Thứ Tư, 1 tháng 2, 2023

Xuyên tạc chủ trương xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam hiện đại - điều không thể chấp nhận

 


Xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam hiện đại là nội dung quan trọng, tiếp theo trong chiến lược xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Điều này được nêu rõ trong các nghị quyết của Đảng, trong Chiến lược Bảo vệ Tổ quốc,... được thể chế hóa trong chính sách, pháp luật của Nhà nước và được toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta nỗ lực thực hiện. Hiện nay, trước sự biến đổi nhanh chóng, phức tạp, khó dự báo trên tất cả các lĩnh vực, nhất là lĩnh vực quốc phòng, an ninh, thì vấn đề xây dựng Quân đội hiện đại càng trở nên quan trọng và bức thiết, mang tính chiến lược cơ bản, lâu dài. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng xác định: “Xây dựng Quân đội nhân dân, …. tạo tiền đề vững chắc, phấn đấu năm 2030 xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại; vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ”1.

Đây là chủ trương đúng đắn, phù hợp và cần thiết, phản ánh sâu sắc tư duy mới của Đảng ta về bảo vệ Tổ quốc và xây dựng Quân đội. Nhưng với dã tâm phá hoại sự nghiệp xây dựng Quân đội, các thế lực thù địch dùng mọi thủ đoạn xuyên tạc, công kích chủ trương đúng đắn ấy bằng các luận điệu: “muốn hiện đại hóa quân đội, thì trước hết phải đổi mới xây dựng quân đội”; rằng, phải nghiên cứu, thực hiện xây dựng theo “mô hình quân đội của phương Tây”. Họ còn “khuyên nhủ”, để hiện đại hóa quân đội, nên liên minh, liên kết với cường quốc có nhiều vũ khí, trang bị hiện đại và đang “mong muốn giúp đỡ” Việt Nam. Thâm hiểm hơn, chúng còn rắp tâm quy kết: Việt Nam tăng cường tiềm lực quốc phòng - an ninh, xây dựng quân đội hiện đại là “cuốn theo cuộc chạy đua vũ trang”, là “khơi mào cho một cuộc chạy đua vũ trang mới trong khu vực” và để “chống lại một nước thứ ba”; xuyên tạc rằng “Việt Nam đang chuẩn bị cho một cuộc chiến tranh mới”, làm cho tình hình khu vực và Biển Đông trở nên phức tạp và “nóng” hơn, nhằm phá hoại mối quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam với một số nước trong khu vực. Để chống phá, các thế lực thù địch tấn công trực diện, công khai, liên tục với cường độ mạnh bằng nhiều thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt; họ triệt để lợi dụng các phương tiện truyền thông, đặc biệt là mạng xã hội để phát tán những thông tin, tài liệu, luận điệu xuyên tạc, công kích trắng trợn và kêu gọi, lôi kéo sự phụ họa của những phần tử cơ hội chính trị, bất mãn tham gia chống phá chủ trương xây dựng Quân đội hiện đại của Đảng, Nhà nước ta.

Những thủ đoạn đó đặc biệt nguy hiểm, tác động tiêu cực đến quá trình hiện đại hóa và sự nghiệp xây dựng Quân đội nhân dân trong thời kỳ mới. Bởi, nó gây nhiễu, kìm hãm và cản trở sự nghiệp xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; tạo bất lợi cho nước ta trong quan hệ quốc tế và đối ngoại quân sự, quốc phòng, nhất là với các nước lớn, các nước trong khu vực, cũng như bảo đảm hòa bình cho ổn định và phát triển đất nước. Họ cũng toan tính rằng, nếu chưa thể làm chệch hướng quá trình hiện đại hóa Quân đội Việt Nam, thì thủ đoạn đó cũng dễ tạo nên mối nghi ngờ, tâm lý hoang mang nhất định, làm suy giảm niềm tin của nhân dân vào đường lối quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc và phương hướng xây dựng Quân đội hiện đại của Đảng, Nhà nước ta; từ đó tin và mong muốn xây dựng quân đội theo mô hình phương Tây; khơi dậy sự “mong ngóng” trong xã hội về sự liên kết, hỗ trợ, “giúp đỡ” của cường quốc để hiện đại hóa quân đội.

Chúng ta đều biết, xây dựng lực lượng vũ trang, xây dựng quân đội vững mạnh là đòi hỏi tất yếu đối với mỗi quốc gia; việc hiện đại hóa cũng là yêu cầu cần thiết đối với bất cứ lực lượng vũ trang, quân đội của quốc gia nào. Đó là sự thật hiển nhiên mà không có tổ chức và quốc gia nào phủ nhận. Theo đó, mỗi nước, căn cứ vào đặc điểm, tình hình, điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể; tính chất, nhiệm vụ của lực lượng vũ trang nước mình mà thực hiện hiện đại hóa, trang bị vũ khí, phương tiện kỹ thuật cho phù hợp với khả năng của mình. Trong bối cảnh hiện nay, tình hình thế giới có nhiều diễn biến phức tạp, chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột dân tộc, sắc tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang, tranh chấp biên giới, lãnh thổ, chủ quyền biển đảo,… diễn ra ở nhiều nơi với tính chất ngày càng phức tạp, thì vấn đề xây dựng và hiện đại hóa quân đội để tự vệ chính nghĩa, bảo vệ hòa bình lại càng trở nên quan trọng và bức thiết hơn bao giờ hết. Như vậy, việc Đảng, Nhà nước ta chủ trương xây dựng Quân đội hiện đại, ưu tiên một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại là tất yếu. Chủ trương này tuyệt nhiên không phải là “chưa cần thiết”, “không phù hợp”, ảnh hưởng tiêu cực đến “đời sống của nhân dân” như sự công kích của các thế lực thù địch. Thậm chí, đây còn là chủ trương cho thấy rõ tầm quan trọng mang tính chiến lược của việc xây dựng Quân đội hiện đại trong bối cảnh mới; đồng thời, khẳng định Việt Nam đã có đủ điều kiện, khả năng và sự đồng thuận, sự mong muốn của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta trong xây dựng Quân đội hiện đại.

Mặt khác, sự phát triển của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư cùng với sự xuất hiện của các hình thái chiến tranh hiện đại và phương thức tác chiến mới đã và đang đặt ra những yêu cầu ngày càng cao đối với nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; nhất là bảo vệ chủ quyền biển, đảo, bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng, bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa”, v.v. Những vấn đề đó đòi hỏi chúng ta phải đẩy nhanh lộ trình hiện đại hóa Quân đội, tập trung xây dựng một số lực lượng tiến thẳng lên hiện đại, xây dựng Quân đội “tinh, gọn, mạnh”. Đây là vấn đề được Đảng, Nhà nước ta xác định là một nội dung quan trọng trong phương hướng xây dựng Quân đội. Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của 35 năm đổi mới, cùng những kết quả bước đầu đạt được từ quá trình hiện đại hóa Quân đội thời gian qua bảo đảm cho chúng ta những điều kiện cần và đủ để xây dựng Quân đội hiện đại như Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã xác định. Chủ trương đó cũng chỉ rõ, bên cạnh việc phát huy, nâng cao hiệu quả vũ khí, trang bị hiện có, cần phải có vũ khí, trang bị kỹ thuật mới, hiện đại, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc và phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội đất nước.

Bên cạnh đó, tăng cường sức mạnh quốc phòng, hiện đại hóa Quân đội là nhằm chủ động giữ vững hòa bình, ổn định, ngăn ngừa mọi nguy cơ xung đột, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, không để đất nước xảy ra chiến tranh. Đồng thời, bảo đảm cho Quân đội có đủ sức mạnh, sẵn sàng đánh thắng mọi cuộc chiến tranh xâm lược, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong mọi tình huống. Đó là mục đích tự vệ, thể hiện tính chất hòa bình, chính nghĩa, độc lập, tự chủ, không liên kết trong chủ trương xây dựng Quân đội hiện đại, không phải là “khơi mào” cuộc chạy đua vũ trang trong khu vực, để “chống lại một nước thứ ba” nào đó, làm cho tình hình trở nên phức tạp và “nóng” hơn như sự xuyên tạc xảo trá theo kiểu “gắp lửa bỏ tay người” của các thế lực thù địch.

Hiện nay, không ít phần tử tuy bày tỏ sự “ủng hộ” chủ trương hiện đại hóa quân đội của Đảng và Nhà nước ta, song lại hướng lái quân đội chỉ trung thành với Tổ quốc, không chịu sự lãnh đạo của Đảng; rằng, chỉ cần trang bị vũ khí hiện đại thì quân đội ắt sẽ mạnh lên, khiến các nước khác phải e dè, v.v. Đây là thủ đoạn rất tinh vi, nham hiểm, hòng che đậy mưu đồ “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang, làm cho Quân đội ta mất phương hướng chính trị, mục tiêu chiến đấu để dễ bề thao túng. Ở đây, cần phải khẳng định rằng, cùng với các nội dung xây dựng khác, việc xây dựng Quân đội hiện đại, tinh, gọn, mạnh còn nhằm không ngừng tăng cường bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân và tính dân tộc của Quân đội ta hiện nay, làm cho Quân đội ta thực sự là của dân, do dân và vì dân; là công cụ bạo lực sắc bén, lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu tuyệt đối trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước, Tổ quốc, Nhân dân và đủ sức hoàn thành phận sự trung thành ấy, chứ không phải theo mô hình “quân đội nhà nghề” phương Tây như sự hướng lái của các thế lực thù địch. Đảng, Nhà nước, Nhân dân và Quân đội ta luôn nêu cao ý chí, tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường để xây dựng quân đội hiện đại. Vì vậy, không thể từ bỏ chính sách quốc phòng “4 không” như sự “khuyên nhủ” của các thế lực thù địch. Tuy nhiên “Tùy theo diễn biến của tình hình và trong những điều kiện cụ thể, Việt Nam sẽ cân nhắc phát triển các mối quan hệ quốc phòng, quân sự cần thiết với mức độ thích hợp trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nhau cũng như các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, hợp tác cùng có lợi, vì lợi ích chung của khu vực và cộng đồng quốc tế”2

Cùng với đó, cần nhận thức đúng: chúng ta xây dựng Quân đội hiện đại không chỉ về vũ khí trang bị, mà hiện đại trên tất cả các nội dung cấu thành sức mạnh chiến đấu của Quân đội trên nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, đường lối của Đảng về xây dựng nền quốc phòng toàn dân, chiến tranh nhân dân, xây dựng Quân đội nhân dân, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đó còn là sự quán triệt sâu sắc quan điểm “người trước, súng sau”, giải quyết tốt mối quan hệ giữa con người và vũ khí, trang bị trong huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu. Nếu xa rời những nguyên tắc, yêu cầu trên, thì xây dựng Quân đội hiện đại sẽ mất phương hướng, không những không tăng cường được sức mạnh chiến đấu và bản chất giai cấp công nhân của Quân đội, mà có thể dẫn đến những nguy hại khôn lường.

Xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam hiện đại là tạo nên một cốt lõi vững chắc trong các “trụ cột” của sức mạnh tổng hợp: “kinh tế vững”, “quốc phòng mạnh”, “thực lực cường”, “lòng dân yên”, “chính trị - xã hội ổn định”, “cả dân tộc là một khối đoàn kết thống nhất” như Đảng ta xác định trong Chiến lược Bảo vệ Tổ quốc. Đó là chủ trương đúng đắn, phù hợp của Đảng, Nhà nước ta và là nguyện vọng, mong muốn xây dựng Quân đội nhân dân thực sự hùng mạnh, đủ sức bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

          T3.

ĐẤU TRANH CHỐNG LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM KHÔNG QUAN TÂM BẢO VỆ LỢI ÍCH QUỐC GIA, DÂN TỘC

 Dù thời cuộc có nhiều biến động và thế giới có nhiều đổi thay, nhưng Đảng Cộng sản Việt Nam luôn tuyệt đối trung thành và làm hết sức mình để bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc, mang lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân; đồng thời không ngừng củng cố và nâng cao sức mạnh, vị thế, uy tín của đất nước Việt Nam trên trường quốc tế. Vì thế, mọi sự xuyên tạc Đảng Cộng sản Việt Nam không quan tâm bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc đều không có giá trị và bị thực tiễn bác bỏ.

Những luận điệu xuyên tạc ác ý, thâm độc
Trong các thời kỳ cách mạng, Đảng ta luôn quan tâm đến lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích của nhân dân. Trong các cuộc kháng chiến chống thực dân đế quốc xâm lược, Đảng ta xác định mục tiêu cao nhất là đấu tranh giành độc lập dân tộc, giữ vững chủ quyền, thống nhất đất nước là lợi ích tối cao của toàn dân tộc. Trong thời kỳ hòa bình xây dựng đất nước, lợi ích quốc gia, dân tộc được thể hiện bao trùm ở phương hướng-mục tiêu “Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa” gắn liền với thực hiện mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Tuy vậy, thời gian qua, trên một số diễn đàn, trên mạng xã hội, trên trang điện tử tiếng Việt của một số cơ quan báo chí, truyền thông nước ngoài thiếu thiện chí với Việt Nam đã xuất hiện những luận điệu sai trái, xuyên tạc Đảng và Nhà nước Việt Nam không quan tâm đến lợi ích chính đáng của nhân dân và dân tộc Việt Nam. Họ cho rằng, “Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ đại diện cho lợi ích của một nhóm thiểu số tinh hoa, chứ không đại diện cho lợi ích của quốc gia, lợi ích dân tộc”; “việc Đảng thừa nhận sự tha hóa, biến chất, tham nhũng trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chứng tỏ Đảng không đủ tư cách để đại diện cho toàn dân để bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc”. Có ý kiến còn bình luận “việc Đảng kết hợp mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là siêu hình, trái quy luật và xu thế phát triển của thế giới”. Lại có ý kiến đưa ra lý lẽ lập lờ rằng, “nội hàm bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc mà Đảng Cộng sản Việt Nam xác định là mông lung, khó khả thi, vì bảo vệ Tổ quốc chỉ là bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ chủ quyền quốc gia, chứ không phải là bảo vệ một đảng phái, một chế độ chính trị nào”. Ác ý và thâm độc hơn, có ý kiến đổ tội cho “chế độ độc đảng lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam khiến Việt Nam hiện vẫn là một quốc gia nghèo nàn, lạc hậu” (?!).
Những ý kiến nêu trên, nếu không cố tình ngụy tạo thông tin, đánh tráo khái niệm, đánh đồng giữa hiện tượng và bản chất; thì cũng là cái nhìn thiếu khách quan, toàn diện theo kiểu “thầy bói xem voi”, chỉ nhìn cây mà không thấy rừng, thậm chí lồng ghép những lời đơm đặt, xuyên tạc nhằm chống phá, hạ bệ, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Lợi ích của Đảng luôn thống nhất với lợi ích của Tổ quốc và nhân dân
Thấm nhuần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Ngoài lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân, Đảng ta không có lợi ích gì khác”, với tư cách là “đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam”, trước sau như một, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn tuyệt đối trung thành và làm hết sức mình để bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc, mang lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân; đồng thời không ngừng củng cố và nâng cao sức mạnh, vị thế, uy tín của đất nước Việt Nam trên trường quốc tế.
Việc Đảng ta luôn trung thành và bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc bởi trước hết, Đảng ta là con nòi của dân tộc Việt Nam. Lịch sử hơn 90 năm qua đã khẳng định, ở Việt Nam, không lực lượng chính trị nào có đủ uy tín, bản lĩnh, trí tuệ, năng lực lãnh đạo như Đảng Cộng sản Việt Nam. Bởi ở nước ta từng xuất hiện một số tổ chức đảng khác nhưng vì không đại diện cho lợi ích của toàn dân tộc, thậm chí có tổ chức đảng còn phản bội, đi ngược lại lợi ích của dân tộc nên tự đào thải và bị lịch sử loại bỏ.
Nhờ lãnh đạo toàn dân, toàn quân thực hiện thắng lợi sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử sau hơn 3 thập niên đổi mới mà Đảng ta đã chứng minh được vị thế, năng lực cầm quyền của mình, từ đó thuyết phục được nhân dân, lãnh đạo nhân dân thực hiện mục tiêu, lý tưởng cao đẹp của Đảng là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Lợi ích của Đảng thống nhất với lợi ích của toàn dân tộc, của nhân dân, của quốc gia-đó là bằng chứng sinh động thể hiện “ý Đảng, lòng dân” hòa quyện, gắn bó chặt chẽ với nhau. Đó cũng là lý do căn cốt, là điểm tựa niềm tin lớn nhất mà nhân dân trao quyền, ủy quyền lãnh đạo của mình cho Đảng Cộng sản Việt Nam.
Nói về vai trò của Đảng trong bảo vệ, bảo đảm lợi ích quốc gia, dân tộc không thể không nhắc đến những thành quả to lớn trong công cuộc đổi mới đất nước. Với mức tăng GDP hằng năm trung bình khoảng 7% trong hơn 35 năm qua, hiện nay Việt Nam đứng trong top 40 nền kinh tế có quy mô GDP lớn nhất thế giới, top 16 nền kinh tế mới nổi thành công nhất. Tính đến năm 2022, quy mô nền kinh tế ước đạt gần 400 tỷ USD; thu nhập bình quân đầu người đạt hơn 4.000USD; quy mô thương mại khoảng 750 tỷ USD, thuộc nhóm 20 nền kinh tế hàng đầu về thương mại quốc tế. Việt Nam là nơi hội tụ của hàng vạn nhà đầu tư đến từ 140 quốc gia, vùng lãnh thổ, với gần 35.000 dự án FDI đang hoạt động có tổng vốn đầu tư gần 430 tỷ USD. Không chỉ vậy, Việt Nam thuộc nhóm nước đạt mức cao chỉ số phát triển con người (HDI). Năm 2020, tỷ lệ nghèo đa chiều theo chuẩn quốc tế giảm còn 4,8% (so với 9,9% năm 2016). Việt Nam đã hoàn thành trước thời hạn nhiều Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ MDG-2015 và đang nỗ lực thực hiện Mục tiêu phát triển bền vững SDG-2030 của Liên hợp quốc. Nhiều quốc gia trên thế giới coi Việt Nam là một hình mẫu đáng tham khảo, học hỏi kinh nghiệm về việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với bảo đảm công bằng, tiến bộ xã hội.
Vì là một đảng “tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính” nên trong quá trình lãnh đạo, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn tự đổi mới, tự chỉnh đốn để không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu để ngang tầm với sứ mệnh mà nhân dân giao phó. Sai đâu sửa đấy, dám nhìn thẳng vào khuyết điểm, thừa nhận khuyết điểm và kiên quyết khắc phục, sửa chữa khuyết điểm không chỉ là dũng khí, bản lĩnh của một đảng mác xít chân chính mà còn thể hiện tinh thần cầu thị của Đảng để không phụ lòng tin của nhân dân và dân tộc. Việc Đảng ta kịp thời sửa sai trong chủ trương thực hiện cải cách ruộng đất những năm 50 của thế kỷ trước; kiên quyết từ bỏ chế độ tập trung quan liêu bao cấp và thực hiện đường lối đổi mới toàn diện vào giữa thập niên 80 của thế kỷ trước và những năm gần đây thực hiện quyết liệt việc thanh lọc, xử lý nghiêm khắc những cán bộ, đảng viên sai phạm để làm trong sạch Đảng cũng không ngoài mục đích bảo vệ những lợi ích chính đáng của đại đa số nhân dân, bảo vệ sự liêm chính của quốc gia, bảo vệ những thành quả cách mạng của toàn thể dân tộc Việt Nam đã chung tay góp sức giành được trong gần 80 năm qua.
Giải quyết đúng đắn mối quan hệ lợi ích quốc gia và lợi ích quốc tế chân chính
Từ bản lĩnh, trí tuệ, tầm nhìn đổi mới mạnh mẽ được Đảng ta khởi xướng từ năm 1986, với sự nỗ lực bền bỉ của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta, đến nay, “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế, uy tín quốc tế như ngày nay” như Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định.
Trong bối cảnh thế giới có nhiều biến động phức tạp và diễn biến khó lường hiện nay, Đảng ta vẫn kiên định với phương châm bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc. Bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc ở Việt Nam không phải là lợi ích quốc gia, dân tộc hẹp hòi, cực đoan như có kẻ từng rêu rao, xuyên tạc. Bởi lẽ, những năm qua, Đảng ta đề ra chủ trương, đường lối và Nhà nước ban hành chính sách, pháp luật luôn xuất phát từ lợi ích quốc gia, dân tộc, đặt trong mối quan hệ hợp tác cùng phát triển, tôn trọng lợi ích chính đáng của các quốc gia và cộng đồng quốc tế. Mặt khác, trong quan hệ đối ngoại, Đảng và Nhà nước ta đã quán triệt, thực hiện nghiêm túc các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác cùng có lợi, với phương châm “Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”. Phương châm này thể hiện nhận thức nhất quán của Đảng là giải quyết hài hòa giữa lợi ích của dân tộc và lợi ích chung của nhân loại, giữa lợi ích quốc gia và lợi ích quốc tế chân chính của giai cấp công nhân.
Những năm gần đây, uy tín của Việt Nam không ngừng được củng cố, tăng cường trên trường quốc tế khi được tín nhiệm bầu vào các cơ quan quan trọng của Liên hợp quốc, như: Hội đồng Nhân quyền nhiệm kỳ 2014-2016, Ủy ban Di sản thế giới của UNESCO nhiệm kỳ 2013-2017, Hội đồng kinh tế-xã hội của Liên hợp quốc (ECOSOC) nhiệm kỳ 2016-2018. Năm 2020, Việt Nam đồng thời đảm nhiệm 3 trọng trách: Ủy viên không Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, Chủ tịch ASEAN và Chủ tịch AIPA. Từ một nước gần như bị bế quan tỏa cảng, sau gần 4 thập niên, đến nay, Việt Nam đã có thiết lập quan hệ ngoại giao với 190 quốc gia, trong đó thiết lập quan hệ ổn định lâu dài với 30 đối tác chiến lược và toàn diện. Đặc biệt, các chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam và Công an nhân dân Việt Nam đã tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình (PKO) đạt nhiều kết quả tích cực, được cộng đồng quốc tế ghi nhận, đánh giá cao.
Như vậy, từ những cơ sở, thành quả nêu trên, có thể khẳng định rằng, dù thời cuộc có nhiều biến động, thế giới có nhiều đổi thay nhưng Đảng Cộng sản Việt Nam đã, đang là lực lượng chính trị duy nhất có đủ vị thế, trí tuệ, năng lực, uy tín để lãnh đạo nhân dân Việt Nam thực hiện toàn diện công cuộc đổi mới, bảo vệ độc lập chủ quyền và xây dựng, phát triển đất nước theo con đường XHCN, đồng thời đó cũng là bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc. Vì thế, mọi sự xuyên tạc Đảng Cộng sản Việt Nam không quan tâm bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc đều không có giá trị và bị thực tiễn bác bỏ.
ST




Nguy hại từ căn bệnh “thờ ơ, vô cảm, thiếu trách nhiệm” của cán bộ, đảng viên hiện nay

 


          “Thờ ơ, vô cảm, thiếu trách nhiệm” trước những bức xúc, nhu cầu, nguyện vọng chính đáng của nhân dân là một trong các biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên; “căn bệnh” nguy hại tác động sâu sắc đến niềm tin của Nhân dân với Đảng và sự trong sạch, vững mạnh của Đảng. Vì thế, cần sớm phát hiện, điều trị triệt để “căn bệnh” này để xây dựng Đảng ta thật sự trong sạch, vững mạnh.

Đại hội XIII của Đảng đánh giá: “Nhìn chung đội ngũ cán bộ, đảng viên đã đề cao tinh thần trách nhiệm, giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống; gương mẫu đi đầu, tận tụy với công việc, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao”1. Tuy nhiên, “Việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa thường xuyên, một số suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống… chưa nêu cao ý thức trách nhiệm trước tổ chức, cơ quan, đơn vị, địa phương và nhân dân”2. Trong đó, vẫn còn tình trạng thờ ơ, vô cảm, chưa nêu cao ý thức, trách nhiệm trước tổ chức, cơ quan, đơn vị, địa phương và nhân dân. “Thờ ơ, vô cảm, thiếu trách nhiệm” của một số cán bộ, đảng viên thực sự là một “căn bệnh” rất nguy hại, có biểu hiện đa dạng trên các lĩnh vực đời sống xã hội, như: suy nghĩ hẹp hòi, thái độ dửng dưng, làm ngơ, không quan tâm đến những sự kiện, sự việc diễn ra của đất nước, địa phương, cơ quan, đơn vị cũng như trước khó khăn, bức xúc, nhu cầu, nguyện vọng chính đáng của nhân dân; sống ích kỷ, vun vén cá nhân, kèn cựa, đố kỵ, có những hành vi trái đạo đức, lương tâm của con người; tranh công, đổ lỗi, không trung thực, không hoàn thành nhiệm vụ được giao, làm việc thì “được chăng hay chớ”, “dân có cần, nhưng quan không vội”, “khó người dễ ta”, hoặc rơi vào tham nhũng, lãng phí, tư duy nhiệm kỳ. Đáng chú ý là, những ngày qua, trước sự vào cuộc quyết liệt của Đảng, Nhà nước, Chính phủ, các cấp, các ngành, các địa phương, sự chung tay góp sức của cả cộng đồng, với nhiều tấm gương sáng mang đậm “nghĩa đồng bào”, cùng nhau quyết tâm cao nhất sớm đẩy lùi và chiến thắng đại dịch Covid-19, thì một số cán bộ, đảng viên có chức, có quyền vẫn đi du lịch, chơi Golf,… vi phạm nghiêm trọng quy định của Chính phủ về phòng, chống dịch Covid-19, gây hậu quả nghiêm trọng.

Mối nguy hại của căn bệnh “thờ ơ, vô cảm, thiếu trách nhiệm” trong đội ngũ cán bộ, đảng viên là rất lớn, nhất là khi nó “chui” vào chính trị để hình thành sự “vô cảm về chính trị”. Bởi lẽ, cán bộ, đảng viên là cầu nối quan trọng giữa Đảng, Nhà nước với Nhân dân; là người truyền đạt và tổ chức cho nhân dân thực thi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; đồng thời, nắm bắt và phản hồi thông tin từ Nhân dân để Đảng, Nhà nước có căn cứ hoạch định, điều chỉnh, bổ sung và đưa ra những quyết sách bảo đảm cho đất nước phát triển nhanh, bền vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Khi cán bộ, đảng viên thờ ơ, vô cảm, thiếu trách nhiệm trước những khó khăn, bức xúc, đòi hỏi chính đáng của nhân dân thì vô hình trung đã tự chặt đứt sợi dây gắn bó máu thịt giữa Nhân dân với Đảng và giữa Đảng với Nhân dân.

“Thờ ơ, vô cảm, thiếu trách nhiệm” còn là căn nguyên gây mất đoàn kết, mâu thuẫn, nghi kỵ lẫn nhau trong nội bộ cơ quan, đơn vị, địa phương dẫn đến kết quả hoàn thành nhiệm vụ thấp, gây hại cho Đảng, Nhà nước và Nhân dân. Chính thái độ này dẫn đến thói ích kỷ, cá nhân chủ nghĩa, kèn cựa địa vị, quan liêu, bao biện, phô trương, lãng phí, tự tư, tự lợi, tham ô, hủ hóa, không quan tâm đến công việc được giao; thậm chí bỏ mặc, né tránh khi được giao nhiệm vụ mới, khó khăn; hoang mang dao động trước những khó khăn, thách thức tác động đến cơ quan, đơn vị, địa phương mình, v.v. Nhưng khi có thành tích lại cố vơ về mình, không tận tâm, tận lực, đồng lòng, đồng sức, thống nhất để tìm ra giải pháp hữu hiệu đưa cơ quan, đơn vị, địa phương mình vượt qua thách thức, khó khăn, hoàn thành tốt nhiệm vụ. Điều này gây nguy hại rất lớn đến xây dựng sự đoàn kết, thống nhất trong các tổ chức, nếu để kéo dài, không khắc phục kịp thời sẽ làm chuyển hóa từ bên trong nội bộ từng tổ chức.

“Thờ ơ, vô cảm, thiếu trách nhiệm” làm suy giảm năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, hiệu quả điều hành của các cơ quan Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội. Năng lực lãnh đạo của Đảng, hiệu quả quản lý của Nhà nước và vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội phụ thuộc trước hết vào phẩm chất, năng lực của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Nếu đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng mà có thái độ “thờ ơ, vô cảm, thiếu trách nhiệm” - thái độ: “Sao cũng mặc kệ, sao xong chuyện thì thôi. Không phê bình, không tự phê bình”3, thì đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước không đi vào quần chúng. Như thế sẽ làm suy giảm năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng và hiệu quả quản lý của Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội.

Đây còn là căn bệnh “quái ác” làm giảm niềm tin của Nhân dân đối với Đảng và Nhà nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ “cộng sản” mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức”4. Vì vậy, nếu cán bộ, đảng viên mà có thái độ “thờ ơ, vô cảm, thiếu trách nhiệm”, nghĩa là không giữ được đạo đức cách mạng, mà đã không còn tư cách đạo đức cách mạng thì nhân dân sẽ không tin tưởng vào cán bộ, đảng viên, niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước sẽ suy giảm. Mặt khác, đoàn kết, thương yêu, đùm bọc, chia sẻ ngọt bùi, sẵn sàng giúp đỡ nhau những lúc khó khăn, hoạn nạn với tinh thần “Bầu ơi thương lấy bí cùng”, “thương người như thể thương thân”,... là truyền thống văn hóa rất tốt đẹp của dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh đúc kết: “Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác”5. Do đó, nếu cán bộ, đảng viên mà có thái độ “thờ ơ, vô cảm, thiếu trách nhiệm” với nhân dân sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến truyền thống tốt đẹp của dân tộc và Đảng ta.

Có thể nói, “thờ ơ, vô cảm, thiếu trách nhiệm” là căn bệnh còn tồn tại khá phổ biến trong một bộ phận cán bộ, đảng viên hiện nay và rất nguy hại, giống như sâu mọt đục khoét làm cho “cây mất gốc”, sớm muộn gì cũng sẽ đổ. Nguyên nhân sâu xa của “căn bệnh” này là do cán bộ, đảng viên không quan tâm đến chính trị, lười học lý luận chính trị, nhất là nghị quyết của Đảng, có lối sống thực dụng, xa rời mục tiêu, lý tưởng cách mạng, thờ ơ với thời cuộc và các vấn đề chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước, đơn vị, địa phương, chỉ chăm lo thu vén cá nhân; ngại va chạm, giữ tâm thế trung dung với tư tưởng “dĩ hòa vi quý”; không tích cực tham gia đấu tranh với những vi phạm, biểu hiện xấu, nhận thức, hành vi lệch lạc ở xung quanh để xây dựng đơn vị, địa phương đoàn kết, vững mạnh, phát triển.

Chính vì vậy, chữa trị triệt để “căn bệnh” này là vấn đề cấp bách, đòi hỏi kết hợp đồng bộ nhiều giải pháp, trước hết, cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể các cấp phải tăng cường giáo dục, nâng cao nhận thức, tư tưởng, đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là tư tưởng: “lấy dân làm gốc”, tinh thần trọng dân, gần dân, tin dân, hiểu dân, học dân, dựa vào dân, có trách nhiệm với dân, chia sẻ với dân, giúp đỡ dân,… làm “điểm mấu chốt” để khắc phục bệnh “thờ ơ, vô cảm, thiếu trách nhiệm” trong đội ngũ cán bộ, đảng viên. Thực hiện có hiệu quả Kết luận số 01-KL/TW, ngày 18/5/2021 về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị trên thực tế; đồng thời, quán triệt, thực hiện tốt phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Trên cơ sở đó, làm cho mỗi cán bộ, đảng viên có sự chuyển biến mạnh mẽ về hành động trong thực tiễn quá trình thực hiện nhiệm vụ, chức trách được giao; trong đời sống sinh hoạt hàng ngày, biết đau với nỗi đau của nhân dân, luôn trăn trở, sáng tạo, tìm ra những giải pháp hữu hiệu để đáp ứng những nhu cầu, nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Đặc biệt, trong cuộc chiến chống đại dịch Covid-19 hiện nay, mỗi cán bộ, đảng viên phải thấu triệt, thực hiện tốt phương châm: tất cả vì sức khỏe, an toàn và hạnh phúc của nhân dân; không được để một người dân nào phải chịu đói, khát, không chỗ ở.

Cùng với đó, cấp ủy, chính quyền các cấp, các ngành, đơn vị, địa phương cần tăng cường rèn luyện, bồi dưỡng cán bộ, đảng viên về phẩm chất, năng lực, đạo đức cách mạng. Đổi mới và nâng cao chất lượng nhận xét, đánh giá, phân loại cán bộ, đảng viên một cách công khai, minh bạch; kiên quyết sàng lọc, đưa những cán bộ, đảng viên không còn đủ tư cách, thờ ơ, vô cảm, thiếu trách nhiệm trước công việc ra khỏi Đảng, cơ quan Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội, như lời Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã phát biểu: “Nếu cảm thấy mình không đủ năng lực, trách nhiệm thì dẹp sang một bên để người khác làm”. Đối với mỗi cán bộ, đảng viên phải thường xuyên rèn luyện, bồi đắp và nâng cao ý chí để làm tròn chức trách, nhiệm vụ được giao, làm tấm gương sáng để quần chúng học tập, làm theo. Thực tế cho thấy, ở bất cứ cơ quan, đơn vị, địa phương nào mà cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu gương mẫu về phẩm chất đạo đức, lối sống, có năng lực công tác và hết lòng vì dân thì được nhân dân tôn trọng, yêu mến, nể phục, tin tưởng và noi theo.

Để có cơ sở phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và toàn dân, điều trị tận gốc “căn bệnh” nguy hiểm này, cơ quan chức năng của Đảng, Nhà nước cần tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện cơ chế, quy chế trên các mặt công tác để nhân dân tham gia giám sát, đóng góp xây dựng đội ngũ cán bộ, xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả việc tiếp dân, đối thoại với dân, tiếp thu những đóng góp chân thành, quý báu của nhân dân, giải quyết dứt điểm những kiến nghị chính đáng của nhân dân. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, lan tỏa gương người tốt, việc tốt, những việc tử tế trong nhân dân và toàn xã hội. Qua đó, để quy chiếu, tạo “hệ miễn dịch” với thái độ “thờ ơ, vô cảm, thiếu trách nhiệm” trong đội ngũ cán bộ, đảng viên hiện nay, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên “vừa hồng, vừa chuyên”, góp phần xây dựng Đảng ta thực sự trong sạch, vững mạnh, xứng đáng vai trò, sứ mệnh cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội.

          T3.

TĂNG CƯỜNG BẢO VỆ NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG TRONG TÌNH HÌNH MỚI

 


Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Ðảng là bảo vệ Ðảng, Cương lĩnh chính trị, đường lối của Ðảng; bảo vệ nhân dân, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; bảo vệ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; giữ gìn môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước. Ðó là nội dung cơ bản, hệ trọng, sống còn của công tác xây dựng, chỉnh đốn Ðảng; là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của toàn Ðảng, toàn quân, toàn dân, trong đó lực lượng tuyên giáo các cấp là nòng cốt; là công việc tự giác, thường xuyên của cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và đoàn thể chính trị – xã hội các cấp; của từng địa phương, cơ quan, đơn vị, của cán bộ, đảng viên, trước hết là người đứng đầu.

Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Ðảng trên cơ sở quán triệt sâu sắc, vận dụng đúng đắn, sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn Việt Nam, trước hết là trong xây dựng đường lối, chủ trương của Ðảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và thể chế, nguyên tắc tổ chức hoạt động của toàn hệ thống chính trị,…

Trong đó, Nghị quyết nêu bảy nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu. Trọng tâm là tiếp tục làm cho toàn Ðảng, toàn dân, toàn quân nhận thức ngày càng đầy đủ hơn, sâu sắc hơn những nội dung cơ bản và giá trị to lớn của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; làm cho chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh thật sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của đời sống xã hội, xây dựng văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; đổi mới nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác giáo dục chính trị, tư tưởng; đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục đối với các tầng lớp nhân dân, nhất là thế hệ trẻ, nhằm nâng cao sức đề kháng, khả năng chủ động đấu tranh, phản bác những quan điểm sai trái, thù địch.

Tiếp tục làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn, hoàn thiện hệ thống lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong tình hình mới. Hệ thống hóa, phổ biến những thành tựu lý luận mà Ðảng ta đã đạt được trên cơ sở vận dụng đúng đắn, sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong công cuộc đổi mới. Tiếp tục khẳng định bản chất và mô hình tổng thể của thể chế chính trị và bộ máy nhà nước đã được xác định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và Hiến pháp năm 2013.

Ðổi mới nội dung, phương thức, nâng cao chất lượng và hiệu quả tuyên truyền về chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Ðảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch theo hướng chủ động, có tính thuyết phục cao, hấp dẫn. Khẩn trương thực hiện nghiêm quy hoạch báo chí đã được phê duyệt. Chủ động tăng cường thông tin tích cực đi đôi với ngăn chặn có hiệu quả, xử lý, xóa bỏ thông tin xấu độc trên in-tơ-nét, mạng xã hội.

Tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác kiểm tra, giám sát tổ chức thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát và kiên quyết xử lý kịp thời, nghiêm minh các tổ chức đảng, đảng viên vi phạm Cương lĩnh chính trị, Ðiều lệ Ðảng, nghị quyết, chỉ thị, quy định của Ðảng. Siết chặt kỷ cương, kỷ luật trong Ðảng. Các cấp ủy và tổ chức đảng, mọi cán bộ, đảng viên phải chấp hành nghiêm kỷ luật phát ngôn; nghiêm cấm để lộ bí mật của Ðảng, Nhà nước, lan truyền những thông tin sai lệch hoặc tán phát những đơn thư nặc danh, mạo danh, hoặc thư có danh nhưng có nội dung xấu, xuyên tạc, vu khống, kích động.

Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác quản lý và sử dụng in-tơ-nét, mạng xã hội. Trong đó chú trọng xây dựng, hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật và có các giải pháp kỹ thuật phù hợp với sự phát triển nhanh của in-tơ-nét, mạng xã hội. Phát huy cao nhất trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp, trước hết là người đứng đầu trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Ðảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch,…

          T3.

Lật tẩy thủ đoạn xuyên tạc, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với công cuộc xây dựng đất nước

 


Xuyên tạc, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với công cuộc xây dựng, phát triển đất nước là một thủ đoạn thâm hiểm của các thế lực thù địch. Đấu tranh, vạch trần thủ đoạn đó là góp phần bảo vệ Đảng, bảo vệ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.

Nhận thấy sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định chiều hướng đất nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, các thế lực thù địch thường xuyên thực hiện thủ đoạn xuyên tạc, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng với nhiều luận điệu tinh vi, thâm hiểm. Một mặt, họ thẳng thừng đòi bỏ Điều 4, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013) quy định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội; mặt khác, họ khéo léo che đậy mục tiêu thực sự của mình khi lập luận rằng: “Đảng Cộng sản Việt Nam có công trong sự nghiệp giải phóng dân tộc; nhưng không có khả năng lãnh đạo sự nghiệp xây dựng đất nước trong bối cảnh toàn cầu hóa”(!). Để củng cố lập luận trên, họ cho rằng: “Đảng Cộng sản Việt Nam giỏi lãnh đạo trong chiến tranh, nhưng không có kỹ năng lãnh đạo phát triển kinh tế, xã hội trong thời bình”(!). Từ đây, họ kết luận: “Đảng Cộng sản Việt Nam đã hết vai trò lịch sử, do đó cần trao vai trò lãnh đạo công cuộc xây dựng, phát triển đất nước cho các lực lượng chính trị khác”(!), thực chất là đòi trao cho các thế lực chống đối con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Những luận điệu này được họ lặp đi, lặp lại nhiều lần, dưới nhiều hình thức, trong nhiều thời điểm khác nhau, nhất là vào thời gian Đảng ta tiến hành đại hội nhiệm kỳ, hay những lúc tình hình kinh tế - xã hội của đất nước gặp khó khăn, hoặc trong những ngày kỷ niệm lớn của Đảng, của đất nước. Họ hy vọng tác động của những luận điệu đó sẽ góp phần thúc đẩy sự “suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên và nhân dân, dẫn đến Đảng ta tự tan rã.

Mục tiêu thực sự của các luận điệu trên đều hướng vào xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội; cổ súy cho “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập” ở Việt Nam. Sâu xa hơn, là nhằm xóa bỏ mọi thành quả cách mạng và con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta; hướng lái sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước hiện nay theo con đường tư bản chủ nghĩa. Bởi theo họ, nếu Đảng Cộng sản không còn giữ vai trò lãnh đạo Nhà nước và xã hội, thì tất yếu đất nước sẽ không phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa. Đây là điều mà các thế lực thù địch, chống đối từng thành công ở Liên Xô trong thập niên cuối của thế kỷ trước và họ hy vọng sẽ thành công ở Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, những thành tựu của sự nghiệp xây dựng, phát triển nước Việt Nam thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhất là trong suốt 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới là thực tiễn sinh động bác bỏ mọi xuyên tạc, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với công cuộc xây dựng, phát triển đất nước.

Nhờ thực hiện đường lối đổi mới đúng đắn trong hơn 35 năm qua, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện so với trước thời kỳ đổi mới. Thế bị bao vây, cấm vận được phá bỏ. Đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và tình trạng nước nghèo, kém phát triển, trở thành nước đang phát triển có mức thu nhập trung bình, đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Kinh tế tăng trưởng trung bình khoảng 07% mỗi năm trong suốt 35 năm qua. Quy mô và tiềm lực kinh tế của đất nước từ chỗ chỉ đạt 6,3 tỉ USD vào năm 1989 đã không ngừng tăng lên, đạt 342,7 tỉ USD vào năm 2020, đứng trong tốp 40 nền kinh tế lớn nhất thế giới và đứng thứ tư trong ASEAN. Kim ngạch xuất khẩu năm 1990 mới chỉ đạt 2,4 tỉ USD, thì năm 2020 đã đạt hơn 280 tỉ USD, tăng gần 120 lần trong vòng 30 năm. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội của đất nước phát triển khá nhanh với nhiều công trình lớn, hiện đại, làm cho diện mạo của đất nước có nhiều thay đổi, tiến bộ. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, với công nghiệp và dịch vụ chiếm khoảng 85% GDP hiện nay. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước hình thành và phát triển, đã có 79 nước công nhận Việt Nam là nền kinh tế thị trường. Năm 2021, mặc dù chịu tác động tiêu cực của đại dịch Covid-19, song do những nỗ lực của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự gắng sức của các doanh nghiệp, các tầng lớp nhân dân, sau hơn một tháng thực hiện Nghị quyết số 128/NQ-CP của Chính phủ về “Thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch Covid-19”, nền kinh tế đã có dấu hiệu phục hồi mạnh mẽ. Chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 11/2021 tăng 5,6% so với cùng kỳ năm trước; tính chung 11 tháng năm 2021, tăng 3,6% so với cùng kỳ năm 2020. Số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới tháng 11 so với tháng trước tăng 44,6% về số doanh nghiệp, 38% về vốn đăng ký, 30,2% về số lao động. Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tiếp tục phục hồi. Tính đến ngày 20/11/2021, vốn đăng ký cấp mới, vốn đăng ký điều chỉnh và giá trị góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt 26,46 tỉ USD, tăng 0,1% so với cùng kỳ năm trước. Điều đó cho thấy nhà đầu tư nước ngoài tiếp tục tin tưởng vào môi trường đầu tư Việt Nam. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu 11 tháng năm 2021 vẫn duy trì tốc độ tăng cao, đạt 599,12 tỉ USD, tăng 22,3% so với cùng kỳ năm trước; trong đó kim ngạch xuất khẩu đạt  299,67 tỉ USD, tăng 17,5% so với cùng kỳ năm trước.

Quan hệ đối ngoại của nước ta ngày càng rộng mở và đi vào chiều sâu; từng bước chuyển từ “tham gia tích cực” sang “chủ động đóng góp xây dựng, định hình luật chơi chung”. Đến nay, nước ta đã có quan hệ ngoại giao với hầu hết các quốc gia thành viên Liên hợp quốc; thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với 16 nước, đối tác toàn diện với 11 nước, bao gồm cả 05 nước Thường trực Hội đồng Bảo an; có quan hệ kinh tế - thương mại và đầu tư với 230 nước và vùng lãnh thổ; là thành viên của nhiều định chế kinh tế quốc tế lớn, như: Tổ chức thương mại thế giới (WTO), Ngân hàng thế giới (WB), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng phát triển châu Á (ADB), v.v. Nước ta đã hai lần đảm nhận vị trí Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc (nhiệm kỳ 2008 - 2009, 2020 - 2021) và còn đảm nhận nhiều trọng trách quan trọng trong các tổ chức quốc tế khác. Hàng loạt chuyến thăm chính thức của lãnh đạo cấp cao Đảng, Nhà nước ta đến Hoa Kỳ, Anh, Pháp, Thụy Sỹ, Trung Quốc, Nga, Ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ôxtrâylia, một số nước Tây Âu, Vatican,… và nguyên thủ các nước này đến thăm nước ta trong thời gian qua, đã khẳng định vị thế và uy tín ngày càng cao của Việt Nam và Đảng Cộng sản Việt Nam trên trường quốc tế. Từ năm 2014, nước ta bắt đầu tham gia vào lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc, thể hiện trách nhiệm trong việc xây dựng lòng tin, duy trì hòa bình, ổn định trong khu vực và trên thế giới.

Trên cơ sở kinh tế phát triển, đời sống các tầng lớp nhân dân được cải thiện rõ rệt. Thu nhập bình quân đầu người trong những năm đầu đổi mới chỉ đạt khoảng 250 USD/năm, đến năm 2020 đạt 3.521 USD, đứng thứ sáu trong ASEAN. Dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát huy và ngày càng mở rộng. Tiến bộ và công bằng xã hội đạt nhiều kết quả ấn tượng, được Liên hợp quốc xếp là một trong những nước đứng đầu thực hiện Mục tiêu Thiên niên kỷ. Các vấn đề an sinh xã hội luôn được quan tâm chăm lo, ngay cả lúc nền kinh tế gặp khó khăn do tác động của suy thoái kinh tế thế giới, hay của đại dịch Covid-19. Tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 58% năm 1993 xuống còn 5,8% năm 2016 theo chuẩn nghèo của Chính phủ và dưới 03% năm 2020 theo chuẩn nghèo đa chiều. Chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam tăng gần 46% từ năm 1990 đến năm 2019, nằm trong số các nước có tốc độ tăng HDI cao nhất trên thế giới. Năm 2019 HDI của Việt Nam đạt mức 0,704, thuộc nhóm nước phát triển con người cao của thế giới, nhất là so với các nước có cùng trình độ phát triển.

Chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường; độc lập, chủ quyền quốc gia được giữ vững. Công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, nhất là phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực tiếp tục được đẩy mạnh, triển khai quyết liệt, đồng bộ, toàn diện, đi vào chiều sâu, tạo nhiều chuyển biến tích cực, rõ rệt. Nhờ đó, niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa tiếp tục được củng cố, tăng cường. Con số 99,6% cử tri tham gia Cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021 - 2026 trong điều kiện khó khăn, phức tạp do đại dịch Covid-19 bùng phát mạnh, là minh chứng sinh động về lòng tin của nhân dân vào thể chế chính trị do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.

Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử nói trên đều gắn liền với sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đó là minh chứng thuyết phục về năng lực lãnh đạo của Đảng trước đây, cũng như trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thời kỳ hội nhập; là thực tiễn khách quan bác bỏ mọi sự xuyên tạc, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Đúng như đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: “Ở Việt Nam, không có một lực lượng chính trị nào khác, ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam có đủ bản lĩnh, trí tuệ, kinh nghiệm, uy tín và khả năng lãnh đạo đất nước vượt qua mọi khó khăn, thử thách, đưa sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác”2. Trong một công trình nghiên cứu cùng Cơ quan Phát triển quốc tế Thụy Điển (SIDA), các nhà nghiên cứu của Viện Phát triển quốc tế thuộc trường Đại học Harvard (Hoa Kỳ) cũng có nhận xét: “Ở Việt Nam, trong tương lai, khó có thể hình dung cơ sở xã hội cho việc xây dựng một đảng có khả năng cạnh tranh với Đảng Cộng sản Việt Nam”. Bởi lẽ, ở Việt Nam hơn 90 năm qua, đại đa số nhân dân thừa nhận sự lãnh đạo độc tôn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam; trìu mến gọi Đảng Cộng sản Việt Nam là “Đảng ta” và coi Đảng là người đại biểu trung thành cho lợi ích của mình, do Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ đại biểu cho lợi ích của giai cấp công nhân, mà còn đại biểu cho lợi ích của nhân dân lao động và của cả dân tộc.

Để tiếp tục giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thời kỳ mới, Đại hội XIII của Đảng đã xác định “phải đặc biệt coi trọng và đẩy mạnh hơn nữa xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ”3, xem đó là nhiệm vụ then chốt. Tổ chức thực hiện một cách nghiêm túc, quyết liệt, đồng bộ công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, gắn liền với đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, là cách làm hiệu quả nhất để bác bỏ những mưu toan và hành động xuyên tạc, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với công cuộc xây dựng, phát triển đất nước trong thời kỳ hội nhập.

          T3.

Nâng cao hiệu quả xây dựng lực lượng và tổ chức thực hiện trong việc nâng cao chất lượng đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng

 

  

Quán triệt quan điểm của Đại hội XIII: "Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, kiên quyết và thường xuyên đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, cơ hội chính trị; đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ""[3] là yêu cầu cấp bách, có ý nghĩa quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; là nhiệm vụ hết sức quan trọng của toàn Đảng, của toàn hệ thống chính trị và toàn dân, một số giải pháp căn cốt cần thực hiện để nâng cao chất lượng công tác đấu tranh, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là:

Thứ nhất, bảo đảm vai trò lãnh đạo, chỉ đạo tập trung, thống nhất của Đảng nhằm huy động sức mạnh tổng hợp của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, của cả hệ thống chính trị tham gia thực hiện công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh chống lại các quan điểm sai trái, thù địch một cách chủ động, thiết thực, hiệu quả. Trên cơ sở "nắm chắc, dự báo đúng, định hướng chính xác, xử lý đúng đắn, kịp thời các vấn đề tư tưởng trong Đảng, trong xã hội. Chú trọng nắm bắt, định hướng dư luận xã hội, bỏa đảm thống nhất tư tưởng trong Đảng, đồng thuận cao trong xã hội" và “kiên quyết đấu tranh, loại bỏ các sản phẩm, thông tin độc hại, xuyên tạc, phản động, ảnh hưởng xấu đến ổn định chính trị - xã hội, thuần phong mỹ tục”[4], cấp ủy đảng các cấp phải thống nhất nhận thức và hành động, quan tâm chỉ đạo thường xuyên, quyết liệt các lực lượng, các ngành, các cấp vào cuộc, kết hợp chặt chẽ nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch với công tác bảo vệ chính trị nội bộ, với phòng ngừa và đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi các biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa".

Thứ hai, tiếp tục rà soát, nghiên cứu, sắp xếp kiện toàn bộ máy chỉ đạo, nhóm chuyên gia, lực lượng nòng cốt (từ Trung ương đến địa phương), mô hình và cơ chế phương thức lãnh đạo, chỉ đạo trong bảo vệ và đấu tranh phù hợp và hiệu quả, sắc bén và thiết thực. Chú trọng xây dựng bộ máy tổ chức, đội ngũ cán bộ chuyên trách, kiêm nhiệm, nhóm chuyên gia theo từng lĩnh vực; mô hình, phương thức, biện pháp và cơ chế đấu tranh phù hợp với từng loại đối tượng, trên từng vấn đề, ở từng thời điểm, tùy từng địa bàn… để không chỉ tăng tính chủ động, sắc bén trong đấu tranh phòng, chống âm mưu “diễn biến hòa bình” và bác bỏ các quan điểm sai trái, thù địch mà còn phát huy được ưu thế, thế mạnh của từng lực lượng.

Ba là, mỗi cấp ủy, nhất là người đứng đầu phải quán triệt sâu sắc phương hướng, nhiệm vụ, quan điểm, giải pháp trong công tác bảo vệ và đấu tranh, đảm bảo xây dựng, phát triển lực lượng luôn chủ động và kịp thời tham gia, thích ứng với công tác. Trong xây dựng và phát triển lực lượng, cần quan tâm, lựa chọn, bồi dưỡng, đào tạo, xây dựng đội ngũ cán bộ lý luận chuyên nghiệp hoặc kiêm nhiệm tâm huyết, có đủ bản lĩnh chính trị, năng lực, trình độ chuyên môn cao để nghiên cứu lý luận và tổng kết, bổ sung lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội…để giảng dạy tại các học viện, nhà trường và tham gia cuộc đấu tranh này. Khi tác chiến, bảo đảm tính Đảng, tính khoa học, tính chiến đấu, tính thuyết phục trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ và đấu tranh trên cả bình diện vĩ mô và vi mô; đồng thời, quán triệt nguyên tắc dân chủ, khoa học gắn với nguyên tắc khách quan, linh hoạt, sáng tạo để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh, phê phán quan điểm sai trái, thù địch một cách toàn diện, triệt để, thuyết phục.

Bốn là, huy động nhiều cấp, nhiều ngành, nhiều lực lượng, phương tiện tham gia thông qua cơ chế tổ chức, chỉ đạo, điều hành, phối hợp, hiệp đồng, phát huy sức mạnh của các lực lượng; theo hướng tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo thống nhất, kịp thời từ Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban Tuyên giáo Trung ương tới các cấp bộ đảng của ban, bộ, ngành, địa phương và tạo sự phối hợp, hiệp đồng chặt chẽ giữa các cấp, các ngành. Trong đó, cần phối hợp chặt chẽ và phát huy vai trò của Hội đồng Lý luận Trung ương, các viện nghiên cứu, các học viện, nhà trường, các nhà khoa học trong tổng kết thực tiễn, bảo vệ, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những vấn đề lý luận về chủ nghĩa xã hội, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam... Đồng thời, thực hiện tốt sự phối hợp giữa Bộ Quốc phòng và Bộ Công an trong nghiên cứu nắm vững âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, tham mưu cho Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban Chấp hành Trung ương Đảng lãnh đạo, chỉ đạo xử lý tốt các tình huống khẩn cấp về quốc phòng, an ninh. Chủ động phối hợp giữa các cơ quan tuyên giáo, báo chí, truyền hình, phát thanh của Đảng, Nhà nước ở cả Trung ương và địa phương để tập trung và đẩy mạnh cuộc đấu tranh, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trên các phương tiện thông tin đại chúng.

Năm là, đẩy mạnh sử dụng khoa học, kỹ thuật, công nghệ để tiếp tục phát huy vai trò, thế mạnh của các phương tiện truyền thông, các cơ quan thông tấn, báo chí và mạng xã hội không chỉ trong việc tuyên truyền và quán triệt chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước… mà cả trong tác chiến bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Đồng thời, bảo đảm kinh phí, cơ sở vật chất, phương tiện, thông tin, tài liệu... và xây dựng, thực hiện chính sách động viên, khen thưởng kịp thời đối với những tập thể, cá nhân tích cực tham gia trực tiếp đấu tranh và bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng./.

T3.

 

Chú trọng và tăng cường công tác phối hợp trong việc nâng cao chất lượng đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng

 

 Chú trọng và tăng cường công tác phối hợp trong việc nâng cao chất lượng đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng

Mục đích cao nhất, có tính chiến lược của các thế lực thù địch chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam chính là nhằm làm cho Đảng, đội ngũ cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân Việt Nam xa rời, từ bỏ tư tưởng xã hội chủ nghĩa, chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội…

Thực tế cho thấy, cùng với sự phát triển của khoa học và công nghệ, việc lợi dụng ưu thế của internet, mạng xã hội, các hình thức truyền thông mới, hệ thống phát thanh, báo chí, xuất bản ở nước ngoài, v.v. để tuyên truyền chống phá Đảng Cộng sản Việt Nam trong một thế trận nhiều tầng, nhiều lớp, có kịch bản rõ ràng theo kiểu mưa dầm thấm lâu, góp gió thành bão đã được các thế lực thù địch, phản động và các phần tử cơ hội chính trị sử dụng triệt để.

Thông qua việc giật tít, đưa tin thật giả lẫn lộn để “câu view”; tạo lập các website, blog, facebook, fanpage giả mạo của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có uy tín; sử dụng dịch vụ thư điện tử (email), dịch vụ chat (nhắn tin, hội thoại), diễn đàn… các thế lực thù địch đã để tung tin, bài xấu độc, âm mưu tạo dựng những nhận thức sai lệch, hoài nghi, hoang mang, dao động, thúc đẩy sự “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Từ đó, làm lung lay, xói mòn niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước; gây kích động nhân tâm, tạo tâm lý bức xúc, chống đối trong xã hội; làm cho cán bộ, đảng viên, các tầng lớp nhân dân xa rời/từ bỏ nền tảng tư tưởng - vũ khí tinh thần, thế giới quan, phương pháp luận khoa học, kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng…

Vì thế, để kiên định lý tưởng cách mạng, kiên định hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa và mục tiêu mà Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân dân ta đã lựa chọn: độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, thì bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch (bảo vệ và đấu tranh, cuộc đấu tranh này) là nhiệm vụ vừa cấp bách, vừa thường xuyên và lâu dài, góp phần quan trọng vào quá trình xây dựng, tồn tại và phát triển của Đảng.

Hiểu một cách cụ thể nhất thì, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh chống lại các quan điểm sai trái, thù địch với tư tưởng của Đảng có mối quan hệ biện chứng với nhau. Muốn bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, thì phải đấu tranh chống lại các quan điểm sai trái, thù địch; ngược lại, đấu tranh chống lại các quan điểm sai trái, thù địch để luôn giữ vững, kiên định với nền tảng tư tưởng của Đảng. Do đó, trong mọi hoàn cảnh, mọi thời điểm lịch sử, nhất là ở những thời khắc có tính bước ngoặt thì bảo vệ và đấu tranhcũng luôn phải là/chắc chắn là một quá trình cần phải được tiến hành song song; phải thể hiện được sự thống nhất biện chứng giữa “xây” và “chống” mà "xây" là cơ bản, nhưng "chống" phải quyết liệt, hiệu quả, thể hiện rõ quy luật tồn tại và phát triển của hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa; phải kết hợp giữa nhiệm vụ trước mắt và nhiệm vụ lâu dài; đồng thời phải nâng cao khả năng tự phòng, chống của cán bộ, đảng viên và nhân dân trước âm mưu, thủ đoạn và hoạt động của các thế lực thù địch, đối tượng phản động, cơ hội chính trị.

Ở Việt Nam, trong hơn 91 năm xây dựng và phát triển, xuất phát từ yêu cầu khách quan và thực tiễn, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi trọng công tác bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bảo vệ Cương lĩnh, đường lối của Đảng…; đồng thời, kiên quyết đấu tranh phản bác, ngăn chặn các quan điểm sai trái, thù địch. Đặc biệt, 3 thập niên gần đây, trong bối cảnh các thế lực thù địch, phản động triệt để lợi dụng những diễn biến phức tạp, nhanh chóng, khó dự báo của tình hình quốc tế; nhất là, tình hình trong nước còn nhiều khó khăn, thử thách để cổ xúy, kích động các phần tử cơ hội chính trị, thoái hóa, biến chất, suy thoái đạo đức, lối sống thành lập các hội, nhóm “xã hội công dân”, các "diễn đàn dân chủ” và sử dụng các website, facebook, các trang mạng xã hội dưới danh nghĩa yêu nước và phản biện để tăng cường các hoạt động chống phá Đảng và nền tảng tư tưởng của Đảng, thì cuộc đấu tranh này càng được chú trọng và đẩy mạnh.

Căn cứ vào yêu cầu thực tiễn và nhiệm vụ cụ thể mỗi giai đoạn cách mạng, vào Cương lĩnh của Đảng, cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch được chỉ đạo cụ thể, thông qua các chỉ thị, nghị quyết chuyên đề. Đặc biệt, tiếp tục "tăng cường đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động "diễn biến hào bình" của các thế lực thù địch; chủ động ngăn chặn, phản bác các thông tin, quan điểm xuyên tạc, sai trái, thù địch"[1] và "tập trung thực hiện mục tiêu: Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức"[2] theo Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, Nghị quyết số 35-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa XII về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”(10/2018) đã nêu rõ: Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng và đấu tranh, phản bác có hiệu quả các quan điểm sai trái, thù địch là một nội dung cơ bản, hệ trọng, sống còn của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Đó "là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, trong đó lực lượng Tuyên giáo các cấp là nòng cốt; là công việc tự giác, thường xuyên của cấp uỷ, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và đoàn thể chính trị - xã hội các cấp; của từng địa phương, cơ quan, đơn vị, của từng cán bộ, đảng viên, trước hết là người đứng đầu”.

Trên cơ sở xác định rõ tính chất, thực chất và bản chất đối kháng của cuộc đấu tranh trên mặt trận tư tưởng là không khoan nhượng, cuộc đấu tranh của Đảng trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng để bảo vệ nền tảng tư tưởng, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch đã được toàn Đảng và cả hệ thống chính trị thống nhất trong nhận thức và hành động. Cuộc đấu tranh này đã được tổ chức trên phạm vi, quy mô rộng lớn; với sự vào cuộc tích cực, chủ động của các lực lượng, ở cả Trung ương và địa phương; trong đó, xung kích và nòng cốt là ngành Tuyên giáo các cấp; các cơ quan nghiên cứu khoa học, lý luận, các ban đảng, cơ quan truyền thông, thông tin các cấp; lực lượng Công an, Quân đội và các nhà khoa học, các học giả thuộc chuyên ngành khoa học xã hội và nhân văn; đặc biệt là vai trò chỉ đạo của Ban Chỉ đạo 35 Trung ương và sự phối hợp đồng bộ, hệ thống, trách nhiệm của các cơ quan, bộ, ngành, địa phương cùng với sự vào cuộc linh hoạt, chủ động, quyết liệt, bền bỉ của các lực lượng, đơn vị chức năng, các cơ quan báo chí ở Trung ương và địa phương.

Sự phối hợp, vào cuộc của các lực lượng tham gia thực hiện nhiệm vụ bảo vệ và đấu tranh trải theo hệ thống từ Trung ương đến địa phương, nhất là "mạng lưới đấu tranh" cả trên các loại hình báo chí cũng như trên mạng xã hội đã không chỉ giúp cho các cơ quan, ban, ngành chức năng kịp thời và chủ động nắm chắc âm mưu chiến lược, chiến thuật, thủ đoạn, chiêu trò, biện pháp, hình thức, phương tiện chống phá của thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị mà còn khẳng định tính thiết thực, hiệu quả của việc xây dựng và phát triển các lực lượng, sự phối hợp giữa các lực lượng trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các luận điệu sai trái, thù địch. Sự phối hợp, vào cuộc đó không chỉ góp phần phát hiện, vạch trần sự giả dối, xảo biện của những thông tin xấu, độc mà còn ngăn chặn âm mưu, thủ đoạn phá hoại tư tưởng, tình cảm con người, phá hoại tổ chức, chế độ từ bên trong; đồng thời phát huy được ưu thế của các cơ quan truyền thông và mạng xã hội trong việc kịp thời, linh hoạt tác chiến để đấu tranh trực diện với những luận điểm sai trái, thù địch như:

 Xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; tách rời và đối lập chủ nghĩa Mác - Lênin với tư tưởng Hồ Chí Minh; phủ nhận và đòi xóa bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh - nền tảng tư tưởng của Đảng. Xuyên tạc bản chất và kích động, chống phá Đảng Cộng sản Việt Nam, đòi đa nguyên, đa đảng đối lập; xuyên tạc vể chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; thổi phồng học thuyết tam quyền phân lập và xã hội dân sự… Bịa đặt, bôi đen, vu khống về cuộc đời, sự nghiệp, tư tưởng, đạo đức, phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh; về bí mật đời tư, bí mật cá nhân của các đồng chí lãnh đạo cấp cao…   Bôi nhọ và phủ nhận những vấn đề thuộc về chủ trương, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội…; xuyên tạc, đả kích và phủ nhận sở hữu toàn dân và sở hữu nhà nước, đòi tư hữu hóa các tư liệu sản xuất chủ yếu của nền kinh tế xã hội…  Lợi dụng, khoét sâu những thiếu sót trong công tác lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước để xuyên tạc, tình hình chính trị, kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại nhằm phá hoại tư tưởng và chia rẽ khối đoàn kết, thống nhất trong Đảng và khối đại đoàn kết toàn dân tộc.   Lợi dụng sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên, để bôi den, bẻ cong sự thật về công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng, về cuộc đấu tranh phòng và chống tham nhũng, về công tác bảo vệ chính trị nội bộ, v.v. nhằm gây dao động về tư tưởng, gây mất lòng tin trong nhân dân, kích động và chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa đang xây dựng ở Việt Nam…

Tuy nhiên, thực tế cuộc đấu tranh này cũng cho thấy những hạn chế, bất cập trong việc chủ động phòng và chống thông tin xấu, độc theo nhiều cấp độ, nhiều tầng nấc; trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo và việc phát huy thế mạnh của từng lực lượng và sự phối hợp nhịp nhàng giữa các lực lượng ở tất cả các cấp để đảm bảo tác chiến nhanh, gọn, hiệu quả, nhất là trong việc đào tạo, phát triển đội ngũ chuyên gia/chuyên sâu tham gia tác chiến nhanh, chất lượng…

T3.

 

 

CHỦ NGHĨA MÁC - LÊ NIN CHƯA BAO GIỜ LỖI THỜI

 Thế giới ngày nay biến động vô cùng phức tạp, khoa học - công nghệ với những bước phát triển nhảy vọt đã làm thay đổi nhận thức nhiều giá trị lịch sử, đòi hỏi bất luận ở trong nước hay quốc tế đều phải tìm câu trả lời xác đáng cả về lý luận và thực tiễn để tự chuẩn bị cho mình về chính trị.

Trong bối cảnh như vậy, các chính đảng lấy chủ nghĩa Mác-LêNin làm nền tảng tư tưởng luôn phải đứng trước những thách thức lớn của thực tiễn và những vấn đề rất nan giải về lý luận. Các thế lực thù địch cho rằng chủ nghĩa Mác-Lê Nin đã lỗi thời, không còn vai trò chỉ đạo, soi đường đối với cách mạng và kiến thiết mà chỉ là học thuyết ảo tưởng về một xã hội không có thực, rằng chỉ có chủ nghĩa tư bản mới là “giá trị đích thực”, là nấc thang tiến bộ nhất của nhân loại.
Vậy, chủ nghĩa Mác-Lênin có phải đã lỗi thời?
Nhưng rõ ràng chủ nghĩa Mác - Lênin là hệ thống tri thức thuộc ngành khoa học xã hội, khoa học nhân văn, vì thế, nó mang đặc trưng tích lũy, kế thừa, chứ không mang đặc trưng thay thế như những tri thức thuộc ngành khoa học - kỹ thuật và công nghệ. Do vậy, nói chủ nghĩa Mác - Lê-nin đã lỗi thời là một sự quy chụp không có căn cứ. Hơn nữa, sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất và khoa học, công nghệ hiện đại ngày nay vốn không thể xóa bỏ được những mâu thuẫn cố hữu của chủ nghĩa tư bản; ngược lại, nó làm cho những mâu thuẫn đó càng thêm sâu sắc. Điều này được biểu hiện cụ thể trong xã hội tư bản chủ nghĩa hiện đại, như mâu thuẫn giữa tư bản và lao động tiếp tục tồn tại và gia tăng, khoảng cách giàu - nghèo mở rộng, phân phối của cải không công bằng, nạn thất nghiệp tăng lên, nhiều vấn đề xã hội trở nên trầm trọng... Trong khi đó, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, ở xã hội xã hội chủ nghĩa, sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất và khoa học, công nghệ sẽ góp phần nâng cao năng lực, phẩm chất và cơ hội phát triển tự do, toàn diện cho con người, đồng thời là cơ sở cho việc thực hiện nguyên tắc phân phối xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Ngoài ra, chủ nghĩa Mác - Lê-nin là một học thuyết mở, luôn tiếp nhận những thành tựu lý luận mới và không ngừng hoàn thiện để phù hợp với thực tiễn cuộc sống.
Trung thành với chủ nghĩa Mác-LêNin, cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng hơn 90 năm qua đã “đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác”, góp phần quan trọng làm sáng tỏ hơn nữa những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lê Nin./.
ST


Tập hợp rộng rãi các nhân sĩ, trí thức, Việt kiều yêu nước và nhân dân tiến bộ trên thế giới tham gia phòng, chống các luận điệu xuyên tạc, thù địch với Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam trên mạng xã hội

 


Các thế lực phản động đã thiết lập hàng nghìn  Website, blog, tài khoản Facebook, trang Fanpage với hầu hết máy chủ đặt ở nước ngoài, tổ chức hàng trăm chiến dịch tuyên truyền, phát tán với tần suất và số lượng lớn các tin, bài bình luận, videoclip... có nội dung xấu, độc, thật, giả, trắng đen lẫn lộn, thậm chí công khai các luận điệu xuyên tạc, thù địch với Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam. Từ đó, gieo rắc sự hoài nghi, bi quan, chán nản thậm chí thù hận không chỉ một số người trong nước mà ngay cả Việt kiều và người nước ngoài, dẫn đến thiếu niềm tin vào Đảng Cộng sản và chế độ XHCN ở Việt Nam. Do vậy, chúng ta cần huy động, thu hút được rộng rãi trí tuệ, tâm huyết của các nhân sĩ, trí thức, Việt kiều yêu nước và nhân dân tiến bộ trên thế giới tham gia công tác phòng ngừa, đấu tranh phản bác các luận điệu xuyên tạc, thù địch với Đảng và Nhà nước Việt Nam thông qua đẩy mạnh thông tin đối ngoại để giúp họ hiểu rõ bản chất tốt đẹp và những nỗ lực của Đảng và Nhà nước ta trong xây dựng và phát triển đất nước. Các thông tin đấu tranh phải trung thực, khách quan, vì lợi ích lâu dài của dân tộc, của đất nước, mang tính đảng, tính khoa học cao với nội dung phong phú, phù hợp với từng đối tượng.

          T3.

 

Thường xuyên tổ chức các cuộc hội thảo, tọa đàm, trao đổi, rút kinh nghiệm với các nước có cùng chế độ chính trị về đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch trên mạng xã hội

 


Thường xuyên tổ chức các cuộc hội thảo, tọa đàm, trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm giữa các cơ quan chức năng, lực lượng nòng cốt chuyên sâu trong đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch trên internet, mạng xã hội với các nước Trung Quốc, Lào, Triều Tiên, Cuba. Chẳng hạn, tháng 8 - 2019, các thế lực thù địch đã lợi dụng một số vấn đề có liên quan đến vấn đề biên giới giữa Lào và Campuchia nêu lên những thông tin xuyên tạc trên mạng xã hội Facebook nhằm mục đích gây ra sự hiểu lầm về quan hệ giữa Lào và Campuchia. Văn phòng Ủy ban biên giới Quốc gia của Lào (Office of the National Boundary Committee, Ministry of Foreign Affairs) đã kịp thời tổ chức họp báo ở Thủ đô Viêng Chăn để phản bác lại các quan điểm này, góp phần thuyết phục các đảng viên, nhân dân trong nước và bạn bè thế giới  nắm bắt thực chất vấn đề biên giới giữa Lào và Campuchia.

Ngoài ra, cần thường xuyên trao đổi, học tập kinh nghiệm quản lý mạng xã hội của các nước tiên tiến khác trên thế giới.

T3.

Tăng cường phối hợp với các cơ quan, tổ chức quốc tế có liên quan trong việc quản lý, kiểm soát đối với các trang mạng xã hội ở Việt Nam

 


Tăng cường phối hợp với các cơ quan, tổ chức quốc tế có liên quan trong việc quản lý, kiểm soát đối với các trang mạng xã hội và chủ động sử dụng các biện pháp kỹ thuật, ngăn chặn việc truy cập vào các trang mạng “độc hại” một cách có hiệu quả. Chủ động phối hợp với các nhà cung cấp dịch vụ mạng xã hội như Facebook, Zalo, Twitter, Instagram … , tính toán sử dụng các giải pháp về công nghệ để ngăn chặn một cách triệt để các tin tức xấu độc trên các trang mạng. Đặc biệt, phải chủ động sử dụng các biện pháp kỹ thuật nghiệp vụ để xâm nhập, chiếm quyền quản trị, điều hành các trang web, blog, diễn đàn mạng xã hội, sau đó xóa dữ liệu, vô hiệu hóa hoặc ngăn chặn việc truy cập vào các trang mạng có nội dung “độc hại” trong một thời gian nhất định. 

 T3.

 

BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN ĐÔNG ĐỈNH CAO CỦA NGHỆ THUẬT QUÂN SỰ TRONG SỰ NGHIỆP BẢO VỆ ĐỘC LẬP, HÒA BÌNH VÀ TOÀN VẸN LÃNH THỔ CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM.

 Trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam ta đã trải qua nhiều cuộc chiến tranh đánh đuổi quân xâm lược, bảo vệ nền độc lập và chủ quyền biên giới trên không, bộ, biển. Đặc biệt, như chúng ta đều biết, từ năm 1974 cho đến nay, Trung Quốc với âm mưu bành trướng, bá quyền, thâu tóm biển Đông với đã nhiều lần ngông cuồng xâm phạm chủ quyền, gia tăng căng thẳng trên biển Đông, trong đó có cả khu vực thuộc chủ quyền quốc gia Việt Nam. Và chắc chắn, họ sẽ tiếp tục còn giở nhiều chiêu trò khác để nhằm đạt được mục đích họ đã đề ra về “Đường lưỡi bò” hay “đường chín đoạn” hoang tưởng.

Trước những vấn đề trên, đã có rất nhiều quan điểm trái chiều, thậm chí, trên các trang mạng xã hội, một số người còn tỏ ra vô cùng bức xúc, căm giận mà đặt câu hỏi “Tại sao chúng ta mua sắm trang bị hiện đại cho hải quân, không quân, tên lửa bờ… nhưng lại để cho Trung Quốc xâm phạm chủ quyền mà không ra tay trấn áp kẻ thù?”.
Xét về mặt tích cực, những câu hỏi như vậy xuất phát từ lòng yêu nước, tự tôn dân tộc của người dân Việt Nam, dù cho có thể hiện bằng cách này hay cách khác. Nhưng dưới góc độ quan điểm của những kẻ cơ hội chính trị, đám con rối làm tay sai cho ngoại bang thì đó chẳng khác nào một lời kích động, bôi nhọ uy tín của Nhà nước và lực lượng Quân đội nhân dân Việt Nam.
Vậy tại sao Đảng, Nhà nước ta lựa chọn đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo bằng con đường hòa bình, kiên trì, lâu dài trên cơ sở thượng tôn pháp luật và các điều ước quốc tế.
Trước hết, những đau thương mất mát từ bài học của các cuộc chiến tranh đánh đuổi quân xâm lược đã dạy cho chúng ta hiểu rất rõ nỗi đau xót của chiến tranh loạn lạc, của bom rơi máu đổ, vậy nên chẳng ai mong muốn chiến tranh xảy ra, đặc biệt là lãnh đạo đất nước.
Cho nên, trước âm mưu bành trướng, muốn nuốt chửng Việt Nam của người láng giềng to xác, chúng ta không thể nướng sức người, sức của, tính mạng của đồng chí, đồng bào ta vào chiến đấu với những thế lực không cân sức ấy. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, muốn bảo vệ chủ quyền biển, đảo, chúng ta phải phát huy tinh thần tự lực, tự cường và phải biết kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, nêu cao tính chính nghĩa, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của quốc tế, “kiên quyết, kiên trì đấu tranh”, tăng cường hợp tác quốc tế, “tạo sự đan xen lợi ích”, “vừa hợp tác, vừa đấu tranh”. Và cũng cần xác định, giải quyết tranh chấp trên Biển Đông là vấn đề lâu dài, không thể nóng vội, kiên trì hợp tác tìm kiếm biện pháp hòa bình để giải quyết tranh chấp, không làm phức tạp thêm tình hình, bảo vệ lợi ích chính đáng của ta, đồng thời tôn trọng lợi ích chính đáng của các nước trên cơ sở tuân thủ luật pháp quốc tế. Đặc biệt, phải hiểu rằng hiện nay, Trung Quốc chỉ cần một cái cớ hợp lý để phát động cỗ máy chiến tranh nuốt gọn biển Đông mà dư luận quốc tế khó lên tiếng kết tội Trung Quốc là xâm lược hay phát xít. Cái cớ ấy sẽ biến kẻ xâm lược, ăn cướp thành kẻ tự vệ.
Bởi vậy, chúng ta không phải không đấu tranh mà là chúng ta đang đấu tranh kiên quyết nhưng phải mềm dẻo, khôn khéo và trí tuệ. Đó mới là đỉnh cao của nghệ thuật quân sự trong sự nghiệp bảo vệ độc lập, hòa bình và toàn vẹn lãnh thổ của dân tộc Việt Nam.
ST