Thứ Bảy, 1 tháng 2, 2025

VIỆT NAM LUÔN TÔN TRỌNG, BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI

 VIỆT NAM LUÔN TÔN TRỌNG, BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI

Với giọng điệu ra vẻ “chân thành” nhưng vẫn không thể che dấu được sự lợi dụng vấn đề nhân quyền để kích động, chống phá của Vũ Cẩm Ly, trong bài “Vì sao chính quyền CSVN không tôn trọng nhân quyền?”, y đưa ra bốn “cái lý” tự ngộ biện cho rằng Việt Nam không tôn trọng nhân quyền, từ đó đưa ra “năm tưởng tượng” thúc đẩy quyền con người. Đây là những định kiến cá nhân, trái với đường lối, chính sách về nhân quyền của Đảng và Nhà nước ta, cần đấu tranh, khẳng định như sau:
Thứ nhất, Việt Nam luôn tôn trọng và bảo vệ quyền con người là sự thật không thể phủ nhận. Mọi chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước Việt Nam đều là vì con người và bảo vệ các quyền của con người. Cụ thể như: Chương II của Hiến pháp năm 2013 đã hiến định rõ về Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; các chính sách an sinh xã hội được thực hiện một cách hiệu quả, các chương trình hỗ trợ sinh kế cho đồng bào dân tộc thiểu số tại vùng sâu, vùng xa, các chính sách cho trẻ em khuyết tật, hướng tới nhóm yếu thế được triển khai rộng rãi. Các Luật Lao động bảo vệ quyền lợi và nâng cao mức sống cho người lao động. Bên cạnh đó, Việt Nam đã tham gia 7/9 điều ước quốc tế cơ bản về quyền con người, tham gia 25 Công ước quốc tế về quyền lao động của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO). Nổi bật nhất là tại Khóa họp thường kỳ lần thứ 57, Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc ngày 27/9/2024 đã thông qua kết quả rà soát định kỳ phổ quát (UPR) chu kỳ IV đối với Việt Nam. Có khoảng 90 nước, các tổ chức quốc tế và một số tổ chức phi chính phủ tham dự và Việt Nam đã thông báo quyết định chấp thuận 271 trên tổng số 320 khuyến nghị các nước đưa ra, đạt tỉ lệ 84,7%. Đây là tỉ lệ chấp thuận cao nhất của Việt Nam trong 4 chu kỳ. Điều này, khẳng định quyết tâm bảo vệ và thúc đẩy quyền con người của Việt Nam.
Việc tôn trọng, đảm bảo, thúc đẩy quyền con người còn được thể hiện ở sự nỗ lực góp phần quan trọng của Việt Nam tham gia thúc đẩy, bảo vệ quyền con người trên phạm vi quốc tế và đã để lại nhiều dấu ấn được cộng đồng quốc tế ghi nhận và đánh giá cao như phản ánh quan điểm, chia sẻ kinh nghiệm của mình về các vấn đề quan trọng liên quan đến quyền con người, như bảo vệ quyền của phụ nữ, trẻ em, người cao tuổi, người khuyết tật, dân tộc thiểu số, người di cư; thúc đẩy quyền phát triển, quyền tham gia, quyền an sinh xã hội, quyền môi trường; ứng phó với các thách thức an ninh phi truyền thống như biến đổi khí hậu, dịch bệnh, chuyển đổi số. Việc tái ứng cử làm thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp quốc nhiệm kỳ 2026 - 2028 là minh chứng rõ ràng nhất về sự ghi nhận của cộng đồng quốc tế đối với những chính sách, nỗ lực, thành tựu của Việt Nam trong việc bảo đảm ngày càng tốt hơn quyền con người ở trong nước cũng như quốc tế. Đồng thời, là minh chứng bác bỏ bốn “cái lý” quy chụp Việt Nam không tôn trọng nhân quyền của Vũ Cẩm Ly là hoàn toàn là định kiến, suy diễn cá nhân của Y.
Thứ hai, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội mới là phương thức đảm bảo tốt nhất về nhân quyền và là điều cần làm để thúc đẩy quyền con người ở Việt Nam. Lịch sử dân tộc đã chứng minh, quyền con người Việt Nam luôn gắn liền với độc lập tự do của dân tộc. Bởi, dưới ách thống trị của thực dân, phong kiến, con người Việt Nam luôn bị áp bức, nô lệ, chỉ khi có Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo giành được độc lập dân tộc, thống nhất đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội thì mọi quyền con người mới trở thành hiện thực. Có thể thấy, hành trình đấu tranh cách mạng giành quyền tự quyết định vận mệnh, quyền lựa chọn con đường độc lập, tự do, hạnh phúc gắn với chủ nghĩa xã hội là phương thức hữu hiệu nhất để bảo vệ và thúc đẩy quyền con người ở Việt Nam. Với mục đích bảo vệ độc lập, tự do, hạnh phúc cho nhân dân và xây dựng, phát triển đất nước phồn thịnh, 94 năm qua, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo đảm bảo để mọi người dân Việt Nam được thụ hưởng đầy đủ, trọn vẹn quyền con người, quyền công dân, đặc biệt là phát huy tốt dân chủ thực hiện các quyền quyền ứng cử, bầu cử, bãi nhiệm đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân; quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan Nhà nước; quyền khiếu nại, tố cáo và giám sát đối với cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức. Điều này, là đã khẳng định “năm tưởng tượng lớn” cần làm qua những “cuộc thảo luận ôn hòa”, “hoạt động ôn hòa” để thúc đẩy quyền con người của Vũ Cẩm Ly là thừa thãi và vô giá trị.
Những thành tựu về nhân quyền ở Việt Nam đã bác bỏ những luận điệu xuyên tạc, thù địch và “thiển ý” cải thiện tình hình nhân quyền của những kẻ “biết tuốt” như Vũ Cẩm Ly! Mọi người dân Việt Nam cần nâng cao cảnh giác và đấu tranh kiên quyết với những bài viết lợi dụng vấn đề nhân quyền để đòi hỏi quyền: “tự do ngôn luận”, “tự do lập hội”, “quyền cá nhân” nhằm kích động đặt quyền cá nhân, quyền tự nhiên của con người vượt lên sự bảo vệ pháp luật, phá hoại công cuộc xây dựng, phát triển đất nước phồn thịnh, giàu mạnh của Việt Nam./.
Có thể là hình ảnh về một hoặc nhiều người và đám đông
Tất cả cảm xúc:
3

KHẮC PHỤC SỰ SUY THOÁI ĐẠO ĐỨC Ở MỘT BỘ PHẬN CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

 KHẮC PHỤC SỰ SUY THOÁI ĐẠO ĐỨC Ở MỘT BỘ PHẬN CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Sự suy thoái đạo đức của một bộ phận cán bộ, đảng viên đang là một vấn đề nhạy cảm, phức tạp, thậm chí nhức nhối trong đời sống tinh thần của nhân dân ta hiện nay. Để đẩy mạnh cuộc đấu tranh của Đảng và nhân dân ta chống căn bệnh đó, một trong những vấn đề hết sức quan trọng là cần quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm nhận dạng chính xác và có những giải pháp phù hợp. Mặc dù trong các bài viết của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh chưa sử dụng từ "suy thoái hay "suy thoái đạo đức", song Người đã đề cập rất nhiều đến căn bệnh "hủ hóa" xuất hiện ở một bộ phận cán bộ, đảng viên, mà nội hàm của nó nhiều điểm tương đồng với nội hàm khái niệm "suy thoái đạo đức".
Hơn nữa, khái niệm "hủ hóa" được Chủ tịch Hồ Chí Minh sử dụng với nội dung phong phú hơn, mang tính cụ thể hơn. Có khi Người dùng khái niệm "hủ hóa" để diễn tả sự biến đổi, sự tha hoá, sự suy giảm về cốt cách của một dân tộc trên cả lĩnh vực đời sống vật chất và đời sống tinh thần. Hồ Chí Minh viết: "Chế độ thực dân… đã dùng mọi thủ đoạn hòng hủ hóa dân tộc chúng ta…", chúng "hủ hóa chúng ta về vật chất, về sinh hoạt, văn hóa, chính trị". Có khi Người dùng khái niệm "hủ hóa" để chỉ sự tha hóa về nhân cách, sự trở thành lạc hậu lỗi thời, trở thành cản trở… của con người. Người viết rằng, "mỗi lần xem xét lại nhân tài, một mặt thì tìm thấy những nhân tài mới, một mặt khác thì những người hủ hoá cũng lòi ra". Có khi Người dùng khái niệm "hủ hóa" để phản ánh sự biến đổi, sự suy giảm và trở thành xấu xa về mặt đạo đức của những con người mà "tự mình không có đạo đức, không có căn bản, tự mình đã hủ hóa, xấu xa thì còn làm nổi việc gì"; hoặc do "ảnh hưởng xấu của xã hội cũ làm cho một số đảng viên và cán bộ (trong Đảng và ngoài Đảng) hủ hóa… Dần dần họ mất cả tư cách và đạo đức người cách mạng…". Cũng có khi Người dùng khái niệm "hủ hóa" chỉ để biểu đạt một "bệnh", một biểu hiện của sự biến đổi, sự suy giảm về một mặt nào đó trong lối sống của con người, của cán bộ, đảng viên. Chẳng hạn, theo Người, bệnh hủ hóa là "Ăn muốn cho ngon, mặc muốn cho đẹp, càng ngày càng xa xỉ", là "tham ô", "lãng phí", "quan liêu"… mà về thực chất, đó là những biểu hiện khác nhau về sự suy thoái đạo đức.
Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu cần phải có thái độ đúng đắn, nghiêm túc và giải quyết hợp tình, hợp lý đối với những người mắc bệnh hủ hóa, suy thoái đạo đức. Người cho rằng: "Tệ nhất là trong hàng ngũ cán bộ có một số ít đã tham ô, hủ hóa… Cán bộ nào mà tham ô, hủ hóa là có tội to với Đảng và Chính phủ, có tội to với nhân dân và có tội to cả với anh chị em cán bộ khác". Họ làm hại danh dự của Đảng, của Chính phủ, của tất cả các cán bộ. Vì vậy, Đảng phải có trách nhiệm gột rửa cho những đồng chí mắc bệnh hủ hóa, phải "luôn luôn tẩy bỏ những phần tử hủ hóa ra ngoài". Người khẳng định: "Đối với tệ tham ô hủ hóa, Lênin rất nghiêm khắc. Có một lần, tòa án Mạc Tư Khoa xử nhẹ một vụ ăn hối lộ, Lênin liền viết trong một bức thư: "không xử bắn bọn ăn hối lộ mà xử nhẹ như thế, là một việc xấu hổ cho những người cộng sản, những người cách mạng…". Chính vì vậy, theo Người, ai đã mắc bệnh hủ hóa thì phải hết sức kiên quyết sửa chữa, nếu không tự sửa chữa thì Chính phủ sẽ không khoan dung. Người còn cho rằng: "Trong mỗi giai đoạn, cần phải luôn luôn cất nhắc những người hăng hái trong giai đoạn đó, để thay thế cho những người cũ bị đào thải hoặc vì tài không xứng chức, hoặc hủ hóa". Thực tế cho thấy, tuy lấy giáo dục làm chính, nhưng Hồ Chí Minh đã từng phải sử dụng những hình phạt rất nặng, thậm chí cả hình phạt cao nhất đối với cán bộ cao cấp trong và ngoài quân đội khi họ suy thoái, hủ hóa đến mức phạm tội ác đáng bị trừng trị.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, có nhiều nguyên nhân dẫn tới hiện tượng hủ hóa, suy thoái của con người, của cán bộ, đảng viên. Trong đó có một số nguyên nhân chính là do ảnh hưởng xấu của xã hội cũ để lại; do mặt trái trong tính phức tạp của cuộc sống, nhất là ở thành thị có nhiều sự quyến rũ làm cho người ta mê muội hủ hóa, suy thoái; do chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch tìm mọi thủ đoạn, nhất là tăng cường xâm lược ta về văn hóa; do tổ chức, cơ quan thiếu kiểm tra, thiếu phê bình và tự phê bình; do cán bộ đảng viên chưa được huấn luyện hẳn hoi, kém tính đảng, lý luận, tư tưởng chính trị còn thấp; do cá nhân thiếu đạo đức cách mạng, mắc bệnh chủ nghĩa cá nhân…
Trên cơ sở làm rõ nguyên nhân, Người đã chỉ ra những "thang thuốc" tương ứng đề phòng, chống bệnh hủ hóa, suy thoái. Đó là: tăng cường giáo dục nhân dân, nâng cao dân trí; mở rộng dân chủ, đẩy mạnh tự phê bình và phê bình; nâng cao đạo đức cách mạng quét sạch chủ nghĩa cá nhân; tăng cường công tác kiểm tra; nêu cao tinh thần cảnh giác, chủ động chống lại các âm mưu thâm độc của kẻ thù. Theo Người, nếu thiếu những điều đó thì con người dù làm bất cứ việc gì, ở bất cứ ngành nào cũng dễ bị suy thoái, hủ hóa. Người viết: "Những kẻ hủ hóa là vì thiếu đạo đức cách mạng, đồng thời vì các cơ quan thiếu kiểm tra, thiếu phê bình và tự phê bình. Thiếu những điều đó thì bất kỳ làm công tác gì cũng dễ hủ hóa", suy thoái.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, khả năng bị suy thoái, hủ hóa về đạo đức ở các chủ thể là một khả năng hiện thực, điều đó không loại trừ bất cứ một ai, dù người đó là nam hay nữ, dù đang là người dân bình thường hay là cán bộ các cấp, kể cả cán bộ cao cấp. Theo Người, ai cũng có cái "thiện", cái "ác" trong lòng, ai cũng có mặt tốt, mặt xấu, không thể "hoàn toàn tránh khỏi sai lầm khuyết điểm" và thậm chí bị suy thoái hủ hóa nếu không cố gắng rèn luyện tu dưỡng. Một trong sáu vấn đề cấp bách của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mà Người đề xuất tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ (03-9-1945) là vấn đề chế độ thực dân đã dùng mọi thủ đoạn hòng hủ hóa dân tộc chúng ta, nhân dân ta, nên chúng ta phải "mở một cuộc chiến dịch giáo dục lại tinh thần nhân dân" để khắc phục những hậu quả xấu đó. Người cũng cảnh báo: "Cán bộ ta nhiều người "cúc cung tận tụy", hết sức trung thành với nhiệm vụ, với Chính phủ, với quốc dân. Nhưng cũng có người hủ hoá, lên mặt làm quan cách mạng, hoặc là độc hành độc đoán, hoặc là dĩ công dinh tư. Thậm chí dùng pháp công để báo thù tư, làm cho dân oán đến Chính phủ và Đoàn thể". Ngày 17-10-1945, trong "Thư gửi ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng", Người viết: "Tôi vẫn biết trong các bạn có nhiều người làm theo đúng chương trình của Chính phủ, và rất được lòng nhân dân. Song cũng có nhiều người phạm những lầm lỗi rất nặng nề". Trong bài "Tình hình và nhiệm vụ (Báo cáo tại Hội nghị lần thứ ba của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá II), Người tiếp tục khẳng định, "bệnh quan liêu, hủ hóa, tham ô, lãng phí khá nặng" trong đội ngũ cán bộ, đảng viên; và để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng, Người đã đề xuất 1 trong 4 nhiệm vụ trước mắt là phải "chỉnh Đảng". Người còn chỉ rõ những ưu điểm, khuyết điểm hiện có trong đội ngũ cán bộ, đảng viên. Một trong những khuyết điểm đó là, "nạn tham ô, hủ hoá khá nặng" ở nhiều cán bộ đảng viên. Người nhắc đến việc phòng chống bệnh hủ hóa, suy thoái ngay cả trong dịp chúc mừng năm mới: để làm được những việc của cách mạng "chúng ta phải đoàn kết chặt chẽ, rộng rãi, chúng ta phải chống hủ hóa, tham ô, lãng phí…".
Tuy cho rằng bệnh hủ hóa, suy thoái đạo đức ở một bộ phận, cán bộ, đảng viên là rất nghiêm trọng, song Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn tin tưởng rằng có thể khắc phục, gột rửa được bệnh hủ hoá và tránh khỏi hủ hóa, suy thoái. Tuy khả năng bị hủ hóa, suy thoái ở các chủ thể là một khả năng hiện thực, nhưng nó có trở thành hiện thực hay không và nếu đã trở thành hiện thực thì có khắc phục được hay không còn lệ thuộc vào nhiều nhân tố, mà trực tiếp là nhân tố chủ quan của con người, của các tổ chức, nên đều có thể tẩy trừ, thậm chí miễn dịch với căn bệnh này. Trong Bài nói chuyện với bộ đội, công an và cán bộ trước khi vào tiếp quản Thủ đô, Người khẳng định: muốn giữ vững nhân cách, tránh khỏi hủ hoá, thì phải luôn thực hành 4 chữ: Cần, Kiệm, Liêm. Chính. Người còn chỉ rõ, trong xã hội mới, "ai cũng có thể vươn tới đỉnh cao của đạo đức cách mạng".
Việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về hiện tượng hủ hóa, suy thoái gắn với thực tiễn suy thoái đạo đức hiện nay ở một bộ phận cán bộ, đảng viên bước đầu gợi cho chúng ta rất nhiều việc cần quan tâm giải quyết trong tình hình hiện nay. Tuy mặt trái của nền kinh tế thị trường đang tác động rất tiêu cực đến quá trình nâng cao đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên, nhưng nguyên nhân của sự suy thoái đạo đức ở một bộ phận cán bộ, đảng viên hiện nay không chỉ do cơ chế thị trường gây nên, mà còn do nhiều nguyên nhân khác, đặc biệt là do sự thiếu tích cực tự tu dưỡng, rèn luyện. Mặt khác, cần thấy rằng khả năng suy thoái đạo đức ở một bộ phận cán bộ đảng viên là khả năng hiện thực; song, khả năng phòng chống sự suy thoái ấy ở cán bộ, đảng viên cũng là một khả năng hiện thực. Mỗi cán bộ, đảng viên đều có khả năng khắc phục, hoặc tránh được sự suy thoái về đạo đức. Việc nhận thức những vấn đề đó giúp chúng ta tránh được sự phiến diện trong đi tìm các giải pháp phòng, chống suy thoái đạo đức ở một bộ phận cán bộ, đảng viên hiện nay./.
Có thể là hình ảnh về 1 người và văn bản
Tất cả cảm xúc:
2

NHỮNG ĐÓNG GÓP LÝ LUẬN ĐẶC SẮC CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM ĐỐI VỚI TƯ DUY CHÍNH TRỊ THẾ GIỚI

 NHỮNG ĐÓNG GÓP LÝ LUẬN ĐẶC SẮC CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM ĐỐI VỚI TƯ DUY CHÍNH TRỊ THẾ GIỚI

Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản từ năm 1930 đến nay, cách mạng Việt Nam đã giành được những thành tựu vĩ đại có ý nghĩa lịch sử to lớn. Tiền đề của những thành tựu đó là tư duy lý luận của lãnh tụ Hồ Chí Minh và chính đảng tiền phong, được xây dựng, bổ sung, phát triển kịp thời, sáng tạo và được thực tiễn cách mạng kiểm nghiệm là đúng đắn.
Lãnh tụ Hồ Chí Minh và Đảng ta đã có đóng góp đặc sắc vào tư duy chính trị thế giới nói chung và lý luận cộng sản nói riêng trên nhiều vấn đề cơ bản, xuyên suốt hai thế kỷ 20 và 21.
Một là, đã bổ sung, phát triển nhận thức về vấn đề thuộc địa trong bối cảnh mới của thời đại; luận chứng con đường đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, giải phóng thuộc địa, mở đầu dòng thác cách mạng giải phóng dân tộc và quá trình tan rã của hệ thống thuộc địa trên phạm vi toàn thế giới. Bước vào thế kỷ 20, thế giới phải giải quyết nhiều bức bách của nhân loại, trong đó vấn đề thuộc địa nổi lên với quy mô bao trùm nhất. Đến năm 1914, hơn 2/3 diện tích địa cầu và gần 2/3 dân số thế giới nằm trong hệ thống thuộc địa do một nhóm nhỏ các “mẫu quốc” thực dân cai trị[1].
Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh đã tiếp cận vấn đề thuộc địa một cách hết sức thực tiễn, không nhìn nhận giản đơn vấn đề thuộc địa chỉ là vấn đề nông dân; cũng không máy móc nhận thức vấn đề thuộc địa hoàn toàn là vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp.
Theo Hồ Chí Minh, thực chất của vấn đề thuộc địa là vấn đề dân tộc thuộc địa, là đấu tranh xóa bỏ ách thống trị của chủ nghĩa thực dân, là cách mạng giải phóng dân tộc. Cách mạng thuộc địa không chỉ trông chờ vào kết quả của cách mạng vô sản ở chính quốc, hơn nữa cần phải chủ động và có thể giành thắng lợi trước và bằng thắng lợi của mình sẽ góp phần vào sự nghiệp cách mạng ở chính quốc[2]. Đây chính là đóng góp lý luận đầu tiên ghi tên Hồ Chí Minh - Việt Nam vào di sản lý luận Mác-Lênin trong thời đại ngày nay.
Trong tác phẩm Đường Cách mệnh xuất bản đầu năm 1927, Nguyễn Ái Quốc đã sớm phân biệt ba loại hình cách mạng: “tư bản cách mệnh, dân tộc cách mệnh, giai cấp cách mệnh”[3]. Với Người, yêu cầu bức thiết nhất của xã hội thuộc địa chưa phải là đấu tranh giai cấp như trong các xã hội tư bản chủ nghĩa phương Tây, mà là lật đổ chế độ thực dân, giành độc lập dân tộc. Trong Chánh cương vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc nêu ra một con đường vừa mang ánh sáng của Cách mạng Tháng Mười Nga vừa báo hiệu một sáng tạo lớn, bám sát đặc thù Việt Nam: “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”[4]. Tư sản dân quyền cách mạng là giai đoạn chiến lược hoàn thành nhiệm vụ lật đổ chế độ thực dân, giành chính quyền. Thổ địa cách mạng không nằm trong cuộc cách mạng tư sản dân quyền, mà là một giai đoạn chiến lược với nhiệm vụ chủ yếu là cách mạng ruộng đất. Đi tới xã hội cộng sản là giai đoạn phát triển kế tiếp để từng bước đạt mục tiêu cuối cùng.
Con đường cách mạng để giải quyết vấn đề thuộc địa ở Việt Nam đã được người sáng lập Đảng và Đảng Cộng sản Việt Nam nhận thức như vậy! Con đường không có trong khuôn mẫu kinh điển, không có tiền lệ trong lịch sử.
Từ Việt Nam, ngọn đuốc giải phóng đã sang khắp Á, Phi, Mỹ Latin, tạo thành một làn sóng cách mạng của thời đại. Hệ thống thuộc địa mà các thế lực thực dân dựng lên trong suốt 5 thế kỷ từ năm 1492 đã sụp đổ hoàn toàn vào cuối thập kỷ 80 của thế kỷ 20. Hơn 100 quốc gia độc lập có chủ quyền đã ra đời, tự quyết định con đường phát triển, không lệ thuộc vào thực dân đế quốc, làm thay đổi bản đồ chính trị thế giới.
Hai là, đã xây dựng, phát triển lý luận chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện và lãnh đạo thực hiện thắng lợi cuộc chiến tranh ấy trước những thế lực thực dân, đế quốc đầu sỏ trên thế giới. Cách mạng Việt Nam từng phải đương đầu với những thế lực thực dân, đế quốc hàng đầu: Thực dân Pháp, phát-xít Nhật Bản và đế quốc Mỹ. Tương quan lực lượng trên hầu hết các phương diện (vật chất-kỹ thuật, trang bị, vũ khí chiến tranh, quân số, khả năng cơ động…) đều nghiêng về phía kẻ xâm lược.
Trong những hoàn cảnh rất bất lợi đó, quân và dân Việt Nam đã phát huy trí tuệ đánh giặc giữ nước của nghìn năm lịch sử và kết hợp với khoa học, nghệ thuật chiến tranh hiện đại, sáng tạo nên lý luận chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện. Tất cả các nguồn lực vật chất và tinh thần; mọi lực lượng dân sự và vũ trang vừa sản xuất vừa chiến đấu; nhân dân từ trẻ đến già, mọi dân tộc, tầng lớp, vùng miền đều “tay súng, tay cày”; sức mạnh quốc gia và quốc tế được huy động phục vụ nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, tạo ra sức mạnh tổng hợp Việt Nam, lớn hơn sức mạnh của quân xâm lược trên chiến trường. Sức mạnh to lớn này được sử dụng trong thế trận quốc phòng toàn dân, kết hợp có hiệu quả kinh tế với quốc phòng; kinh tế, quốc phòng với đối ngoại… đã tạo ra thế và lực cho Việt Nam tiến chắc, đánh chắc, giành thắng lợi từng phần, tiến tới thắng lợi hoàn toàn như lịch sử đã chứng minh. Sáng tạo quân sự Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh đã được diễn đạt thông qua công thức biểu trưng, mà mới nghe, tưởng như nằm ngoài các quy luật thép của mọi cuộc chiến tranh: Lấy nhỏ thắng lớn, lấy ít địch nhiều, lấy yếu thắng mạnh.
Ba là, đã vận dụng và phát triển sáng tạo lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học trong xây dựng và đổi mới chủ nghĩa xã hội, góp phần tăng cường sức sống cho chủ nghĩa Mác-Lênin trong bối cảnh mới của thời đại. Các quá trình cải tổ, cải cách ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu, tuy được tiến hành gần như cùng thời gian với đổi mới ở Việt Nam nhưng không thành công, càng triển khai thì chủ nghĩa xã hội càng suy yếu để cuối cùng sụp đổ, tan rã một cách xót xa. Trái lại, ở Việt Nam, chủ nghĩa xã hội thông qua đổi mới, cải cách, cập nhật hóa đã tìm được những “mảnh đất hiện thực” sinh động để khẳng định sức sống và phát triển. Bí quyết làm nên sự khác nhau này chính là đường lối đổi mới do Đảng Cộng sản
Việt Nam khởi xướng và liên tục bổ sung, phát triển đúng đắn, phù hợp. Toàn bộ những kết quả quan trọng này tạo thành lý luận về đường lối đổi mới, xứng đáng là đóng góp lý luận đặc sắc của Đảng và nhân dân
Việt Nam đối với lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học và tư duy chính trị thế giới ngày nay.
“Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho dân giàu nước mạnh”[5]; “Chủ nghĩa xã hội là no ấm và tự do cho toàn thể nhân dân”[6]; “Chủ nghĩa xã hội là công bằng hợp lý: Làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm thì không được hưởng. Những người già yếu hoặc tàn tật sẽ được Nhà nước giúp đỡ chăm nom”[7]; “Nói một cách tóm tắt, mộc mạc, chủ nghĩa xã hội trước hết nhằm làm cho nhân dân lao động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no và sống một đời hạnh phúc”[8]… Nêu lại một số luận điểm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội mà Đảng Cộng sản Việt Nam đang kế thừa để thấy rõ lãnh tụ Việt Nam, ngay từ rất sớm, đã bản lĩnh vượt qua mọi khuôn mẫu, sáng tạo, nhận thức cái phổ biến trong cái đặc thù và thật sự đã có những đóng góp lý luận vượt thời gian để đồng hành cùng những người cộng sản trên thế giới hiện nay.
Hệ thống các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về tám đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa, tám phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội và các mối quan hệ lớn cần nhận thức và giải quyết tốt trong quá trình đổi mới đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là sự vận dụng, phát triển sáng tạo lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học phù hợp điều kiện cụ thể, trong đó vừa chứa đựng những nguyên lý bền vững của chủ nghĩa Mác-Lênin, vừa cập nhật những mục tiêu phát triển thiên niên kỷ (Millennium Development Goals-MDG) và những mục tiêu phát triển bền vững (Sustainable Development Goals-SDG) mà Liên hợp quốc vạch ra như hướng đi cho nhân loại đến giữa thế kỷ 21.
Bốn là, đã nêu lên bài học kinh nghiệm về tập hợp, đoàn kết, liên minh lực lượng trong cuộc đấu tranh vì những mục tiêu cao cả của các dân tộc và toàn nhân loại hiện nay. Theo phát biểu của nhiều chính khách, nhà hoạt động chính trị-xã hội và học giả quốc tế, đây là đóng góp thiết thực từ thực tiễn cách mạng Việt Nam đối với cuộc đấu tranh của các lực lượng cách mạng, cánh tả, dân chủ, tiến bộ trên thế giới, tuy rất đông đảo và đầy nhiệt huyết nhưng chưa đoàn kết thành một thực thể sức mạnh tổng hợp đương đầu với các thế lực tư bản hiện nay[9].
Những người cộng sản Việt Nam đã thực hiện thành công di huấn của C. Mác và Ph. Ăngghen thiên tài “vô sản mỗi nước phải biết giành lấy dân tộc, biến thành dân tộc” trong quá trình lãnh đạo cách mạng vì mục tiêu của chủ nghĩa xã hội; đồng thời, cũng đặc biệt thành công trong gắn cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Đông đảo bạn bè quốc tế, trong đó có nhiều đại diện của phong trào cộng sản, phong trào cách mạng thế giới đã trở về với thực tiễn sinh động và những bài học kinh nghiệm đắt giá đã được đúc kết từ cách mạng Việt Nam. Đoàn kết giai cấp, đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế, đó là cẩm nang thần kỳ mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng tiền phong và nhân dân Việt Nam đã kết thành lá cờ mang tầm vóc thời đại: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”[10].
Cách mạng Việt Nam từ năm 1930 đến nay vừa được hưởng những tác động tích cực từ xu thế chung, thời cơ lớn, sự ủng hộ, giúp đỡ thiết thực…, vừa là đội tiên phong có nhiều đóng góp xứng đáng đối với sự nghiệp quốc tế, trong đó những đóng góp lý luận đặc sắc. Đây vừa là di sản quý báu và là sự bổ sung, phát triển lý luận cộng sản trong thời đại mới; đồng thời, cũng là một sự bổ sung, phát triển của tư duy chính trị hiện đại. Trong hành trình đi tới một xã hội tốt đẹp hơn, các lực lượng cộng sản, cánh tả, cách mạng và tiến bộ sẽ còn trở lại với những di sản lý luận Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh./.
Có thể là hình ảnh về 8 người và văn bản
Tất cả cảm xúc:
4

NHỮNG BƯỚC TIẾN VƯỢT BẬC VỀ ĐỐI NGOẠI DƯỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG

 NHỮNG BƯỚC TIẾN VƯỢT BẬC VỀ ĐỐI NGOẠI DƯỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG

Từ khi ra đời ngày 3/2/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua bao thác ghềnh, đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Cũng trong 95 năm qua, đối ngoại và ngoại giao Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã không ngừng trưởng thành, lớn mạnh, đổi mới và phát triển, đạt nhiều thành tựu vĩ đại, lịch sử.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, đối ngoại và ngoại giao góp phần đấu tranh giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước (1930-1975):
Tư tưởng chỉ đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt nền tảng lý luận cho ngoại giao Việt Nam trong sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc.
Ngay từ những văn kiện đầu tiên như Chính cương và sách lược vắn tắt (02/1930), Luận cương chính trị (10/1930), Đảng đã xác định tầm nhìn chiến lược khi xác định cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, với nhiệm vụ “liên kết những dân tộc bị áp bức và quần chúng vô sản trên thế giới”. Từ nhận thức này, Đảng đã đề ra sách lược tập hợp lực lượng cả trong nước và quốc tế, đặt nền móng cho tư tưởng đoàn kết quốc tế trong ngoại giao Việt Nam.
Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, tư tưởng chỉ đạo này được phát triển toàn diện và có hệ thống trong Thông cáo về chính sách đối ngoại (3/10/1945). Văn bản không chỉ tuyên bố với quốc tế về mục tiêu kép của ngoại giao Việt Nam - vừa bảo đảm “sự độc lập hoàn toàn và vĩnh viễn” của dân tộc, vừa đóng góp vào việc “cùng các nước Đồng minh xây dựng nền hòa bình thế giới”, mà còn xác định rõ phương châm “lấy nguyên tắc của Hiến chương Đại Tây Dương làm nền tảng” và triển khai linh hoạt “bằng mọi phương pháp êm dịu hay cương quyết”.
Trong giai đoạn 1945-1946, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tư tưởng ngoại giao Việt Nam càng được hoàn thiện và phát triển sâu sắc. Người đã kết hợp nhuần nhuyễn giữa độc lập tự chủ và đoàn kết quốc tế, giữa kiên định nguyên tắc và linh hoạt trong sách lược, đúc kết trong câu nói mang tầm triết lý sâu sắc: “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”. Trong đó, yếu tố “bất biến” chính là sự kiên định với mục tiêu tối thượng bảo đảm độc lập, chủ quyền và lợi ích quốc gia - dân tộc; còn “vạn biến” là phương pháp chủ động, linh hoạt và sáng tạo trong triển khai để đạt được mục tiêu đó trong mọi hoàn cảnh. Những tư tưởng chỉ đạo này không chỉ tạo nền móng vững chắc cho việc hoạch định đường lối đối ngoại của Việt Nam trong giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến, mà còn tiếp tục là kim chỉ nam cho hoạt động ngoại giao Việt Nam trong suốt quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước sau này.
Trong hai cuộc kháng chiến, Đảng đã vận dụng sáng tạo phương châm kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh ngoại giao. Chiến lược này phát triển từ quan điểm “đánh - đàm” riêng biệt thành phương châm “vừa đánh vừa đàm” toàn diện, thể hiện tư duy chiến lược linh hoạt nhằm tận dụng mọi con đường để đạt mục tiêu độc lập dân tộc và hòa bình. Trong kháng chiến chống Pháp, chiến lược này đã đưa đến những thành công ngoại giao quan trọng như việc ký kết Hiệp định Sơ bộ (6/3/1946) và Tạm ước (14/9/1946), tạo điều kiện cho ta củng cố lực lượng. Đỉnh cao là Hiệp định Geneva (20/7/1954), đánh dấu thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và sự công nhận quốc tế về độc lập, chủ quyền của Việt Nam.
Bước sang kháng chiến chống Mỹ, vai trò của ngoại giao được nâng tầm chiến lược. Từ chỗ “ngoại giao tâm công” được phát huy để xây dựng và mở rộng mặt trận đoàn kết quốc tế ủng hộ Việt Nam và “tiến công địch về ngoại giao” với “vai trò quan trọng, tích cực, chủ động. Đến Nghị quyết của Bộ Chính trị (4/1969), lần đầu tiên ngoại giao đã được nâng tầm thành “một mặt trận quan trọng, có ý nghĩa chiến lược” với đỉnh cao là Hiệp định Paris (1973), tạo bước ngoặt quan trọng dẫn tới Đại thắng mùa Xuân 1975. Thành công này minh chứng cho sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa thắng lợi quân sự trên chiến trường với đấu tranh ngoại giao trên bàn đàm phán, góp phần quyết định vào việc giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Đối ngoại, ngoại giao phục vụ quá trình Đổi mới, phá thế bao vây cấm vận, từng bước mở rộng quan hệ đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế (1975-1995):
Giai đoạn này, Đảng đã có bước chuyển quan trọng trong tư duy đối ngoại: từ “đấu tranh bảo vệ Tổ quốc” sang định hướng “giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, tranh thủ các yếu tố quốc tế thuận lợi” để phục vụ công cuộc đổi mới và nâng cao vị thế đất nước. Sự chuyển đổi này phản ánh tầm nhìn chiến lược mới của Đảng trong bối cảnh đất nước bước vào thời kỳ hòa bình, xây dựng và phát triển. Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị khóa VI (1988) là bước ngoặt trong quá trình đổi mới tư duy và đường lối đối ngoại khi khẳng định “lợi ích cao nhất của Đảng và nhân dân ta là phải củng cố và giữ vững hòa bình để tập trung sức xây dựng và phát triển kinh tế”. Nghị quyết đề ra yêu cầu “chuyển hướng toàn bộ chiến lược đối ngoại, cần có quan điểm mới về an ninh và phát triển, ưu tiên tập trung cho sự nghiệp giữ vững hòa bình và phát triển kinh tế. Từ chủ trương “thêm bạn, bớt thù”, Đảng đã phát triển thành hệ thống quan điểm chỉ đạo xuyên suốt về đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa; “là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế”.
Trên cơ sở đó, Việt Nam đã tích cực triển khai nhiều hoạt động đối ngoại quan trọng: nỗ lực xử lý vấn đề Campuchia tạo cơ sở bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc; thúc đẩy tiến trình bình thường hóa với Mỹ; đồng thời từng bước tạo dựng vị thế trên các diễn đàn đa phương, đặc biệt là trong Phong trào Không liên kết (1976) và Liên hợp quốc (1977). Tháng 7/1995 đánh dấu bước đột phá trong việc phá vỡ thế bị bao vây cấm vận với ba sự kiện mang tính cộng hưởng: thiết lập quan hệ ngoại giao với Mỹ, ký Hiệp định khung hợp tác với Liên minh châu Âu và gia nhập ASEAN, mở ra giai đoạn hội nhập quốc tế và phát triển mới của đất nước.
Mở rộng và đưa quan hệ đi vào chiều sâu, hội nhập quốc tế sâu rộng, toàn diện và thể hiện vai trò thành viên chủ động, tích cực và có trách nhiệm (1996-nay):
Đảng ta đã phát triển mạnh mẽ tư duy hội nhập quốc tế từ mở rộng quan hệ song phương, đa phương đến chủ động hội nhập toàn diện, sâu rộng và là thành viên có chủ động, tích cực và có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. Quá trình này đánh dấu bước chuyển căn bản từ tư duy tiếp cận, tham gia sang chủ động đóng góp, từ đơn lĩnh vực sang đa lĩnh vực, từ thụ động thích nghi sang chủ động, tích cực tham gia và vươn lên đóng vai trò nòng cốt dẫn dắt. Từ chỗ xác định “chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực” tại Đại hội IX (2001) [8], tư duy này được phát triển một bước tại Đại hội X (2006) thành “chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác”. Đó là tiền đề quan trọng để dẫn đến bước chuyển quan trọng, thành “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế” tại Đại hội XI (2011), sau đó được cụ thể hóa qua Nghị quyết 22-NQ/TW (2013) của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế trên tất cả các lĩnh vực và nâng tầm thành “chủ động, tích cực hội nhập sâu rộng, toàn diện” tại Đại hội XIII (2021). Riêng về ngoại giao đa phương, Chỉ thị 25-CT/TW (2018) của Ban Bí thư về đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương đến năm 2030 lần đầu tiên xác định ngoại giao đa phương là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và đặt ra yêu cầu “nỗ lực vươn lên đóng vai trò nòng cốt, dẫn dắt hoặc hòa giải tại các tổ chức đa phương có tầm quan trọng chiến lược đối với đất nước, phù hợp với khả năng và điều kiện cụ thể của nước ta”.
Thành tựu nổi bật của giai đoạn này là Việt Nam đã vượt qua thế bị bao vây, cấm vận thiết lập quan hệ ngoại giao với gần 200 quốc gia, đã thiết lập quan hệ đối tác chiến lược và đối tác chiến lược toàn diện với tất cả 5 nước thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc. Ngoại giao kinh tế trở thành một trụ cột cho phát triển với việc ký kết và thực thi hiệu quả gần 20 Hiệp định thương mại tự do, đưa kim ngạch thương mại đạt mức kỷ lục gần 800 tỷ USD, đồng thời mở rộng hợp tác trong các lĩnh vực mới như công nghệ bán dẫn, trí tuệ nhân tạo, đổi mới sáng tạo... Trên các diễn đàn đa phương như ASEAN, Liên hợp quốc, APEC, G20, BRICS, Việt Nam ngày càng khẳng định vai trò tích cực và có trách nhiệm. Đặc biệt, năm 2024 ta đã lần đầu tiên khởi xướng và tổ chức thành công Diễn đàn tương lai ASEAN, thể hiện đóng góp của Việt Nam trong định hình tương lai của Cộng đồng ASEAN.
Thành tựu nổi bật của giai đoạn từ năm 1996 đến nay là Việt Nam đã vượt qua thế bị bao vây, cấm vận thiết lập quan hệ ngoại giao với gần 200 quốc gia, đã thiết lập quan hệ đối tác chiến lược và đối tác chiến lược toàn diện với tất cả 5 nước thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc.
Năm 2025 là năm quan trọng, có ý nghĩa đặc biệt, là năm kỷ niệm 80 năm thành lập nước và của ngành ngoại giao. Phát huy những thành tựu đã đạt được, đối ngoại và ngoại giao Việt Nam cần “tiếp tục phát huy vai trò tiên phong” và nhiệm vụ “xây dựng nền ngoại giao toàn diện, hiện đại” mà Đại hội XIII đã đặt ra. Đồng thời, cần không ngừng nỗ lực thể hiện vai trò trọng yếu thường xuyên trong việc tạo lập và giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, không ngừng củng cố cục diện đối ngoại thuận lợi, định vị Việt Nam vào vị trí tối ưu trong các xu hướng và trào lưu phát triển, tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài, không ngừng nâng cao vị thế, uy tín của đất nước, tiếp tục đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng, góp phần đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc../.
Có thể là hình ảnh về 10 người
Tất cả cảm xúc:
3