Thứ Bảy, 4 tháng 1, 2025

 BẢO ĐẢM CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC BỊ ẢNH HƯỞNG SAU SẮP XẾP, TINH GỌN BỘ MÁY

Việc sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị đang được các cấp, ngành, địa phương triển khai với tinh thần chủ động, khẩn trương, hiệu quả ngay trong thực tế. Trong một số bài viết, bài phát biểu gần đây, Tổng Bí thư Tô Lâm luôn nhấn mạnh, đây là vấn đề rất cấp bách, bắt buộc phải làm, càng làm sớm càng có lợi cho nhân dân, cho đất nước vì đã nhiều đại hội của Đảng từ các nhiệm kỳ trước từng đặt ra vấn đề này, nhất là từ Đại hội XII đến nay.

Điều đó cho thấy Đảng đã nhìn ra và thấy cần phải thực hiện nhưng quá trình triển khai chưa đạt mục tiêu đề ra. Đây thật sự là vấn đề khó, thậm chí rất khó vì khi tiến hành tinh gọn bộ máy sẽ liên quan đến tâm tư, tình cảm, nguyện vọng và ảnh hưởng trực tiếp tới lợi ích của một số cá nhân, tổ chức.

Tổng Bí thư yêu cầu, từng cơ quan, đơn vị phải thực hiện tốt công tác chính trị tư tưởng và chế độ, chính sách đối với cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, người lao động bị ảnh hưởng do sắp xếp lại tổ chức, bộ máy; bảo đảm công bằng, công khai, khách quan, không để phát sinh phức tạp.

Các cấp ủy đảng từ Trung ương đến cơ sở chỉ đạo tăng cường công tác tuyên truyền, định hướng dư luận, tạo sự thống nhất cao trong Đảng và toàn hệ thống chính trị, sự đồng thuận trong nhân dân về chủ trương, yêu cầu, nhiệm vụ tinh gọn tổ chức bộ máy trong tình hình mới.

Cùng với tinh gọn bộ máy cơ quan đảng, Nhà nước, việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp huyện, xã cũng được tiến hành đồng thời tại nhiều địa phương. Tại tỉnh Bắc Giang, ngay sau khi Nghị quyết số 1191/NQ-UBTVQH15 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội ngày 28/9/2024, về sắp xếp đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã của tỉnh Bắc Giang giai đoạn 2023-2025 được ban hành, mọi công tác chuẩn bị được cả hệ thống chính trị vào cuộc đồng bộ, cụ thể, rõ việc, rõ người, rõ trách nhiệm.

Các đơn vị sau sắp xếp đi vào hoạt động ngay từ ngày 1/1/2025. Trong quá trình triển khai, Tỉnh ủy Bắc Giang nhận định, đây là chủ trương lớn của Đảng, nhằm tổ chức hợp lý đơn vị hành chính các cấp phù hợp thực tiễn và xu thế phát triển, đồng thời bảo đảm bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.

Xác định rõ là nhiệm vụ khó, nhạy cảm, phức tạp, với tinh thần “chỉ bàn làm không bàn lùi”, các cấp ủy từ tỉnh đến cơ sở đã huy động sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị với quyết tâm cao nhất, hành động khẩn trương, đặc biệt nhấn mạnh vai trò, trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, người đứng đầu và sự đồng thuận của nhân dân.

Theo quyết nghị của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, tỉnh Bắc Giang sắp xếp lại 4 đơn vị hành chính cấp huyện. Trong đó, nhập địa giới hành chính huyện Yên Dũng với thành phố Bắc Giang; sắp xếp, điều chỉnh địa giới hành chính huyện Lục Ngạn và huyện Sơn Động để thành lập thị xã Chũ, huyện Lục Ngạn và huyện Sơn Động; sắp xếp 34 đơn vị hành chính cấp xã để thành lập 17 đơn vị hành chính cấp xã; thành lập 13 phường thuộc thành phố Bắc Giang, 5 phường thuộc thị xã Chũ; 2 thị trấn thuộc huyện Lục Ngạn. Sau sắp xếp, tỉnh có 10 đơn vị hành chính cấp huyện, 192 đơn vị hành chính cấp xã.

Trong quá trình sắp xếp đơn vị hành chính, điều được cán bộ, công chức quan tâm đó là phương án bố trí và chế độ bảo đảm quyền lợi của những người bị ảnh hưởng. Theo lãnh đạo Sở Nội vụ tỉnh Bắc Giang, sắp xếp tổ chức bộ máy đơn vị hành chính, đội ngũ lãnh đạo quản lý và cán bộ, công chức, viên chức cấp huyện, cấp xã là việc làm cấp thiết, được cấp ủy, chính quyền các cấp tỉnh Bắc Giang đặc biệt quan tâm, chủ động thực hiện.

Với tinh thần không chờ đợi, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã ban hành Hướng dẫn số 02-HD/TU ngày 3/6/2024, trong đó nêu rõ, ưu tiên cán bộ, công chức thôi giữ chức vụ lãnh đạo, hoặc giữ chức vụ lãnh đạo có phụ cấp thấp hơn lúc chưa sắp xếp, có đủ tiêu chuẩn, điều kiện và còn thời gian công tác tối thiểu 30 tháng (tính đến thời điểm nghỉ hưu) được ưu tiên khi giới thiệu bầu, bổ nhiệm vào chức vụ đã giữ lúc chưa sắp xếp, hoặc các chức vụ tương đương.


Cán bộ, công chức thôi giữ chức vụ lãnh đạo quản lý được hưởng nguyên phụ cấp chức vụ đến hết thời hạn bổ nhiệm hoặc nhiệm kỳ đại hội của tổ chức đó...


Về phương án giải quyết chính sách cán bộ, công chức, viên chức dôi dư có nguyện vọng nghỉ hưu trước tuổi hoặc thôi việc, HĐND tỉnh đã ban hành Nghị quyết số 47/2024/NQ-HĐND quy định chính sách hỗ trợ. Theo đó, ngoài hưởng các chế độ theo quy định của Trung ương, người lao động có nguyện vọng nghỉ hưu trước tuổi hoặc thôi việc còn được hưởng chính sách của địa phương, mức một phần hai tháng tiền lương hiện hưởng cho mỗi tháng nghỉ hưu trước tuổi, tối đa không quá 200 triệu đồng/người.


Người thôi việc được hỗ trợ một phần hai tháng tiền lương hiện hưởng cho mỗi tháng làm việc có đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc và được hỗ trợ một lần tiền đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế theo mức lương hiện hưởng đến khi đủ 20 năm (phần Nhà nước đóng); tối đa không quá 200 triệu đồng/người.


Cán bộ, công chức, viên chức thuộc thành phố Bắc Giang được điều động hoặc biệt phái đến làm việc tại thị xã Chũ và huyện Lục Ngạn, được hưởng mức hỗ trợ từ 5 triệu đồng-7 triệu đồng/người/tháng. Người được điều động hưởng hỗ trợ 5 năm. Người được biệt phái hưởng hỗ trợ theo thời gian biệt phái.


Với sự quan tâm, chia sẻ kịp thời, công bằng và minh bạch, việc sắp xếp đơn vị hành chính tại tỉnh Bắc Giang đã diễn ra thuận lợi, bảo đảm kế hoạch đề ra. Quá trình đó ghi nhận sự đồng tình, ủng hộ, thống nhất rất cao của cán bộ, công chức, nhân dân trong tỉnh. Thời điểm này, các địa phương sau điều chỉnh địa giới đã đi vào hoạt động ngay, nhanh chóng ổn định để kịp thời chuẩn bị các điều kiện phục vụ đại hội đảng các cấp, tiến tới Đại hội XIV của Đảng./.


Nhân dân

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN PHẢI DŨNG CẢM HY SINH ĐỂ ĐẤT NƯỚC PHÁT TRIỂN!

     Lịch sử 95 năm của Đảng Cộng sản Việt Nam đã chứng minh: Đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng luôn tiên phong, gương mẫu, sẵn sàng cống hiến, hy sinh vì Đảng, vì đất nước, vì nhân dân!
Chủ tịch Hồ Chí Minh, người sáng lập, lãnh đạo, rèn luyện Đảng ta khẳng định: Đảng viên là người thay mặt Đảng đại biểu cho lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Người chỉ ra những tiêu chuẩn của người đảng viên: 
1. Suốt đời kiên quyết phấn đấu cho chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. 
2. Rèn luyện tư tưởng vô sản, sửa chữa những tư tưởng sai lầm. Kiên quyết đứng hẳn trên lập trường giai cấp công nhân, không đứng chân trong chân ngoài. 
3. Đặt lợi ích của Đảng lên trên hết, trước hết. Biết đem lợi ích riêng, lợi ích của cá nhân phục tùng lợi ích chung của cách mạng. 
4. Tuyệt đối chấp hành nghị quyết và kỷ luật của Đảng. 
5. Liên hệ chặt chẽ với quần chúng. 
6. Luôn luôn cố gắng học tập, thật thà tự phê bình và thành khẩn phê bình đồng chí mình. Hồ Chí Minh khẳng định: “Phải giữ đúng những tiêu chuẩn đó mới xứng đáng là người đảng viên”.
Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam ghi rõ đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam là chiến sĩ cách mạng trong đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam, suốt đời phấn đấu cho mục đích, lý tưởng của Đảng, đặt lợi ích của Tổ quốc, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động lên trên lợi ích cá nhân; chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, các nghị quyết của Đảng và pháp luật của Nhà nước; có lao động, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; có đạo đức và lối sống lành mạnh; gắn bó mật thiết với nhân dân; phục tùng tổ chức, kỷ luật của Đảng, giữ gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng. 
Trong giai đoạn đổi mới vừa qua, Đảng ta và cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tiếp tục xác định Đảng lãnh đạo cách mạng bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu của cán bộ, đảng viên của Đảng. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII cũng chú trọng yêu cầu gương mẫu của cán bộ, đảng viên trong thực hiện nghiêm túc các quy định của Đảng về trách nhiệm nêu gương, xác định đảng viên tự giác nêu gương để khẳng định vị trí lãnh đạo, vai trò tiên phong, gương mẫu, tạo sự lan tỏa, thúc đẩy các phong trào cách mạng. Nghị quyết Đại hội nhấn mạnh cán bộ, đảng viên chức vụ càng cao càng phải gương mẫu, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương. Mới đây, ngày 9-5-2024, Bộ Chính trị khóa XIII, ban hành Quy định số 144-QĐ/TW về chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn mới, trong đó có quy định đảng viên nêu cao lòng tự trọng, danh dự, không cơ hội chính trị, tham vọng quyền lực, giữ gìn phẩm giá của người cán bộ, đảng viên, không để tác động lôi kéo, cám dỗ tiêu cực. Quy định còn chỉ ra trách nhiệm đảng viên không để gia đình, người thân và người khác lợi dụng chức vụ, vị trí công tác để trục lợi; cán bộ, đảng viên phải bảo vệ uy tín, danh dự của bản thân, của tổ chức đảng và thực hiện văn hóa từ chức khi bản thân không đủ khả năng, uy tín.
Ngược lại với thực tế trên, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị tìm mọi cách chống phá vai trò tiên phong, gương mẫu của đảng viên của Đảng. Trên không gian mạng, Việt Tân đưa ra nhiều thông tin bịa đặt, sai trái về đội ngũ cán bộ, đảng viên; chúng trắng trợn tuyên truyền đảng viên đều thiếu gương mẫu, chỉ lo tham nhũng, tiêu cực, coi thường pháp luật; chúng kích động, kêu gọi: “Tổ quốc và đảng là hai khái niệm khác nhau. Tổ quốc thì bất biến còn đảng sẽ đến lúc tiêu vong. Yêu nước không cần yêu đảng”…
Thực tế gần 95 năm Đảng Cộng sản Việt Nam trưởng thành, phát triển, lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác đã bác bỏ những thông tin chống phá trên.
Trong kháng chiến cũng như trong hòa bình, đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng Cộng sản Việt Nam luôn phát huy tính tiên phong, gương mẫu, có tác dụng lôi cuốn, hướng dẫn nhân dân noi theo. Nhiều cán bộ, đảng viên đã dũng cảm hy sinh lợi ích riêng, thậm chí hy sinh tính mạng của mình vì sự nghiệp của Đảng, độc lập, tự do của Tổ quốc, ấm no, hạnh phúc của nhân dân. Chỉ tính trong giai đoạn giai đoạn cách mạng 1930-1945 đã có nhiều cán bộ, đảng viên, trong đó có 4 đồng chí Tổng Bí thư của Đảng là Trần Phú, Hà Huy Tập, Nguyễn Văn Cừ, Lê Hồng Phong anh dũng hy sinh vì sự nghiệp cách mạng. Vào thời kỳ đổi mới đất nước, sự gương mẫu của cán bộ, đảng viên của Đảng tiếp tục được duy trì, phát triển nghiêm túc và hiệu quả. Tiêu biểu như những cán bộ, đảng viên lực lượng vũ trang nhân dân đã luôn kiên cường chiến đấu phòng, chống thiên tai bão lũ, dũng cảm hy sinh vì dân, vì nước, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chiến đấu thời bình, được Đảng, Nhà nước và nhân dân ca ngợi, đánh giá cao.
Bên cạnh đó, đối với một số cán bộ, đảng viên vi phạm kỷ luật Đảng, vi phạm pháp luật Nhà nước, Đảng, Nhà nước, các cơ quan chức năng, cơ quan pháp luật đã kiên quyết xử lý nghiêm minh, không có ngoại lệ, không có vùng cấm, được nhân dân đồng tình, ủng hộ, góp phần củng cố, tăng cường sự tin tưởng, đoàn kết nhất trí giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước, chế độ.
Hiện nay, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa đã và đang đòi hỏi đội ngũ cán bộ, đảng viên phải nêu cao hơn nữa tinh thần trách nhiệm, tiên phong, gương mẫu để cùng cả nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển. Trong mọi nhiệm vụ, nhất là nhiệm vụ thực hiện cuộc cách mạng về tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị để bộ máy hoạt động hiệu lực, hiệu quả hơn rất cần sự gương mẫu, cống hiến, hy sinh của cán bộ, đảng viên. Tổng Bí thư Tô Lâm đã nêu rõ: Hơn lúc nào hết, đội ngũ cán bộ, đảng viên phải nêu cao tinh thần trách nhiệm, gương mẫu thực hiện nhiệm vụ trên tinh thần đặt lợi ích chung lên trên hết, mạnh dạn đổi mới, sáng tạo, đột phá, dũng cảm hy sinh để đất nước phát triển”. Tổng Bí thư cũng chỉ rõ: Mỗi cán bộ, đảng viên phải không ngừng tự học hỏi để “nâng mình lên” để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong giai đoạn mới của đất nước, nếu không đáp ứng được thì tự nguyện đứng sang một bên để người khác làm.
Chỉ đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm đã được toàn Đảng, các cấp, các ngành, các địa phương đồng tình, ủng hộ, trong đó đội ngũ cán bộ, đảng viên luôn sẵn sàng cống hiến, hy sinh vì lợi ích chung. Ngày 9-12-2024, tại phiên khai mạc kỳ họp Hội đồng Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, đồng chí Nguyễn Văn Nên, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành ủy cũng phát biểu rất thẳng thắn, cụ thể, tâm huyết: “Đối với cá nhân sẽ có tác động ít nhiều. Nhưng chúng ta là đảng viên, là cán bộ, công chức Nhà nước thì mục đích, nhiệm vụ của chúng ta là phục vụ cho nhân dân. Nếu có đồng chí phải rời vị trí của mình để đất nước phát triển cũng là điều có ý nghĩa, không có gì phải trăn trở”.
Với nỗ lực của Đảng, Nhà nước và nhân dân, với sự tiên phong, gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng, chúng ta tin tưởng và kỳ vọng cán bộ, đảng viên của Đảng sẽ thực hiện nghiêm túc Di chúc thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”. /.
Yêu nước ST.

SỰ XUYÊN TẠC, KÍCH ĐỘNG THÂM HIỂM VỀ NHIỆM VỤ BẢO VỆ CHỦ QUYỀN QUỐC GIA TRÊN BIỂN!

         Thời gian qua, trên các trang mạng xã hội, các thế lực thù địch, phản động, một số tổ chức, cá nhân thiếu thiện chí với Việt Nam đã trắng trợn xuyên tạc chủ trương, đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà nước ta có liên quan về vấn đề chủ quyền biển, đảo Việt Nam!

Họ vu cáo rằng, Đảng, Nhà nước và Quân đội ta “không kiên quyết bảo vệ chủ quyền biển, đảo và lợi ích quốc gia trên biển”, “lúc nào cũng chỉ muốn đối thoại, đàm phán hòa bình nên để nước ngoài lấn tới...”; "không đủ năng lực và không đủ quyết tâm để bảo vệ chủ quyền biển, đảo”...

Từ đây, các đối tượng ra sức xuyên tạc sự thật về mối quan hệ giữa Việt Nam với các nước có biển trong khu vực Biển Đông; tuyên truyền chủ nghĩa dân tộc cực đoan, tâm lý bài nước này, thân nước kia; kích động sự chống đối Đảng, Nhà nước; hạ thấp vị thế, vai trò, sức mạnh của Quân đội; phá hoại, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Họ kêu gọi Đảng, Nhà nước ta phải từ bỏ chính sách đối ngoại quốc phòng “4 không”, đòi Đảng ta “thực hiện liên minh quân sự” để bảo vệ chủ quyền biển, đảo, bảo vệ lợi ích quốc gia trên biển... 

Có thể thấy, những luận điệu trên hoàn toàn là sự xuyên tạc trắng trợn, kích động với dụng ý phá hoại. Sự thật là nhiệm vụ bảo vệ biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc luôn được Đảng, Nhà nước, Quân đội ta đặc biệt coi trọng, đang được tiến hành một cách đồng bộ, bài bản, kiên quyết, kiên trì, kiên cường và khôn khéo.

Thứ nhất, đường lối, chính sách, các chiến lược, kế hoạch... phát triển đất nước của Đảng, Nhà nước ta từ trước đến nay đều khẳng định rất rõ ràng, biển, đảo là một bộ phận lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc; lợi ích quốc gia trên biển là vấn đề trọng yếu, thường xuyên và lâu dài của Việt Nam. Ngay từ thời điểm đang phải dồn toàn lực để giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, dù khó khăn trăm bề, Đảng, Nhà nước, Quân đội ta đã kịp thời đưa lực lượng, phương tiện đi giải phóng các đảo từ tay chế độ cũ, thể hiện tầm nhìn trong việc bảo vệ chủ quyền biển, đảo quốc gia.

Trong suốt những năm qua, Việt Nam luôn kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo và tất cả lợi ích hợp pháp, chính đáng trên biển Việt Nam đã được luật pháp quốc tế và Hiến pháp, pháp luật Việt Nam quy định. Đảng, Nhà nước, Quân đội ta đã nhiều lần phát ngôn công khai, khẳng định rõ lập trường, quan điểm nêu trên.

Hệ thống quan điểm của Đảng ta về công tác đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo ngày càng được hoàn thiện, phát triển. Điều đó được thể hiện rõ qua các văn kiện của mỗi kỳ đại hội Đảng. Gần đây nhất, Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định, bổ sung, phát triển những quan điểm cơ bản về nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo trong tình hình mới. Trong đó, Đảng đã xác định quan điểm nhất quán và đề ra các biện pháp giải quyết vấn đề trên biển hiện nay.

Thứ hai, Đảng, Nhà nước và Quân đội ta luôn ưu tiên dành mọi nguồn lực tốt nhất cho nhiệm vụ giữ vững chủ quyền biển, đảo; kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội với củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh tại địa bàn chiến lược, vùng đặc biệt khó khăn, biên giới, hải đảo.

Những năm qua, Đảng, Nhà nước ta chủ trương đẩy mạnh phát triển kinh tế biển, tạo điều kiện thuận lợi để ngư dân yên tâm bám biển, làm giàu từ biển. Nhiều ngành kinh tế biển được chú trọng như khai thác dầu khí, vận tải biển, điện gió ngoài khơi, du lịch biển, đảo, phát triển kinh tế các đảo, đẩy mạnh nghiên cứu khoa học... Tất cả hoạt động kinh tế biển đó thể hiện tính chất của nền quốc phòng toàn dân, thực hiện sách lược gắn kinh tế với quốc phòng, góp phần bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo.

Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22-10-2018 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 xác định: “Việt Nam phải trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển, phát triển bền vững, thịnh vượng, an ninh và an toàn; phát triển bền vững kinh tế biển gắn liền với bảo đảm quốc phòng, an ninh, giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ”.

Thứ ba, trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực tiếp tục có những diễn biến phức tạp, Đảng, Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại; bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia-dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác cùng có lợi.

Đảng, Nhà nước ta thực hiện triết lý “Ngoại giao cây tre” mà bản chất là mềm mại, khôn khéo nhưng rất kiên cường, quyết liệt. Mục tiêu lớn nhất là tránh được xung đột, không để xảy ra chiến tranh, giữ gìn môi trường hòa bình để phát triển đất nước, nhưng đồng thời bảo vệ được lợi ích quốc gia-dân tộc với quyết tâm cao nhất. Chúng ta biết nhu, biết cương, biết thời thế, biết thực lực, biết mình, biết người, biết tiến, biết lui đúng lúc, hợp thời. Đó cũng là thực hiện triết lý “Dĩ bất biến ứng vạn biến”, “Lạt mềm buộc chặt” mà ông cha ta đã đúc rút từ các bài học đấu tranh dựng nước và giữ nước.

Chúng ta xác định, giải quyết tranh chấp trên Biển Đông là vấn đề lâu dài, kiên trì hợp tác tìm kiếm biện pháp hòa bình để giải quyết tranh chấp, bảo vệ lợi ích chính đáng của nước ta, đồng thời tôn trọng lợi ích chính đáng của các nước trên cơ sở tuân thủ luật pháp quốc tế. Chúng ta không đi với nước này để chống lại nước kia; không thụ động chịu tác động hay sự lôi kéo của bất cứ nước nào, nhất là tránh việc trở thành con bài trong tay các nước lớn.

Thứ tư, Đảng, Nhà nước ta luôn chăm lo xây dựng lực lượng hải quân, cảnh sát biển, biên phòng, dân quân tự vệ biển và lực lượng kiểm ngư vững mạnh, với trang bị, phương tiện ngày càng đồng bộ, hiện đại đủ sức quản lý, bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Các lực lượng nêu trên luôn có tinh thần, quyết tâm cao, kiên quyết, kiên trì, kiên cường thực hiện tốt các nhiệm vụ được giao, không có chuyện “không kiên quyết bảo vệ chủ quyền biển, đảo và lợi ích quốc gia trên biển”... như kẻ xấu xuyên tạc, vu cáo.

Thứ năm, Đảng, Nhà nước quan tâm đẩy mạnh công tác tuyên truyền về chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc. Công tác tuyên truyền đã thông tin kịp thời, minh bạch, chính xác để người dân trong nước, người Việt Nam ở nước ngoài và cộng đồng quốc tế hiểu cơ sở pháp lý, chứng cứ lịch sử và sự quản lý thực tế của Việt Nam trên các vùng biển, đảo ở Biển Đông; hiểu rõ quan điểm, lập trường của Đảng, Nhà nước ta về giải quyết vấn đề chủ quyền trên Biển Đông; từ đó, xây dựng niềm tin, ý chí quyết tâm, tạo đồng thuận của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của cộng đồng quốc tế để bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc.

Do đó, những luận điệu xuyên tạc chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước ta trong nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo rõ ràng là xuất phát từ những mưu đồ đen tối, âm mưu kích động, phá hoại, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, chia rẽ mối quan hệ Việt Nam với các nước trên thế giới, cần phải được nhận diện, lên án, đấu tranh kịp thời./.
Ảnh: Đoàn công tác Vùng 2 Hải quân ra thăm, động viên các chiến sĩ Hải quân làm nhiệm vụ tại nhà giàn DK1/12 - cột mốc chủ quyền trên thềm lục địa Việt Nam. 
Khuyết danh ST.

PHÊ PHÁN LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC QUAN ĐIỂM CỦA V.I.LÊNIN “MỘT CUỘC CÁCH MẠNG CHỈ CÓ GIÁ TRỊ KHI NÓ BIẾT TỰ VỆ”!

         Một trong những luận điểm khoa học cơ bản trong học thuyết của V.I.Lênin về bảo vệ Tổ quốc là: “Một cuộc cách mạng chỉ có giá trị khi nó biết tự vệ”. Tuy nhiên, sau khi Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở Đông Âu sụp đổ, các thế lực thù địch, phản động đã bóp méo, xuyên tạc quan điểm đúng đắn của Lenin!

Tỉnh táo trước âm mưu xuyên tạc không cần bảo vệ Tổ quốc XHCN

Ngay từ năm 1916, đêm trước của cuộc cách mạng vô sản ở nước Nga, Lênin chỉ rõ: “Không cầm vũ khí bảo vệ nước cộng hòa XHCN, thì chúng ta không thể tồn tại được. Giai cấp thống trị không bao giờ nhường chính quyền cho giai cấp bị trị. Nhưng giai cấp bị trị phải chứng minh trên thực tế rằng họ không những có khả năng lật đổ bọn bóc lột, mà còn có khả năng tự tổ chức, huy động hết thảy để tự bảo vệ lấy mình”; và: “Một cuộc cách mạng chỉ có giá trị khi nó biết tự vệ”. Bởi tự vệ là để bảo vệ chính quyền và bảo vệ các thành quả cách mạng đã giành được là một tất yếu khách quan, mang tính chính nghĩa, đó là một trong những vấn đề có tính quy luật của cách mạng vô sản. Lenin còn cho rằng, “không phải cách mạng có thể biết ngay được cách tự vệ”, vì “cách tự vệ là một khoa học và nghệ thuật của cách mạng, cách mạng chỉ có thể đi tới thành công đến nơi đến chốn khi biết cách tự vệ đúng".

Sau khi tư tưởng “Một cuộc cách mạng chỉ có giá trị khi nó biết tự vệ” của Lênin ra đời đã bị các thế lực thù địch, phản động chống phá quyết liệt. Chúng phủ nhận việc bảo vệ thành quả cách mạng của giai cấp vô sản khi tiến hành cách mạng thành công. Theo chúng, cách mạng vô sản giành thắng lợi xong không cần lập nên chính quyền nhà nước vì đã thành công rồi. Để đập tan luận điệu này, ngay sau khi Cách mạng Tháng Mười Nga thành công, Lenin chỉ rõ: “Kể từ ngày 25-10-1917, chúng ta là những người chủ trương bảo vệ tổ quốc. Chúng ta tán thành "bảo vệ tổ quốc", nhưng cuộc chiến tranh giữ nước mà chúng ta đang đi tới, là một cuộc chiến tranh bảo vệ tổ quốc XHCN, bảo vệ chủ nghĩa xã hội với tính cách là tổ quốc". 

Thời gian qua, lợi dụng hệ thống XHCN thoái trào và sự biến động mau lẹ, khó lường của tình hình thế giới, các thế lực thù địch, phản động càng ra sức chống phá các nước XHCN còn lại, trong đó có Việt Nam. Chúng cho rằng hiện nay không cần phải bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN vì không còn kẻ thù xâm lược và nếu có bảo vệ thì chỉ bảo vệ Tổ quốc chứ không bảo vệ chế độ XHCN. Đây là luận điệu hết sức thâm độc, dễ gây sự ngộ nhận trong việc thực hiện nghĩa vụ quân sự bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN của công dân Việt Nam hiện nay.

Cả về phương diện lý luận và thực tiễn đã chứng minh rằng, mọi cuộc cách mạng nổ ra đều gắn với một giai cấp đứng ở vị trí trung tâm của thời đại và bao giờ vấn đề giành chính quyền cũng đều là vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng gắn với một quốc gia, dân tộc cụ thể. Như vậy, không bao giờ có Tổ quốc tách rời với một chế độ xã hội, mà bao giờ cũng gắn chặt với một chế độ xã hội nhất định như chế độ xã hội chiếm hữu nô lệ, chế độ xã hội phong kiến, chế độ xã hội tư bản chủ nghĩa, chế độ XHCN.

Nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc ở mỗi thời kỳ lịch sử đều gắn liền với chế độ ở giai đoạn lịch sử, quốc gia, dân tộc đó. Đáng tiếc là, ngoài sự chống phá của các thế lực phản động, thù địch, một số người trong nước vẫn ngộ nhận, chủ quan, không thấy hết các nguy cơ của đất nước và chế độ, không nhận thức được sự thống nhất giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở nước ta nên có biểu hiện coi nhẹ nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc XHCN; không nhận thức đầy đủ mối quan hệ biện chứng giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN. Thậm chí một số người Việt Nam tuy mang trong mình dòng máu Lạc Hồng và đang được hưởng thành quả cách mạng nhưng quay lưng lại với dân tộc, ra sức công kích, xuyên tạc đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, rắp tâm phá hoại thành tựu của công cuộc đổi mới đất nước, cuộc sống thanh bình của nhân dân. 

Phê phán luận điệu xuyên tạc quan điểm của V.I.Lênin “Một cuộc cách mạng chỉ có giá trị khi nó biết tự vệ”
Ảnh minh họa: Internet 
Tăng cường sức mạnh tổng hợp, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN

Việc trung thành, vận dụng sáng tạo tư tưởng của Lênin “Một cuộc cách mạng chỉ có giá trị khi nó biết tự vệ” có ý nghĩa rất quan trọng trong thời đại ngày nay. Vì vậy, chúng ta cần quán triệt, thực hiện hiệu quả Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới theo tinh thần Nghị quyết của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 8, khóa XIII.

Thấm nhuần tư tưởng nêu trên của Lênin và kế thừa truyền thống, quy luật dựng nước đi đôi với giữ nước của dân tộc ta, ngay sau thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tuyên bố trước thế giới dứt khoát rằng: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”. Kể từ đó, xuyên suốt cuộc trường chinh 30 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ, nhân dân ta đã tiến hành thắng lợi hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, thống nhất đất nước, thu non sông về một mối, cả nước cùng bước vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.

Thực tiễn cho thấy, sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu cuối những năm 80, đầu những năm 90 của thế kỷ 20 đã chứng minh rằng việc giành chính quyền đã khó nhưng giữ gìn, sử dụng chính quyền để xây dựng và bảo vệ chế độ XHCN còn khó hơn nhiều. Một trong những nguyên nhân chủ yếu của sự sụp đổ đó là do sai lầm của các đảng cộng sản trong quá trình cải tổ, cải cách, sự mất cảnh giác và tự làm suy yếu, mất sức đề kháng từ bên trong của các đảng cộng sản và lực lượng cách mạng trước âm mưu, thủ đoạn thâm độc, xảo quyệt của các thế lực thù địch.

Đúng như Lênin đã từng cảnh báo: “Không ai có thể tiêu diệt được chúng ta ngoài những sai lầm của bản thân chúng ta nếu chúng ta không mắc sai lầm, tự đánh đổ mình”. Như vậy, bài học thành công và thất bại về công cuộc bảo vệ Tổ quốc XHCN từ sau Cách mạng Tháng Mười ở các nước XHCN không chỉ khẳng định tư tưởng của Lenin “Một cuộc cách mạng chỉ có giá trị khi nó biết tự vệ” mà còn là cơ sở để xác định ý chí, quyết tâm trong nâng cao ý thức trách nhiệm của mỗi chúng ta trong đấu tranh, phản bác quan điểm sai trái, thù địch hiện nay.

Giải pháp quan trọng hàng đầu là đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân về sự cần thiết phải bảo vệ Tổ quốc gắn liền với bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ Đảng, Nhà nước và nhân dân. Đó là cơ sở để củng cố lập trường chính trị giai cấp, niềm tin và sự kiên định vào mục tiêu, lý tưởng của Đảng vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của đất nước. 

Bên cạnh đó, cần chú trọng giáo dục thống nhất nhận thức về đối tượng, đối tác và mục tiêu bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Sự phân định đối tác, đối tượng là rất cần thiết, tuy nhiên cần phải mềm dẻo, uyển chuyển trong nhận thức. Trong thực tế, ranh giới giữa đối tác và đối tượng đôi khi rất mong manh, có tính tương đối, nhận thức không phải dễ dàng, đơn giản. Do đó, cần xác định rõ những tiêu chí và quan điểm trong nhận thức và xử lý vấn đề này. Một trong những tiêu chí rất quan trọng để xác định đối tác đó là lợi ích. Bởi lợi ích (hiểu theo nghĩa đầy đủ của nó) phải được bảo đảm cho cả hai phía: Phía chúng ta và phía đối tác, làm sao để đôi bên cùng có lợi, phù hợp với pháp luật Việt Nam và thông lệ quốc tế. Tiêu chí “cùng có lợi” trở thành cơ sở của quan hệ giữa các đối tác. Trên cơ sở lợi ích chung của quốc gia, dân tộc, cần quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng và Nhà nước ta trong xác định đối tượng và đối tác là: Những ai chủ trương tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác bình đẳng cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác của chúng ta. Bất kể thế lực nào có âm mưu và hành động phá mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng đấu tranh.

Về mục tiêu bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN là toàn diện, bảo vệ cả phương diện tự nhiên-lịch sử và phương diện chính trị-xã hội trong chỉnh thể thống nhất bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN, theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 8, khóa XIII đã chỉ ra: “Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ XHCN, nền văn hóa và lợi ích quốc gia, dân tộc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, an ninh con người; xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương, an toàn, lành mạnh để phát triển đất nước theo định hướng XHCN”.

Trong bối cảnh hiện nay, cần làm cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân nhận thức đúng phương châm bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN từ sớm, từ xa, giữ nước từ khi nước chưa nguy, với nhiều kế sách linh hoạt, mềm dẻo, kiên quyết tạo thành sức mạnh tổng hợp vững chắc trong công cuộc giữ nước. 

Sức mạnh bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN là sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong đó lực lượng vũ trang nhân dân giữ vai trò nòng cốt, trụ cột. Đó là sức mạnh tổng hợp của các yếu tố chính trị, quân sự, kinh tế, khoa học-công nghệ, văn hóa, đối ngoại, biểu hiện trong sức mạnh vật chất, tinh thần của khoảng 100 triệu dân Việt Nam trong nước và hơn 5 triệu người Việt Nam sinh sống, học tập, lao động, công tác ở nước ngoài luôn hướng về Tổ quốc. Đó là sức mạnh bên trong với sức mạnh bên ngoài, sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN hiện nay./.
Khuyết danh ST.

Tài thao lược xuất chúng của Đại tướng Võ Nguyên Giáp

Chiến thắng Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954 gắn liền với tài thao lược của Đại tướng, Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp, Chỉ huy trưởng kiêm Bí thư Đảng ủy Chiến dịch Điện Biên Phủ.


Nhìn lại những hoạt động chỉ đạo, chỉ huy trong toàn bộ chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954 của Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp, từ khi nhận nhiệm vụ của Bác Hồ và Trung ương Đảng giao cho mở một chiến dịch tiến công quyết định, nhằm đập tan ý chí xâm lược của bọn thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, tạo bước ngoặt lịch sử cho cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc của Việt Nam và của hai nước anh em Lào và Cam-pu-chia, chúng ta thấy nổi bật tài năng của Đại tướng trong chỉ đạo chiến lược và chiến dịch. Đó là tinh thần quyết chiến, quyết thắng, sự kiên định về mục tiêu chiến lược; thực hiện dân chủ quân sự trong mọi công tác, trên tuyến chiến đấu cũng như ở các tuyến phục vụ chiến đấu, nhằm phát huy được cao độ sáng kiến của đông đảo cán bộ, chiến sĩ ở các cấp, khắc phục kịp thời những khó khăn mọi mặt diễn ra trong chiến đấu và khơi dậy tính năng động trong tổ chức thực hiện của các cấp.

Tư duy chỉ đạo hết sức năng động, sáng tạo của Đại tướng Võ Nguyên Giáp thể hiện qua những đặc tính cơ bản, đó là: Trình độ nghiên cứu và phân tích rất sâu về tình hình địch, xem xét thật khách quan những chỗ mạnh và chỗ yếu của chúng, từ binh sĩ cho đến người chỉ huy cao nhất của chúng. Đối chiếu với những chỗ mạnh, yếu thực chất của những đơn vị của ta tham chiến ở Điện Biên Phủ, lấy đó làm cơ sở để tính toán thật cụ thể kế hoạch tấn công tiêu diệt quân địch. Chủ động nghiên cứu thật kỹ mọi tình huống, kể cả những tình huống có lợi cũng như khó khăn, không chủ quan, không ảo tưởng để không bị bất ngờ trước những biến chuyển của thực tế. Nghệ thuật dẫn dắt tư duy của Đại tướng Võ Nguyên Giáp phát triển biện chứng, bám sát diễn biến của tình hình và tình huống tác chiến của chiến dịch, nhưng rất kiên định mục tiêu và những chủ trương lớn đã được quyết định là "trận này phải thắng", "chắc thắng mới đánh, không chắc thắng không đánh". Tất cả những điều đó được dựa trên một lòng tự tin và phong độ điềm đạm vốn có của đồng chí Tổng tư lệnh, cộng với một lòng tin tưởng vững vàng vào khả năng của quần chúng cách mạng, của cán bộ lãnh đạo, chỉ huy các cấp và của đông đảo chiến sĩ đang cùng ông gánh vác sứ mệnh lịch sử trước dân tộc, trước Đảng và Bác Hồ. Từ đó, trong quá trình tổ chức thực hiện mọi chủ trương tác chiến, sự chỉ đạo của Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã có sức thuyết phục rất cao và cũng biết khơi dậy ở mọi người sự sáng tạo đặc biệt khi đã đi sâu vào cuộc chiến đấu quyết thắng.

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: LÁ CỜ ĐỎ SAO VÀNG, HƠN CẢ MỘT BIỂU TƯỢNG!

🇻🇳🇻🇳🇻🇳🇻🇳🇻🇳🇻🇳🇻🇳🇻🇳🇻🇳🇻🇳
Đó là linh hồn của dân tộc Việt Nam, là máu đỏ da vàng của bao thế hệ cha anh đổ xuống để vun đắp nên.

Mỗi khi nhìn thấy lá cờ tung bay, lòng ta lại dâng trào một cảm xúc khó tả. Đó là niềm tự hào dân tộc, là tình yêu quê hương đất nước, là sự biết ơn sâu sắc với những hy sinh của thế hệ đi trước.

Lá cờ đỏ sao vàng nhắc nhở chúng ta về lịch sử hào hùng của dân tộc, về những năm tháng đấu tranh gian khổ để giành lấy độc lập tự do. Nó cũng là động lực để chúng ta tiếp tục xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh.
Tình yêu dành cho lá cờ chính là tình yêu Tổ quốc, một tình yêu thiêng liêng và bất diệt trong mỗi người con đất Việt./.

Môi trường ST.

Phản bác quan điểm sai trái “ở Việt Nam quyền lực nhà nước không thuộc về nhân dân”

         Những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, cả hệ thống chính trị vào cuộc thực thi quyền lực nhà nước trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; đồng thời luôn thống nhất trong lãnh đạo tổ chức thực hiện, nhằm góp phần bảo đảm quyền lực nhà nước thực sự thuộc về nhân dân. Chủ trương đó không phải là khẩu hiệu suông, càng không phải là việc “đấu đá, triệt hạ phe cánh” như những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch. Trước mỗi kỳ đại hội Đảng, các đối tượng chống phá lại đơm đặt, dựng chuyện và xuyên tạc rằng: “Ở Việt Nam quyền lực nhà nước không thuộc về nhân dân”. Sự thật lịch sử và quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam đã bác bỏ, phủ nhận những luận điệu xuyên tạc, chống phá đó.

    Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á, thiết lập nên những thiết chế căn bản đầu tiên của một nhà nước dân chủ nhân dân-khởi đầu của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay. Điều 1 của Hiến pháp năm 1946 khẳng định tính chất của Nhà nước ta là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; mọi quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân: “Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hòa. Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”.

    Trong suốt quá trình cùng với Đảng, Nhà nước và nhân dân tổ chức, xây dựng hệ thống quyền lực ở nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng luôn nhấn mạnh và thực hành tư tưởng: “Nước ta là nước dân chủ/ Bao nhiêu lợi ích đều vì dân/ Bao nhiêu quyền hạn đều của dân/ Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân/ Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân/ Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra/ Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên/ Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”. Như vậy, có thể thấy, từ những văn bản pháp lý đầu tiên của Nhà nước và người đứng đầu Nhà nước ta đã xác nhận, hệ thống chính trị XHCN nước ta luôn khẳng định chủ thể thật sự, chủ thể đích thực và chủ thể tối cao của Nhà nước và của tất cả quyền lực nhà nước là nhân dân. Điều này có nghĩa rằng, ở Việt Nam, quyền lực nhà nước có nguồn gốc từ nhân dân và cho dù bất cứ cơ quan, cá nhân nào nắm giữ thì quyền lực nhà nước cũng đều có nguồn gốc từ sự ủy quyền của nhân dân. Không có thứ quyền lực nhà nước nào có nguồn gốc tự thân, nằm ngoài sự trao quyền, ủy quyền của nhân dân.

    Kế thừa tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và quyền lực nhà nước, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn chú trọng hiện thực hóa chủ trương “Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” thành cơ chế chung trong quản lý toàn bộ xã hội. Đảng thực thi quyền lực chính trị của các giai tầng xã hội mà mình đại diện bằng cách tác động vào Nhà nước, để thông qua Nhà nước hiện thực hóa quyền, lợi ích và ý chí của các giai tầng xã hội. Trong lãnh đạo công cuộc đổi mới, Đảng ta đã có nhiều chủ trương, đường lối lãnh đạo thực hiện lĩnh vực này. Nghị quyết Đại hội XII của Đảng nhấn mạnh: Tiếp tục phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đều xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, được nhân dân tham gia ý kiến. Hiến pháp năm 2013 hiến định: “1) Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; 2) Nước Cộng hòa XHCN Việt Nam do nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức; 3) Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện những quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” (Điều 2). Về hình thức: “Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước” (Điều 6). Để bảo đảm quyền lực nhà nước thực sự thuộc về nhân dân, Điều 8 Hiến pháp năm 2013 hiến định: “Các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức phải tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân; kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền”.

Những năm qua, trong đời sống chính trị-pháp lý ở Việt Nam, việc kiểm soát quyền lực nhà nước đã trở thành nhiệm vụ quan trọng của cả hệ thống chính trị. Hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội và của các cơ quan Quốc hội, đại biểu Quốc hội được quan tâm tăng cường; công tác thanh tra, kiểm tra phục vụ quản lý nhà nước trong bộ máy hành pháp đã được đẩy mạnh, góp phần không chỉ nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước mà còn trực tiếp đấu tranh phòng, chống tham nhũng có hiệu quả. Vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị-xã hội và nhất là vai trò, quyền làm chủ của nhân dân đã được bảo đảm thực thi thực chất, đầy đủ theo phương châm: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, giám sát, dân thụ hưởng”. Công tác kiểm tra, kỷ luật Đảng đã được kết hợp chặt chẽ với việc thực thi các cơ chế thanh tra, kiểm soát bằng pháp luật. Công tác phòng, chống tham nhũng, chống tha hóa quyền lực được tiến hành đồng bộ, bài bản, ngày càng hiệu quả. Việc xử lý các hành vi, đối tượng tham nhũng bảo đảm nghiêm khắc nhưng cũng nhân văn, có lý, có tình, kết hợp “xây” và “chống”, không có vùng cấm, không có ngoại lệ, bất kể người đó là ai, làm gì; không còn tư tưởng “hạ cánh an toàn”, làm bước nào chắc bước đó, vi phạm đến đâu, xử lý đến đó, kỷ luật Đảng trước, kỷ luật hành chính, hình sự sau; bảo đảm phối hợp nhịp nhàng, chặt chẽ.

    Quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân là kết quả thực hành tư tưởng pháp quyền xã hội chủ nghĩa sáng suốt và rõ ràng, được định hướng bởi lý luận Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, được Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo trực tiếp, toàn diện về mọi mặt, được Nhà nước Việt Nam hiện thực hóa trong các chính sách và luật pháp; được đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nhà nước thực thi hiệu lực và hiệu quả; được nhân dân và các đoàn thể chính trị-xã hội trực tiếp giám sát, tham gia, quản lý bằng những cơ chế, chính sách phù hợp.

Như vậy, cả lịch sử hình thành nhà nước, xây dựng, hiến định những tư tưởng pháp quyền XHCN đầu tiên đến quá trình tổ chức hiện thực hóa, thực thi trong đời sống chính trị, xã hội và pháp lý; cùng với sự bổ sung, phát triển ở những giai đoạn tiếp theo cho thấy, ở Việt Nam quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân. Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ là sự tiếp nối mà còn là một sự bổ sung, phát triển và khẳng định sự kiên định nhất về chủ trương, đường lối thực thi quyền lực nhà nước của nhân dân, hoàn toàn không có sự xa rời và đối nghịch với tư tưởng pháp quyền XHCN mà Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Cương lĩnh, đường lối chính trị của Đảng đã đề ra, đó là xây dựng nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân và mọi quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân.

Những quan điểm, thái độ và hành động chính trị phản động, thù địch đó tất yếu sẽ bị thất bại, không chỉ bởi tất cả quyền lực của Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam hiện nay đã thuộc về nhân dân, mà còn bởi sự nhận thức chính trị của nhân dân Việt Nam hiện nay đã phát triển hơn hẳn những giai đoạn trước; đồng thời nhờ vào chính những thành quả cách mạng to lớn mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã, đang và sẽ tiếp tục phát huy trong thời kỳ mới.

Thứ Sáu, 3 tháng 1, 2025

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: BỘ NỘI VỤ THÔNG TIN VỀ THỰC HIỆN CHẾ ĐỘ TIỀN THƯỞNG!

         Chế độ tiền thưởng đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang được nêu rõ tại Nghị định số 73/2024/NĐ-CP!

Bà Nguyễn Thị Nhàn (tên nhân vật đã được thay đổi) ở Thái Nguyên cho hay, qua tìm hiểu Nghị định 73/2024/NĐ-CP năm 2024 của Chính phủ, bà được biết có quy định liên quan về thực hiện chế độ tiền thưởng.

"Vậy thưởng cho chiến sĩ thi đua và Lao động tiên tiến hàng năm có nằm trong khoản tiền thưởng này không?" - bà Nhàn thắc mắc.

Liên quan đến phản ánh, kiến nghị của bà Nguyễn Thị Nhàn, Bộ Nội vụ đã có phản hồi trên Cổng thông tin điện tử.

Chính phủ đã ban hành Nghị định số 73/2024/NĐ-CP ngày 30.6.2024 quy định mức lương cơ sở và chế độ tiền thưởng đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang, trong đó, tại Điều 4 Nghị định này nêu rõ:

Thực hiện chế độ tiền thưởng trên cơ sở thành tích công tác đột xuất và kết quả đánh giá, xếp loại mức độ hoàn thành nhiệm vụ hằng năm đối với các đối tượng quy định tại khoản 2 Điều 2 Nghị định này.

Chế độ tiền thưởng quy định tại khoản 1 Điều này được dùng để thưởng đột xuất theo thành tích công tác và thưởng định kỳ hằng năm theo kết quả đánh giá, xếp loại mức độ hoàn thành công việc của từng người hưởng lương trong cơ quan, đơn vị.

Người đứng đầu đơn vị lực lượng vũ trang theo quy định của Bộ Quốc phòng, Bộ Công an; người đứng đầu cơ quan có thẩm quyền quản lý hoặc được phân cấp thẩm quyền quản lý cán bộ, công chức và người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập có trách nhiệm xây dựng Quy chế cụ thể để thực hiện chế độ tiền thưởng áp dụng đối với các đối tượng trong danh sách trả lương của cơ quan, đơn vị; gửi cơ quan quản lý cấp trên trực tiếp để quản lý, kiểm tra và thực hiện công khai trong cơ quan, đơn vị.

Quy chế tiền thưởng của cơ quan, đơn vị quy định tại khoản 2 Điều này phải bao gồm những nội dung cụ thể; trong đó đáng chú ý: Mức tiền thưởng cụ thể đối với từng trường hợp, không nhất thiết phải gắn với mức lương theo hệ số lương của từng người.

Quỹ tiền thưởng hằng năm quy định tại Điều này nằm ngoài quỹ khen thưởng theo quy định của Luật Thi đua, khen thưởng, được xác định bằng 10% tổng quỹ tiền lương (không bao gồm phụ cấp) theo chức vụ, chức danh, ngạch, bậc và cấp bậc quân hàm của các đối tượng trong danh sách trả lương của cơ quan, đơn vị.

Đến hết ngày 31 tháng 1 của năm sau liền kề, nếu cơ quan, đơn vị không sử dụng hết quỹ tiền thưởng của năm thì không được chuyển nguồn vào quỹ tiền thưởng của năm sau.

Theo Bộ Nội vụ, việc tổ chức thực hiện chính sách đối với cán bộ, công chức, viên chức ở tỉnh Thái Nguyên thuộc thẩm quyền của Ủy ban nhân dân tỉnh.

Vì vậy, Bộ Nội vụ đề nghị bà Nhàn liên hệ với cơ quan quản lý cán bộ, công chức, viên chức tỉnh Thái Nguyên (Sở Nội vụ) để được giải đáp./.
Yêu nước ST.

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: THAM GIA NGHĨA VỤ QUÂN SỰ LÀ NGHĨA VỤ VẺ VANG CỦA MỌI CÔNG DÂN!

     Việc thực hiện nghĩa vụ quân sự vừa là trách nhiệm, vừa là niềm tự hào của mỗi Thanh niên Việt Nam. Bởi yêu nước, yêu dân tộc, yêu giống nòi không có gì phải cân, đo, đong, đếm. Vậy mà hiện nay vẫn còn những bạn trẻ xem nhẹ chuyện này!
Trong thời bình cũng như thời chiến, việc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc là nghĩa vụ rất quan trọng của mỗi công dân, nhất là lực lượng Thanh niên.

Thực tế cho thấy, trong thời gian được học tập, rèn luyện ở môi trường quân ngũ đã giúp nhiều bạn trẻ ngày càng rắn rỏi, trưởng thành hơn, sẵn sàng đối mặt, vượt qua thử thách trong cuộc sống. Môi trường kỷ luật đặc biệt ấy còn tôi luyện cho tuổi trẻ sự tự giác, khuôn phép, ý thức, nền nếp, chỉn chu, biết quan tâm, sẻ chia với mọi người. Bên cạnh đó, thanh niên hoàn thành nghĩa vụ quân sự sẽ được hưởng các chính sách ưu tiên của Nhà nước.
Có rất nhiều Thanh niên ưu tú, sẵn sàng xếp bút nghiên lên đường theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc, dù rằng họ tha thiết với việc học tập. Lại có chuyện những trường hợp hai anh em trong một gia đình đều tình nguyện viết đơn mong muốn được đóng góp sức trẻ cho công cuộc bảo vệ Đất nước, tô điểm sơn hà... Tuy nhiên, trái với những hình ảnh cao cả đó, một số bạn trẻ hiện nay vẫn chưa hiểu được trách nhiệm, nghĩa vụ của mình và tìm cách để trốn tránh nghĩa vụ quân sự. Hiện nay trên các diễn đàn trang web, mạng xã hội, trang chia sẻ… có chiêu bày cách cho bạn trẻ trốn tránh nghĩa vụ quân sự thông qua bình luận (cả những tương tác), quay clip minh họa.

Có bạn sau khi được “hướng dẫn” đã áp dụng ngay trong ngày khám sức khỏe nghĩa vụ quân sự. Tuy nhiên những những “tiểu xảo” ấy đã được cơ quan chức năng phát hiện. Thật xẩu hổ! Đây là điều đáng buồn, đi ngược lại với quan điểm “Đâu cần Thanh niên có - Việc gì khó có Thanh niên”.
Theo Luật Nghĩa vụ quân sự năm 2015, có hiệu lực từ ngày 01/01/2016, hành vi trốn tránh nghĩa vụ quân sự tùy theo mức độ sẽ bị xử phạt tiền đến xử lý hình sự./.
Môi trường ST.

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: BỘ QUỐC PHÒNG TRẢ LỜI KIẾN NGHỊ TRẦN QUÂN HÀM SĨ QUAN TRỢ LÝ CẤP HUYỆN LÀ TRUNG TÁ!

     Bộ Quốc phòng nhận được kiến nghị của cử tri tỉnh Quảng Ninh do Ban Dân nguyện (Ủy ban Thường vụ Quốc hội) chuyển theo Công văn số 942/BDN ngày 6-11-2024, với nội dung: "Hiện nay, quân hàm sĩ quan là trợ lý cấp huyện, thị và tương đương có cấp bậc quân hàm là Trung tá. Hiện nay, khi nghỉ hưu ở vị trí trợ lý, quân hàm chỉ là Thiếu tá".

Trong khi đó, đối với lực lượng Công an, công tác ở các phòng, các xã thì nghỉ hưu ở cấp bậc Trung tá. Đề nghị Bộ Quốc phòng nghiên cứu, xem xét, báo cáo cấp có thẩm quyền sửa đổi, ban hành quy định mới, nhằm nâng mức quân hàm cho sĩ quan quân đội làm việc tại vị trí Trợ lý, khi nghỉ hưu là Trung tá” (Câu số 23).

Về kiến nghị này, Bộ Quốc phòng trả lời như sau:

Hiện tại, hệ thống chức vụ, chức danh, trần quân hàm của sĩ quan thuộc Ban chỉ huy quân sự (CHQS) cấp huyện (trừ Ban CHQS thành phố Thủ Đức/Bộ tư lệnh TP Hồ Chí Minh) đang thực hiện theo Thông tư số 160/2017/TT-BQP ngày 4-7-2017 của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, quy định chức vụ, chức danh tương đương và chức vụ, chức danh có cấp bậc quân hàm cao nhất là cấp tá, cấp úy của sĩ quan QĐND Việt Nam; trong đó quy định:

- Chức danh Chỉ huy trưởng, Chính trị viên tương đương với Trung đoàn trưởng, trần quân hàm Thượng tá;

- Chức danh Phó chỉ huy trưởng, Chính trị viên phó kiêm Chủ nhiệm Chính trị, Chủ nhiệm Hậu cần - Kỹ thuật, Tiểu đoàn trưởng (dự bị động viên) tương đương Tiểu đoàn trưởng, trần quân hàm Trung tá;

- Chức danh Trợ lý tương đương Đại đội trưởng, trần quân hàm Thiếu tá.

Đối với chức danh Trợ lý thuộc Ban CHQS cấp huyện, Bộ Quốc phòng đã nghiên cứu, so sánh, cân nhắc kỹ lưỡng; do chức năng, nhiệm vụ của cơ quan quân sự địa phương, quy mô tổ chức của Ban CHQS cấp huyện tương đương với cấp Trung đoàn, trong khi cơ cấu tổ chức trong Bộ Quốc phòng, các đơn vị có quy mô cấp Trung đoàn, Lữ đoàn và tương đương là tổ chức cơ bản và chiếm đa số; nếu điều chỉnh nâng trần quân hàm Trợ lý thuộc Ban CHQS cấp huyện và tương đương từ Thiếu tá lên Trung tá, sẽ ảnh hưởng đến cơ cấu cấp bậc quân hàm, không bảo đảm nguyên tắc quân hàm của chức vụ cấp trên cao hơn quân hàm của chức vụ cấp dưới. Tuy nhiên, Bộ Quốc phòng đang thực hiện khi cán bộ giữ chức vụ Trợ lý Ban CHQS cấp huyện, khi nghỉ hưu được xem xét thăng quân hàm đến cấp Trung tá nếu đủ điều kiện, tiêu chuẩn theo quy định.

Ngày 28-11-2024, Quốc hội khóa XV đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sĩ quan QĐND Việt Nam, có hiệu lực thi hành từ ngày 1-12-2024; trong đó có điều chỉnh, bổ sung hệ thống chức vụ, chức danh trong QĐND Việt Nam. Trên cơ sở Luật sửa đổi, bổ sung lần này, Bộ Quốc phòng đã chỉ đạo các cơ quan chức năng nghiên cứu, đề xuất ban hành Thông tư thay thế Thông tư số 160/2017/TT-BQP, bảo đảm phù hợp, cân đối trong toàn quân./.
Theo QĐND
Yêu nước ST.

CUỘC XÂM LĂNG TĨNH LẶNG!

BÀI 3: QUỐC GIA CÓ NỀN VĂN HÓA VỮNG CHẮC SẼ VƯỢT QUA MỌI THỬ THÁCH!
(Tiếp theo và hết)
     Tại hội thảo cấp quốc gia “80 năm Đề cương về văn hóa Việt Nam (1943-2023)-Khởi nguồn và động lực phát triển” tổ chức ngày 27-2-2023, nhấn mạnh tính cấp bách trong cuộc chiến chống xâm lăng văn hóa, Ủy viên Bộ Chính trị, Giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương Nguyễn Xuân Thắng nhấn mạnh: “Cần kiên quyết chống lại mọi sự xâm lăng về văn hóa, bài trừ các hình thức văn hóa lai căng, mê tín, dị đoan, ảnh hưởng xấu đến thuần phong mỹ tục”!

Sức mạnh văn hóa Việt Nam
Theo thống kê của Bộ Công an Việt Nam, hằng năm, có hàng nghìn tài liệu chiến tranh tâm lý phá hoại tư tưởng; hàng chục nghìn thư ân xá quốc tế xâm nhập, tán phát, đưa vào bằng nhiều con đường khác nhau. Những điều này đặt ra vấn đề, chúng ta phải có những giải pháp cụ thể nào chống lại hiện tượng “xâm lăng văn hóa” trong chiến lược “diễn biến hòa bình” và “sức mạnh mềm văn hóa” của các cường quốc đang tác động trực diện đến tư tưởng, suy nghĩ của người dân trong nước, đặc biệt là thanh niên Việt Nam hiện nay, nhằm nâng cao sức đề kháng, khả năng chủ động đấu tranh, phản bác những quan điểm sai trái, thù địch.

Đại tá, PGS, TS Nguyễn Thanh Tú, nguyên Phó tổng biên tập Tạp chí Văn nghệ Quân đội cho rằng: Nền văn hóa Việt Nam có sức mạnh riêng. Nền văn hóa ấy trải qua hàng nghìn năm đấu tranh, chưa bao giờ khuất phục trước các nước lớn có sức mạnh lấn át về kinh tế hay sức mạnh quân sự. Đặc trưng lớn của văn hóa Việt Nam là sức mạnh tự thân. Vừa chống lại mạnh mẽ, vừa tiếp nhận, tiếp biến có ý thức, khiến cho các cuộc tấn công từ ngoại bang đều thất bại.

Cũng về vấn đề này, PGS, TS Bùi Hoài Sơn, Ủy viên Thường trực Ủy ban Văn hóa, Giáo dục của Quốc hội cho rằng, văn hóa đóng vai trò vô cùng quan trọng trong tiến trình phát triển của một quốc gia, đặc biệt là những quốc gia như Việt Nam đang trong giai đoạn chuyển tiếp từ trình độ phát triển trung bình đến cao. Văn hóa không chỉ là nền tảng tinh thần mà còn là động lực và nguồn lực thúc đẩy sự phát triển bền vững về mọi mặt: Kinh tế, xã hội, khoa học, giáo dục...

Trong quá trình chuyển tiếp này, văn hóa giúp định hình bản sắc dân tộc, giữ gìn và phát huy những giá trị truyền thống, đồng thời tạo ra sự ổn định xã hội và sự đồng thuận trong các chính sách phát triển. Một quốc gia có nền văn hóa vững mạnh sẽ có khả năng vượt qua các thử thách trong quá trình toàn cầu hóa, giữ vững được bản sắc trước những thay đổi nhanh chóng về mặt kinh tế và công nghệ.

Bên cạnh đó, văn hóa còn là yếu tố then chốt trong việc xây dựng niềm tin, tinh thần cộng đồng, và động lực làm việc của người dân. Văn hóa không chỉ là yếu tố truyền tải giá trị tinh thần mà còn là công cụ định hướng, quản lý sự thay đổi trong xã hội. Đối với các quốc gia đang phát triển như chúng ta, văn hóa có thể là chìa khóa để xây dựng nền tảng vững chắc, bảo đảm sự phát triển toàn diện, hài hòa giữa các lĩnh vực và nâng cao đời sống của nhân dân.

PGS, TS Bùi Hoài Sơn còn nhấn mạnh, để phát triển văn hóa trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, chiến thắng các thế lực thù địch muốn áp đặt văn hóa, xâm lăng văn hóa, chúng ta cần xây dựng và củng cố nền văn hóa vừa giữ vững được bản sắc truyền thống, vừa thích ứng và phát triển cùng những thay đổi nhanh chóng của thời đại. Trong kỷ nguyên toàn cầu hóa, bản sắc văn hóa dân tộc như một ngọn lửa thiêng cần được gìn giữ và trao truyền. Giữa dòng chảy mạnh mẽ của các luồng văn hóa ngoại nhập, bảo vệ bản sắc dân tộc không phải là sự khép kín mà là cách khẳng định lòng tự tôn, bản lĩnh và sự độc đáo của dân tộc ta. Bản sắc ấy là tâm hồn, là cội nguồn của sự phát triển, giúp chúng ta đứng vững và không bị hòa tan giữa những biến động của thế giới.

Văn hóa cần được đặt vào vị trí trung tâm của sự phát triển
Muốn đánh bại các thủ đoạn nô dịch, xâm lăng văn hóa của các thế lực thù địch thì văn hóa phải thực sự đóng vai trò trong việc định hình các chuẩn mực xã hội, tạo ra tinh thần đồng thuận, nuôi dưỡng những giá trị cốt lõi như lòng nhân ái, tinh thần sáng tạo và ý thức cộng đồng. Một quốc gia có nền văn hóa vững chắc là một quốc gia có khả năng vượt qua mọi thử thách, duy trì sự ổn định và đồng lòng để tiến bước.

Văn hóa với vai trò là nền tảng tinh thần của xã hội, cần được đặt vào vị trí trung tâm của sự phát triển trong kỷ nguyên mới. Đó không chỉ là một khía cạnh phụ trợ cho kinh tế hay xã hội mà là yếu tố cốt lõi định hình bản sắc, tạo dựng giá trị và thúc đẩy sự phát triển bền vững. Nếu coi kinh tế là xương sống thì văn hóa chính là linh hồn, là nguồn năng lượng tinh thần giúp xã hội phát triển hài hòa, toàn diện. Văn hóa phải thực sự là ánh sáng “soi đường cho quốc dân đi”. Văn hóa là sức mạnh vô hình nhưng bền vững, là nền tảng vững chắc để xây dựng một xã hội thịnh vượng cả về vật chất lẫn tinh thần.

Vậy phải làm gì để bản sắc văn hóa của dân tộc không bị mai một, hòa tan, trộn lẫn vào các dòng văn hóa khác của các nước hay các trào lưu mới trên thế giới, khi chúng ta hội nhập với thế giới ngày càng sâu hơn? TS Nguyễn Ánh Hồng, nguyên Trưởng khoa Văn hóa và Phát triển, Học viện Báo chí và Tuyên truyền cho rằng: “Để ngăn chặn tình trạng xâm lăng văn hóa, đặc biệt trên mạng xã hội thì chúng ta phải trang bị cho cộng đồng và trước hết là các bạn trẻ những hiểu biết về văn hóa giao tiếp, ứng xử trên mạng xã hội. Bộ quy tắc ứng xử trên mạng xã hội phải được trang bị và đưa vào trong chương trình giáo dục. Tôi nhấn mạnh rằng, nếu các bạn trẻ tăng cường hiểu biết những giá trị của văn hóa truyền thống, hiểu biết được hệ giá trị trong tâm thức của văn hóa Việt Nam và luôn có lòng tự hào, tự tôn dân tộc, có ý thức và có trách nhiệm để bảo vệ các giá trị văn hóa đó, họ sẽ có sức đề kháng trước những tác động của văn hóa ngoại lai”.

Đánh giá cao phương án phải giáo dục cho thế hệ trẻ từ sớm, PGS, TS Bùi Hoài Sơn cũng nhấn mạnh: Giáo dục văn hóa cần phải trở thành trọng tâm. Bắt đầu từ gia đình, trường học cho đến cộng đồng. Giáo dục văn hóa không chỉ là việc truyền dạy lý thuyết mà còn là sự trải nghiệm thực tế thông qua các hoạt động nghệ thuật, lễ hội, phong tục, tập quán. Khi văn hóa trở thành một phần tự nhiên trong đời sống hằng ngày, nó sẽ không bị lãng quên hay pha loãng.

Gìn giữ bản sắc văn hóa, lan tỏa giá trị cốt lõi
Vậy cần làm gì để giữ vững bản sắc văn hóa trong dòng chảy toàn cầu hóa? PGS, TS Bùi Hoài Sơn cho rằng: Trước hết, điều căn bản là xác định rõ giá trị cốt lõi của văn hóa dân tộc. Chúng ta cần hiểu sâu sắc về lịch sử, phong tục, tập quán, triết lý sống và những giá trị truyền thống đã được hun đúc qua hàng ngàn năm lịch sử. Đây là nền tảng không thể thay thế, là căn cốt của bản sắc dân tộc.

Sáng tạo không có nghĩa là thay đổi bản chất của văn hóa, mà là tìm kiếm những cách thức mới để biểu đạt và truyền tải những giá trị ấy. Việc biến văn hóa thành một "tài sản" không chỉ giúp bảo tồn mà còn phát triển và quảng bá văn hóa dân tộc ra thế giới. Hội nhập với thế giới là điều tất yếu, nhưng giữ gìn bản sắc văn hóa là nhiệm vụ quan trọng hơn bao giờ hết, để dân tộc ta luôn có một bản ngã riêng biệt, tự tin bước ra thế giới với một vị thế đáng tự hào.

PGS, TS Bùi Hoài Sơn nhấn mạnh: Để văn hóa thực sự là nền tảng cho sự phát triển bền vững, chúng ta cần hành động quyết liệt và đồng bộ trên cả phương diện lý luận, thực tiễn và đầu tư. Về lý luận, trước tiên, chúng ta cần xây dựng một hệ thống lý luận về phát triển văn hóa hiện đại nhưng vẫn giữ được tính bản sắc dân tộc. Bên cạnh đó, việc xây dựng và phát triển lý thuyết liên ngành là cực kỳ quan trọng. Văn hóa không thể tách rời với kinh tế, chính trị hay môi trường. Ngoài ra, làm tốt công tác phối hợp giữa văn hóa và các lĩnh vực như kinh tế, chính trị, ngoại giao, quốc phòng, an ninh. Mối quan hệ này cần được xử lý trên tinh thần kết nối và tương hỗ lẫn nhau. Điều này có thể nhìn từ cách thức phối hợp tổ chức, uy tín, thông điệp tích cực của Triển lãm Quốc phòng quốc tế Việt Nam 2024 vừa diễn ra cách đây ít ngày. Văn hóa đã len lỏi vào mọi lĩnh vực, và ngược lại trong mọi lĩnh vực đều có yếu tố văn hóa.

Về đầu tư, văn hóa cần được đầu tư xứng tầm cả về tài chính lẫn nguồn nhân lực. Nguồn nhân lực văn hóa phải đóng vai trò then chốt trong việc xây dựng con người mới cho kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, bởi con người chính là chủ thể của mọi sự phát triển, đặc biệt trong một thế giới đầy biến động và cạnh tranh. Văn hóa giúp tạo ra những công dân có trách nhiệm, có lòng yêu nước và ý thức tự hào về bản sắc dân tộc; sống có đạo đức, lòng nhân ái và ý thức cộng đồng.

Những giá trị này không chỉ tạo nên một cá nhân hoàn thiện mà còn góp phần xây dựng một xã hội đoàn kết, bền vững và mạnh mẽ. Trong kỷ nguyên mới, khi công nghệ và toàn cầu hóa tác động mạnh mẽ, nền tảng văn hóa chính là yếu tố giúp con người giữ vững bản sắc, tránh bị cuốn theo những trào lưu hay ảnh hưởng tiêu cực từ bên ngoài. Đây là cái gốc để chiến thắng trước văn hóa ngoại lai, lai căng, xâm lăng văn hóa.

Đặc biệt, cần nhìn văn hóa như một yếu tố chiến lược trong việc nâng cao vị thế quốc gia trên trường quốc tế, biến văn hóa thành “sức mạnh mềm” để hội nhập một cách chủ động, tự tin đánh bại âm mưu, ý đồ của các thế lực muốn đồng hóa, xâm lăng văn hóa. Hành động quyết liệt từ sớm, từ xa, để đừng bao giờ "văn hóa bị lâm nguy" như lời cảnh tỉnh của đại văn hào Nga M.Gorki./.


Ảnh: Các chiến sĩ Hải quân nhân dân Việt Nam thả hoa tưởng niệm các Anh hùng liệt sĩ đã hy sinh để bảo vệ quê hương, tại khu vực đảo Gạc Ma.
Khuyết danh ST.

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: THÔNG CÁO BÁO CHÍ CHƯƠNG TRÌNH PHIÊN HỌP THỨ 41 CỦA UBTV QUỐC HỘI!

     Chiều 3/1, Văn phòng Quốc hội thông tin về chương trình Phiên họp thứ 41 (tháng 01/2025) của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Theo dự kiến, Phiên họp thứ 41 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội sẽ diễn ra trong 1,5 ngày, ngày 6 và sáng ngày 7/1/2025, tại phòng họp Tân Trào, Nhà Quốc hội. Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn phát biểu khai mạc và cùng các Phó Chủ tịch Quốc hội thay phiên điều hành nội dung Phiên họp.
Tại Phiên họp này, Ủy ban Thường vụ Quốc hội sẽ xem xét, cho ý kiến về những nội dung sau:
1. Về công tác xây dựng pháp luật
Ủy ban Thường vụ Quốc hội sẽ cho ý kiến về các nội dung: (1) Việc giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Công nghiệp công nghệ số; (2) Việc giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Việc làm (sửa đổi); (3) Việc giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quảng cáo; (4) Việc giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật.
Bên cạnh đó, Ủy ban Thường vụ Quốc hội sẽ xem xét, thông qua: (1) Nghị quyết liên tịch quy định chi tiết việc tổ chức tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân; (2) Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định việc thực hiện dân chủ trong nội bộ các cơ quan của Quốc hội, cơ quan thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội, các cơ quan của Hội đồng nhân dân các cấp (quy định chi tiết khoản 2 Điều 84 của Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở).
2. Về công tác giám sát
Ủy ban Thường vụ Quốc hội sẽ: (1) Xem xét Báo cáo công tác dân nguyện của Quốc hội tháng 12/2024; (2) Cho ý kiến về đề cương giám sát chuyên đề của Quốc hội về “Việc thực hiện chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường kể từ khi Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 có hiệu lực thi hành”.
3. Về quyết định các vấn đề quan trọng
Ủy ban Thường vụ Quốc hội sẽ cho ý kiến về việc chuẩn bị Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khóa XV./.
Yêu nước ST.

GIÁO DỤC VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG, TẠO SỨC ĐỀ KHÁNG CHO HỌC SINH

Gần đây báo chí phản ánh tình trạng một số học sinh ở Quảng Nam mua búp bê Kumanthong về thờ cúng, mua bánh kẹo “cho ăn” để cầu may mắn và học giỏi. Đây là hoạt động mê tín dị đoan hết sức nguy hiểm, gây tâm lý hoang mang, lo sợ, tạo hệ lụy xấu cho học sinh, gia đình và xã hội. Chúng tôi có cuộc trao đổi với PGS.TS. BÙI HOÀI SƠN, Ủy viên Thường trực Ủy ban Văn hóa, Giáo dục xung quanh vấn đề này.

 

Ảnh hưởng tiêu cực đến nhận thức và hành vi của học sinh

 

- Hiện tượng thờ cúng búp bê Kumanthong tại Việt Nam từng xảy ra cách đây nhiều năm và đã được cảnh báo cũng như xử lý. Thế nhưng gần đây nó xuất hiện trở lại, tại một số trường học. Ông đánh giá thế nào về vấn đề này?

 

- Tôi cho rằng việc thờ cúng Kumanthong xuất hiện trở lại trong một số trường học là một vấn đề đáng báo động, cả về góc độ văn hóa lẫn tâm lý giáo dục. Đây không chỉ là sự lặp lại của một hiện tượng từng xảy ra, mà còn cho thấy những khoảng trống trong giáo dục và quản lý môi trường học đường.

 

Kumanthong, khi được du nhập từ Thái Lan vào Việt Nam, đã bị hiểu sai và biến tướng thành một hình thức mê tín dị đoan. Điều này không chỉ ảnh hưởng tiêu cực đến nhận thức của giới trẻ, mà còn tiềm ẩn nguy cơ tạo ra sự bất ổn tâm lý ở lứa tuổi học sinh - vốn đang trong quá trình hình thành tư duy và giá trị sống.

 

Vì vậy, cần có sự vào cuộc mạnh mẽ hơn từ phía nhà trường, phụ huynh và các cơ quan quản lý.

 

- Theo ông, việc học sinh thờ cúng Kumanthong có thể gây ra những hệ lụy gì?

 

- Dưới góc độ xã hội, trước hết, đây là một biểu hiện của mê tín dị đoan, ảnh hưởng tiêu cực đến nhận thức và hành vi của học sinh. Thay vì nỗ lực học tập, học sinh có thể lệ thuộc vào niềm tin siêu nhiên để đạt được thành công, điều này dễ tạo ra tâm lý lười biếng, thiếu tự chủ. Thêm vào đó, việc lan truyền các thực hành mê tín trong môi trường học đường có thể dẫn đến xung đột, bất hòa giữa học sinh và thậm chí cả phụ huynh.

 

Dưới góc độ văn hóa, sự du nhập và biến tướng của Kumanthong trong đời sống học đường là một tín hiệu đáng lo ngại về sự thiếu hiểu biết và trân trọng giá trị văn hóa bản địa. Học sinh, với nhận thức chưa đầy đủ, có thể vô tình cổ súy cho những hành vi đi ngược lại truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc, đồng thời làm suy giảm sự tự hào về bản sắc văn hóa Việt Nam. Việc thờ cúng Kumanthong cũng có nguy cơ khuyến khích sự phổ biến của các hiện tượng văn hóa nước ngoài thiếu kiểm soát, ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường giáo dục và sự phát triển văn hóa lành mạnh.

 

Tôi cho rằng, cả ở góc độ xã hội lẫn văn hóa, hiện tượng này cần được xử lý một cách nghiêm túc và toàn diện. Chú trọng giáo dục học sinh về giá trị của tư duy khoa học, cũng như tổ chức các hoạt động văn hóa lành mạnh, để giúp các em hiểu đúng về tín ngưỡng và tích cực gìn giữ những giá trị văn hóa dân tộc.

 

Cần chiến lược toàn diện và chặt chẽ

 

- Từ hiện tượng thờ cúng Kumanthong, để ngăn chặn sự xâm nhập tiêu cực của văn hóa nước ngoài, cần làm gì, thưa ông?

 

- Phải có một chiến lược toàn diện và chặt chẽ, từ giáo dục, tuyên truyền đến quản lý xã hội. Trước hết, tăng cường giáo dục văn hóa trong trường học. Nhà trường cần tích hợp sâu sắc các giá trị văn hóa truyền thống, tín ngưỡng dân tộc vào hoạt động giảng dạy, giúp học sinh hiểu rõ và trân trọng những giá trị này. Cùng với đó, phát triển tư duy phản biện và khoa học sẽ giúp học sinh nhận diện, phân biệt được giữa văn hóa truyền thống và các yếu tố mê tín dị đoan từ bên ngoài. Đây sẽ là sức đề kháng cho học sinh trong quá trình giao lưu, hội nhập quốc tế.

 

Bên cạnh giáo dục trong nhà trường, gia đình đóng vai trò vô cùng quan trọng. Phụ huynh cần được nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của việc giáo dục con cái về những giá trị văn hóa đúng đắn, đồng thời cảnh giác với những yếu tố văn hóa nước ngoài có thể ảnh hưởng xấu đến sự phát triển của con em mình. Tôi cho rằng, các chương trình hướng dẫn cho phụ huynh sẽ là một công cụ hữu ích trong việc xây dựng nhận thức văn hóa bền vững trong gia đình.

 

Công tác tuyên truyền cũng là một yếu tố không thể thiếu. Chính phủ và các cơ quan chức năng cần triển khai các chiến dịch tuyên truyền mạnh mẽ về tác hại của mê tín dị đoan và khuyến khích các hoạt động văn hóa lành mạnh. Các phương tiện truyền thông cần tích cực lan tỏa những thông điệp bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống và từ chối những ảnh hưởng tiêu cực từ bên ngoài.

 

Các cơ quan chức năng cần xử lý nghiêm minh các hành vi thờ cúng Kumanthong hay các hình thức mê tín dị đoan khác trong cộng đồng, đặc biệt là trong môi trường học đường. Việc xử lý kịp thời và công khai sẽ cảnh tỉnh xã hội, đồng thời thể hiện quyết tâm bảo vệ giá trị văn hóa dân tộc.

 

Cuối cùng, cần khuyến khích phát triển các hoạt động văn hóa truyền thống, tạo ra môi trường văn hóa phong phú và lành mạnh, giúp học sinh và cộng đồng có nền tảng văn hóa vững chắc, để mỗi cá nhân có thể tự bảo vệ và gìn giữ giá trị văn hóa của dân tộc.

 

- Hiện pháp luật Việt Nam đã có quy định điều chỉnh các hành vi như thờ cúng Kumanthong chưa, thưa ông?

 

- Theo pháp luật Việt Nam, hoạt động sản xuất, buôn bán hay thờ cúng búp bê Kumanthong có thể nằm trong phạm vi điều chỉnh của các quy định về mê tín dị đoan, an ninh trật tự, hay bảo vệ trẻ em, nhưng hiện chưa có văn bản pháp luật quy định chi tiết về xử lý các hành vi này như một tội danh hay hành vi phạm pháp riêng biệt. Trong khi đó, việc sản xuất, thờ cúng, và buôn bán búp bê Kumanthong có thể được xem là hành vi vi phạm các quy định về bảo vệ đạo đức xã hội và bảo vệ sức khỏe tâm lý của trẻ em nếu nó dẫn đến những ảnh hưởng tiêu cực.

 

Trong bối cảnh hiện nay, tôi nghĩ rằng, cần thiết có các quy định pháp lý rõ ràng về việc xử lý hành vi sản xuất và buôn bán các sản phẩm liên quan đến mê tín dị đoan, như búp bê Kumanthong. Đồng thời, cơ quan chức năng cần có sự phối hợp chặt chẽ hơn trong giám sát và kiểm soát các hoạt động này, từ đó bảo vệ sự phát triển tâm lý và văn hóa lành mạnh cho cộng đồng. Cũng cần lưu ý rằng, việc xây dựng pháp luật phải dựa trên nguyên tắc bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng của người dân, nhưng cũng phải bảo đảm ngăn ngừa các hành vi có thể gây tác hại cho xã hội./.

 St

Xuyên tạc công cuộc cải cách, tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị

 Những năm gần đây, chủ trương tinh giản biên chế và sắp xếp lại tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị ở Việt Nam đã được Đảng và Nhà nước triển khai đồng bộ, mạnh mẽ, đạt nhiều kết quả tích cực.

Với quan điểm “Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả”, sự chỉ đạo quyết liệt của Tổng Bí thư Tô Lâm, của Bộ Chính trị đã tạo thống nhất trong nhận thức và hành động, nhận được sự đồng tình ủng hộ cao của cả hệ thống thống chính trị và toàn xã hội. Tuy nhiên, các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội chính trị đã lợi dụng tình hình để xuyên tạc, phủ nhận chủ trương cũng như kết quả của công cuộc cải cách này.

Mặc dù chủ trương tinh giản biên chế, sắp xếp lại bộ máy được Đảng và Nhà nước ta triển khai với mục tiêu nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, giảm chi phí nuôi bộ máy, dành nguồn lực cho phát triển đất nước, phục vụ nhân dân nhưng một số đối tượng chống đối vẫn tiếp tục xuyên tạc, bóp méo sự thật, lợi dụng sự thay đổi này để tung tin bịa đặt, thổi phồng khuyết điểm hòng đánh tráo mục tiêu, gây hoang mang dư luận. Các đối tượng bịa đặt rằng, việc tinh giản biên chế ở Việt Nam “chỉ là hình thức, mị dân”, không đem lại hiệu quả thực tế mà chỉ là gây tốn kém tiền bạc, ngân sách. Họ cho rằng, cơ cấu bộ máy nhà nước nói là tinh gọn nhưng không thay đổi mà chỉ chuyển người từ chỗ này sang chỗ khác, chỉ gây tốn kém, phức tạp.

Một số đối tượng bịa đặt rằng, việc sáp nhập các đơn vị, hợp nhất bộ máy chỉ nhằm mục đích chia ghế và “chạy chọt”, gây tốn kém ngân sách. Thậm chí, các thế lực thù địch xuyên tạc tinh giản biên chế là “đấu đá quyền lực, phe nhóm”, nhằm cắt giảm quyền lực của người này để tăng quyền lực cho người kia, là cách để “hạ bệ” hoặc “gia cố” quyền lực. Từ đó họ nguỵ biện rằng, Việt Nam không có tinh giản biên chế, không có tinh gọn bộ máy mà đây chỉ là “miếng bánh phân chia quyền lực”, chuyện của “các phe phái”... Đây là những luận điệu vu cáo, cố tình bóp méo sự thật nhằm làm nhiễu thông tin, “tung hoả mù” gây hoang mang dư luận, tạo cớ chỉ trích, miệt thị lãnh đạo Đảng, Nhà nước.

Ngày 5/11, Tổng Bí thư Tô Lâm đã có bài viết “Tinh-gọn-mạnh-hiệu năng-hiệu lực-hiệu quả”, nêu rõ: Qua nhiều kỳ đại hội, nhất là trong các đại hội gần đây, trong Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX, XII, XIII đều nhấn mạnh các nhiệm vụ cụ thể về tinh gọn tổ chức bộ máy hoặc nghiên cứu xây dựng mô hình tổng thể tổ chức bộ máy hệ thống chính trị trong giai đoạn mới. Từ Đại hội VII đến nay, Đảng ta liên tục ban hành nhiều nghị quyết, kết luận để lãnh đạo thực hiện chủ trương đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn tổ chức bộ máy hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Những đổi mới về thể chế, trọng tâm là đổi mới công tác tổ chức bộ máy hệ thống chính trị là một trong những điều kiện cơ bản, quyết định đạt được những thành tựu vĩ đại sau 40 năm đổi mới đất nước.

Cải cách bộ máy hành chính là một trong những yếu tố quan trọng giúp nâng cao hiệu quả công tác quản lý Nhà nước, phát huy sức mạnh tổng hợp của các cơ quan nhà nước, đồng thời giảm thiểu các chi phí hành chính không cần thiết. Trong thời gian qua, chúng ta đã đạt được nhiều kết quả tích cực trong công tác cải cách bộ máy hành chính. Đặc biệt, việc tinh giản biên chế và giảm bớt các đầu mối hành chính đã đem lại hiệu quả rõ rệt.

Tổng Bí thư Tô Lâm cũng chỉ rõ những tồn tại, hạn chế trong vấn đề này. Đó là nhận thức và hành động của một số cấp ủy, tổ chức đảng, tập thể lãnh đạo, người đứng đầu ở một số cơ quan, tổ chức, đơn vị, địa phương chưa đầy đủ, chưa sâu sắc, quyết tâm chưa cao, hành động chưa quyết liệt, việc sắp xếp tổ chức bộ máy chưa đồng bộ, tổng thể, chưa gắn tinh giản biên chế với cơ cấu lại... Một số bộ, ngành còn ôm đồm nhiệm vụ của địa phương, dẫn đến tồn tại cơ chế xin - cho, dễ nảy sinh tham nhũng, lãng phí, tiêu cực. Chính vì vậy, cho đến nay tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị vẫn còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc, nhiều đầu mối; hiệu lực, hiệu quả hoạt động chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ; chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức, quan hệ công tác giữa nhiều cơ quan, bộ phận chưa thật rõ ràng, còn trùng lắp, chồng chéo; phân định trách nhiệm, phân cấp, phân quyền chưa đồng bộ, hợp lý, có chỗ bao biện làm thay, có nơi bỏ sót hoặc không đầu tư thích đáng… Tổ chức bộ máy của một số cấp, ngành đến nay cơ bản vẫn giữ nguyên về số lượng, việc sắp xếp chưa gắn với nâng cao hiệu lực, hiệu quả, xác định vị trí việc làm, cơ cấu lại đội ngũ cán bộ. Bộ máy trong bộ, cơ quan ngang bộ còn nhiều tầng nấc, có cấp không rõ địa vị pháp lý; đơn vị trực thuộc có tư cách pháp nhân tăng, gia tăng tình trạng "Bộ trong bộ". Tinh giản biên chế mới tập trung giảm số lượng, chưa gắn với nâng cao chất lượng và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ. Những tồn tại, hạn chế, sự chậm chạp, thiếu quyết liệt trong thực hiện chủ trương đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị gây ra nhiều hệ lụy nghiêm trọng.

Bộ máy cồng kềnh gây lãng phí và kìm hãm sự phát triển là một trong những nguyên nhân dẫn đến nhiều chủ trương, chính sách của Đảng chậm đi vào thực tiễn cuộc sống hoặc một số chủ trương không được triển khai hoặc triển khai hình thức trên thực tế. Một trong những lý do chính để tiến hành cải cách bộ máy hành chính là giảm bớt gánh nặng cho ngân sách quốc gia. Theo số liệu từ Bộ Tài chính, chi cho bộ máy hành chính chiếm khoảng 70% tổng ngân sách chi tiêu thường xuyên của Nhà nước. Để giảm thiểu tình trạng lãng phí, việc tinh giản bộ máy đã và đang là một trong những giải pháp quan trọng, giúp tiết kiệm ngân sách và tái phân bổ các nguồn lực cho các lĩnh vực phát triển kinh tế, xã hội.

Ngoài ra, việc tinh giản bộ máy còn là một yếu tố then chốt trong việc nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật và cải thiện công tác quản lý nhà nước. Một bộ máy hành chính tinh gọn và chuyên nghiệp sẽ giúp các cơ quan chức năng phối hợp chặt chẽ hơn trong công tác phòng, chống tham nhũng, xử lý các vi phạm pháp luật, đồng thời bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người dân và doanh nghiệp. Cũng nhờ vào sự cải cách này, quy trình cung cấp dịch vụ công đã được đơn giản hóa, rút ngắn thời gian chờ đợi, giúp người dân và doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận các dịch vụ của Nhà nước.

Rõ ràng, việc sắp xếp, tinh gọn tổ chức, bộ máy thể hiện quyết tâm chính trị rất cao của Đảng, Nhà nước ta, với mục đích rõ ràng, hoàn toàn không có chuyện “làm cho có”, “chỉ là hình thức”, “tranh giành quyền lực” hay “đấu đá nội bộ” như các thế lực thù địch xuyên tạc, rêu rao. Cần thấy rằng, tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị là việc làm không hề dễ dàng, không đơn giản, không phải làm một sớm, một chiều, làm một lần là xong do liên quan nhiều vấn đề nhạy cảm, phức tạp. Do đó đòi hỏi sự chặt chẽ, khoa học, với quyết tâm chính trị cao, thống nhất trong nhận thức và hành động. Để cuộc cách mạng về tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị bảo đảm thắng lợi, Tổng Bí thư Tô Lâm chỉ rõ: “Thời điểm 100 năm đất nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng và 100 năm thành lập nước không còn xa, để đạt được các mục tiêu chiến lược, không chỉ đòi hỏi những nỗ lực phi thường, những cố gắng vượt bậc, mà còn không cho phép chúng ta chậm trễ, lơi lỏng, thiếu chính xác, thiếu đồng bộ, thiếu nhịp nhàng trên từng bước đi”.

st