và đưa vào chiến trường Đông Dương các loại vũ khí trang bị hiện đại nhằm cứu vãn tình thế bất lợi đối với quân đội Pháp đang diễn ra trên chiến trường. Trước tình hình đó, yêu cầu đặt ra đối với Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh phải xây dựng và phát huy tốt nhân tố chính trị, tinh thần cho quân và dân ta, quyết tâm đánh thắng thực dân Pháp xâm lược.

Lênin đã chỉ rõ: “Trong mọi cuộc chiến tranh, rốt cuộc thắng lợi đều tùy thuộc vào tinh thần của quần chúng đang đổ máu trên chiến trường”[1]. Tuy nhiên, nhân tố chính trị, tinh thần không phải tự nhiên mà có, nó là sản phẩm của truyền thống đoàn kết chống giặc ngoại xâm, của tinh thần tự hào, tự tôn dân tộc, hình thành từ nhận thức sâu sắc về tính chất chính nghĩa của cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân tố chính trị, tinh thần đã góp phần làm chuyển hóa lực lượng, tạo thế và lực, kết nối tất cả các nguồn lực, các nhân tố tạo nên sức mạnh tổng hợp của quân và dân ta, là sức mạnh của cả dân tộc kết hợp với sức mạnh của thời đại làm nên một Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu.

Lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh năm xưa vẫn vẹn nguyên giá trị trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Đặc biệt, thực hiện phương hướng xây dựng quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, cùng với việc huấn luyện làm chủ các loại vũ khí, trang bị hiện đại, cần phải quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, chăm lo xây dựng nhân tố chính trị, tinh thần; giáo dục, rèn luyện cho bộ đội có bản lĩnh chính trị vững vàng, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, kiên định mục tiêu, lý tưởng chiến đấu; nêu cao tinh thần chịu đựng gian khổ, hy sinh, sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao. Trong bất kỳ hoàn cảnh nào, cũng kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa... hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Tích cực đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thực dụng, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ và quan điểm “vũ khí luận”, tuyệt đối hóa vai trò của vũ khí, coi nhẹ sức mạnh nhân tố chính trị tinh thần.


 Tình báo là một khoa học. Người làm tình báo ắt phải có 4 đức tính: Bí mật - cẩn thận - khôn khéo - kiên nhẫn”.

Sinh thời, Bác Hồ luôn dành sự quan tâm đặc biệt đến lực lượng tình báo quốc phòng, ngoài những lần gặp gỡ, trò chuyện thân ái với cán bộ, chiến sĩ, Bác còn gửi thư thăm hỏi, động viên; tại Hội nghị tình báo quốc phòng lần thứ 2, đầu tháng 8 năm 1949 Bác đã gửi thư và ân cần căn dặn những điều tâm đắc đối với ngành tình báo.

Theo Bác, tình báo là một khoa học; do vậy, phải bí mật, tức là tuyệt đối tránh sơ suất; phải cẩn thận, tức là tuyệt đối tránh cẩu thả; phải khôn khéo, tức là tuyệt đối tránh luộm thuộm; phải kiên nhẫn, tức là tuyệt đối tránh hấp tấp. Đây là những nguyên tắc cơ bản của công tác tình báo và cũng là những đức tính cần phải có của mỗi cán bộ, chiến sĩ tình báo, chi phối toàn bộ quá trình tổ chức và hoạt động của tình báo quốc phòng. Hoạt động tình báo là hoạt động bí mật, quan hệ trong hoạt động tình báo là “cự ly, đơn tuyến”. Không giữ được bí mật thì không còn hoạt động tình báo. Có cẩn thận, khôn khéo, kiên nhẫn mới bảo đảm được bí mật để hoạt động lâu dài và ngược lại. Thực tế đã chứng minh, nhờ có giữ tốt bí mật mà nhiều cán bộ, chiến sĩ tình báo của ta đã thâm nhập được vào các cơ quan đầu não của địch, hoạt động trong thời gian dài. Nhờ có khôn khéo, cẩn thận, kiên nhẫn nên đã tác động, chuyển hóa được quần chúng tham gia phục vụ cho cách mạng, kể cả những người đứng trong hàng ngũ địch, cung cấp những tin tình báo có giá trị, góp phần vào thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

Học tập và làm theo lời dạy của Bác, cán bộ, chiến sĩ tình báo quân đội phải luôn quán triệt, học tập, tu dưỡng rèn luyện nâng cao phẩm chất, trình độ, năng lực chuyên môn, nghiệp vụ, bảo đảm bí mật trong mọi công việc, trong mọi tình huống. Làm việc phải cẩn thận, tỉ mỉ, cụ thể, chu đáo, không chủ quan mất cảnh giác, trước mọi công việc, phải luôn thận trọng, hiểu thật rõ, phải xem xét mọi mặt, phải dự tính, lường trước mọi tình huống, đặc biệt là tuân thủ nghiêm ngặt các quy trình, nguyên tắc…Phải thật khôn khéo, sáng suốt, linh hoạt, chủ động, sáng tạo, nhanh nhạy, tinh thông, nâng cao cảnh giác cách mạng, tuyệt đối không để địch mua chuộc, lôi kéo, khống chế. Phải kiên trì, nhẫn nại, bền gan, vững chí, tin tưởng vào chính mình, vào đồng đội và tin vào chiến thắng góp phần giữ vững, tô thắm truyền thống 16 chữ vàng: “Trung dũng kiên cường, độc lập sáng tạo, bí mật khôn khéo, đoàn kết quyết thắng”, xứng đáng là “tai, mắt” tin cậy của Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương - Bộ Quốc phòng.


“Chính trị là linh hồn, chuyên môn là cái xác. Có chuyên môn mà không có chính trị thì chỉ còn cái xác không hồn. Phải có chính trị trước rồi có chuyên môn”.

Đây là lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bài nói tại lớp học chính trị của giáo viên, đầu tháng 8 năm 1959.

Chủ tịch Hồ Chí Minh là người thầy, nhà giáo dục vĩ đại. Cả cuộc đời Người đã đào tạo biết bao thế hệ cán bộ, những chiến sĩ ưu tú cho cách mạng và dành nhiều tình cảm quan tâm đến với các thầy, cô giáo. Bác đặc biệt đề cao vai trò của người thầy, bởi người thầy không chỉ dạy chữ mà còn dạy người, không chỉ truyền thụ kiến thức, kinh nghiệm, khơi nguồn sáng tạo mà còn là tấm gương mẫu mực về đạo đức cho học sinh noi theo qua từng giờ lên lớp. Người thầy là những người “đạo cao”, “đức trọng”, người có uy tín được xã hội tôn kính. Có thể nói, ở bất cứ xã hội nào nghề dạy học luôn được coi là nghề cao quý nhất trong các nghề cao quý, nghề sáng tạo nhất trong các nghề sáng tạo. Do vậy, người thầy phải có lập trường tư tưởng đúng, bản lĩnh chính trị kiên định, vững vàng, có chuyên môn giỏi và không ngừng được phát triển, sáng tạo thì mới hoàn thành trọng trách vẻ vang mà xã hội tin tưởng trao gửi.

Thấu triệt lời Bác dạy, cấp ủy, chính ủy, chính trị viên, người chỉ huy các cấp trong toàn quân luôn khắc ghi tinh thần “chính trị là linh hồn” mà Bác đã huấn thị “Tên Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân. Nghĩa là chính trị trọng hơn quân sự” và các nghị quyết, chỉ thị của Đảng về xây dựng quân đội nhân dân vững mạnh về chính trị, tập trung nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của quân đội; phù hợp với yêu cầu, nội dung của nhiệm vụ cách mạng trong thời kỳ mới.

Trong giai đoạn mới, nhiệm vụ xây dựng quân đội nhân dân cách mạng, chính qui, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, phải tập trung giáo dục, rèn luyện bộ đội có bản lĩnh chính trị vững vàng, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, kiên định mục tiêu, lý tưởng chiến đấu; nêu cao tinh thần chịu đựng gian khổ, hy sinh, sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao. Trong bất kỳ hoàn cảnh nào, cũng kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa... hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Kiên quyết đấu tranh bảo vệ đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; có thái độ phân biệt đúng, sai, không dao động trước các tác động tiêu cực, khó khăn, hiểm nguy. Nói và làm đúng nghị quyết; ra sức học tập, tu dưỡng, rèn luyện, nâng cao đạo đức cách mạng, trình độ, năng lực, phương pháp, tác phong công tác đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Tích cực đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thực dụng, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; giữ vững và không ngừng phát huy phẩm chất cao đẹp “Bộ đội Cụ Hồ”, xây dựng tổ chức đảng trong sạch vững mạnh, cơ quan, đơn vị vững mạnh toàn diện, các tổ chức quần chúng vững mạnh xuất sắc.


 

“NGĂN CHẶN TIN GIẢ PHÁ HOẠI NỖ LỰC

PHÒNG CHỐNG DỊCH BỆNH”

 Làn sóng dịch bệnh COVID-19 lần thứ 4 đang diễn biến phức tạp, nhiều địa phương phải thực hiện giãn cách xã hội theo Chỉ thị 16 của Chính phủ. Trong khi người dân cả nước đang đồng lòng cùng cấp ủy, chính quyền các cấp chống dịch thì có không ít những tin tức thất thiệt, bịa đặt, giả mạo, hình ảnh gây sốc trong đại dịch COVID-19 được tung ra nhằm mục đích xấu, gây rối, chống phá, đi ngược quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước và lợi ích của nhân dân. Thông qua các phương tiện truyền thông, mạng xã hội (MXH), các đối tượng đã thực hiện nhiều thủ đoạn tuyên truyền, xuyên tạc, tác động vào tư tưởng, tình cảm của người tiếp nhận, gây tâm lý hoang mang, dao động, hoài nghi của nhân dân đối với Đảng, gây bất ổn xã hội.

Ngày 17/7/2021, mạng xã hội lan truyền hình ảnh một người tự thiêu và thêu dệt thành “để phản đối cách chống dịch COVID-19 của Nhà nước”. Ngay lập tức, hình ảnh trên lan truyền chóng mặt, nhiều trang mạng của những đối tượng chống phá Nhà nước dẫn lại, mặc sức chỉ trích, miệt thị chính quyền với luận điệu “chống dịch hay… chống dân”, “xưa Lê Văn Tám biến thành ngọn đuốc sống để chống Pháp, nay dân biến thành ngọn đuốc chống Cộng sản”…

Số này vu cáo rằng, đây chỉ là điển hình cho hàng triệu người ở TP Hồ Chí Minh đang bức xúc trước cách chống dịch COVID-19 “đầy chủ quan và phiến diện của Đảng Cộng sản, xuất phát từ bản chất coi thường và chống dân”… UBND phường Trường Thọ, TP Thủ Đức, TP Hồ Chí Minh đã có thông tin chính thức, bác bỏ thông tin, hình ảnh trên. Qua xác minh, người tự thiêu là ông N.M.H, 46 tuổi, có giấy chứng nhận khuyết tật thần kinh - tâm thần 2. Hành động tự thiêu của ông H do bị bệnh tâm thần, hoàn toàn không phải “phản đối cách chống COVID-19”.

Thủ đoạn của đối tượng xấu là tung hình ảnh, những câu chuyện mà nghe qua tưởng như “tình người trong hoạn nạn”, từ đó đánh vào lòng trắc ẩn, sự thương xót, bi ai của con người trong đại dịch. Đây là thủ đoạn rất nguy hiểm bởi khi các đối tượng bịa đặt câu chuyện, hình ảnh càng bi thương, càng xót xa thì càng lấy nước mắt nhân sinh để nhằm gieo thù hận lên chính quyền. Các thế lực xấu sẽ lợi dụng những câu chuyện, hình ảnh bi đát này để chửi rủa, miệt thị chính quyền, coi đó là “bằng chứng đau lòng” vu cáo Nhà nước “vô lo vô trách nhiệm, bỏ mặc dân chết dịch”. Từ đó đưa ra lời lẽ phê phán, chỉ trích Chính phủ, ra sức lôi kéo người dân đừng tin gì chính quyền vì chỉ nói hão còn dân “sống chết mặc bay”! Thậm chí, chúng còn kích động người dân phản đối không thực hiện Chỉ thị 16 và nói rằng, đây là cái cớ để chính quyền o ép người dân chết đói và “Hà Nội đang yên bình, cần gì phải giãn cách”.

Trên nhiều diễn đàn mạng gần đây cũng chia sẻ hình ảnh những người rời TP Hồ Chí Minh về quê bằng các phương tiện cá nhân, kể cả đi bộ. Đáng nói, họ lồng ghép một số hình ảnh thể hiện sự cơ cực của con người như nằm vất vưởng vệ đường, trẻ con rách nát bẩn thỉu co quắp bên cột mốc quốc lộ, cảnh bà mẹ địu 3-4 con thơ gầy còm, thất thểu xin ăn. Từ những hình ảnh đó, các đối tượng lồng ghép thành video, xen vào ảnh biệt thự, tiệc tùng của một số quan chức để châm chỉa: “Đảng tự xưng quang vinh, tài tình, sáng suốt mà sao vẫn để dân đói khổ”.

Trang “Việt Tân” miệt thị: “Họ đã chắc từng tin vào lời nói “không ai bị bỏ lại phía sau”, “không để ai phải thiếu ăn thiếu mặc”, tin vào gói cứu trợ 62 nghìn tỉ và 26 nghìn tỉ. Có thể họ đã từng nghe rằng tiền không đến tay người dân đâu nhưng họ vẫn cố gắng tin vì đó là hy vọng duy nhất, hy vọng của sự sống… Không ai có thể tưởng tượng được, một quốc gia xuất khẩu lúa gạo đứng thứ hai thế giới mà người dân lại thiếu đói”… Đây là kiểu lắp ráp “râu ông cắm cằm bà”.

Thực tế, khi rời khỏi TP Hồ Chí Minh một cách tự phát, cũng có người đi nhiều ngày đường nên lâm cảnh đói khát, tuy nhiên họ cũng đã được chính quyền và người dân dọc tuyến di chuyển hỗ trợ. Việc gán ghép ảnh của em bé, bà mẹ trong lúc đi đường đói mệt để nói rằng hàng vạn người dân TP Hồ Chí Minh bị chính quyền bỏ đói, phó mặc dân là kiểu đánh tráo bản chất.

Hiện nay, trước diễn biến rất phức tạp của dịch bệnh tại TP Hồ Chí Minh và nhiều tỉnh, thành phía Nam, các đối tượng xấu cố tình hướng lái vấn đề để người dân bất tin vào chính quyền, gây mâu thuẫn, bức xúc giữa nhân dân và chính quyền. Số chống đối, bất mãn vu cáo nguyên nhân việc dịch bệnh lây lan nhanh trong “làn sóng thứ tư” là do Nhà nước “hân hoan” tổ chức đại hội, bầu cử, họp Quốc hội mà bỏ mặc người dân tự đối phó. Đây là luận điệu chống phá rất nguy hiểm khi họ cố tình đánh lạc hướng nguyên nhân do khách quan sang “lỗi cố ý” của chính quyền.

Thực tế, các cơ quan chuyên môn đã chỉ rõ, nguyên nhân dịch bệnh bùng phát do biến thể Delta có tốc độ lây lan nhanh và nguy hiểm gấp nhiều lần chủng cũ và các nước châu Á, trong đó có Đông Nam Á đều đang phải đối mặt thách thức này. Đồng thời, do tuyến biên giới phía Nam giáp ranh Campuchia trải dài, khó kiểm soát nên khi dịch bệnh bùng phát bên nước bạn đã ảnh hưởng lớn đến trong nước. Cùng với đó, một số tổ chức, cá nhân thiếu ý thức, trách nhiệm trong chấp hành quy định chống dịch, đã có các hành động tụ tập gây lây lan dịch bệnh trong cộng đồng.

Trong cam go, sự nỗ lực, đồng lòng của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân là yếu tố tiên quyết để chiến đấu, chiến thắng dịch bệnh, như Lời kêu gọi của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: “Chúng ta đã cố gắng càng cố gắng hơn nữa; đã đoàn kết càng đoàn kết hơn nữa; đã quyết tâm càng quyết tâm cao hơn nữa; toàn dân tộc muôn người như một, đồng lòng cùng Đảng, Chính phủ, các cấp, các ngành tìm mọi cách quyết ngăn chặn, đẩy lùi bằng được, không để dịch lan rộng, bùng phát trong cộng đồng”.

Với mỗi chúng ta, sự tỉnh táo trước thông tin, hình ảnh trên mạng xã hội là điều rất quan trọng. Đừng vội vàng chia sẻ, bình luận, lan truyền hình ảnh, thông tin chưa được kiểm chứng, nhất là dạng thông tin, hình ảnh chạm vào nỗi đau thương, mất mát, bi ai, trắc ẩn của con người trong đại dịch bởi kẻ xấu đang dùng chiêu bài tung tin giả đánh vào nhân tâm, vào nước mắt người dân nhằm gieo rắc tâm lý bất an và kích động chống phá đất nước.


 

TỈNH TÁO, TRÁNH RƠI VÀO BẪY TIN GIẢ

TRONG MÙA DỊCH COVID-19

 Thời gian qua, trên mạng xã hội lan truyền nhiều thông tin chưa đúng, thậm chí xuyên tạc về tình hình dịch bệnh COVID-19. Điều này đã gây hoang mang, lo sợ cho người dân cũng như gây khó khăn cho công tác phòng, chống dịch bệnh. Vì vậy, khi dùng mạng xã hội, mọi người nên tỉnh táo, tránh rơi vào bẫy tin giả.

          Trên mạng xã hội xuất hiện thông tin: "Ngõ 68 Đội Cấn có 1F0 bị phong toả mà dân cứ cho trẻ em ra sân chung chơi. Giờ hơn 10 cháu từ 2 - 10 tuổi bị F0. Phố Đội Cấn đang bị phong toả", đi kèm với hình ảnh xe cứu thương và rất đông người mặc đồ bảo hộ phòng chống COVID-19.

Trước sự việc này, chiều 17/8, đại diện lãnh đạo quận Ba Đình khẳng định: Nội dung trên mạng là không đúng sự thật. “Ngõ 68 Đội Cấn không có sân chơi, chỉ có sân sinh hoạt chung của các hộ gia đình trong ngõ. Từ khi ngõ có ca F0 và bị phong toả, trong ngõ 68 có 3 cháu bé dưới 10 tuổi hiện là F0, chứ không phải hơn 10 cháu”. Bên trong khu vực phong toả không có hiện tượng tụ tập đông người. Việc phong tỏa, cách ly được thực hiện nghiêm theo quy định.

 

 

CẢNH GIÁC TRƯỚC NHỮNG LUẬN ĐIỆU RU NGỦ

VỀ VẤN ĐỀ BIỂN ĐÔNG

Mặc dù đất nước đang trong giai đoạn cao điểm phòng, chống dịch bệnh Covid-19 nhưng những vấn đề đã, đang và vẫn tiếp tục còn tồn tại trên Biển Đông không cho phép chúng ta bị ru ngủ hay ngủ quên. Chúng ta đều biết, năm 2016, Tòa trọng tài quốc tế ở The Hague đã đưa ra phán quyết bác bỏ chủ quyền “đường lưỡi bò” mà Trung Quốc tuyên bố ở Biển Đông. Vốn dĩ, tòa phân xử khi đó được thành lập dựa theo các thủ tục đề ra tại Phụ lục VII của UNCLOS 1982. Chính vì thế, phán quyết vừa nêu được nhiều nước thừa nhận như một căn cứ pháp lý quốc tế. Thế nhưng, Trung Quốc từ sớm đã không tham gia việc phân xử, rồi từ năm 2016 đến nay thì không chấp nhận phán quyết. Không những vậy, từ đó đến nay, Trung Quốc còn liên tục tiến hành xây dựng phi pháp các hạ tầng, đặc biệt là cơ sở quân sự như nhà chứa máy bay, đường băng…, trên các bãi Vành Khăn, Xu Bi và Chữ Thập ở quần đảo Trường Sa mà nước này đang chiếm đóng trái phép. Song hành theo đó, Bắc Kinh có triển khai các hệ thống radar, tên lửa, chiến đấu cơ các loại… đến các thực thể trên. Trung Quốc còn tiến đến tìm cách kiểm soát Biển Đông bằng cách ban hành luật hải cảnh mới cho phép lực lượng hải cảnh nước này được quyền nổ súng nhằm vào tàu nước ngoài các vùng biển mà Bắc Kinh tuyên bố chủ quyền, với ý bao hàm cả Biển Đông.

Song vừa qua, trang web của Bộ Ngoại giao Trung Quốc vừa đăng lại bài phát biểu của Ngoại trưởng nước này Vương Nghị về vấn đề Biển Đông, được nêu ra tại Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao cấp cao Đông Á trước đó nhằm ngụy biện cho những hành động phi đoàn kết, phi tôn trọng quốc tế của Trung Quốc.
Bài phát biểu của ông Vương đề cập 4 nguyên tắc cần tôn trọng là: tôn trọng sự thật lịch sử, tôn trọng luật pháp quốc tế, tôn trọng sự đồng thuận để giải quyết vấn đề Biển Đông dựa trên cơ sở hòa bình, tôn trọng các nước trong khu vực để tránh bị bên ngoài “can dự” và gây rối.

Cụ thể như về “tôn trọng luật pháp quốc tế”, ông Vương tự cho rằng: “Theo luật pháp quốc tế, Trung Quốc có chủ quyền đối với quần đảo Nam Sa (cách Trung Quốc tự đặt ra để gọi quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam - NV) và đương nhiên có các quyền cũng như lợi ích biển tương ứng. Điều này không trái với các quy định của Công ước LHQ về luật Biển (UNCLOS) được thông qua sau này”. Đồng thời ông ta cho là: “Với nỗ lực chung của Trung Quốc và các nước ASEAN, Biển Đông nhìn chung đã duy trì được tình hình ổn định” nhưng “Một số quốc gia ngoài khu vực muốn gây rối nên đã cố tình phóng một số lượng lớn tàu chiến và tàu chiến tối tân vào Biển Đông”.

Đây hoàn toàn là cách đổ vấy trách nhiệm một cách trơ trẽn không khác gì nhiều tờ báo, chuyên gia “thân Bắc Kinh” vẫn đang ngụy biện để nói về tình hình Biển Đông trong những năm gần đây - như Thanh Niên đã nhiều lần chỉ ra.
Thực tế trong suốt nhiều năm qua, Bắc Kinh đã tiến hành hàng loạt hành vi gây rối, đe dọa các bên ở Biển Đông, dẫn đến căng thẳng liên tục xảy ra. Chính tàu hải cảnh, tàu dân binh của Trung Quốc liên tục gây rối ở các khu vực trên Biển Đông thuộc chủ quyền Việt Nam, liên tục đâm - đụng - va, thậm chí đâm chìm tàu cá Việt Nam đang đánh bắt hợp pháp ở vùng biển thuộc chủ quyền của nước nhà. Trung Quốc còn điều động các tàu khảo sát, giàn khoan với sự “tiền hô hậu ủng” của nhiều tàu hải cảnh được vũ trang, đã nhiều lần xâm phạm các khu vực thuộc chủ quyền VN ở Biển Đông. Điển hình là vụ giàn khoan Hải Dương-981 (Haiyang Shiyou-981) năm 2014 hay vụ tàu khảo sát Hải Dương 08 năm 2019.
Không những vậy, quân đội Trung Quốc thời gian qua thường xuyên tổ chức tập trận phi pháp ở khu vực quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam. Trong đó, nhiều cuộc tập trận còn bắn đạn thật, với sự tham gia của lực lượng chiến hạm hùng hậu, bao gồm cả tàu sân bay, tàu đổ bộ cỡ lớn… và còn nhiều lần có cả chiến đấu cơ tối tân. Ngoài ra, có cả các oanh tạc cơ có thể mang theo tên lửa chứa đầu đạn hạt nhân cũng tham gia tập trận. Năm ngoái, Bắc Kinh còn tổ chức bắn thử tên lửa đạn đạo Đông Phong 21 và Đông Phong 26 ra Biển Đông.

Những hành động đó của Trung Quốc đã gây bất ổn thật sự cho Biển Đông và nhiều lần khiến căng thẳng dâng cao. Do đó chúng ta cần hết sức cảnh giác trước những luận điệu giả dối đó, giữ vững quan điểm, phân định rõ đúng sai, không để bị sa lầy vào âm mưu chống phá của địch./.

 

 

TIN GIẢ, CẦN CẢNH GIÁC VÀ CHỦ ĐỘNG PHÒNG CHỐNG

 "Hiện nay, nhiều người Việt Nam coi các mạng xã hội là kênh chủ yếu để tiếp cận và chia sẻ thông tin hằng ngày. Trong khi đó, chất lượng nguồn thông tin này không được đảm bảo, không có nguồn tin cậy, chưa nói đến vô số những tài khoản ảo đăng tin bịa đặt, tin chống đối, không có nguồn gốc rõ ràng hoặc cố tình đưa quan điểm cá nhân sai lệch, gây ảnh hưởng tới cá nhân và cả xã hội.

Tình trạng tin giả xuất hiện gần đây trong đó có 3 xu hướng tạo tin giả là:

Một là, những thông tin của một bộ phận thích khoe mẽ, thể hiện “ta đây nhà có điều kiện” nhưng thiếu hiểu biết nên vô tình gây hậu quả tai hại. Kiểu như chuyện cô con gái nói với mẹ muốn về nhà nhưng sợ ra đường bị phạt 3 triệu đồng. Để cô con gái được đi lại thoải mái trong điều kiện giãn cách, người bố là Giám đốc Hợp tác xã Môi trường Phú Nhuận đã ký, đóng dấu lên tờ giấy thông hành, rồi cô gái đã khoe lên mạng xã hội. Hay như cô gái nọ khoe được "ông ngoại" xin cho tiêm vắc-xin không cần đăng ký, được chọn loại vắc-xin để tiêm. Xã hội vốn không lạ với những màn "khoe của", “khoe gia thế”, “khoe có sự nâng đỡ” của những "cậu ấm, cô chiêu". Cũng là chuyện muôn màu trong cuộc sống, chẳng có gì để bàn luận nếu chuyện đó không ảnh hưởng đến người khác. Tuy nhiên, trong bối cảnh dịch COVID-19 đang hoành hành ở nhiều địa phương trên cả nước, hàng chục triệu người đang lao đao, khốn khổ thì sự khoe khoang của hai cô gái kia đã tác động không nhỏ đến tâm lý người dân, ảnh hưởng đến nỗ lực phòng, chống dịch của cả hệ thống chính trị, và các thế lực phản động có thể lợi dụng các sự việc này để kích động.

Hai là, những thông tin giả, sai sự thật về tình hình dịch bệnh được đưa lên mạng xã hội nhằm gây hoang mang, tâm lý bất ổn, hoảng loạn trong nhân dân, dẫn đến mất niềm tin vào các chủ trương, đường lối trong công tác phòng, chống dịch của Đảng, Nhà nước. Đây là loại thông tin tuyên truyền, kích động chống phá Nhà nước, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc. Các đối tượng tung tin giả kiểu này thường cắt ghép hình ảnh để xuyên tạc sự thật, đánh lừa dư luận, như những hình ảnh rất nhiều thi thể bày la liệt ở đâu đó nhưng lại được ghi chú đó là Bệnh viện Chợ Rẫy. Để “thuyết phục” người dân, chúng tạo ra hình ảnh các tin nhắn của bác sĩ, cán bộ UBND TP. Hồ Chí Minh với nội dung đại loại như: Tình hình TP. Hồ Chí Minh không còn kiểm soát, không khống chế được đại dịch COVID-19; dịch bệnh ở đây không thua Ấn Độ và hai tuần nữa sẽ rất thê thảm.

Ba là, những thông tin xuyên tạc, chống đối chủ trương, chính sách của Đảng, âm mưu phá hoại đất nước. Trên mạng xã hội đã từng lan truyền dòng trạng thái của một facebooker xuyên tạc phát biểu của Phó Thủ tướng Vũ Ðức Ðam tại cuộc họp Ban Chỉ đạo quốc gia phòng, chống dịch COVID-19 để đưa ra những thông tin suy diễn vô căn cứ dễ khiến người đọc hoảng sợ như: “dịch bùng ra một cái, chắc chắn Việt Nam sẽ bứt lên Top 1 ngay”; “không có việc Nhà nước lo và ra viện được tặng hoa nữa đâu”; “Hà Nội 11 triệu dân chỉ có khoảng 300 cái (máy thở)”... Nguy hiểm hơn là những thông tin trên được chia sẻ với tốc độ chóng mặt, gây ra những phản ứng tiêu cực trong cộng đồng mạng.

Chống tin giả, cần phải làm gì?

1. Tăng cường kiểm chứng thông tin

Nhiều người Việt Nam hiện nay chưa thực sự có thói quen kiểm chứng thông tin trước khi nhận được. Trong khi đó, ở kỷ nguyên kỹ thuật số này, kỹ năng tư duy phản biện (critical thinking) là đặc biệt cần thiết. Tuy nhiên, kỹ năng phổ thông này chưa được coi trọng ở Việt Nam, cho dù ở nhiều nước phát triển trên thế giới đã đưa vào chương trình đào tạo học sinh phổ thông.

Nên nhớ rằng mạng xã hội là nơi ai cũng có thể đóng vai trò... nhà báo, nhà phân tích nghiệp dư, vì thế người tiếp nhận thông tin phải ít nhất nắm được kỹ năng kiểm tra xem thông tin lấy từ nguồn nào (ví dụ như tác giả ghi nguồn từ báo khác thì cần kiểm tra xem nguồn đó đáng tin cậy hay không - đó có phải là báo có uy tín đã đưa tin này chưa).

2. Tiếp theo, cũng nên xem động cơ đưa tin của người dùng mạng xã hội đó thế nào. Liệu họ có phải là người thích sự chú ý, thích câu view, hay họ bán hàng online? Nếu đúng thế thì càng phải thận trọng, không nên tin và tiếp tục chia sẻ cho người khác nếu như chưa kiểm chứng cẩn thận.

Về phía cơ quan chức năng cần nhanh chóng có các giải pháp cụ thể để hạn chế, chấm dứt các thể loại tin đồn nhảm. Một mặt, cần có các biện pháp giáo dục cũng như nâng cao chế tài xử phạt nghiêm khắc, nhất là đối với những tin đồn làm gia tăng nỗi hoang mang trong thời điểm đang có thiên tai.

3. Khi thấy xuất hiện các thông tin mang tính giật gân, dễ gây hiểu nhầm chúng ta cần phải xem rõ nguồn tin do ai cung cấp, các địa chỉ có cụ thể, sự việc có đúng thời gian, địa điểm ở Việt Nam hay không?

 

Cách mạng Tháng 8 với thế hệ trẻ hôm nay

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã đưa dân tộc Việt Nam lên một vị trí mới với những ý nghĩa về chính trị, xã hội, nhân văn sâu sắc. Cuộc cách mạng ấy đã để lại nhiều giá trị và bài học vô cùng quý giá đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay và trong tương lai, mà thế hệ trẻ là những người gánh vác trọng trách quan trọng.

Cách mạng Tháng Tám năm 1945, trang sử vàng trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước, một bước ngoặt cách mạng chưa từng có trên con đường phát triển của dân tộc Việt Nam, đã làm nên một sự kiện “long trời, lở đất”, chính thức chấm dứt ách đô hộ hơn 80 năm của thực dân Pháp, mở ra kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập, tự do cho dân tộc Việt Nam. Từ đây, nhân dân Việt Nam đã thật sự làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh của quốc gia, dân tộc. Với ý nghĩa của thắng lợi vĩ đại đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Chẳng những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: Lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã chứng minh rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện đã lãnh đạo nhân dân tiến hành Cách mạng Tháng Tám thành công, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam), đánh thắng các cuộc chiến tranh xâm lược, xóa bỏ chế độ thực dân, phong kiến, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, tiến hành công cuộc đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc nền độc lập của Tổ quốc. Thực tiễn lãnh đạo của Đảng đã khẳng định rằng, một đảng cách mạng chân chính có đường lối đúng, có tổ chức chặt chẽ, có đội ngũ cán bộ, đảng viên trong sạch, gương mẫu, tận tụy, gắn bó máu thịt với nhân dân, được nhân dân ủng hộ thì đảng có sức mạnh vô địch, không thế lực nào ngăn cản nổi trên con đường dẫn dắt dân tộc đi lên.

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã tạo bước ngoặt cách mạng sâu sắc trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội; là một chế độ xã hội mới mẻ hoàn toàn đối với dân tộc Việt Nam, hiện hữu đầy đủ bản chất dân chủ, nhân văn vì con người, vì hạnh phúc của nhân dân lao động. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là động lực mạnh mẽ cổ vũ toàn thể dân tộc Việt Nam kiên cường, bất khuất tiếp tục sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội, thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới đưa nước ta phát triển để có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày hôm nay.

Với ý nghĩa to lớn đó, giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ hôm nay là một nội dung đặc biệt quan trọng góp phần thực hiện quan điểm, đường lối của Đảng ta để mọi người Việt Nam đều hiểu biết sâu sắc, tự hào, tôn vinh lịch sử, văn hóa dân tộc. Nhận thức về ý nghĩa sâu sắc của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đối với thế hệ trẻ sẽ góp phần làm cho truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta đi vào đời sống, đi vào thực tiễn của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay. Nghiên cứu, học tập truyền thống tốt đẹp của dân tộc vừa là bổn phận, vừa là tình cảm với dân tộc của thế hệ trẻ. Theo đó, thế hệ trẻ phải là những người xung kích đem “dòng chảy” truyền thống, hào khí anh hùng của Cách mạng Tháng Tám mãi mãi nhịp bước cùng với sự phát triển trường tồn của dân tộc Việt Nam. Khi giá trị truyền thống đã đi vào con tim, khối óc của thế hệ trẻ, tất yếu nó sẽ là sức mạnh tinh thần, là động lực nội sinh để họ tự tin tiến lên phía trước, cống hiến sức lực, trí tuệ của mình vào thực hiện mục tiêu xuyên suốt là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. 

CÁCH MẠNG THÁNG TÁM - GIÁ TRỊ LỊCH SỬ

 

Năm nay, toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta kỷ niệm 76 năm ngày cách mạng Tháng Tám thành công (19/8/1945-19/8/2021), trong bối cảnh cả nước đang nỗ lực thi đua thực hiện "mục tiêu kép": Vừa quyết liệt phòng, chống có hiệu quả dịch COVID-19, vừa phát triển kinh tế-xã hội, phấn đấu đạt được các mục tiêu đã đề ra, nhằm đưa Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đi vào cuộc sống.

Nhìn lại lịch sử, chúng ta thấy Cách mạng Tháng Tám năm 1945 để lại nhiều bài học quý báu: Đó là bài học gương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; xác định và kết hợp đúng đắn các nhiệm vụ chiến lược trong từng thời kỳ cách mạng; bài học về phát động sức mạnh toàn dân tộc; bài học thực hiện triệt để phương châm "thêm bạn bớt thù"; bài học về nghệ thuật khởi nghĩa, nghệ thuật tạo thời cơ và nắm bắt thời cơ; bài học về xây dựng một Đảng cách mạng có bản lĩnh chính trị vững vàng, gắn bó mật thiết với nhân dân.

Có thể nói, tháng năm đã trôi qua, nhưng những giá trị lịch sử to lớn, tầm vóc thời đại của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 vẫn còn nguyên giá trị, tiếp tục tỏa sáng trong dòng chảy lịch sử dân tộc Việt Nam. Tinh thần Cách mạng Tháng Tám  vẫn sống mãi trong bước đường phát triển của đất nước ta, nhất là trong giai đoạn thực hiện "mục tiêu kép" hiện nay. Mỗi một người dân Việt Nam, dù ở trong nước hay nước ngoài, dù ở cương vị nào, chúng ta hãy phát huy cao độ tinh thần Cách mạng Tháng Tám để xây dựng và phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc./.

Sau hơn 1 tháng “sạch dịch”, Bắc Giang ghi nhận ca mắc COVID-19 mới

 Lực lượng chức năng tỉnh Bắc Giang đang khẩn trương truy vết các trường hợp tiếp xúc liên quan đến ca mắc COVID-19 mới trên địa bàn.

Sau tiêm vaccine phòng COVID-19 dùng thuốc hạ sốt sao cho đúng?

 Paracetamol là thuốc thường được sử dụng để giảm đau hạ sốt, nhưng không phải lúc nào cũng an toàn.

Toàn quân tiếp tục phát huy truyền thống vẻ vang và phẩm chất cao đẹp “Bộ đội Cụ Hồ”, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ phòng, chống dịch Covid-19

 

Từ đầu năm 2020 đến nay, đại dịch Covid-19 diễn biến hết sức phức tạp; thế giới rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng nhiều mặt. Với nước ta cũng đang phải chịu sự tác động, ảnh hưởng nghiêm trọng, đặc biệt là đợt bùng phát dịch lần thứ tư từ cuối tháng 4-2021 đến nay.

Nào đâu phải “nghề lương cao”?

 

Lại thêm một sự nhào nặn trắng trợn nữa-ấy là việc các lực lượng thù địch tô vẽ nên cuộc sống “giàu sang, sung túc” của bộ đội. Họ kêu gọi “không nên đầu tư ngân sách cho hoạt động quốc phòng, an ninh” và “không nên xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”.