Thứ Ba, 4 tháng 4, 2023

GIÁ TRỊ "LỜI KÊU GỌI THI ĐUA ÁI QUỐC" CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH ĐẾN PHONG TRÀO THI ĐUA YÊU NƯỚC HIỆN NAY

 Cách đây 75 năm, khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đang ở giai đoạn gay go, quyết liệt, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi thi đua ái quốc nhằm kêu gọi toàn dân tích cực thi đua diệt giặc đói, giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm… Từ đó đến nay, Lời kêu gọi thi đua ái quốc của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trở thành nền tảng, động lực để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ra sức thi đua đóng góp sức người sức của vào sự nghiệp cách mạng vẻ vang của dân tộc. Ngày nay, Lời kêu gọi của người vẫn còn nguyên giá trị trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Thi đua là những cuộc vận động lớn, toàn diện trên các lĩnh vực, các ngành nghề và trong mọi thời điểm. Đó là một trong những biện pháp quan trọng của quá trình vận động cách mạng, nêu cao tinh thần yêu nước của Nhân dân hướng tới mục đích chung. Vì tầm quan trọng của phong trào thi đua ái quốc, nên Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn chăm sóc và định hướng cho phong trào tiến lên không ngừng.
Trong thời điểm đất nước vừa được giải phóng, Nhà nước non trẻ của ta gặp muôn vàn khó khăn, phải đương đầu với nạn đói, nạn dốt và giặc ngoại xâm, để huy động sức người, sức của trong dân, thực hiện nhiệm vụ cách mạng, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khởi xướng việc tổ chức các phong trào thi đua trên các lĩnh vực đời sống xã hội như phát động chiến dịch tăng gia sản xuất để diệt giặc đói; mở chiến dịch chống nạn mù chữ để diệt giặc dốt và các phong trào “Tuần lễ vàng”, “Nam tiến”; phong trào thực hiện “Đời sống mới”.
Ngày 27/3/1948, theo sáng kiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Trung ương ra Chỉ thị “Phát động phong trào thi đua ái quốc”. Ngày 1/6/1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Sắc lệnh số 195 thành lập Ban vận động thi đua cứu quốc Trung ương, do đồng chí Tôn Đức Thắng làm Trưởng ban. Ngày 11/6/1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi thi đua ái quốc nhân kỷ niệm 1.000 ngày kháng chiến toàn quốc và để kêu gọi Nhân dân hưởng ứng phong trào thi đua ái quốc của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương phát động ngày 27/3/1948 theo sáng kiến của Người.
Vẫn cách viết ngắn gọn, rành mạch, xúc tích, ngôn ngữ giản dị, mở đầu Lời kêu gọi, Hồ Chủ tịch viết: “Mục đích thi đua ái quốc là: Diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm”1. Chỉ ngắn gọn trong 10 từ, nhưng Hồ Chủ tịch đã nêu lên nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân cũng như mục đích của phong trào, đồng thời chỉ rõ thứ tự ưu tiên, đó là diệt giặc đói trước (để cứu mạng sống của dân), diệt giặc dốt (để có tri thức chống được ngoại xâm, nhất là thực dân Pháp).
Lời kêu gọi thi đua ái quốc của Người như một lời “hịch” để phát động một phong trào quần chúng rộng lớn, nhằm “kháng chiến và kiến quốc thành công”, đồng thời thể hiện quan điểm cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về tổ chức, lãnh đạo một phong trào cách mạng với ý nghĩa quan trọng. Đó là quan điểm về vai trò quyết định của quần chúng nhân dân trong sự nghiệp cách mạng, về đoàn kết toàn dân và việc thực hiện nhiệm vụ chiến lược lâu dài.
Chính Lời kêu gọi thi đua ái quốc của Người đã cuốn hút, cổ vũ, động viên đồng bào và chiến sĩ cả nước thi đua hăng say lao động, sản xuất, thực hành tiết kiệm, chống giặc đói; thi đua học tập, xóa nạn mù chữ, chống giặc dốt và dũng cảm ngoan cường trong chiến đấu diệt giặc ngoại xâm.
Theo Người, thi đua ái quốc phải tiến hành một cách toàn diện; bởi nhiệm vụ cách mạng ở bất cứ thời kỳ lịch sử nào cũng được thực hiện trên tất cả các lĩnh vực để hoàn thành mục tiêu chung.
Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, Người kêu gọi “Mỗi người dân Việt Nam, bất kỳ già, trẻ, trai, gái; bất kỳ giàu, nghèo, lớn, nhỏ, đều cần phải trở nên một chiến sĩ tranh đấu trên mặt trận: Quân sự, Kinh tế, Chính trị, Văn hóa”2. Điều này xuất phát từ tính chất toàn diện của cuộc kháng chiến. Đồng thời, Người cũng chỉ rõ, thi đua ái quốc là nhiệm vụ cách mạng của mỗi người dân nên phong trào thi đua phải mang tính chất toàn dân. Tính nhân dân của phong trào thi đua được thể hiện ở việc tổ chức cho các tầng lớp nhân dân được quyền và có nghĩa vụ đóng góp vào công việc chung của đất nước, tùy theo sức lực của mình.
Bằng phương pháp vận động quần chúng tham gia các phong trào thi đua ái quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khơi dậy sức mạnh tiềm tàng trong mỗi con người Việt Nam, từ trẻ đến già, từ miền xuôi đến miền ngược, ra sức đóng góp công sức của mình cho đất nước. Lời kêu gọi thi đua ái quốc của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trở thành nền tảng, động lực để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ra sức thi đua đóng góp sức người sức của vào sự nghiệp cách mạng của dân tộc làm nên những thắng lợi vĩ đại trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc cũng như xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Phong trào thi đua ái quốc đã đóng góp một phần không nhỏ vào thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Trong suốt chiều dài lịch sử của đất nước, các phong trào thi đua luôn có vai trò rất quan trọng. Sau năm 1954, các phong trào thi đua đã hướng vào thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước; xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, vừa chống chiến tranh phá hoại nhiều mặt của đế quốc Mỹ, vừa xây dựng và tạo cơ sở vật chất chi viện sức người, sức của cho miền Nam. Tiêu biểu là các phong trào thi đua “Một tấc không đi, một ly không rời”, “Dũng sĩ diệt Mỹ” ở miền Nam; phong trào “Mỗi người làm việc bằng hai người vì miền Nam ruột thịt”, “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”, “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”, phất cao ngọn cờ “Gió Đại Phong” trong nông dân, “Sóng Duyên Hải” trong công nhân, “Thanh niên ba sẵn sàng”, “Phụ nữ ba đảm đang”..., ở miền Bắc đã góp phần quan trọng vào thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược, xây dựng hậu phương miền Bắc làm chỗ dựa vững chắc cho miền Nam kháng chiến chống Mỹ, cứu nước thắng lợi, đã làm nên ngày 30/4/1975 lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước3.
Sau năm 1975, đất nước được hòa bình, độc lập, thống nhất, cả nước đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, các phong trào thi đua cũng không ngừng được phát động. Tiêu biểu là các phong trào “Tất cả vì chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc của nhân dân”, “Tất cả vì hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”, đã góp phần nhanh chóng hàn gắn vết thương chiến tranh, vượt qua mọi thách thức, khó khăn của đất nước sau nhiều năm bị chiến tranh tàn phá, nhất là khó khăn về kinh tế, giữ vững ổn định chính trị, xã hội.
Hiện nay, các cấp, các ngành ở nước ta đang triển khai nhiều phong trào thi đua lớn như: “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, “Cả nước chung sức xây dựng nông thôn mới”, “Đền ơn đáp nghĩa”, “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc”, phong trào “Cả nước chung tay vì người nghèo, không để ai bị bỏ lại phía sau” với sự tham gia, vào cuộc của cả hệ thống chính trị. Và còn rất nhiều phong trào thi đua khác đang được triển khai sâu rộng và từng bước ghi dấu ấn trong đời sống xã hội. Các phong trào, các cuộc vận động này rất đa dạng, phong phú, diễn ra ở tất cả các cấp, các ngành, tạo thành phong trào xã hội rộng lớn, khơi dậy lòng yêu nước, sức mạnh tiềm tàng trong mỗi người, mỗi tập thể, tạo nên động lực cho sự nghiệp cách mạng.
Qua các phong trào thi đua đã phát hiện, phổ biến và nhân rộng nhiều tập thể, cá nhân điển hình trong cả nước, tạo nên sức mạnh quần chúng rộng lớn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Các phong trào thi đua trong lĩnh vực kinh tế đạt được những thành quả quan trọng. Lạm phát được kiểm soát, kinh tế vĩ mô được ổn định. Tăng trưởng kinh tế duy trì ở mức khá cao. Các đột phá chiến lược và cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng đạt được kết quả bước đầu. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được hoàn thiện. Chất lượng tăng trưởng nhiều mặt được cải thiện. Sức cạnh tranh, tiềm lực và quy mô của nền kinh tế được nâng lên. Phong trào thi đua tiêu biểu trong lĩnh vực văn hóa - xã hội, như: “Dạy tốt, học tốt”, “Thực hiện 12 điều y đức”... đã góp phần phát triển nguồn nhân lực, bảo đảm an sinh xã hội; đời sống Nhân dân tiếp tục được cải thiện.
Trong lĩnh vực quốc phòng - an ninh, phong trào “Thi đua quyết thắng”, thi đua “Vì an ninh Tổ quốc” gắn với phong trào “Học tập và thực hiện 6 điều Bác Hồ dạy công an nhân dân”,… đã góp phần nâng cao trình độ và sức mạnh chiến đấu của lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam, xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, giữ vững và ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Trong lĩnh vực xây dựng Đảng, ra sức thi đua xây dựng chính quyền các cấp và củng cố hệ thống chính trị. Đặc biệt, phong trào thi đua “Cả nước chung sức xây dựng nông thôn mới” đã tạo động lực mạnh mẽ, mang lại lợi ích thiết thực cho người dân.
Những thành tựu to lớn của hơn 35 năm đổi mới đất nước có sự đóng góp tích cực, xứng đáng từ các phong trào thi đua yêu nước. Chính các phong trào này đã phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, tạo động lực góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và quốc phòng - an ninh của đất nước…
Bên cạnh những kết quả đạt được, phong trào thi đua yêu trong những năm qua vẫn còn một số hạn chế, nhiều mô hình, gương điển hình tiên tiến ở một số địa phương, cơ quan đơn vị chưa được phát hiện, bồi dưỡng kịp thời và nhân rộng có hiệu quả. Việc tuyên truyền, tổ chức, học tập và áp dụng mô hình mới còn ít được quan tâm. Ở nhiều cơ quan, địa phương phong trào thi đua mang tính hình thức, thiếu hiệu quả đích thực. Công tác khen thưởng chưa bám sát kết quả thi đua, vẫn còn tình trạng khen thưởng tràn lan, thiếu công bằng; có những tiêu chuẩn, hình thức, phương pháp khen thưởng duy trì quá lâu làm mất tính hấp dẫn, không động viên, khích lệ được đông đảo quần chúng tham gia.
Trong thời gian tới, để phong trào thi đua yêu nước thật sự hiệu quả, thiết thực, góp phần thực hiện mục tiêu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa cần tập trung thực hiện một số nhiệm vụ sau:
Một là, tiếp tục quán triệt và vận dụng sáng tạo tư tưởng thi đua yêu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh; tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện có hiệu quả các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về công tác thi đua, khen thưởng. Mỗi cán bộ, đảng viên cần phát huy tốt vai trò tiên phong, gương mẫu và là hạt nhân nòng cốt trong các phong trào thi đua ở cơ sở, phải coi thi đua không chỉ là đòn bẩy, biện pháp quan trọng để hoàn thành nhiệm vụ mà còn là một tiêu chí đánh giá phẩm chất đạo đức, lòng yêu nước của mỗi con người Việt Nam.
Hai là, các phong trào thi đua cần được tổ chức có mục tiêu thiết thực, phù hợp, gắn với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị, phát triển kinh tế - xã hội của từng bộ, ban, ngành, từng địa phương, cơ quan, đơn vị và phải được tiến hành thường xuyên, liên tục. Phát động phong trào thi đua phải xuất phát từ nguyện vọng chính đáng của Nhân dân, giải quyết những vấn đề mà Nhân dân mong muốn, đem lại lợi ích cho Nhân dân, cho dân tộc. Các phong trào thi đua cần được tổ chức với những hình thức phong phú, hấp dẫn, có chủ đề, tên gọi dễ nhớ, có tiêu chí thi đua cụ thể. Cùng với phong trào thi đua thường xuyên, cần phát động những phong trào thi đua theo đợt, theo chuyên đề, tích cực đổi mới toàn diện, phát huy tinh thần sáng tạo trong tổ chức phong trào thi đua sao cho bổ ích, thiết thực, tránh hình thức.
Ba là, tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về thi đua, khen thưởng, tạo hành lang pháp lý đồng bộ, hiệu quả và đột phá để đổi mới công tác thi đua, khen thưởng, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Bên cạnh đó, cần triển khai thực hiện nghiêm các quy định của Luật Thi đua, khen thưởng, trong đó chú trọng rà soát, sửa đổi và hoàn thiện các văn bản pháp luật hướng dẫn để đáp ứng các yêu cầu của thực tiễn. Nâng cao chất lượng khen thưởng, bảo đảm chính xác, minh bạch và kịp thời, trong đó chú trọng khen thưởng đối với các tập thể, cá nhân có thành tích đột xuất, nhất là những người trực tiếp lao động, sản xuất.
Bốn là, mỗi đơn vị, địa phương cần bám sát nhiệm vụ chính trị, nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách để tổ chức phát động các hình thức thi đua phong phú, hấp dẫn có chủ đề, tên gọi dễ nhớ, có tiêu chí cụ thể, nội dung thiết thực, triển khai có hiệu quả, chống hình thức. Đồng thời, thực hiện nghiêm túc việc đôn đốc, kiểm tra, sơ kết, tổng kết các phong trào thi đua, lựa chọn các tập thể, cá nhân có thành tích tiêu biểu để biểu dương, tôn vinh khen thưởng.
Việc phát hiện, bồi dưỡng, tổng kết và nhân rộng điển hình tiên tiến phải được coi là nhiệm vụ trọng tâm trong đổi mới phương pháp tổ chức chỉ đạo các phong trào thi đua, đảm bảo thực hiện đồng bộ ở bốn khâu: phát hiện, bồi dưỡng, tổng kết và nhân điển hình tiên tiến. Mặt khác, cần tăng cường bồi dưỡng kiến thức quản lý, chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ chuyên trách thi đua, nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới.
Năm là, thực hiện nghiêm túc việc kiểm tra, giám sát, phân công nhiệm vụ, tiến độ triển khai, nhất là các phong trào lớn và mới; kịp thời tổng kết, rút kinh nghiệm, chọn điểm trước khi nhân rộng phong trào. Song song đó, cần gắn các phong trào thi đua với tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; chú trọng phát động các phong trào thi đua thực hiện nhiệm vụ chính trị, nhiệm vụ cấp bách.
Các cơ quan, đơn vị phụ trách thi đua, khen thưởng cần đổi mới tác phong làm việc, cải cách thủ tục theo hướng tinh gọn, áp dụng công nghệ thông tin để hiện đại hóa và tạo thuận lợi cho cơ sở trong công việc. Bên cạnh đó, cần đổi mới công tác khen thưởng, đảm bảo công tác này được thực hiện chính xác, kịp thời, công khai, minh bạch, qua đó tạo động lực tích cực tới công tác thi đua.
Những quan điểm về thi đua yêu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh có tác dụng như những lời hiệu triệu, khơi dậy lòng yêu nước, tinh thần dân tộc trong mỗi người dân Việt Nam, tạo thành sức mạnh to lớn để dân tộc ta vượt qua mọi khó khăn, gian khổ chiến thắng các kẻ thù xâm lược, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.
Ngày nay, những quan điểm về thi đua của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã và đang là phương châm, định hướng tư tưởng, hành động, phát huy tinh thần dân tộc, sức mạnh nội tại trong mỗi người dân cũng như toàn xã hội cho mục tiêu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Cho nên, hơn lúc nào hết, chúng ta cần tiếp tục vận dụng sáng tạo tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về thi đua yêu nước, làm dấy lên những phong trào yêu nước sâu rộng, thường xuyên, coi đó là một phương thức cần thiết nhằm tạo ra một động lực phát triển, đưa Việt Nam sớm trở thành một nước phát triển, có thu nhập cao, theo định hướng xã hội chủ nghĩa./.
Nguồn: Báo QĐND.

“TAO QUỲ NỬA ĐỜI NGƯỜI RỒI, ĐÃ ĐỨNG LÊN ĐƯỢC LÀ KHÔNG QUỲ XUỐNG NỮA”

 Vĩ tuyến 17 ngày và đêm - Bộ phim dựa trên câu chuyện có thật:

Đồng chí Ba Thuận, Bí thư Chi bộ của xã, khi bị trung tá cảnh sát Trần Sùng bắt và tìm cách làm lung lạc, hắn hứa sẽ thả ông nếu cùng hắn quỳ xuống thề "Xoá bỏ hậ.n t.hù". Ông đã đanh thép trả lời "Tao quỳ nửa đời người rồi, đã đứng lên được là không quỳ xuống nữa!"
Trần Sùng tiếp tục lấy cái chế.t ra để đe d.oạ, bắt ông bỏ niềm tin vào lý tưởng của Đảng, Ba Thuận đã dõng dạc nói: “Nhìn vào mắt mày, tao thấy mày đang run sợ. Còn tao, dù có chế.t tao vẫn luôn tin vào Đảng, tin đất nước sẽ sum họp, non sông sẽ thống nhất”.
Khi bị thiê.u s.ống, Ba Thuận vẫn hét lên động viên bà con: “Đừng kêu khó.c trước mắt kẻ t.hù. Trong chiến tranh, sinh t.ử là lẽ thường tình"./.
ST

ĐẠI TƯỚNG LÊ TRỌNG TẤN

 Mệnh danh là "Zhukov của Việt Nam", tướng Tấn không chỉ có tài mà còn được các tướng lĩnh và quân sĩ dưới quyền hết sức nể trọng vì "hội tụ đủ Trí – Dũng – Nhân – Tín – Liêm – Trung". Trong chiến trận, ông luôn cân nhắc cẩn thận, lựa chọn cách đánh ít thương vong nhất và không bao giờ chấp nhận câu "Trận này ta thiệt hại không đáng kể". Đại tướng thương bộ đội, vậy nên đã có hy sinh sinh mạng thì không thể coi như "không đáng kể" được. Tình yêu thương chân thành đó kéo dài mãi về sau này cho tới ngày ông mất: không ít lần người ta thấy Đại tướng đến thăm các chiến trường xưa và các nghĩa trang liệt sĩ; cũng không ít lần thấy mắt ông đỏ hoe vì xúc động và thương tiếc đồng đội đã nằm xuống.

Đại tướng Lê Trọng Tấn còn được yêu quý và tôn trọng vì là một trong số ít tướng lĩnh thực hiện được phương châm "thắng không tranh công, thua không đổ lỗi". Thời kỳ chiến tranh biên giới, sau một trận đánh không thành công, khi Thủ tướng Phạm Văn Đồng rất tức giận và yêu cầu phải có người nhận trách nhiệm, ông dù không trực tiếp chỉ huy vẫn thẳng thắn phát biểu: “Thưa anh, trách nhiệm thuộc về tôi - Tổng Tham mưu trưởng”. Có lẽ cũng nhờ đức tính này mà tất cả những người đã từng làm việc và tiếp xúc với Đại tướng đều luôn dành cho ông những lời ca ngợi và sự tôn trọng rất lớn. Nói về ông, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đưa ra hai nhận định:
Với toàn quân, đồng chí Lê Trọng Tấn là một người chỉ huy kiên cường lỗi lạc. Với riêng tôi, đồng chí là người bạn chiến đấu thân thiết, là một trong những cán bộ tin cậy nhất để thực hiện những ý đồ chiến lược của Bộ thống soái tối cao./.
ST


HÀNH TRÌNH THEO CHÂN BÁC HỒ


Ngày 05 tháng 4
“Gốc có vững, cây mới bền”
Cách đây 93 năm, ngày 5-4-1930, sau khi thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, từ Trung Quốc, Nguyễn Ái Quốc đã gửi thư đến “đồng chí Zao” (là bí danh của Bùi Công Trừng) và các học sinh Việt Nam đang học ở Liên Xô.
Bức thư báo tin “Trong nước bây giờ đã có đảng thống nhất, vững vàng không còn những tệ chia rẽ như trước nữa”, đồng thời cho biết vào dịp Đại hội Quốc tế Lao động sắp tổ chức ở Liên Xô sẽ có một số đại biểu công nhân ở trong nước sang dự. Do đó đồng chí Zao được phân công tổ chức anh em học sinh Việt Nam giúp đỡ các đại biểu trong nước sang để “làm sao cho anh em đại biểu hăng hái và yêu mến Xô-Nga, lại có cảm tình với anh em lao động các nước” và “không để các đại biểu cảm thấy sự phân biệt giữa trí thức và người lao động”.
Ngày 5-4-1948, Bác Hồ viết 12 điều răn yêu cầu mọi người phải nhớ và thực hành khi tiếp xúc với dân. Để cổ động, Bác viết bài thơ:
“Mười hai điều trên
Ai chả làm được
Hễ người yêu nước
Nhất quyết không quên
Tập thành thói quen
Muôn người như một
Quân tốt, dân tốt
Muôn sự đều nên
Gốc có vững, cây mới bền
Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”.
Ngày 5-4-1958, Bác dự lễ tốt nghiệp khóa 10 của Trường Sĩ quan Lục quân Việt Nam ra đời từ sau Cách mạng Tháng 8-1945 và mang tên anh hùng dân tộc Trần Quốc Tuấn. Khóa 10 cũng là khóa đầu tiên được đào tạo chính quy ở trong nước vì trong thời gian c.hiến t.ranh trường đã di chuyển ra ngoài nước. Huấn thị với lãnh đạo và học viên nhà trường, Bác nói: “Cần mạnh dạn áp dụng những điều đã học, nhưng phải thiết thực, thích hợp với hoàn cảnh; cần nâng cao tinh thần cảnh giác, tính tổ chức kỷ luật, thái độ khiêm tốn, nhất là phải tăng cường đoàn kết”.
Sau sự kiện Không quân nhân dân Việt Nam lần đầu xuất kích đánh to và thắng lớn không lực Hoa Kỳ trong các ngày 3, 4 và 5-4-1965, Bác gửi thư khen ngợi: “Các chú đã chiến đấu dũng cảm, đã t.iêu d.iệt máy bay Mỹ. Các chú đã thực hiện được khẩu hiệu “Đã đánh là thắng”. Như thế là xứng đáng với truyền thống của quân và dân ta... Chúc các chú lập nhiều chiến công hơn nữa”.
Cùng ngày, trả lời phỏng vấn nhà báo Yoshi Takano của báo “Akahata” của Đảng Cộng sản Nhật, Bác đã đưa ra giải pháp: để chấm dứt chiến tranh thì Mỹ không can thiệp vào miền Nam và chấm dứt n.ém b.om miền Bắc, như thế “sẽ tạo điều kiện đi đến một hội nghị như kiểu Hội nghị Giơnevơ năm 1954. Đó là cách giải quyết hợp tình hợp lý, có lợi cho hòa bình, có lợi cho nhân dân Mỹ”.
Trong bức điện cảm ơn gửi cùng ngày tới Quốc trưởng Campuchia N.Xihanuc, Chủ tịch Hồ Chí Minh một lần nữa khẳng định: “Trước sức mạnh đoàn kết của các dân tộc Việt Nam, Khơme và Lào biểu hiện rõ rệt trong Hội nghị Nhân dân Đông Dương vừa qua do Ngài triệu tập, mọi â.m m.ưu x.âm l.ược và gây chiến của đế quốc Mỹ đối với các nước Đông Dương nhất định sẽ thất bại hoàn toàn”.
Sách Hành Trình Theo Chân Bác
Có thể là hình ảnh về 4 người và mọi người đang đứng


CHẤN HƯNG VĂN HÓA LỄ HỘI, BẢO TỒN BẢN SẮC DÂN TỘC


Các địa phương trong cả nước đang sôi nổi vào mùa lễ hội truyền thống đầu năm mới. Bên cạnh đáp ứng nhu cầu đời sống văn hóa phong tục, tín ngưỡng của đồng bào, lễ hội truyền thống còn là dịp đẩy mạnh quảng bá văn hóa, xúc tiến đầu tư, phát triển du lịch.
Trong khi lễ hội văn hóa truyền thống ngày càng thu hút sự quan tâm của du khách thì các đối tượng có tư tưởng thù địch lại ra sức xăm xoi tìm kẽ hở, hạn chế, bất cập để thổi phồng, xuyên tạc nhằm phá hoại môi trường đầu tư và sự nghiệp xây dựng, phát triển văn hóa của Đảng, Nhà nước ta.
Thủ đoạn lấy văn hóa xuyên tạc chính trị
Lễ hội truyền thống có vai trò đặc biệt quan trọng đối với đời sống văn hóa tinh thần, nhu cầu tín ngưỡng của các thế hệ người Việt. Nền văn minh lúa nước, văn hóa làng xã của người Việt tích tụ từ hàng nghìn năm đã sản sinh, nuôi dưỡng, bảo tồn, phát triển một hệ thống di sản phong phú, đồ sộ của lễ hội, trải đều khắp đất nước. Theo thống kê của Bộ Văn hóa-Thể thao và Du lịch, hiện Việt Nam có gần 9.000 lễ hội truyền thống, là một trong những quốc gia có số lượng lễ hội truyền thống nhiều nhất khu vực và châu lục. Lễ hội truyền thống ở nước ta được tổ chức trên khắp các vùng, miền, tỉnh, thành phố và diễn ra sôi động nhất vào mùa xuân, sau Tết Nguyên đán. Nhiều lễ hội lớn đã trở thành thương hiệu văn hóa du lịch, thu hút hàng trăm nghìn lượt du khách, đem về cho địa phương nguồn thu lớn từ các dịch vụ của ngành công nghiệp không khói...
Chính vì số lượng lễ hội nhiều, hình thức lễ hội phong phú, đa dạng nên công tác tổ chức, quản lý, quảng bá... ở các địa phương không thể tránh khỏi những yếu kém, bất cập. Hạn chế phổ biến nhất là sự thương mại hóa trong nhiều phân khúc lễ hội, làm phai nhạt sắc thái phong tục, lợi dụng tín ngưỡng để “buôn thần bán thánh” trục lợi cá nhân, lợi ích nhóm... Những mặt trái, tiêu cực của đời sống xã hội trong nền kinh tế thị trường đã len lỏi, phơi bày trong nhiều phân khúc, thời điểm của văn hóa lễ hội. Những bất cập, tồn tại này đã được Đảng, Nhà nước ta nhận thức sâu sắc. Phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị văn hóa toàn quốc năm 2021, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: Môi trường văn hóa vẫn bị ô nhiễm bởi các tệ nạn xã hội, tham nhũng, tiêu cực... Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý văn hóa còn lúng túng, chậm trễ, nhất là trong việc thể chế hóa các quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng về văn hóa... Đặc biệt, trong công tác lãnh đạo, quản lý, chúng ta chưa nhận thức thật đầy đủ, sâu sắc và toàn diện về đường lối văn hóa của Đảng, nhất là trong thời kỳ đổi mới hiện nay. Phương thức lãnh đạo và quản lý văn hóa chậm được đổi mới, chưa thích ứng kịp thời với sự vận động và phát Từ những đánh giá tổng quan ở tầm vĩ mô, soi rọi trong môi trường văn hóa lễ hội, chúng ta thấy rõ sự thẳng thắn, khách quan, không né tránh hạn chế, khuyết điểm của Đảng trong lãnh đạo, chỉ đạo công cuộc xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Từ những đánh giá tổng quan ở tầm vĩ mô, soi rọi trong môi trường văn hóa lễ hội, chúng ta thấy rõ sự thẳng thắn, khách quan, không né tránh hạn chế, khuyết điểm của Đảng trong lãnh đạo, chỉ đạo công cuộc xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Chính vì vậy, việc bám vào những hạn chế, bất cập trong môi trường tổ chức lễ hội và văn hóa lễ hội để kích động, xuyên tạc, quy chụp... mà nhiều đối tượng có tư tưởng thù địch đã và đang thực hiện là hành vi phản văn hóa. Trên không gian mạng, không ít thành phần bất mãn trong nước và một số đối tượng lưu vong ở nước ngoài lớn tiếng chỉ trích, xuyên tạc, cho rằng văn hóa Việt Nam đang đi “thụt lùi”, “suy đồi”, “mạt hạng”... Đơn cử, Lễ hội tịch điền ở Duy Tiên (Hà Nam) là một lễ hội văn hóa truyền thống thể hiện đặc trưng sắc thái văn hóa nông nghiệp của người Việt ở Đồng bằng Bắc Bộ. Bám vào hình ảnh “con trâu đi trước, cái cày theo sau” mang tính biểu trưng của lễ hội, các đối tượng cực đoan và truyền thông mang tư tưởng thù địch ở hải ngoại lại xuyên tạc, cho rằng người Việt đang “kéo lùi lịch sử”. Họ lập luận rằng, công nghiệp thế giới phát triển như vũ bão mà Việt Nam vẫn tôn vinh, chung thủy với hình thức sản xuất thô sơ, lạc hậu thì bao giờ mới khá lên được?
Nêu một dẫn chứng như vậy để thấy rõ hơn âm mưu đằng sau những luận điệu xuyên tạc về văn hóa dân tộc nói chung, văn hóa lễ hội nói riêng mà các thế lực thù địch đã và đang ra sức thực hiện. Muốn phản biện, phê phán một vấn đề về văn hóa, phải đứng trên phương diện văn hóa. Lấy văn hóa làm cái cớ để xuyên tạc chính trị, bỉ bai đường lối, chủ trương của Đảng, bôi đen bức tranh thượng tầng kiến trúc của đất nước... là cách làm xấu xa, bắt nguồn từ thái độ ti tiện, phản văn hóa. Chúng ta cần nhận diện thấu đáo để có phương pháp đấu tranh, phản bác kịp thời, hiệu quả, không để những tư tưởng thù địch làm hoen ố môi trường văn hóa lễ hội truyền thống của dân tộc.
"Lấy xây để chống" trong văn hóa lễ hội
Lễ hội truyền thống là bộ phận cấu thành của văn hóa quốc gia, chứa đựng trong đó những giá trị cốt lõi của bản sắc dân tộc. Nó là một lĩnh vực của kiến trúc thượng tầng, được quyết định bởi hạ tầng cơ sở, trực tiếp là đời sống kinh tế-xã hội của đất nước. Trong bối cảnh đất nước ngày càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu, tất yếu đời sống văn hóa nói chung, văn hóa lễ hội nói riêng sẽ bị ảnh hưởng, chi phối. Quy luật giao thoa, tiếp biến của văn hóa, bên cạnh việc hấp thu những tinh hoa của văn hóa thế giới, tất yếu sẽ nảy sinh những nhân tố, yếu tố tiêu cực, phản văn hóa. Những hạn chế, yếu kém, bất cập trong đời sống văn hóa nói chung, văn hóa lễ hội nói riêng đã được Đảng ta đúc kết, chỉ rõ. Dưới góc nhìn biện chứng, khách quan, những bất cập, hạn chế, yếu kém trong hoạt động lễ hội là một thách thức tất yếu. Bất cứ quốc gia, vùng lãnh thổ, dân tộc nào trong môi trường hội nhập quốc tế cũng phải chấp nhận và đương đầu với những thách thức đó. Bản lĩnh, sứ mệnh, trách nhiệm của Đảng cầm quyền là đề ra chủ trương, quyết sách đúng đắn để lãnh đạo đất nước, lãnh đạo toàn dân tộc xây dựng được môi trường văn hóa lành mạnh, tiến bộ; xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Đại hội lần thứ XIII và Hội nghị văn hóa toàn quốc năm 2021 của Đảng đã chỉ rõ: Sự tác động của quá trình toàn cầu hóa, cạnh tranh quốc tế và cuộc đấu tranh trên lĩnh vực văn hóa-tư tưởng sẽ diễn ra quyết liệt, phức tạp hơn. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, công nghệ số, xã hội số, văn hóa số... vừa đem lại những cơ hội, vừa tạo ra thách thức mới trong việc xây dựng và phát triển văn hóa. Chính vì vậy, Đảng, Nhà nước ta xác định, cần quan tâm hơn nữa đến việc bảo tồn, tôn tạo và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc, những giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể của các vùng, miền, của đồng bào các dân tộc, kết hợp với tiếp thu tinh hoa văn hóa của thời đại. Hệ thống các lễ hội truyền thống của dân tộc là di sản văn hóa quý báu do tổ tiên, cha ông ta mấy nghìn năm để lại. Chúng ta có trách nhiệm phải giữ gìn, trân trọng và phát huy.
Chấn hưng văn hóa lễ hội là gột rửa, loại bỏ những thứ đi ngược, làm trái với thuần phong mỹ tục; củng cố, tô đậm hơn những nét đẹp của sắc thái văn hóa vùng, miền, bản sắc văn hóa dân tộc. Tẩy chay, loại bỏ những tư tưởng thù địch; đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, xuyên tạc về văn hóa lễ hội; lật tẩy những âm mưu, thủ đoạn lợi dụng những hạn chế, yếu kém trong quản lý văn hóa để xuyên tạc chính trị, phủ nhận đường lối, chủ trương của Đảng về văn hóa... cũng chính là giải pháp quan trọng để chấn hưng văn hóa, trong đó có văn hóa lễ hội.
Văn hóa là hệ thống những tri thức rộng lớn, vốn sống phong phú. Không ai có thể tự tin cho rằng mình hiểu hết các lĩnh vực của văn hóa lễ hội. Lắng nghe những ý kiến phản biện, vì thế, là một thái độ văn hóa của những người làm văn hóa. Tuy nhiên, làm văn hóa cũng không thể “đẽo cày giữa đường”. Phản biện văn hóa, trước hết phải bắt đầu bằng một thái độ văn hóa. Lấy cớ phản biện để bỉ bai, xuyên tạc, hạ thấp giá trị truyền thống của văn hóa dân tộc, hạ bệ uy tín của Đảng, Nhà nước... là thái độ thù địch của văn hóa, cần phải đấu tranh thẳng thắn, quyết liệt.
Từ môi trường lễ hội truyền thống, cấp ủy, chính quyền và đội ngũ cán bộ làm văn hóa, quản lý văn hóa ở các cấp, các địa phương cần nhất quán quan điểm “lấy xây để chống” trong tổ chức, quản lý, điều hành, quảng bá, đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trên lĩnh vực văn hóa. Đừng bàng quan, thờ ơ, né tránh, để cho những tư tưởng cực đoan, phản động có cơ hội sinh sôi, phát triển trong môi trường văn hóa.
Bản chất của lễ hội truyền thống là mỗi người tham gia đều là một thành tố của lễ hội, tìm sự an yên, tốt đẹp cho tâm hồn. Chắc chắn trong thâm tâm, không ai muốn biến mình thành một nhân tố phản văn hóa trong môi trường vốn rất văn hóa ấy. Vậy thì tại sao lại phải giành giật lấy “lộc”, ngửa nón xin những đồng tiền lẻ? Tại sao lại biến mình thành chủ đề cho các thành phần phản nghịch bám vào để bỉ bai, xuyên tạc, chống phá văn hóa đất nước, dân tộc?
Nguồn: qdnd.vn
Có thể là hình ảnh về 7 người, mọi người đang đứng và ngoài trời


QUYỀN CỦA NGƯỜI DÂN VỚI NGƯỜI ĐẦY TỚ TRUNG THÀNH CỦA MÌNH


Chủ nghĩa Mác - Lênin và Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng như Đảng Cộng sản Việt Nam luôn quan tâm đến quyền của quần chúng nhân dân với những người lãnh đạo của mình.
Theo quan điểm của Lênin, nhân dân có quyền cử ra cũng như có quyền thay đổi và kiểm tra, hiểu rõ về các hoạt động của những người lãnh đạo. Lênin từng chỉ rõ: “Quần chúng phải có quyền được tự mình cử ra những người lãnh đạo có trách nhiệm. Quần chúng phải có quyền được thay đổi những người lãnh đạo của mình, phải có quyền được hiểu rõ và kiểm tra mỗi một bước nhỏ nhất trong hoạt động của những người đó”.
Là người sáng lập và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khẳng định “Đảng là người đầy tớ trung thành của nhân dân”. Tư tưởng ấy xuyên suốt quá trình ra đời, trưởng thành, phát triển, lãnh đạo và chỉ đạo cách mạng Việt Nam của Đảng cũng như hệ thống chính trị.
Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định: “Chế độ ta là chế độ dân chủ, nghĩa là nhân dân làm chủ. Đảng là Đảng lãnh đạo, nghĩa là tất cả các cán bộ, từ Trung ương đến khu, đến tỉnh, đến huyện, đến xã, bất kỳ cấp nào và ngành nào – đều phải là người đầy tớ trung thành của nhân dân”. Người chỉ rõ: “Chế độ của ta là chế độ dân chủ. Nhân dân là chủ. Chính phủ là đầy tớ của nhân dân. Nhân dân có quyền đôn đốc và phê bình Chính phủ. Chính phủ thì việc to việc nhỏ đều nhằm mục đích phục vụ lợi ích của nhân dân”. Ngày 24 – 1 – 1947, trong Thư chúc Tết đồng bào và chiến sĩ Nam Bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Ai cũng biết rằng; trong nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, từ làng xã đến toàn quốc những người chức trách đều do dân cử ra. Dân tin cậy ai thì người ấy trúng cử và bổn phận những người trúng cử là làm đầy tớ công cộng cho dân chứ không phải làm quan phát tài”.
Theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh: để Đảng, Chính phủ thực hiện tốt nhiệm vụ của mình với nhân dân thì các tổ chức Đảng, chính quyền, cán bộ, đảng viên, công chức nhà nước phải thật sự vì nhân dân phục vụ. Nói chuyện với anh em công chức Thủ đô vào ngày 30 – 11 – 1954, Người nhấn mạnh: “Bất kỳ ở địa vị nào, làm công việc gì, chúng ta đều là đầy tớ của nhân dân. Cơm chúng ta ăn, áo chúng ta mặc, vật liệu chúng ta dùng đều do mồ hôi nước mắt của nhân dân mà ra. Vì vậy, chúng ta phải đền bù xứng đáng cho nhân dân. Muốn làm như vậy, chúng ta cần phải cố gắng thực hiện Cần, Kiệm, Liêm, Chính”. Tháng 3 – 1947, khi viết về Đời sống mới, Hồ Chủ tịch yêu cầu: “Cán bộ của làng phải là người trong sạch, công bình, thạo việc, có thể làm gương cho dân làng; có thể hy sinh lợi ích riêng cho lợi ích chung”.
Vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn Đảng, Chính phủ, cán bộ, đảng viên, công chức nhà nước phải luôn trung thực với nhân dân, không được giấu giếm nhân dân, phải để nhân dân hưởng quyền được biết về công việc của Đảng, của Chính phủ, quyền kiểm tra giám sát, thụ hưởng theo đúng quy định của Đảng, của Nhà nước, của pháp luật. Đây phải thật sự là việc cần thiết, sự cầu thị của Đảng, Nhà nước với nhân dân. Ngày 10 – 10 – 1954, trong Lời kêu gọi nhân dân Thủ đô giải phóng, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu nguyện vọng của Chính phủ là rất mong được nhân dân giúp đỡ, đôn đốc, kiểm soát và phê bình để làm tròn nhiệm vụ của mình, là người đầy tớ trung thành tận tụy của nhân dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh rất chú ý đến quyền của công dân trong việc tham gia xây dựng đội ngũ cán bộ Đảng, chính quyền, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Ngay từ khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vừa mới được thành lập và trong bối cảnh kháng chiến toàn quốc cam go, ác liệt, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn thẳng thắn nêu rõ vấn đề người dân có quyền giám sát cán bộ để phòng ngừa tham nhũng, tiêu cực. Ngày 10 – 1 – 1946, phát biểu trước nông dân và điền chủ tỉnh Hưng Yên, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Nước ta thời Pháp thuộc, thực dân Pháp lấy tiền quỹ để đắp đê, nhưng chúng chỉ bỏ vào việc đắp đê rất ít, còn bỏ vào túi chúng. Bây giờ ta được độc lập, công việc đắp đê không phải là việc riêng của Chính phủ mà là của tất cả mọi quốc dân. Dân chúng có quyền kiểm soát việc làm để đề phòng những việc nhũng lạm có thể xảy tới”. Khi bàn về vấn đề Cần kiệm liêm chính, vào khoảng tháng 6 – 1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh phân tích: “Quan tham vì dân dại. Nếu dân hiểu biết, không chịu đút lót, thì “quan” dù không liêm cũng phải hóa ra LIÊM. Vì vậy, dân phải biết quyền hạn của mình, phải biết kiểm soát cán bộ, để giúp cán bộ thực hiện chữ Liêm”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng thường xuyên yêu cầu, động viên nhân dân cần phải thực hiện tốt quyền của mình đối với Đảng, Nhà nước. Người nhắc nhở nhân dân phải thực hiện đồng bộ, hiệu quả mối quan hệ hữu cơ giữa quyền và nghĩa vụ, quyền phải đi liền với nghĩa vụ, trách nhiệm công dân. Trong bài báo Đạo đức công dân đăng trên Báo Nhân Dân ngày 15 – 1 – 1954, Người viết: “Nước ta là nước dân chủ, nghĩa là nước nhà do nhân dân làm chủ. Nhân dân có quyền lợi làm chủ, thì phải có nghĩa vụ làm tròn bổn phận công dân, giữ đúng đạo đức công dân”. Người chỉ rõ: công dân phải tuân theo pháp luật Nhà nước, kỷ luật lao động, giữ gìn trật tự chung; phải đóng góp (nộp thuế) đúng kỳ, đúng số để xây dựng lợi ích chung. Đồng thời công dân phải hăng hái tham gia công việc chung, bảo vệ tài sản công cộng và bảo vệ Tổ quốc.
Những tư tưởng trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh được Đảng Cộng sản Việt Nam và hệ thống chính trị quán triệt, triển khai thực hiện tích cực, hiệu quả trên thực tế lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng Việt Nam. Qua đó, Đảng, Nhà nước, các tổ chức, cơ quan, đơn vị cũng như cán bộ, đảng viên đã ngày càng phấn đấu rèn luyện để xứng đáng là người đầy tớ trung thành của nhân dân.
Trong khi đó thì thật là vô lý khi các thế lực thù địch, thế lực xấu trắng trợn chống phá mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân và nhân dân với Đảng của mình. Chúng xuyên tạc rằng Đảng độc tài, bóp nghẹt mọi quyền lợi của người dân; Đảng chỉ lo lợi ích của Đảng, bỏ mặc nhân dân đói khổ; nhân dân bất bình, mất hết niềm tin vào Đảng. Tháng 3 – 2023 vừa qua, một đối tượng xấu lu loa rằng sở dĩ ở Việt Nam chưa đoàn kết được là: “vì những quyết định tự tung tự hứng” của Đảng “mà tình trạng chia rẽ, mất đoàn kết giữa dân và Đảng mở rộng…” và “càng sống lâu, Đảng càng chia rẽ dân tộc và gây ra đổ vỡ, tụt hậu cho đất nước”…
Sự chống phá trên của các thế lực thù địch, thế lực xấu không đánh lừa được ai và chỉ làm cho dư luận hiểu rõ thêm bản chất xấu độc của những thông tin chúng đưa ra, đồng thời củng cố, tăng cường quyết tâm của Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam kiên quyết, kiên trì đấu tranh đánh bại mọi âm mưu, thủ đoạn thâm độc của chúng mà thôi.
Trong tình hình mới của cách mạng nước ta hiện nay, quyền của nhân dân càng được Đảng, Nhà nước quan tâm. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định: “Đề cao vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong chiến lược phát triển đất nước, trong toàn bộ quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”; Nghị quyết Trung ương năm, khóa XIII, đề ra nội dung rất cụ thể: “Xây dựng mối quan hệ mật thiết giữa tổ chức cơ sở đảng, đảng viên với nhân dân; lấy kết quả công việc, sự hài lòng và tín nhiệm của nhân dân làm tiêu chí quan trọng để đánh giá chất lượng tổ chức cơ sở đảng, cán bộ, đảng viên”.
Thực tế cách mạng Việt Nam thời gian qua cho thấy: những nội dung quan trọng liên quan đến quyền, nghĩa vụ của nhân dân đã luôn được tiến hành tích cực, có hiệu quả từ hai phía, nhân dân tự nguyện, tự giác và Đảng, Nhà nước tạo thuận lợi để nhân dân thực hành tốt quyền và nghĩa vụ của mình. Mỗi người chúng ta hãy tin tưởng, chờ đợi và tích cực cùng “Người đầy tớ trung thành của nhân dân” thực hiện tốt nhất phương châm: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”.
Có thể là hình ảnh về văn bản


LẠI MỘT LOẠT PHÁT NGÔN HOANG TƯỞNG!

     Đào.T.Q vừa có bài phát biểu nói về tầm nhìn đến năm 2040 mà khiến cho cộng đồng mạng Việt Nam cười ẻ như sau: 

- Lật đổ chế độ CSVN hiện tại. Thay bằng chính phủ lâm thời cuốc gia việt nam cộng hoà hiện tại, văn minh và đường lối ngả về Hoa Kỳ. 

- Chi 3000 tỷ USD đến hiện đại hoá quân lực việt nam cọng hoà bao gồm sắm các vũ khí, trang thiết bị mới như xe tăng, xe thiết giáp, máy bay chiến đấu tàng hình, tên lửa đạn đạo tầm xa... 

- Cho phép các lực lượng vũ trang Hoa Kỳ đóng căn cứ tại Việt Nam. Cho Hoa Kỳ thuê cảng Cam Ranh làm căn cứ mới của hạm đội 7, Sài Gòn là kinh thành mới của hoàng đế Quân. 

- Đến cuối năm 2040, sáp nhập Việt Nam vào Mỹ. Với tham vọng đó, hoàng đế mong muốn toàn bộ 94tr dân sẽ mang quốc tịch Mỹ. 

Một lũ hoang tưởng chỉ biết ngồi cào phím rồi vẽ ra tàu bay giấy, máy bay tàng hình trên giấy./.
Yêu nước ST.