Thứ Năm, 29 tháng 12, 2022

“ANH CHÀNG CỔ LỖ SĨ” TRONG CHIẾN DỊCH 12 NGÀY ĐÊM

 “Anh chàng cỗ lỗ sĩ” là cách ví von của Trung tướng Nguyễn Xuân Mậu trong hồi ký Bảo vệ bầu trời.  Trong cuốn sách này, ông viết: “Rõ ràng, dù phương tiện chiến tranh có phát triển hiện đại đến đâu, đôi khi một biện pháp thô sơ cũng góp phần làm nên chiến thắng. Xuất phát từ suy nghĩ như thế, đồng chí Phan Thu đã mạnh dạn đề xuất với Bộ Tư lệnh Quân chủng cho sử dụng loại radar thuộc thế hệ sắp đưa vào bảo tàng, dùng để bắt B-52. Và kết quả thật bất ngờ!

Trong chiến dịch 12 ngày đêm, chính loại máy này đã bắt được B-52 dễ dàng hơn các loại máy khác, bởi hai lẽ: Một là, trong khi nghiên cứu chế tạo máy gây nhiễu, những nhà khoa học Mỹ đã không đếm xỉa gì đến cái anh chàng “cổ lỗ sĩ” ấy. Hai là, đây mới là chủ yếu - rằng chúng ta đã biết sắp xếp cho anh chàng này đúng vị trí của mình nên mắt thần của anh chàng lạc hậu đó sáng trở lại, dễ dàng rọi lên tận chín tầng mây vạch nhiễu, nhìn rõ B-52 để báo cho tên lửa ta tiến công chúng”.

Đài radar đó, cái “anh chàng cổ lỗ sĩ” đó, có tên là radar K8-60 trang bị cho pháo phòng không tiểu cao 57mm. Anh Nguyễn Xuân Mậu thi vị hóa, gọi nó là “anh chàng cổ lỗ sĩ” chứ thực ra nó là loại hiện đại thời bấy giờ. Nó còn hiện đại hơn cả radar COH-9A, nó chính là radar COH-9A nhưng có thêm một tần số làm việc ở dải sóng 3cm.

Radar K8-60 là loại radar pháo 57mm do Trung Quốc chế tạo. Nó có 2 tần số làm việc (10cm và 3cm).

Bên cạnh việc sử dụng cho pháo 57, Quân chủng đã triển khai một đề tài cải tiến kỹ thuật truyền phần tử mục tiêu B-52 từ radar K8-60 sang cho tên lửa SAM-2 phục vụ việc chống nhiễu B-52.

Sở dĩ có đề tài cải tiến kỹ thuật này là do Đội trinh sát nhiễu của Quân chủng đã phát hiện B-52 không gây nhiễu dải sóng 3cm.

Và trong thực tế chiến đấu, radar K8-60 không hề bị nhiễu. Đề tài này hoàn toàn do cán bộ khoa học Việt Nam của Quân chủng Phòng không Không quân thực hiện.

Trong thời gian gần 2 tháng (22/2/1972 - 6/4/1972), radar K8-60 đã bắt được mục tiêu 18 lần, trong đó có 2 lần bắt được B-52, cự ly bắt được mục tiêu xa nhất là 65km, trung bình 35 - 45km, bám sát tự động từ cự ly 30km.

Trong 12 ngày đêm B-52 vào đánh Hà Nội các radar K8-60 trang bị cho Tiểu đoàn 57 và Tiểu đoàn 79 đã nhiều lần bắt được B-52 và đóng vai trò quan trọng chỉ dẫn chính xác vị trí B-52 cho đài điều khiển tên lửa bắt B-52 và đánh B-52.

Radar K8-60 ở tiểu đoàn 57 đã 18 lần và radar K8-60 ở Tiểu đoàn 79 đã 12 lần phục vụ đài điều khiển tên lửa bắt B-52.

Việc cải tiến này là một bất ngờ đối với Mỹ. Trong một cuộc hỏi cung tù binh, một sĩ quan điện tử trên B-52 đã nói: Khi bay vào đánh Hà Nội, có thu được radar mặt đất làm việc ở dải sóng 3cm. Tuy nhiên, họ đã không quan tâm đến nó vì cho rằng đó là một radar của loại pháo phòng không tầm thấp, không uy hiếp gì đến B-52; và không hề có phương án nào gây nhiễu dài sóng 3cm của radar phòng không dưới mặt đất cả.

Máy bay B-52 chỉ có một máy gây nhiễu ALR-18 làm việc tự động ở dải sóng 3cm mà antenna của nó được đặt ở phía đuôi máy bay để gây nhiễu cho radar của MiG-21.

Thế là đã rõ, Mỹ đã bất ngờ về việc ta đã sử dụng radar K8-60 của pháo phòng không phục vụ cho SAM-2 bắt B-52 và chống nhiễu, chống Shrike. Radar K8-60 mới đưa sang Việt Nam, có thể lúc đó Mỹ chưa biết.

NHẬN DIỆN ÂM MƯU CHỐNG PHÁ CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH TRONG TÌNH HÌNH MỚI

 

Vấn đề, nâng cao tinh thần đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch trong giai đoạn hiện nay là vấn đề quan trọng và rất cần thiết. Quan điểm chủ động phòng ngừa, kết hợp giữa phòng và chống được Đảng khẳng định: Chủ động ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu, hành động chống phá của các thế lực thù địch Quan điểm chỉ đạo phải ưu tiên đầu tư phát triển hạ tấng kinh tế, xã hội các vùng dân tộc và miền núi; thực hiện tốt chính sách bình đẳng, tôn trọng và giúp đỡ nhau giữa các dân tộc, tạo mọi điều kiện để các dân tộc phát triển, gắn bó mật thiết với sự phát triển chung của cộng đồng dân tộc Việt Nam; gắn tăng trưởng kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội, thực hiện chính sách dân tộc, quan tâm phát triển bồi dưỡng nguồn nhân lực, chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số.

Do đó đề bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và thực hiện nghiêm pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo. Nghiêm cấm sự phân biệt đối xử với công dân vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo; lợi dụng tín ngưỡng tôn giáo để họat động mê tín, dị đoan, họat động trái pháp luật và chính sách của Nhà nước, kích động chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc, gây rối, xâm phạm an ninh quốc gia

Vì vậy, mọi sơ suất, chủ quan, nóng vội, giản đơn trong xử lý vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo đều có thể dẫn đến nguy cơ chia rẽ, làm rạn nứt khối đại đoàn kết dân tộc, gây mất trật tự, an toàn xã hội, tổn hại đến quốc phòng, an ninh đất nướcphát huy và trò tích cực của người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số. Kiên quyết đấu tranh với việc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động trái pháp luật và chính sách của Nhà nước, kích động chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc, gây rối xâm phạm an ninh quốc gia.

Nguyên tắc trong đường lối, chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta: Trong mọi trường hợp, cần phân biệt rõ đâu là vấn đề thuộc công tác dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, đâu là vấn đề các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc, tín ngưỡng. tôn giáo để họat động mê tín, dị đoan, họat động trái pháp luật và chính sách của Nhà nước, kích động chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc, gây rối, xâm phạm an ninh quốc gia để có quan điểm và biện pháp xử lý đúng theo đường lối, quan điểm lãnh đạo của Đảng.


ĐẤU TRANH PHẢN BÁC QUAN ĐIỂM SAI TRÁI

     Các thế lực thù địch không ngừng công kích, xuyên tạc quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; Bóp méo, hạ thấp, phủ nhận thành quả đổi mới của đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng trên nhiều lĩnh vựcCác thế lực thù địch không ngừng ra sức phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng ta nhằm làm giảm niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước. Trước tình hình đó, việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng và đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, cơ bản, và xuyên suốt..

Chống đối về chính trị, chúng thường xuyên công kích trực diện vào nền tảng tư tưởng, xuyên tạc đường lối, chủ trương của Đảng, đòi đa nguyên, đa đảng đối lập, đòi bỏ điều 4. Hiến pháp Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do không đem lại kết quả. Trong thời gian gần đây chúng thường tuyên truyền kích động gây mâu thuẫn, chia rẽ trong nội bộ. Từ đó tác động làm tha hóa từng cán bộ, đảng viên, nhằm thực hiện mưu đồ phá hoại từ bên trong, thúc đẩy nhanh quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.

Chống đối về ngoại giao, tìm cách cản trở Việt Nam mở rộng quan hệ quốc tế, mặt khác, lôi kéo, mua chuộc các đối tác từ bên ngoài để gây sức ép, tác động vào bên trong đất nước; quốc tế hóa những vấn đề nội bộ của Việt Nam; xuyên tạc đường lối đối ngoại, độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển đa dạng hóa, đa phương hóa của Việt Nam…

Nhận diện là việc làm thường xuyên liên tục, không ngơi nghỉ; nhưng phải đi đôi với không ngừng đấu tranh bằng tổng thể các biện pháp:

Chống đối về văn hóa, vấn đề dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền là chủ đề dễ tạo nên sự quan tâm của dư luận; chúng thường gieo rắc tư tưởng sùng bái lối sống, văn hóa phương Tây, tạo nên xu hướng văn hóa - văn nghệ cực đoan, phản động; xúc phạm những giá trị văn hóa truyền thống. Các thế lực thù địch lợi dụng các vấn đề dân chủ, nhân quyền để lôi kéo, dụ dỗ một bộ phận quần chúng thực hiện các hành vi chống đối chính quyền; tìm cách khoét sâu vào những yếu kém, sơ hở, của ta để bóp méo, xuyên tạc, tạo ra sự hoài nghi, trong nhân dân ta.     

Trước hết. Phải kiên trì lấy Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam cho mọi hành động

Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khẳng định: “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong Đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lê-nin”. Thấm nhuần sâu sắc quan điểm của Người, từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng, năm 1991, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã khẳng định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh”

Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh mãi là kim chỉ nam cho mọi hành động.

Tiếp theo: Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong tình hình mới là nhiệm vụ hàng đầu, việc làm thường xuyên liên tục, không một phút nghỉ ngơi

Công tác đấu tranh phản bác các luận điệu xuyên tạc, sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng đã đạt được những kết quả tích cực. Lực lượng 47 được thành lập, cùng với cơ quan thường trực, tích cực tham gia đấu tranh hiệu quả, góp phần làm thất bại âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch.

Trước âm mưu, thủ đoạn, phương thức chống phá của các thế lực thù địch ngày càng tinh vi, nham hiểm, cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác có hiệu quả các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới là vấn đề đòi hỏi tính bền vững, lâu dài, có tổ chức chặt chẽ.

Một là, chủ động phát hiện sớm hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, cơ hội chính trị. làm cơ sở đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch ở, các thế lực thù địch đang ra sức lợi dụng internet, mạng xã hội để chống phá, xuyên tạc nền tảng tư tưởng của Đảng, bởi vậy, ngoài hình thức đấu tranh truyền thống, cần bổ sung những hình thức đấu tranh mới, như: đấu tranh trực tiếp, trực diện trên không gian mạng, thông qua các phương tiện truyền thông xã hội; vận động đoàn thể nhân dân cùng tham gia.

Hai là, tiếp tục tuyên truyền, làm cho chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh đi vào cuộc sống hàng ngày ở nước ta. Thực hiện nghiêm, có hiệu quả Chỉ thị số 23-CT/TW, ngày 9-2-2018, của Ban Bí thư khóa XII “Về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả học tập, nghiên cứu, vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong tình hình mới”, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Tăng cường công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, kịp thời luận giải những vấn đề lý luận mới, khó, còn nhiều ý kiến khác nhau, tạo sự đồng thuận trong nhận thức xã hội. Bằng các hình thức tuyên truyền phù hợp gần với đời sống Nhân dân.

Ba là, vận dụng đúng đắn và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. cần phải phát triển hơn nữa về mọi mặt, trở thành thiết thực với cuộc sống. Kiên định chủ nghĩa Mác - Lê-nin nghĩa là phải nắm vững bản chất khoa học và cách mạng, vận dụng và phát triển sáng tạo, phù hợp với thực tiễn cách mạng nước ta, để những nội dung, quan điểm của học thuyết Mác - Lê-nin có thêm sức sống mới, xây dựng cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc đến với mọi miền Tổ quốc./.

TĂNG TÍNH THỰC TIỄN TRONG HỌC TẬP LÝ LUẬN

 

Chủ tịch Hồ Chí Minh, cần phải tăng tính thực tiễn trong học tập lý luận, nghĩa là học lý luận để phục vụ thực tiễn làm việc, từ đó khắc phục được bệnh giáo điều lý luận. Người cán bộ, đảng viên phải có thái độ đúng đắn mới có thể khắc phục được bệnh giáo điều trong nghiên cứu, học tập lý luận. Như vậy, thay đổi nhận thức về việc học tập lý luận là quán triệt quan điểm thực tiễn để chống bệnh giáo điều trong học tập lý luận.Tiếp tục đẩy mạnh Cuộc vận động Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh nhằm khắc phục những hạn chế, yếu kém trong cán bộ, đảng viên; trong đó cần đấu tranh khắc phục bệnh giáo điều

Cần thay đổi nhận thức về việc học tập lý luận nhằm nâng cao trình độ tư duy lý luận, chống giáo điều về lý luận, tăng tính thực tiễn trong học tập lý luận. Tăng tính thực tiễn là gắn các tri thức lý luận với thực tiễn công tác, thực tiễn đất nước, làm cho thống nhất giữa lý luận và thực tiễn nhằm tăng hiệu quả hoạt động thực tiễn công tác của mình. Cần vận dụng lý luận một cách sáng tạo và hiệu quả vào thực tiễn để nâng cao hiệu quả công tác.

Học tập lý luận cốt là vận dụng vào thực tiễn, phục vụ cải tạo thực tiễn, nếu không sẽ trở nên giáo điều về lý luận. Vận dụng ở đây không đơn giản là dùng những kiến thức lý luận đã học để áp dụng vào thực tế mà để phân tích, mổ xẻ thực tiễn. Phải đem những điều học được để phân tích và giải quyết các vấn đề thực tế trong công tác của bản thân mình và của Đảng, như vậy thì việc nghiên cứu, học tập, vận dụng lý luận mới có hiệu quả. Khi đem những kiến thức lý luận áp dụng vào thực tiễn phải phân tích những điều kiện cụ thể của thực tiễn để lựa chọn lý luận nào và kinh nghiệm thực tiễn nào vào cải tạo thực tiễn.

Bác luôn dựa trên thực tiễn và xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn Việt Nam để tiếp thu chọn lọc những gì hợp lý, đúng đắn và định hướng cho quá trình tìm ra hệ thống lý luận cũng như phương pháp cách mạng để giải quyết những vấn đề của cách mạng Việt Nam. Đó là một phong cách hành động khoa học, lấy thực tiễn là cơ sở, điểm xuất phát của quá trình nhận thức chân lý.

Cần phải nghiên cứu kinh nghiệm cũ để giúp cho thực hành mới, lại đem thực hành mới để phát triển kinh nghiệm cũ, làm cho nó đầy đủ dồi dào thêm”. Đó chính là quá trình tổng kết kinh nghiệm thực tiễn, đúc rút kinh nghiệm để bổ sung, hoàn thiện, phát triển lý luận. Làm được như vậy có nghĩa là làm cho lý luận được “bổ sung bằng những kết luận mới rút ra từ trong thực tiễn sinh động”. Đồng thời, thực tiễn mới sẽ được chỉ đạo, soi đường, dẫn dắt bởi lý luận mới.

 

PHÁT HUY TRUỀN THỐNG NÂNG CAO SỨC MẠNH QUÂN ĐỘI TRONG GIAI ĐOẠN CÁCH MẠNG HIỆN NAY

 

Nếu kẻ thù phát động cuộc chiến tranh xâm lược nước ta, thì đây sẽ là một thử thách khốc liệt đối với chính trị - tinh thần, tâm lý và phẩm chất chiến đấu của bộ đội. Bởi vậy cần phải chuẩn bị cho bộ đội vững vàng về tư tưởng, chịu đựng được mọi thử thách khốc liệt, căng thẳng, kéo dài của chiến tranh, giữ vững khả năng chiến đấu và bản lĩnh làm chủ vũ khí và trang bị kỹ thuật trong mọi tình huống, tuyệt đối chính xác trong hành động; vì vậy, cần thiết phải:

Phát huy truyền thống dân chủ và kỷ luật của quân đội ta hiện nay sẽ không đạt được kết quả mong muốn nếu thiếu những cơ sở vật chất và các điều kiện bảo đảm cần thiết. Để thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa cần có các quy định, quy chế, chế độ cụ thể. Muốn xây dựng chính quy, tăng cường kỷ luật phải có hệ thống điều lệnh, điều lệ hoàn chỉnh và hệ thống doanh trại, trang thiết bị cần thiết.

 Vì vậy, để phát huy truyền thống dân chủ và kỷ luật cần xây dựng và thể chế hóa các giá trị dân chủ và kỷ luật; cụ thể hóa quyền hạn và trách nhiệm của cán bộ, chiến sĩ, các tổ chức lãnh đạo, chỉ huy, quần chúng trong quân đội; quy định rõ các quyền hạn, lợi ích, nghĩa vụ quân nhân trong thực hiện dân chủ về kinh tế, dân chủ về chính trị, dân chủ về quân sự, bảo đảm quân nhân biết, quân nhân bàn, quân nhân làm, quân nhân kiểm tra.

Quân đội nhân dân Việt Nam là một bộ phận của Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, hệ thống điều lệnh, điều lệ, quy chế dân chủ, chế độ quy định phải dựa trên nguyên tắc pháp lý và tuân thủ Hiến pháp, pháp luật Nhà nước. Nhưng do tính đặc thù của hoạt động quân sự, quân đội phải có hệ thống điều lệnh, điều lệ, chế độ quy định, chính sách cụ thể phù hợp.

Hiện nay, nhu cầu hoàn thiện quy chế dân chủ, hệ thống điều lệnh, điều lệ, chế độ quy định bảo đảm phát huy truyền thống dân chủ và kỷ luật trở nên cấp bách. Toàn bộ hệ thống huấn luyện và giáo dục phải chuẩn bị cho bộ đội sẵn sàng chiến đấu với một kẻ thù có âm mưu xảo quyệt và ưu thế về trang bị kỹ thuật. Con người, vũ khí trang bị phải thường xuyên ở tư thế sẵn sàng chiến đấu tiêu diệt quân thù trong mọi điều kiện, mọi thời gian.

NHỮNG THÀNH TỰU NỔI BẬT CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG TRONG NHỮNG NĂM QUA TRONG QUÂN ĐỘI

 

Công tác tư t­ưởng lý luận trong quân đội những năm qua có thể khẳng định rằng: Công tác tư tư­ởng, lý luận đã quán triệt sâu sắc đ­ường lối quan điểm của Đảng, các nghị quyết của Trung ư­ơng, Bộ Chính trị, của Đảng uỷ quân sự Trung ­ương, chỉ thị công tác đảng, công tác chính trị của Tổng cục Chính trị vào nhiệm vụ và các mặt hoạt động của quân đội. Công tác tư­ởng lý luận đã luôn luôn đi đúng quan điểm của Đảng, đúng sự chỉ đạo của cấp trên, giữ vững định h­ướng chính trị và nguyên tắc hoạt động.

Các hoạt động công tác tư­ tư­ởng, lý luận đ­ược triển khai toàn diện, đồng bộ; coi trọng chỉ đạo điểm, biết tập trung vào các nhiệm vụ trọng tâm, khâu then chốt, thời điểm quan trọng; thư­ờng xuyên hoàn thiện quy chế hoạt động. Không ngừng đổi mới toàn diện cả nội dung, hình thức, ph­ương pháp và tác phong công tác, chất l­ượng hiệu quả ngày càng tăng lên, có ý nghĩa chính trị xã hội ngày càng sâu sắc.

Công tác tư­ t­ưởng, lý luận đã góp phần củng cố, xây dựng tổ chức đảng, tổ chức chỉ huy, tổ chức quần chúng ngày càng vững mạnh; phát huy dân chủ, củng cố kỷ luật, xây dựng mối quan hệ nội bộ, quan hệ quân dân ngày càng bền vững, góp phần giải đáp những vấn đề bức xúc nảy sinh ở cơ sở, tạo sự chuyển biến mọi mặt của đơn vị.

Công tác t­ư t­ưởng lý luận đã góp phần làm sáng tỏ nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn về xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng an ninh; xây dựng lực l­ợng vũ trang về chính trị, cung cấp nhiều luận cứ khoa học cho việc xây dựng đường lối quốc phòng- an ninh và xây dựng lực l­ợng vũ trang trong thời kỳ mới.

Công tác t­ư t­ưởng lý luận đã chủ động kiên quyết đấu trạnh trên mặt trận t­ư tưởng lý luận chống diễn biến hoà bình, bạo loạn lật đổ, âm m­ưu phi chính trị hoá quân đội của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch. Tích cực đấu tranh ngăn chặn, khắc phục những biểu hiện suy thoái về đạo đức lối sống, t­ư t­ưởng cá nhân chủ nghĩa; trực tiếp góp phần làm trong sạch chính trị tư­ t­ưởng nội bộ của quân đội.

NÂNG CAO CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ

 

Triển khai thực hiện nghiêm túc các chế độ, chính sách cho quân nhân là người đồng bào dân tộc thiểu số, quân nhân theo đạo; gắn giáo dục, quản lý, rèn luyện với nắm tư tưởng, đặc điểm của từng quân nhân, chú trọng phát triển đảng viên, đoàn viên; công tác tuyển sinh, cử tuyển quân nhân là người dân tộc thiểu số, theo đạo đi đào tạo các trường trong quân đội, đào tạo sĩ quan dự bị, xây dựng nguồn cho các địa phương đào tạo y tá thôn, buôn, trung cấp y; lái xe ô tô là người dân tộc thiểu số, người theo đạo.

Quá trình tuyên truyền, cần tranh thủ sự ủng hộ giúp đỡ của các già làng, trưởng thôn, buôn, người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số, các chức sắc, chức việc tôn giáo; phối hợp các han ngành, đoàn thể, lực lượng trên địa bàn; kết hợp với các hình thức hoạt động công tác dân vận: kết nghĩa, huấn luyện dã ngoại, công tác dân vận tập trung và tổ, đội công tác. Kết hợp tuyên truyền chung (sinh hoạt cộng đồng, họp thôn, bản, khu dân cư với tuyên truyền riêng gặp gỡ, trao đổi, đối thoại.

Tăng cường công tác giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng an ninh cho già làng trưởng bản, chức sắc, chức việc tôn giáo để họ nhận thức sâu sắc chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng và Nhà nước, công tác dân tộc, tôn giáo gắn với quốc phòng an ninh, tích cực tuyên truyền, vận động đồng bào dân tộc thiểu số, tôn giáo thực hiện tốt chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng, Nhà nước; chủ động phối hợp chặt chẽ với các cấp, các ngành, các lực lượng để tuyên truyền.

Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, báo chí, tivi, panô, áp pích, khẩu hiệu, thông qua các hoạt động văn hóa, văn nghệ, lễ hội truyền thống, thực hiện các cuộc vận động để tuyên truyền, vận động đồng bào dân tộc thiểu số không nghe, không tin theo các tà đạo, đấu tranh với âm mưu, thủ đoạn lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống phá của các thế lực thù địch.

 

NÂNG CAO CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN VẬN ĐỘNG ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THỂU SỐ TRONG GIAI ĐOẠN CÁCH MẠNG HIỆN NAY

 

Trước âm mưu thủ đoạn chống phá nói trên, mỗi cán bộ, đảng viên nói chung, cán bộ chiến sĩ trong quân đội phải nâng cao cảnh giác, nhận thức rõ những âm mưu chống phá của các thế lực thù địch lợi dụng ván đề dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền để chống phá Đảng, Nhà nước ta. Không đãng tải, bình luận, chia sẻ các thông tin nhạy cảm trên mạng xã hội. Kiên quyết đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái đó để bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng. Bảo vệ khối đại đoàn kết các dân tộc trong nước.

Thời gian gần đây, các đối tượng cơ hội, chống đối chính trị tán phát tin, bài viết tuyên truyền xuyên tạc Việt Nam vi phạm tự do dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo.Thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, sự chỉ đạo của Chính phủ về việc tuyên truyền, vận động, xóa bỏ các tà đạo, tiếp tục đẩy mạnh công tác dân vận của quân đội vùng đồng bào các dân tộc thiểu số về việc tiếp tục đẩy mạnh công tác dân vận của quân đội ở vùng đồng bào trên địa bàn một số tỉnh miền núi tiến hành tuyên truyền, vận động.

Trong những năm qua dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Quân uỷ Trung ương, Bộ Quốc phòng, Tổng cục Chính trị, cấp ủy, chỉ huy các cơ quan, đơn vị toàn quân đã quán triệt, thực hiện nghiêm túc công tác dân tộc, tôn giáo và chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng, Nhà nước.

Nhận thức, trách nhiệm của cấp uỷ, chỉ huy, cán bộ, chiến sĩ toàn quân về vấn đề dân tộc, tôn giáo, công tác dân tộc, tôn giáo đã có chuyển biến rõ rệt; nội dung, hình thức tiến hành công tác dân tộc, tôn giáo có nhiều đổi mới.

Tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, giữ vững ổn định chính trị - xã hội. Quân nhân là người dân tộc thiểu số, tôn giáo được chăm lo và có nhiều tiến bộ; mối quan hệ đoàn kết quân dân, đoàn kết nội bộ được giữ vững và tăng cường, góp phần xây dựng tổ chức đảng trong sạch vững mạnh, cơ quan, đơn vị vững mạnh toàn diện.

Cuộc chiến chống tham nhũng có làm ảnh hưởng xấu đến kinh tế Việt Nam?

 

Cuộc chiến chống tham nhũng là cuộc chiến lâu dài, gay go, quyết liệt. Chính vì sự quyết tâm trong cuộc chiến chống tham nhũng của Đảng, Nhà nước Việt Nam đã củng cố niềm tin trong nhân dân và đó cũng chính là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội.

Với sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt trong cuộc chiến chống tham nhũng của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, trong đó có sự ủng hộ của nhân dân, cuộc chiến này đã có chuyển biến tích cực, rõ rệt và mang lại những thành quả quan trọng. Đánh giá về nhiệm vụ phòng, chống tham nhũng, trong cuộc họp của Thường trực Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ngày 18/11/2022, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Trưởng Ban Chỉ đạo đã nhấn mạnh: “Càng đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, Đảng của chúng ta càng mạnh lên, càng củng cố, tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ, làm cho bộ máy trong sạch, siết chặt kỷ luật, kỷ cương, góp phần quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định chính trị, tăng cường quốc phòng, an ninh và đối ngoại, đồng thời bác bỏ luận điệu sai trái của các thế lực xấu, thù địch, chống đối cho rằng đấu tranh phòng, chống tham nhũng, xử lý cán bộ, đảng viên sai phạm là "đấu đá nội bộ", "phe cánh", làm "nhụt chí" những người khác”.

Tham nhũng là tệ nạn kéo lùi sự phát triển kinh tế của một quốc gia, hủy hoại uy tín, danh dự của lực lượng cầm quyền, lãnh đạo đất nước. Và chính tham nhũng hiện nay cũng đang trở thành hiểm họa, vấn nạn mà tất cả các quốc gia đều quan tâm. Trong đó, những quốc gia đang phát triển và chậm phát triển thì vấn đề này như một căn bệnh mà nếu không ngăn chặn được sẽ để lại nhiều hậu quả khó lường.

“Cuộc chiến chống tham nhũng của Đảng đang làm ảnh hưởng xấu đến kinh tế” - đó là lập luận của những cá nhân, tổ chức, các trung tâm truyền thông chống Đảng, Nhà nước Việt Nam đang tập trung tuyên truyền. Luận điệu này được Đài RFA đăng tải trên website ngày 28/11/2022, cho rằng “cuộc chiến chống tham nhũng rộng khắp của Đảng Cộng sản Việt Nam đang khiến cho nhiều giao dịch kinh tế bị tê liệt, có thể ảnh hưởng đến đầu tư trực tiếp nước ngoài, giảm xuất khẩu”. Đài RFA dẫn lời của Reuters suy diễn rằng, việc chống tham nhũng về dài hạn được nhìn nhận là tích cực nhưng trong ngắn hạn có thể làm tê liệt hoạt động kinh doanh, đặc biệt “nếu việc thực thi pháp luật bị cho là không rõ ràng và có động cơ chính trị”… Đài VOA tiếng Việt hôm 29/11/2022 rêu rao, chiến dịch chống tham nhũng của Việt Nam làm tê liệt chuỗi cung ứng đầu tư. Họ lập luận rằng, chiến dịch chống tham nhũng ở Việt Nam đã làm tê liệt nhiều giao dịch thông thường trong nước, gây ra tình trạng thiếu hàng hóa thiết yếu và làm giảm niềm tin của nhà đầu tư vào một trong những nền kinh tế phát triển nhanh nhất châu Á. Cùng phụ họa với RFA, VOA là các cá nhân, tổ chức chống phá Việt Nam đã chia sẻ bài viết lên các trang mạng xã hội, từ đó đi đến quy kết, xuyên tạc bản chất cuộc chiến chống tham nhũng, hạ uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế, tác động vào tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của người dân, nhất là đối với các doanh nhân, cán bộ trong bộ máy Nhà nước.

Luận điệu “chống tham nhũng làm ảnh hưởng xấu đến kinh tế” là hoàn toàn không có cơ sở. Trước tiên, cần phải nhìn nhận, tham nhũng tác động trực tiếp đến sự ổn định và phát triển đối với mọi mặt của đời sống xã hội. Hành vi này gây ra những hậu quả, tác hại to lớn trên các lĩnh vực như chính trị, kinh tế, văn hóa-xã hội, nhất là đối với kinh tế, tình trạng tham nhũng gây thất thoát nghiêm trọng tài sản công, bào mòn ngân sách nhà nước để làm lợi cho một cá nhân, nhóm người tham nhũng. Tham nhũng còn đe dọa sự ổn định, an ninh xã hội, xâm hại các thể chế và giá trị dân chủ, các giá trị đạo đức, công lý... Nếu không kịp thời ngăn chặn, tham nhũng sẽ trở thành mối đe dọa đặc biệt nghiêm trọng đối với sự phát triển kinh tế xã hội, đe dọa đến tồn vong của chế độ. Do đó, lập luận cho rằng chống tham nhũng làm ảnh hưởng xấu đến phát triển kinh tế là sai trái.

Quan điểm trong cuộc chiến chống tham nhũng, tiêu cực của Đảng, Nhà nước Việt Nam rất rõ ràng, những đối tượng tham nhũng thì phải chịu trách nhiệm trước pháp luật. Đồng thời, Nhà nước tạo điều kiện, khuyến khích mọi cá nhân, tổ chức trong xã hội tích cực thúc đẩy các hoạt động sản xuất, kinh doanh, thu hút đầu tư, tạo môi trường lành mạnh, trong sạch trong cả đầu tư công và môi trường đầu tư tư nhân. Như vậy, quan điểm rõ ràng “cây ngay không sợ chết đứng”, đã trong sạch, không tham ô, tham nhũng thì không phải e dè trong công việc của mình. Do đó, không thể cho rằng vì lý do chống tham nhũng nên nhiều cá nhân sợ không dám làm, ảnh hưởng đến môi trường đầu tư, tác động đến các chuỗi cung ứng trong kinh tế.

Cần phải nhận thức rằng, tình trạng tham nhũng làm suy giảm các lực lượng cạnh tranh vốn có của thị trường, gây ra sự cản trở sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân. Tham nhũng làm cạn nguồn đầu tư nội địa, làm giảm đáng kể các dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, tham nhũng không chỉ gây trở ngại cho hoạt động kinh tế vĩ mô mà còn kìm hãm hoạt động của các hãng riêng lẻ. Cuộc chiến chống tham nhũng tại Việt Nam tạo động lực không ngừng cho đầu tư, phát triển kinh tế, đảm bảo cạnh tranh lành mạnh giữa các nhà đầu tư vào Việt Nam.

Cuộc chiến chống tham nhũng được tất cả các quốc gia trên thế giới quan tâm. Để đối phó với tình trạng này, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã ban hành Công ước về chống tham nhũng vào ngày 9/12/2003. Cuộc chiến chống tham nhũng cũng là một phần không thể thiếu đối với những quốc gia phát triển như Mỹ, Liên minh Châu Âu (EU). Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, các quốc gia Đông Nam Á... đều tăng cường cuộc chiến chống tham nhũng để tạo đà cho sự phát triển kinh tế xã hội. Các quốc gia tổ chức triển khai cuộc chiến chống tham nhũng tạo động lực to lớn cho tốc độ tăng trưởng kinh tế. Đặc biệt, một quốc gia trong khối ASEAN là Indonesia đã tổ chức cuộc chiến chống tham nhũng rất bài bản với việc công bố “đường dây nóng” để người dân có thể trực tiếp thông báo những vấn đề họ bức xúc; thành lập Ủy ban Chống tham nhũng quốc gia (KPK); thành lập Tổ cố vấn của Tổng thống về chống tham nhũng... Những việc làm quyết liệt đó đã tạo động lực to lớn cho sự phát triển kinh tế, xã hội ở đất nước này. Do đó, hoàn toàn không có lý lẽ nào để tô vẽ, nguỵ biện rằng, cuộc chiến chống tham nhũng của Đảng đang làm ảnh hưởng xấu đến kinh tế.

Thời gian qua, các thế lực chống phá Việt Nam luôn viện dẫn nhiều lý do để chỉ trích Việt Nam, khi cuộc chiến chống tham nhũng đang cho thấy hiệu quả rất tích cực thì họ cũng không muốn điều đó xảy ra. Những thông tin sai trái từ các cá nhân, tổ chức, trung tâm chống phá Việt Nam về cuộc chiến chống tham nhũng đòi hỏi người dân cần cảnh giác, không phụ họa, chia sẻ trên mạng xã hội. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng - Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực đã khẳng định: “Công tác chống tham nhũng, tiêu cực đã trở thành xu thế không thể đảo ngược”; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực không làm nản chí, chùn bước, sợ sai không dám làm của cán bộ, đảng viên, mà chỉ làm chùn bước những ai có động cơ không trong sáng, đã trót "nhúng chàm" và những người không nắm vững chủ trương, chính sách của Đảng, thiếu bản lĩnh, thiếu kiến thức và kinh nghiệm”.

Cuộc chiến chống tham nhũng đi vào thực chất, không còn vùng cấm và việc nhận được sự ủng hộ tích cực từ phía người dân chính là động lực để cuộc chiến này càng thêm vững vàng với mục tiêu xây dựng một xã hội thực sự trong sạch, vì quyền lợi của mọi người dân, vì lợi ích của quốc gia dân tộc./.

Toàn dân tích cực tham gia xây dựng nền quốc phòng toàn dân

 

Để làm thất bại những mưu đồ phủ nhận đường lối QPTD của Đảng, con đường đúng đắn và hiệu quả nhất chính là tiếp tục đẩy mạnh “Phong trào toàn dân BVTQ”, tham gia xây dựng nền QPTD. Cụ thể là:

Nâng cao nhận thức của nhân dân về đường lối QPTD. Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, hệ thống tuyên giáo, tuyên huấn đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục về đường lối QPTD - tổng thể phương hướng, nhiệm vụ, nguyên tắc, phương châm chỉ đạo, chủ trương chiến lược của Đảng, Nhà nước về xây dựng nền QPTD; bản chất “vì dân, do dân, của dân”, tính chất toàn dân, toàn diện, độc lập, tự chủ, tự cường, ngày càng hiện đại của nền quốc phòng; sự kết hợp chặt chẽ mọi lĩnh vực của đất nước, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý, điều hành của Nhà nước, do nhân dân làm chủ, nhằm giữ vững hòa bình, ổn định, phát triển bền vững đất nước, sẵn sàng đánh bại mọi hành động xâm lược, bạo loạn lật đổ, bảo vệ vững chắc Tổ quốc.

Nội dung quan trọng là xây dựng nền QPTD vững mạnh toàn diện, bao gồm: Xây dựng tiềm lực, lực lượng, thế trận quốc phòng, xác lập, thực thi đúng đắn cơ chế lãnh đạo và quản lý quốc phòng. Xây dựng tiềm lực chính trị tinh thần là cơ bản, thực hành tư tưởng “người trước, súng sau”, lấy con người làm trung tâm của công cuộc giữ nước; xây dựng tiềm lực kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học công nghệ là nền tảng; xây dựng tiềm lực quân sự, nâng cao khả năng sức mạnh chiến đấu của quân đội, dân quân tự vệ và khả năng huy động nhân lực, vật lực phục vụ nhiệm vụ quân sự, quốc phòng.

Xây dựng nền QPTD không chỉ đã được thực tiễn lịch sử dân tộc chứng minh là hoàn toàn đúng đắn, khai thác và phát huy sức mạnh toàn dân BVTQ, là phát huy giá trị giữ nước đặc sắc, niềm tự hào của nhân dân Việt Nam, cái mà không phải quốc gia - dân tộc nào cũng có thể có được; mà còn là vũ khí vô địch của nhân dân ta khiến mọi mưu đồ phá hoại nền quốc phòng, dã tâm thôn tính, xâm lược đều phải thất bại; công cụ phục vụ đắc lực cho sự nghiệp giữ vững hòa bình, bảo vệ công cuộc xây dựng đất nước của nhân dân ta ngày nay. 

Kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh tư tưởng, lý luận với đấu tranh hành chính -  pháp lý chống “diễn biến hòa bình”, ngăn ngừa “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” về quốc phòng. Đi liền với tích cực vạch trần bản chất, âm mưu, thủ đoạn thâm độc của các luận điệu sai trái về quốc phòng, phủ nhận đường lối QPTD của Đảng, Nhà nước trên lĩnh vực báo chí, tuyên truyền, phòng chống tác động về nhận thức, tư tưởng của chiến lược “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực quốc phòng; cả hệ thống chính trị cần tăng cường các biện pháp đấu tranh phòng ngừa thủ đoạn thâm nhập, tình báo, gián điệp, “câu nhử” từ bên ngoài. Thực hiện nghiêm quy trình của công tác cán bộ, phòng ngừa thủ đoạn “chui sâu, leo cao” của các phần tử thoái hóa, biến chất, phản động; ngăn ngừa mầm mống sai lệch, phản động về quốc phòng, mưu đồ hướng lái quốc phòng Việt Nam chệch khỏi đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước từ hoạt động lập pháp, hành pháp, tư pháp, nhất là cái gọi là “kiến nghị”, “sáng kiến pháp luật” về quốc phòng.

Nâng cao trách nhiệm, nghĩa vụ BVTQ của hệ thống chính trị và toàn dân. Mọi cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị phải thực hiện hết nghĩa vụ và trách nhiệm quốc phòng theo pháp luật quy định. Mọi thành phần kinh tế, doanh nghiệp, tổ chức chính trị - xã hội, Mặt trận Tổ quốc… bằng nhiều hình thức, biện pháp cụ thể thực hiện nghĩa vụ, tham gia sâu rộng vào các hoạt động quốc phòng. Mọi tầng lớp nhân dân, nhất là thanh niên, không phân biệt dân tộc, tôn giáo, vùng miền, ở trong hay ngoài nước nhiệt tình tham gia thực hiện đầy đủ các quyền lợi và nghĩa vụ BVTQ, làm cho “Phong trào toàn dân BVTQ” ngày càng sinh động và hiệu quả hơn. Nhờ sự tham gia của toàn dân, toàn diện của các lĩnh vực của đất nước, thì chẳng những ý chí tự lực, tự cường về quốc phòng của nước ta được nâng lên, mà còn sẽ nhận được sự giúp đỡ về nhiều mặt của cộng đồng quốc tế đối với sự nghiệp quốc phòng của nước ta.

Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đối với sự nghiệp quốc phòng, an ninh, xây dựng LLVT nhân dân. Trong mọi tình huống về kinh tế, xã hội, an ninh, nhất là về quốc phòng, đều phải kiên quyết giữ vững sự lãnh đạo của Đảng, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân. Phương thức cơ bản nhất không chỉ là khẳng định sự đúng đắn của các đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và luật pháp của Nhà nước về quốc phòng, mà còn là vừa phòng ngừa những nguy cơ sai lầm về đường lối, thay đổi bản chất quốc phòng “của dân, do dân, vì dân”; vừa tăng cường cụ thể hóa, hiện thực hóa đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về quốc phòng. Kiên trì và kiên quyết triển khai thực hiện nghiêm những chủ trương, chính sách về quốc phòng mà Đại hội XIII của Đảng đã đề ra; thể chế hóa, cụ thể hóa hệ thống pháp luật về quốc phòng trong đời sống của xã hội, làm cơ sở nâng cao ý thức chính trị, trách nhiệm pháp lý về quốc phòng cho xã hội và toàn dân thực hiện.

Huy động sức mạnh của cả nước và toàn dân xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, làm nòng cốt xây dựng nền QPTD. Quân đội ta là “Quân đội nhân dân”, chiến đấu hy sinh vì lợi ích của Tổ quốc và nhân dân. Để thực hiện đường lối, chủ trương xây dựng Quân đội trong thời kỳ mới của Đảng, không chỉ nhờ vào sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, mà còn phải trông cậy vào toàn dân, sức mạnh nhân dân mọi miền đất nước. Mọi thành phần, lực lượng, binh chủng cấu thành của Quân đội, không chỉ phải nỗ lực hết hình giương cao ngọn cờ “Quyết chiến, quyết thắng”, “tự lực, tự cường”, nâng cao bản lĩnh, khả năng và trình độ sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu trong hoàn cảnh mới của đất nước, thế giới, mà còn phải nhờ cậy vào sự giúp đỡ của toàn dân và cả nước. Ý thức, trách nhiệm, những hành động cụ thể, thường xuyên, hằng ngày của nhân dân, nhất là thanh niên và các tổ chức chính trị, xã hội, đoàn thể tham gia ủng hộ và xây dựng quân đội ngày càng hùng mạnh chính là con đường đúng đắn nhất mà nhân dân ta đang rèn đúc nên công cụ, “vũ khí” cho nền QPTD của mình.

Quốc phòng toàn dân vừa là đường lối, quan điểm, chủ trương của Đảng, vừa là ý chí, nguyện vọng, hành động chính đáng của nhân dân ta. Đường lối QPTD của Đảng mãi mãi là ngọn cờ dẫn đường, chỉ lối cho toàn dân ta xây dựng đất nước Việt Nam hùng cường, sánh vai với các cường quốc năm châu./. 

Việt Nam vẫn là trọng điểm chống phá của “diễn biến hòa bình”

 

Cho dù có “khoác tấm áo mới” thì bản chất thực sự của chiến lược “diễn biến hòa bình” vẫn là hoạt động chống phá của các lực lượng thù địch; vẫn là một kiểu “chiến tranh không có tiếng súng” nhưng vô cùng nguy hiểm với tính chất chính trị phản động, dân tộc chủ nghĩa, toàn cầu, phi vũ trang. Đã từng cay đắng thất bại trong chiến tranh, nay các thế lực thù địch lớn tiếng tuyên bố sẽ “thắng trong hòa bình”, “thắng bằng kinh tế thị trường” và Việt Nam vẫn là tiêu điểm, vẫn hội tụ đủ các yếu tố là trọng tâm chống phá của những thủ đoạn mới trên đây. Bởi lẽ, là một nước xã hội chủ nghĩa luôn tiên phong trong phong trào độc lập dân tộc, không chịu lệ thuộc vào bên ngoài, Việt Nam nắm giữ vị trí địa kinh tế - chính trị - quân sự chiến lược quan trọng trong khu vực, lại nằm ở vị trí địa - chiến lược, trung tâm của cạnh tranh chiến lược gay gắt giữa các nước lớn. Hơn nữa, những thành tựu hơn 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế đã tăng cường vị thế, uy tín, tiềm lực, thực lực và sức mạnh tổng hợp của đất nước ta, tuy nhiên trong nội bộ, hiện tượng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tiêu cực, tệ nạn xã hội... còn diễn biến khá phức tạp. Thêm vào đó, thay đổi được chế độ chính trị, bộ máy cầm quyền ở Việt Nam, các thế lực thù địch sẽ có nhiều lợi thế khi thực hiện các mưu đồ chính trị mới trong thế giới đương đại. Vì vậy, đấu tranh phòng, chống chiến lược “diễn biến hòa bình” vẫn là cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc, tiếp tục diễn ra vô cùng phức tạp, quyết liệt trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.

Vấn đề quan trọng có ý nghĩa định hướng chiến lược trong cuộc chiến này là phải tăng cường nghiên cứu, dự báo, đánh giá và nhận diện đúng bộ mặt thật, “bình mới, rượu cũ” của chiến lược “diễn biến hòa bình”; đồng thời, xác định đấu tranh phòng, chống, làm thất bại “diễn biến hòa bình” là nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách hàng đầu trong các nhiệm vụ quốc phòng, an ninh của mọi tổ chức, mọi lực lượng, các cấp, các ngành, các địa phương. Về cơ bản lâu dài, kiên quyết đấu tranh, kiên trì quán triệt, thực hiện tốt mục tiêu, nhiệm vụ, quan điểm, phương châm, giải pháp đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” của Đảng và Nhà nước đã xác định, trong đó, tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền, thống nhất nhận thức và tư tưởng, hành động, đề cao tinh thần cảnh giác cách mạng trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân là cơ sở nền tảng. Thực hiện đồng bộ các giải pháp ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ là giải pháp đột phá, nhất là khi “diễn biến hòa bình” đã chuyển trọng tâm, thay vì tác động từ bên ngoài vào sang tiến hành các hoạt động chống đối tại chỗ, thúc đẩy chúng ta “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Mũi nhọn xung kích chính là vũ khí phê phán thông qua đẩy mạnh đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng. Và cho dù “diễn biến hòa bình” có thay đổi phương thức, điều chỉnh thủ đoạn, diễn biến theo chiều hướng nào, mang bộ mặt nào đi nữa thì mục tiêu cuối cùng của họ không có gì khác là hạ thấp, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, hòng xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Vì vậy, tập trung xây dựng Đảng vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo, đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” gắn với ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ là vấn đề mang tính nguyên tắc, giữ vai trò quyết định trong bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và chế độ xã hội chủ nghĩa của Việt Nam trong tình hình mới./.

Bộ mặt mới của chiến lược “diễn biến hòa bình” hiện nay

 

Trong những thập niên đầu thế kỷ XXI, thế giới có nhiều thay đổi sâu sắc. Cùng với sự dịch chuyển trọng tâm quyền lực, các nước lớn cạnh tranh gay gắt, thực hiện can thiệp linh hoạt hơn, kiềm chế, ngăn chặn lẫn nhau để xác lập vị thế. Trong bối cảnh đó, để thực hiện mưu đồ của mình, các thế lực thù địch tiếp tục điều chỉnh chiến lược “diễn biến hòa bình” trên nhiều phương diện ngày càng tinh vi hơn. Nhận diện đúng và vạch trần bộ mặt mới của chiến lược này có ý nghĩa định hướng chiến lược trong đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” ở Việt Nam hiện nay.

Thứ nhất, chủ thể và lực lượng tiến hành “diễn biến hòa bình” trong bối cảnh mới rất đa dạng, phức tạp, đan xen, không đồng nhất. Nếu như trước kia, chủ thể tiến hành “diễn biến hòa bình” là chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch thì nay, bên cạnh lực lượng này còn có cả các nước theo chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi với tư tưởng bành trướng, bá quyền. Để xác lập vị thế vượt trội hoặc tranh giành lợi ích, ảnh hưởng trong trật tự thế giới mới, một số nước lớn thâu tóm hoạt động của các tổ chức, diễn đàn quốc tế, khu vực để lôi kéo, khống chế các nước khác vào vòng kiềm tỏa của mình. Trong một số trường hợp cụ thể, có những nước bất chấp luật pháp quốc tế, trắng trợn xâm phạm chủ quyền, can thiệp sâu vào nội bộ các nước khác bằng các biện pháp tổng hợp nhằm thay đổi bộ máy chính quyền hoặc lật đổ chế độ chính trị nước khác theo hướng có lợi cho mình. Với chủ thể được mở rộng, lực lượng tiến hành sẽ là “đại quân công chúng” ngay trong nội bộ đối phương. Lực lượng này khi bị lôi kéo, kích động hợp thành “đại quân công chúng” tại chỗ, luôn chịu sự chỉ đạo của các “chuyên gia chống cộng” bên ngoài và đương nhiên đó hoàn toàn không phải là quần chúng theo đúng nghĩa là lực lượng cách mạng. Đây là vấn đề hết sức nguy hiểm, nhất là trong trường hợp số đông quần chúng nhân dân bị mê hoặc, tin theo lời hứa hão huyền bằng các khẩu hiệu lòe bịp, bị “sập bẫy” giương sẵn của các trung tâm quyền lực, các tổ chức phản động quốc tế luôn rắp tâm “đục nước béo cò”, tạo cớ can thiệp, chống phá.

Thứ hai, đối tượng chống phá của chiến lược “diễn biến hòa bình” được mở rộng và phương thức tiến hành đã có sự chuyển đổi. “Diễn biến hòa bình” trong tình hình mới không những nhằm vào các nước tiến bộ, trước hết là các nước xã hội chủ nghĩa, mà còn chuyển sang chống phá các nước có chế độ chính trị mà chủ thể tiến hành cho là không phù hợp với lợi ích, giá trị, “khuôn mẫu” của họ. Đó là những nước độc lập, có chủ quyền nhưng “cứng đầu”, “không cùng quỹ đạo”, không tuân theo sự chỉ huy, chỉ đạo của họ, không có lợi cho họ trong giải quyết các vấn đề quốc tế. Đặc biệt, trọng tâm chống phá của chiến lược “diễn biến hòa bình” hiện nay là các nước có vị trí địa chính trị - kinh tế - quân sự chiến lược quan trọng, phức tạp, nhạy cảm hoặc ở những khu vực hội tụ sự cạnh tranh chiến lược, tranh chấp gay gắt về lợi ích, chủ quyền trên thế giới. Tính đa dạng, phức tạp, đan xen không đồng nhất giữa chủ thể và đối tượng được thể hiện trong mối quan hệ này, phạm vi này là chủ thể tiến hành, nhưng có thể trong mối quan hệ khác, phạm vi khác, chủ thể đó lại là đối tượng chống phá.

Phương thức chống phá của chiến lược “diễn biến hòa bình” đã chuyển trọng tâm từ bên ngoài tác động vào bên trong sang tiến hành các hoạt động chống đối tại chỗ, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ngay trong nội bộ đối phương. Lĩnh vực chính trị, tư tưởng được họ xác định là khâu trọng tâm, đột phá; kinh tế là mũi nhọn; dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền là “ngòi nổ”; ngoại giao để hỗ trợ; quân sự để răn đe, hậu thuẫn. Trong quá trình thực hiện, khi có điều kiện, thời cơ và cần thiết sẽ kết hợp với bạo loạn lật đổ, gây xung đột, nội chiến, can thiệp vũ trang, chiến tranh ủy nhiệm... để nhanh chóng đạt được mục tiêu chiến lược. Cách thức tiến hành rất công phu, bài bản để che đậy tính chất chính trị phản động, “ru ngủ” tinh thần cảnh giác cách mạng, làm cho đối phương mơ hồ, mất cảnh giác; mưu toan từng bước tạo sự suy thoái về tư tưởng chính trị, mục ruỗng về bộ máy, xuất hiện các mầm mống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ở từng cá nhân, trong nội bộ các tổ chức và toàn xã hội và cuối cùng là sự sụp đổ chế độ chính trị giống như sự vận động “tự thân”, “tất yếu”, “hợp quy luật”.

Thứ ba, mục tiêu và động cơ chính trị của chiến lược “diễn biến hòa bình” đã có sự dịch chuyển và mở rộng hơn. Mặc dù mục tiêu cao nhất, suy đến cùng của chiến lược “diễn biến hòa bình” là lật đổ chế độ chính trị xã hội của các nước “không cùng quỹ đạo”, nhưng hiện nay, do sự tác động của các mối quan hệ quốc tế phức tạp, đa tầng nấc, nhiều cấp độ giữa các nước, các tổ chức, sự chế ước của các quy tắc, chế định quốc tế, khu vực; khi chưa lật đổ được chế độ chính trị thì “diễn biến hòa bình” sẽ nhằm đến mục tiêu thấp hơn là thay đổi đường lối, chính sách; cài cắm lực lượng thân cận vào bộ máy cầm quyền; làm phức tạp hóa thành phần lãnh đạo; thay đổi tính chất quốc gia, dân tộc khác theo hướng phục vụ lợi ích của chủ thể tiến hành. Trong đó, thay đổi bộ máy cầm quyền nước khác là mục tiêu trọng yếu hiện nay và để làm được điều này, chiến lược “diễn biến hòa bình” đã có những điều chỉnh mới gắn với “công nghệ lật đổ” cực kỳ tinh vi, phản động.

Từ sự ra đời của học thuyết chính trị “phản kháng phi bạo lực” (phản kháng hòa bình), ngay lập tức, các “nhà dân chủ”, “nhà tiến bộ xã hội” phương Tây coi đó là “bảo bối thần kỳ”, “công cụ hữu hiệu” để lật đổ chính quyền ở nhiều quốc gia trong không gian hậu Xô-viết thông qua cái gọi là “cách mạng sắc màu” vào những năm 2004 - 2006; sau đó thay đổi chính thể của hàng loạt quốc gia ở khu vực Trung Đông, Bắc Phi vào năm 2011 với cái tên mĩ miều “Mùa xuân Ả rập”. Đó không có gì khác là bạo loạn phi vũ trang bắt nguồn từ “diễn biến hòa bình”, là “kỹ năng lật đổ” thời kỳ hậu Chiến tranh lạnh - một “dị bản” của việc kết hợp “diễn biến hòa bình” với bạo loạn lật đổ.

Từ sự mở rộng về mục tiêu làm cho động cơ chính trị của chiến lược “diễn biến hòa bình” trong sự dịch chuyển và cạnh tranh quyền lực cũng có sự mở rộng và thay đổi theo. Nếu như “diễn biến hòa bình” trước đây chủ yếu là đấu tranh ý thức hệ chính trị giai cấp; đấu tranh giữa hai con đường xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa; thì hiện nay nó đã được mở rộng và chuyển sang cả “đấu tranh” vì lợi ích dân tộc cục bộ, hẹp hòi; cạnh tranh chiến lược để xác lập vị thế ảnh hưởng.

Thứ tư, đối với biện pháp tiến hành “diễn biến hòa bình” hiện nay, các thế lực thù địch sử dụng “công cụ mềm”, “quyền lực thông minh” thay cho chính sách “cây gậy và củ cà rốt” kém hiệu quả trước đây. Đây là những biện pháp mới, rất linh hoạt, mang tính tổng hợp trên các phương diện và nảy sinh trong xu thế các nước thay đổi cách thức sử dụng quyền lực và sự trỗi dậy của trào lưu dân túy, xu hướng bảo hộ thương mại trong quan hệ quốc tế. Thực hiện tiến công toàn diện, có trọng điểm song “diễn biến hòa bình” ngày càng coi trọng các “công cụ mềm” và “quyền lực thông minh” nhằm vào các lĩnh vực chính trị tư tưởng, kinh tế, văn hóa - xã hội, ngoại giao, nhất là vấn đề dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo để từng bước chuyển hóa đối phương, giành “chiến thắng mà không cần chiến tranh”. Trọng tâm ở bên trong các nước thì họ tìm mọi cách khoét sâu mâu thuẫn, phân hóa nội bộ, tạo ra những “khoảng trống” quyền lực, đẩy đối phương vào vòng bất ổn. Bên ngoài, vẫn hỗ trợ bằng việc tạo áp lực, tăng cường lôi kéo, khống chế, từng bước gây ảnh hưởng có lợi cho họ. Cách thức tiến hành rất tinh vi, khó nhận diện; có lúc dụ dỗ, mua chuộc bằng vật chất; lúc thì núp dưới danh nghĩa hoạt động từ thiện, nhân đạo; có khi kêu gọi mở rộng tự do, dân chủ, nhân quyền, thúc đẩy quan hệ đối tác; đòi thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập; nhiều khi lại ngấm ngầm thao túng, khống chế về tài chính, từng bước ép buộc đối phương lệ thuộc về chính trị. Chiến lược chống phá từ từ, dần dần theo cách “mưa dầm thấm lâu”. Phương châm hành động mềm dẻo, linh hoạt, “đối thoại thay đối đầu”, “bắt tay thay súng đạn”, không phô trương rầm rộ, nhìn hình thức biểu hiện bên ngoài ít khốc liệt, không tàn phá như chiến tranh vũ lực; thậm chí có vẻ “gần gũi”, “thân thiện” trong một “thế giới phẳng” nhưng bản chất thì đang âm thầm đẩy đối phương xuống đáy “vũng lầy” của sự khủng hoảng và dẫn đến đổ vỡ ngay từ bên trong.

Thứ năm, về công cụ mới để thực hiện “diễn biến hòa bình”, các thế lực thù địch coi trọng sử dụng các phương tiện thông tin, truyền thông. Trước sự bùng nổ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, trong kỷ nguyên thông tin của thời đại toàn cầu hóa và với quan điểm “một đài phát thanh cũng có thể bình định được một nước, một đô la chi cho tuyên truyền có hiệu quả hơn năm đô la chi cho quân sự” nên thứ “vũ khí” hữu hiệu được các thế lực thù địch coi trọng sử dụng trong chiến lược “diễn biến hòa bình” hiện nay là các phương tiện thông tin, truyền thông, báo chí, xuất bản, nhất là các phương tiện có chương trình tiếng Việt để thực hiện bôi nhọ, vu cáo, đả kích Việt Nam. Trong đó, họ ngày càng coi trọng các trang mạng xã hội, internet - một phương tiện truyền thông có tốc độ nhanh, sức lan tỏa mạnh đối với công chúng. Thực tế ở nước ta gần đây đã xuất hiện khá nhiều các website, blog, phát tán quan điểm trái chiều, xuyên tạc. Với cách thức tiến hành khá công phu, tinh xảo; dựa vào một số sự kiện đã diễn ra, họ nhào nặn bằng các chi tiết “sặc mùi” chính trị phản động; thêm bớt những “số liệu” không thể kiểm chứng, kèm theo trích dẫn “kim, cổ, đông, tây”, giả danh khoa học; sử dụng công nghệ chèn các tư liệu, hình ảnh đã bị cắt ghép, chỉnh sửa, “live stream”... tạo ra những sự kiện “giật gân”, thông tin “câu khách”, gợi trí tò mò của dư luận; cố tình đổi trắng thay đen, biến không thành có, rồi suy diễn, bình luận theo kiểu làm “sáng tỏ vấn đề”. Tần suất các luận điệu thâm độc đó ngày càng gia tăng cả về lưu lượng, cấp độ, mật độ; thực hiện “bôi nhiều sẽ bẩn”, “nói lắm phải tin”, tung “hỏa mù” nhằm gây tâm lý hoài nghi, dao động trong xã hội; từng bước hướng cộng đồng đến những suy nghĩ lệch lạc, dẫn đến “tự diễn biến”, dần xuất hiện những hành vi “lệch chuẩn” và rơi vào “tự chuyển hóa” lúc nào không hay./.

Bảo vệ vững chắc quyền độc lập dân tộc trong bối cảnh hội nhập quốc tế

 

Hội nhập quốc tế (HNQT) là quá trình liên kết, gắn kết giữa các quốc gia, vùng lãnh thổ với nhau thông qua tham gia các tổ chức, thiết chế, cơ chế, hoạt động hợp tác quốc tế vì mục tiêu phát triển của mỗi quốc gia, vùng lãnh thổ, tạo thành sức mạnh tập thể giải quyết những vấn đề chung mà các bên cùng quan tâm(1). Tác động của quá trình HNQT đã tạo ra cả những yếu tố tích cực và tiêu cực, vừa tạo thuận lợi lại vừa tạo ra nhiều thách thức, khó khăn đến xây dựng và bảo vệ quyền độc lập dân tộc của các quốc gia dân tộc, trong đó có Việt Nam.

Bảo vệ quyền độc lập dân tộc trong bối cảnh HNQT phải được nhận thức và thực hiện trên cả hai phương diện là bảo vệ quyền tự định đoạt các vấn đề liên quan đến vận mệnh quốc gia dân tộc và bảo vệ quyền bình đẳng của đất nước trong hoạt động quốc tế. Cụ thể:

Một là, xác định quyền độc lập của dân tộc “không chỉ thuần túy là tính bất khả xâm phạm chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ, lãnh hải, khoảng không và môi trường tự nhiên, chủ quyền trong lĩnh vực văn hóa, mà còn là sự an toàn và không bị đe dọa đối với chế độ chính trị, vai trò lãnh đạo của Đảng và định hướng chính trị xã hội chủ nghĩa, cũng như đối với quyền được duy trì, bảo vệ những lợi ích chính đáng của công dân”. Vì vậy, cần tiếp tục phát huy hơn nữa vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam - nhân tố quyết định bảo đảm quyền độc lập dân tộc.

Hai là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền để người dân nhận thức đầy đủ và đúng đắn hơn về mối quan hệ giữa HNQT với sự nghiệp bảo vệ vững chắc quyền độc lập dân tộc. Cần “Tập trung khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, niềm tự hào, ý chí tự cường, lòng nhân ái, tinh thần đoàn kết, đồng thuận xã hội và khát vọng phát triển đất nước của toàn dân tộc”. Kiên quyết xóa bỏ những tư tưởng, quan điểm phiến diện khi cho rằng việc tham gia vào quá trình HNQT sẽ làm mất đi quyền độc lập của dân tộc; làm rõ những nội dung, biểu hiện mới của quyền độc lập dân tộc trong HNQT.

Ba là, củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc trên nền tảng liên minh công - nông - trí thức. Đây là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, mang tính quyết định trong bảo vệ quyền độc lập dân tộc. Việc hoạch định và thực hiện đường lối phát triển đất nước trên các mặt cần tỉnh táo, linh hoạt và sáng tạo, phải luôn xác định sức mạnh dân tộc là yếu tố quyết định, sức mạnh thời đại là yếu tố quan trọng, hỗ trợ. Tuyệt đối không chủ quan duy ý chí, chỉ coi trọng sức mạnh dân tộc và xem nhẹ sức mạnh thời đại mà phải kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại theo tinh thần mà Đảng đã đề ra: “Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế. Trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng cần kiên định ý chí độc lập, tự chủ và nêu cao tinh thần hợp tác quốc tế, phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ ngoại lực, kết hợp yếu tố truyền thống với yếu tố hiện đại”.

Bốn là, có những biện pháp cụ thể, tận dụng thời cơ để phát triển kinh tế đất nước, góp phần bảo vệ vững chắc quyền độc lập dân tộc. Đảng ta xác định: “Phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm; thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức và bảo vệ tài nguyên, môi trường; xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, hiện đại, có hiệu quả và bền vững, gắn kết chặt chẽ công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ”. Ưu tiên hàng đầu là đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hoàn thiện nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Tập trung “Ổn định kinh tế vĩ mô, đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu kinh tế, nâng cao chất lượng, hiệu quả, phát triển bền vững;… Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa… Tập trung giải quyết vấn đề việc làm và thu nhập cho người lao động, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân”; chú trọng phát triển kinh tế gắn với phát triển văn hóa và bảo vệ môi trường, bảo đảm an sinh xã hội.

Tiếp tục quán triệt sâu sắc và đầy đủ quan điểm của Đảng và Nhà nước về xây dựng nền kinh tế gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh và đối ngoại; từng bước hoàn thành mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ vững chắc quyền độc lập dân tộc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN.

Năm là, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn “Văn hóa soi đường cho quốc dân đi”. Tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc triển khai Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, tháng 11-2021, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã dẫn lời các tiền nhân “Văn hóa là bản sắc của dân tộc, văn hóa còn thì dân tộc còn, văn hóa mất thì dân tộc mất”. Chính vì vậy, cần tăng cường hơn nữa vai trò lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước trong xây dựng và phát triển văn hóa nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp bảo vệ quyền độc lập, tự do dân tộc. Tiếp tục “Khơi dậy tinh thần và ý chí, quyết tâm phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; dân tộc cường thịnh, trường tồn; phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Cần quan tâm tạo mọi điều kiện để ra sức thực hiện nhiệm vụ xây dựng và phát triển con người Việt Nam một cách toàn diện, nâng cao trí lực, bồi dưỡng tri thức, đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế.

Tại Đại hội XIII, Đảng ta đã xác định: “Phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa, con người Việt Nam thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc”. Do đó, cần chủ động mở rộng giao lưu văn hóa với thế giới để tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam, từng bước khắc phục những hạn chế của người Việt Nam; đồng thời tăng cường quảng bá những giá trị văn hóa của dân tộc Việt Nam ra thế giới.

Sáu là, tăng cường tiềm lực quốc phòng - an ninh để chống lại âm mưu của các thế lực thù địch trong và ngoài nước nhằm bảo vệ vững chắc quyền độc lập dân tộc. Cần quan tâm, đầu tư thiết thực cả về vật chất và tinh thần; xây dựng và phát triển quốc phòng, an ninh trên tinh thần tự chủ và xuất phát từ thực tiễn đất nước; đầu tư tài chính, mua sắm trang thiết bị quốc phòng, an ninh tiên tiến, hiện đại; không ngừng phát triển lực lượng Quân đội và Công an vững mạnh, chính quy, tinh nhuệ, chú trọng tăng cường giáo dục chính trị tư tưởng; quan tâm hơn nữa việc xây dựng và tổ chức lực lượng bộ đội địa phương, dân quân tự vệ làm cơ sở vững chắc cho lực lượng vũ trang chính quy. Đảng ta khẳng định: “tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh; nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động đối ngoại, hội nhập quốc tế; kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, biển, đảo, vùng trời; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước”.

Bảy là, có chiến lược ngoại giao tích cực, chủ động, sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy với tất cả các nước trên thế giới trên cơ sở tôn trọng quyền độc lập của dân tộc. Thực hiện chiến lược ngoại giao với phương châm: “tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, nâng cao đời sống nhân dân; nâng cao vị thế, uy tín của đất nước và góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”; “Kết hợp chặt chẽ, hiệu quả công tác đối ngoại của Đảng với ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân. Nâng cao năng lực hội nhập,... Xây dựng nền ngoại giao hiện đại, trong đó chú trọng đẩy mạnh ngoại giao quốc phòng, an ninh để bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa. Tăng cường ngoại giao kinh tế phục vụ phát triển, lấy người dân và doanh nghiệp làm trung tâm phục vụ. Mở rộng và nâng cao hiệu quả ngoại giao văn hóa, đóng góp thiết thực vào quảng bá hình ảnh, thương hiệu quốc gia và tăng cường sức mạnh tổng hợp của đất nước”.

Giải quyết các vấn đề chủ quyền, biên giới, lãnh thổ trên cơ sở thương lượng hòa bình, phù hợp với luật pháp của quốc tế; kết hợp sử dụng các biện pháp đấu tranh chính trị, kinh tế, ngoại giao, quốc phòng… nhằm tạo sức mạnh tổng hợp cho ngoại giao Việt Nam, góp phần bảo vệ vững chắc quyền độc lập dân tộc.

Đảng và Nhà nước đã xác định: “Bảo đảm hội nhập quốc tế là sự nghiệp của toàn dân và cả hệ thống chính trị, đẩy mạnh hội nhập trên cơ sở phát huy tối đa nội lực, gắn kết chặt chẽ và thúc đẩy quá trình nâng cao sức mạnh tổng hợp, năng lực cạnh tranh của đất nước; hội nhập kinh tế là trọng tâm, hội nhập trong các lĩnh vực khác phải tạo thuận lợi cho hội nhập kinh tế; hội nhập là quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh, chủ động dự báo, xử lý linh hoạt mọi tình huống, không để rơi vào thế bị động, đối đầu, bất lợi”.

Đến nay, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn trong bảo vệ quyền độc lập dân tộc. Tuy nhiên, để cũng cố và bảo vệ quyền độc lập của dân tộc trong bối cảnh HNQT ngày càng sâu rộng, đòi hỏi chúng ta phải tỉnh táo, sáng suốt và linh hoạt trong việc đề ra và thực hiện một cách đồng bộ những giải pháp trên tất cả các khía cạnh. Trong quá trình đó, phải luôn quán triệt nguyên tắc độc lập dân tộc là yếu tố bất biến và luôn là ưu tiên hàng đầu để đưa đất nước vững bước đi trên con đường CNXH.