Hiển thị các bài đăng có nhãn CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN. Hiển thị tất cả bài đăng

Chủ Nhật, 25 tháng 2, 2024

QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG TA VÀ CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH VỀ BẢO VỆ NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG, ĐẤU TRANH, PHẢN BÁC CÁC QUAN ĐIỂM SAI TRÁI, THÙ ĐỊCH

 

Kế thừa những thành tựu lý luận vĩ đại của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và của dân tộc ta. Bàn về những thắng lợi của cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Về phần chúng tôi, chính là do cố gắng vận dụng những lời dạy của Lênin, nhưng vận dụng một cách sáng tạo, phù hợp với thực tế Việt Nam ngày nay, mà chúng tôi đã chiến đấu và giành được những thắng lợi to lớn như đồng chí đã biết… chúng tôi giành được những thắng lợi đó trước hết là nhờ cái vũ khí không gì thay thế được là chủ nghĩa Mác - Lênin”[1].

Ngược dòng lịch sử, khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời tại Cửu Long (Hương Cảng, Trung Quốc) tháng 2/1930 dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, Đảng đã xác định mục tiêu lãnh đạo nhân dân tiến hành giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người, tiến lên chủ nghĩa xã hội. Quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam trong hơn 92 năm, qua mười ba lần Đại hội Đảng đã cho thấy Đảng luôn kiên trì, kiên định với nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; luôn kiên quyết đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch để bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ.

Ngay từ những năm 30 của thế kỷ XX, Đảng và lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội xét lại Trotsky và những phần tử Trotskyist phá hoại phong trào cách mạng vô sản thế giới nói chung và phong trào cách mạng Việt Nam nói riêng. Khi thế giới xuất hiện chủ nghĩa cơ hội, xét lại chống lại chủ nghĩa Mác cũng như phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, Hội nghị lần thứ chín của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa III) tháng 12/1963 đã thảo luận và thông qua nghị quyết về “tình hình thế giới và nhiệm vụ quốc tế của Đảng”. Nghị quyết phân tích đặc điểm tình hình thế giới, nội dung và tính chất của thời đại, về chiến lược và sách lược, phương pháp đấu tranh của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế và nêu rõ trách nhiệm của Đảng phải bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, chống chủ nghĩa xét lại, chủ nghĩa cơ hội hữu khuynh, chủ nghĩa giáo điều, chủ nghĩa biệt phái trong phong trào cộng sản quốc tế. Đảng cũng đồng thời chỉ rõ một số cán bộ, đảng viên đã nhận thức và hành động trái với quan điểm của Đảng, có người được cử đi học và tìm cách ở lại nước ngoài và rời bỏ Đảng. Số đó tuy rất ít nhưng đã ảnh hưởng nghiêm trong đến uy tín của Đảng. Do đó, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận định, đánh giá những biểu hiện tiêu cực trong nội bộ Đảng kể từ khi chúng còn manh nha để kịp thời nhắc nhở, cảnh tỉnh và điều chỉnh đội ngũ cán bộ, đảng viên; trên tinh thần đó, khẳng định sự trung thành và kiên định trong việc đấu tranh bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, củng cố vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng.

Đến cuối thập niên 80, đầu thập niên 90, chế độ chủ nghĩa xã hội tại Liên Xô - thành trì của chủ nghĩa xã hội hiện thực rơi vào khủng hoảng và sụp đổ kéo theo sự tan rã của các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu. Nhận thấy những diễn biến tiêu cực của các Đảng Cộng sản và các nước xã hội chủ nghĩa, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đất nước. Đảng khẳng định, tính chất của công cuộc đổi mới ở Việt Nam không phải là thay đổi mục tiêu xã hội chủ nghĩa mà là làm cho mục tiêu ấy được thực hiện có hiệu quả bằng những quan niệm đúng đắn về chủ nghĩa xã hội cùng những bước đi và biện pháp thích hợp và “Chủ nghĩa Mác - Lênin luôn luôn là nền tảng tư tưởng của Đảng ta, chỉ đạo toàn bộ sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta”[2]. Điều này cho thấy bản lĩnh và quyết tâm rất lớn của Đảng trong việc kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, bất chấp mọi sự chống phá của các thế lực thù địch.

Tháng 8/1989, Hội nghị Trung ương 7 (khóa VI) của Đảng ban hành Nghị quyết “Một số vấn đề cấp bách về công tác tư tưởng trước tình hình trong nước và quốc tế hiện nay”. Trung ương đã nhận định về những sai lầm trong cải tổ, cải cách của một số đảng. Đặc biệt, với việc nhìn nhận những thất bại của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu khi buông lỏng vai trò lãnh đạo của Đảng trong việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, Nghị quyết Trung ương 7 nhấn mạnh: “Chủ nghĩa đế quốc chưa bao giờ từ bỏ mục tiêu của chúng là xoá bỏ chủ nghĩa xã hội và xoá bỏ các phong trào cách mạng. Chúng chỉ điều chỉnh sách lược và phương pháp thực hiện mục tiêu đó mà thôi” và “Hệ tư tưởng chỉ đạo sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa là chủ nghĩa Mác - Lênin. Đảng ta luôn luôn trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin, quán triệt bản chất cách mạng và khoa học của nó, vận dụng một cách sáng tạo vào điều kiện nước ta”[3].

Từ chỗ Đảng ta khẳng định chủ nghĩa Mác - Lênin là “cái cốt của Đảng”, “cái gốc của Đảng” trở thành “nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng” và đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (năm 1991), Đảng bổ sung tư tưởng Hồ Chí Minh vào nền tảng tư tưởng của Đảng trong “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” và khẳng định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”. Đây là bước phát triển quan trọng trong tư duy lý luận của Đảng, kể từ đây, chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh chính thức giữ vai trò chủ đạo trong đời sống xã hội.

Tuy nhiên, các thế lực thù địch trong và ngoài nước vẫn ráo riết thực hiện âm mưu và thủ đoạn “Diễn biến hòa bình” hòng xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng, thủ tiêu chế độ XHCN ở Việt Nam. Vì thế, trong mỗi tiến trình lãnh đạo đất nước, Đảng tiếp tục ban hành những chỉ đạo cụ thể nhằm bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch như: Nghị quyết số 01-NQ/TW ngày 28/3/1992 “Về công tác lý luận trong giai đoạn hiện nay”; Nghị quyết số 09-NQ/TW ngày 18/2/1995 “Về một số định hướng lớn trong công tác tư tưởng hiện nay”. Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII diễn ra tháng 01/1994, Đảng nhận định “Diễn biến hòa bình” là một trong bốn nguy cơ lớn đối với con đường phát triển của cách mạng Việt Nam. Đến Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”, Đảng vạch rõ những âm mưu thâm độc của các lực lượng thù địch khi thực hiện chiến lược “Diễn biến hòa bình”, nhất là trên mặt trận văn hóa - tư tưởng, nhằm mục đích xóa bỏ hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Tại Hội nghị Trung ương 4 (khóa XII), Đảng ta chỉ rõ đã có một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên “nhận thức sai lệch về ý nghĩa, tầm quan trọng của lý luận và học tập lý luận chính trị; lười học tập chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước”[4]. Lỗ hổng đó đã tạo điều kiện thuận lợi cho các thế lực thù địch, phản động lợi dụng để đẩy mạnh xuyên tạc, chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng.

Đại hội XII của Đảng (01/2016), Đảng ta tiếp tục khẳng định: Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch là nhiệm vụ trọng yếu, có ý nghĩa sống còn trong bảo vệ Đảng, Nhà nước, bảo vệ Nhân dân và chế độ XHCN. Đặc biệt, sự ra đời của Nghị quyết số 35-NQ/TW ngày 22/10/2018 của Bộ Chính trị “Về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Ðảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới” đưa việc lãnh đạo đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng lên một tầm nhiệm vụ trọng yếu. Nghị quyết xác định rõ: Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Ðảng là bảo vệ Ðảng, bảo vệ Cương lĩnh chính trị, đường lối lãnh đạo của Ðảng; bảo vệ nhân dân, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; bảo vệ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; giữ gìn môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước. Và đến Đại hội lần thứ XIII của Đảng, vấn đề bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng được đặt lên hàng đầu trong quan điểm chỉ đạo của Đảng: “Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”[5].

Dưới ánh sáng của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, dân tộc ta đã giành được độc lập, thống nhất đất nước và tiến hành công cuộc đổi mới thu được những thành tựu làm thay đổi căn bản đời sống xã hội, được nhân dân và bạn bè quốc tế ghi nhận, đánh giá cao. Song, chính những thắng lợi vẻ vang đó trong suốt hành trình hơn 93 năm xây dựng và trưởng thành của Đảng cũng đồng thời là cái gai trong mắt các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị, thôi thúc chúng càng điên cuồng chống phá cách mạng Việt Nam. Chúng không ngừng ráo riết thực hiện các âm mưu diễn biến hòa bình nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, chuyển hóa chế độ chính trị và xóa bỏ con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.



[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, HN, 2011, t.15, tr.589-590

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 49, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.591

[3] Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 49, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội

[4] Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Hội nghị Trung ương 4 khóa XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội., tr 28

[5] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.109

CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VỚI VẤN ĐỀ BẢO VỆ ĐẢNG, ĐẤU TRANH PHÊ PHÁN CÁC TRÀO LƯU, QUAN ĐIỂM SAI TRÁI

 

Chủ nghĩa Mác - Lênin là hệ thống quan điểm, học thuyết khoa học do C.Mác - Ph.Ăngghen đặt nền móng vào đầu thế kỷ XIX, được V.I. Lênin kế tục, phát triển từ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Đây là một học thuyết khoa học, cách mạng và nhân văn, bởi nó phơi bày bản chất cùng những mâu thuẫn cố hữu tồn tại trong chế độ tư bản chủ nghĩa, đồng thời chỉ rõ lực lượng, con đường, phương pháp nhằm giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Vì thế, ngay từ khi ra đời, Chủ nghĩa Mác - Lênin luôn bị hệ thống tư bản chủ nghĩa phê phán quyết liệt trên cả phương diện chính trị, lý luận và thực tiễn. Giai cấp tư sản đã sớm nhận ra chủ nghĩa Mác - Lênin là nguy cơ đe dọa sự tồn tại của chúng. C.Mác và Ph.Ăngghen trong tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” đã ví sự lo sợ của giai cấp tư sản về chủ nghĩa cộng sản như “bóng ma ám ảnh châu Âu”, buộc chúng phải tìm mọi phương cách cũng như thủ đoạn để ngăn chặn và chống phá quyết liệt.

Đồng thời, thông qua các tác phẩm của mình, C.Mác và Ph.Ăngghen đã phê phán mạnh mẽ chủ nghĩa duy tâm chủ quan của phái Hegel trẻ, kiên trì đấu tranh chống lại quan điểm cơ hội của phái Bakunin, Proudhon, Lassalle và nhiều quan điểm tư sản khác. Hai ông nhiều lần khẳng định, học thuyết của các ông không đội trời chung với chủ nghĩa giáo điều, bảo thủ, với quan điểm duy tâm, siêu hình, cơ hội và xét lại. Trong tác phẩm “Tư bản”, C.Mác - Ph.Ăngghen phê phán các quan điểm duy tâm, siêu hình đã phản ảnh sai lầm về tiến trình phát triển của lịch sử cũng như những lý luận biện hộ cho sự tồn tại tất yếu, vĩnh hằng của chủ nghĩa tư bản. Đến tác phẩm “Ludwig Feuerbach và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức”, Ăngghen đã đấu tranh với những quan điểm triết học duy tâm, siêu hình của Feuerbach trong việc giải quyết những vấn đề cơ bản của triết học. Ông chỉ rõ tính lịch sử và sự hạn chế của triết học Hegel, Feuerbach và nêu rõ những nguyên lý của triết học mác xít để khẳng định sự ưu việt, tiến bộ của thế giới quan vô sản... Đặc biệt, tiêu biểu trong đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch để bảo vệ Chủ nghĩa Mác là tác phẩm “Chống Duhring”. Duhring là nhà tư tưởng đại diện cho chủ nghĩa xã hội tiểu tư sản phản động, ông ta nhận mình là một người cộng sản xong lại không ngừng đả kích Mác, Chủ nghĩa Mác là cũ rích, phi khoa học, là sự nhắc lại của chủ nghĩa Hegel và làm mới chủ nghĩa Feuerbach. Bằng việc phát hiện ra bản chất phản động, phản khoa học trong quan điểm của Duhring, Ăngghen đã thể hiện tiếng nói kiên quyết và triệt để trong việc phủ định, công kích các quan điểm sai trái của hắn, từ đó, góp phần bảo vệ và phát triển chân lý khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác. Có thể nói, thông qua quá trình phủ định các quan điểm thù địch, đấu tranh trên mặt trận tư tưởng - lý luận mà các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin đã bảo vệ và làm cho Chủ nghĩa Mác càng ăn sâu, bám rễ vào đời sống xã hội với sức lan tỏa và ảnh hưởng mạnh mẽ.

 

Đến lượt V.I.Lênin, trong điều kiện lịch sử mới của nước Nga Xô viết, khi các quan điểm sai trái chủ yếu tập trung vào việc cản trở sự phát triển của phong trào công nhân và cách mạng vô sản. Nhận diện được âm mưu, thủ đoạn đó, Lênin đã dựa trên thế giới quan, phương pháp luận của Mác - Ăngghen và thành tựu của khoa học tự nhiên để chỉ ra sự vô căn cứ của chủ nghĩa duy tâm, phương pháp tư duy siêu hình của phái dân túy. Ông đấu tranh với quan điểm trực diện phê phán chủ nghĩa Mác, chống sự biến tướng của chủ nghĩa duy tâm tôn giáo, chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán và những quan điểm giả danh Mác. Ông đã phê phán kịch liệt những quan điểm cơ hội, xét lại của E.Bernstein, K.Kautsky..., đấu tranh với những quan điểm sai lầm của G.V.Plekhanov, N.I.Bukharin, L.Trotsky... Khi chủ nghĩa tư bản chuyển sang chủ nghĩa đế quốc, hàng loạt quan điểm phủ nhận chủ nghĩa Mác hình thành, cho rằng chủ nghĩa Mác lỗi thời, không còn phù hợp. Lênin đã đấu tranh, làm rõ sự sai lầm và vô căn cứ của chúng, làm rõ bản chất của chủ nghĩa đế quốc vẫn là chủ nghĩa tư bản nhưng biểu hiện ở giai đoạn, trình độ cao hơn. Vì vậy, nó không thoát khỏi quy luật diệt vong. Với tác phẩm “Cách mạng vô sản và tên phản bội Kautsky”, Lênin đã vạch trần sự phản bội về mặt lợi ích của Kautsky đối với giai cấp công nhân, quan điểm phủ nhận chuyên chính vô sản cũng như bóp méo chủ nghĩa Mác của hắn, từ đó khẳng định vai trò và giá trị của nền chuyên chính vô sản đối với tuyệt đại đa số nhân dân lao động...

Cách mạng Tháng Mười Nga thành công năm 1917 đã đánh dấu thắng lợi vinh quang và vĩ đại của việc hiện thực hóa chủ nghĩa Mác, đưa lý luận của Mác - Ăngghen trở thành hiện thực ở Nga. Đồng chí V.I.Lênin đã trở thành tấm gương sáng ngời về đấu tranh, phê phán các quan điểm sai trái, thù địch để bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác. Ông khẳng định: Một cuộc cách mạng không biết tự vệ mình là cuộc cách mạng tự sát. Có thể thấy rằng, quá trình đấu tranh với các quan điểm sai trái, trào lưu phi vô sản của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin cũng là quá trình đào sâu, làm rõ và khẳng định giá trị nhân văn, khoa học, chân chính, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, để từ đó, phát triển nó trong lòng hiện thực xã hội. Các giá trị bền vững trong tư tưởng, quan điểm và phương pháp của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin đã và vẫn đang là lý luận và phương pháp luận khoa học để nhận thức và cải tạo thế giới; soi tỏ nhiệm vụ giải phóng con người khỏi mọi hình thức áp bức, bóc lột, bất công. Trong quá trình đó, các thế hệ cách mạng trên toàn thế giới, trong đó có Đảng Cộng sản Việt Nam cần phải kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ sự nghiệp cách mạng của giai cấp và dân tộc, trong đó có cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận để bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ và mục tiêu, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.

 

ĐỊNH HƯỚNG BẢO VỆ, PHÁT TRIỂN CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN TRONG THỜI GIAN TỚI

 

Trước sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch, nhằm “kiên định và không ngừng vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với thực tiễn Việt Nam trong từng giai đoạn. Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH. Kiên định đường lối đổi mới vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”[1] theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng, trong thời gian tới, cần đẩy mạnh đấu tranh bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin theo những định hướng cơ bản sau:

Một là, đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận kết hợp với tổng kết thực tiễn nhằm không ngừng bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin

Tại Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII, Đảng chủ trương: “Đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, tham khảo kinh nghiệm quốc tế để xây dựng cơ sở khoa học vững chắc cho việc hoạch định, thực thi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước”[2]. Theo đó, cần đứng vững trên lập trường chủ nghĩa duy vật biện chứng và phép biện chứng duy vật để nghiên cứu nhằm nhận thức đúng đắn, sâu sắc về bản chất khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin. Tiếp tục nghiên cứu có hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, làm rõ sự bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin của Hồ Chí Minh; sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin của Đảng ta phù hợp với bản chất con người, truyền thống văn hóa, xã hội và thực tiễn cách mạng Việt Nam. Hoạt động nghiên cứu lý luận phải bám sát thực tiễn, mở rộng dân chủ, phát huy tự do tư tưởng, tránh áp đặt tùy tiện, duy ý chí; đồng thời, giữ nghiêm kỷ luật, nhất là trong việc phát ngôn và công bố các kết quả nghiên cứu mới.

Kết hợp nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin với tổng kết thực tiễn, lấy tổng kết thực tiễn làm căn cứ chính để đề xuất cái mới. Đẩy mạnh tổng kết thực tiễn nhằm sớm có những kết luận khoa học về những vấn đề mới và bức xúc do thực tiễn đặt ra, tạo sự đồng thuận trong xã hội. Trong đó, chú trọng tổng kết những kinh nghiệm thực tiễn lịch sử của CNXH hiện thực, những bài học rút ra từ cuộc cải tổ và sự sụp đổ chế độ XHCN ở Liên Xô và Ðông Âu; những vấn đề về thời đại, về chủ nghĩa tư bản hiện đại, về những biến đổi trong quan hệ chính trị, quân sự quốc tế, về trật tự thế giới mới. Đồng thời, coi trọng tổng kết thực tiễn xây dựng CNXH, bảo vệ Tổ quốc và công cuộc đổi mới ở Việt Nam, tập trung làm sáng tỏ một số nội dung cơ bản sau: Mô hình CNXH và thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam; lý luận về đường lối đổi mới; cơ sở lý luận và thực tiễn bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng và tính ưu việt của hệ thống chính trị Việt Nam; thể chế chính trị và thể chế kinh tế trong điều kiện một Đảng cầm quyền và kinh tế thị trường định hướng XHCN; lý luận về nền dân chủ XHCN Việt Nam, về những mối quan hệ lớn cần xử lý trong thời kỳ quá độ lên CNXH… Trên cơ sở đó, khái quát, bổ sung, phát triển, làm sâu sắc hơn bản chất khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin trong tình hình mới.

Hai là, đổi mới công tác giáo dục lý luận, làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin thâm nhập sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội

Cần giáo dục cán bộ, đảng viên nhận thức rõ vị trí, vai trò quan trọng của lý luận chính trị và việc học tập chủ nghĩa Mác - Lênin là yêu cầu khách quan, cấp thiết trong tình hình hiện nay. Học tập lý luận chính trị, học chủ nghĩa Mác - Lênin không những để biết mà còn để hình thành nhân cách, bản lĩnh chính trị cho cán bộ, đảng viên với những yêu cầu nâng cao nhận thức về lý luận chính trị, chủ nghĩa Mác - Lênin, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm cách mạng; tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng và nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ.

Đổi mới nội dung, chương trình giáo dục lý luận chính trị nói chung và chủ nghĩa Mác - Lênin nói riêng phải phù hợp với yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, phù hợp cho từng đối tượng người học, từng cấp học, bậc học, tránh trùng lặp, bảo đảm tính liên thông. Tập trung giáo dục những vấn đề cơ bản nhất của chủ nghĩa Mác - Lênin nhưng không máy móc, giáo điều, khô cứng, đảm bảo sát thực tiễn, gắn với CNXH và con đường đi lên CNXH ở nước ta, giải đáp thuyết phục những vấn đề mới do thực tiễn đặt ra.

Đổi mới phương pháp giáo dục, phổ biến lý luận theo hướng hiện đại, phù hợp với đối tượng; chú trọng phát huy tính sáng tạo, chủ động và nâng cao trình độ, rèn luyện phong cách, trau dồi bản lĩnh chính trị của người học. Phương pháp giảng dạy và học tập phải sinh động, mềm dẻo, phù hợp với từng đối tượng, tạo được hứng thú và trách nhiệm của người học. Chú trọng phát huy sức mạnh tổng hợp, nhất là của lực lượng chuyên trách khi tiến hành công tác giáo dục, tuyên truyền, làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin thâm nhập sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.

Ba là, tăng cường đấu tranh phòng, chống “Diễn biến hòa bình” nhằm bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin

Đa dạng hóa các hình thức đấu tranh trên cơ sở giữ vững quan điểm và nguyên tắc; mềm dẻo, linh hoạt, nhân văn trong phương pháp, công khai, minh bạch, dân chủ, góp phần tạo dư luận xã hội lành mạnh, đồng thuận. Với những đối tượng là chủ mưu, ngoan cố, cần kiên quyết và nghiêm trị bằng pháp luật. Với những đối tượng ngộ nhận, thiếu hiểu biết, không thù địch thì cần mềm dẻo tuyên truyền, giáo dục thuyết phục có tình, có lý, tạo điều kiện cho họ nhận ra lỗi lầm và từ bỏ những luận điệu xuyên tạc.

Có thể đấu tranh trực diện thông qua gặp gỡ, trao đổi trực tiếp hoặc xử lý bằng pháp luật, bằng các biện pháp hành chính, cưỡng chế hoặc con đường ngoại giao. Đấu tranh gián tiếp thông qua tổ chức, cơ quan quản lý đối tượng, qua vận động của các tổ chức đoàn thể, qua đấu tranh từ quần chúng, họ hàng, gia đình,… Đấu tranh bằng biện pháp nghiệp vụ an ninh, hợp tác quốc tế trong truy lùng, bắt giữ, xử lý những đối tượng ngoan cố, chống đối…

Tăng cường lượng tin, bài đấu tranh phòng, chống “Diễn biến hòa bình” trên các phương tiện truyền thông, trong đó đặc biệt chú trọng nội dung đấu tranh tư tưởng, lý luận nhằm bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin.

Chú trọng tổ chức, phát huy vai trò của các học giả, trí thức có uy tín về khoa học lý luận, có lý luận sắc sảo, trình độ uyên thâm, có kinh nghiệm để đấu tranh bảo vệ và nghiên cứu phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin. Đồng thời, có các chính sách đãi ngộ thích đáng về quyền lợi vật chất, điều kiện, cơ chế để họ tiếp cận thông tin và đấu tranh có hiệu quả.

Coi trọng phát huy vai trò của các cơ quan báo chí, lực lượng chuyên trách nhằm tổ chức đấu tranh đạt hiệu quả cao hơn; khắc phục sự lúng túng, thiếu kịp thời trong đấu tranh với các quan điểm, luận điệu mới của kẻ thù. Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho các lực lượng chuyên trách; đồng thời, hiện đại hóa các biện pháp kỹ thuật để nâng cao hiệu quả đấu tranh.

Tăng cường đối thoại và đối thoại thẳng thắn với những người có quan điểm khác biệt trên tinh thần khoa học, dân chủ, thuyết phục lẫn nhau là chính. Phát huy vai trò, trách nhiệm của các phương tiện thông tin đại chúng, các diễn đàn khoa học vì sự phát triển của chủ nghĩa Mác - Lênin, sự ổn định, bền vững của chế độ, vì Nhân dân và đất nước.

Có thể khẳng định, trong quá khứ, hiện tại và tương lại, không chỉ những người cộng sản, mà nhiều chính trị gia, học giả phương Tây đã, đang và sẽ phải thừa nhận rằng, nhân loại tiến bộ, dù muốn hay không, dù biết hay không, “đều là những người thừa kế Mác và chủ nghĩa Mác ở một mức độ nhất định nào đó. Rằng, thời đại ngày nay không thể thiếu C. Mác, triết học Mác, chủ nghĩa Mác; tương lai của nhân loại sẽ không còn, nếu thiếu C. Mác, thiếu di sản lý luận của C. Mác”[3].

Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, không những trụ vững mà còn phát triển vươn lên trong vòng cương tỏa của chủ nghĩa đế quốc, và dù bất cứ lực lượng thù địch nào có khẳng định nó đã lỗi thời, lạc hậu, sai lầm, hay chống phá nó bằng mọi thủ đoạn thâm hiểm, song tất cả những gì đã và đang diễn ra trong thế giới đương đại vẫn đưa chúng ta đến một kết luận khoa học vững chắc rằng, chủ nghĩa Mác - Lênin mãi trường tồn, tương lai của loài người thuộc về CNXH, chủ nghĩa cộng sản./.

 



[1] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.180.

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.94.

[3] Gắccơ Đêriđa, Những bóng ma của Mác, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2022, tr.42.

SỨC SỐNG CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN TRONG TÌNH HÌNH MỚI

 

Sự sụp đổ của chế độ XHCN ở các nước Đông Âu và sự tan rã của Liên Xô đã trở thành sự kiện quan trọng trong lịch sử nhân loại thế kỷ XX, từ đó CNXH hiện thực tạm lâm vào thoái trào. Sau đó, các nước XHCN tiếp tục bị chủ nghĩa đế quốc tập trung bao vây cấm vận, chống phá quyết liệt thông qua chiến lược “Diễn biến hòa bình” với những thủ đoạn ngày càng tinh vi, xảo quyệt hơn, âm mưu cướp “mảnh đất hiện thực” hòng làm cho CNXH khoa học trở thành CNXH “không tưởng”. Điều đó làm cho các nước XHCN tiếp tục gặp vô vàn khó khăn, trở ngại trên nhiều phương diện. Nhưng thông qua quá trình đổi mới, cải cách, bằng việc kiên định, vận dụng sáng tạo và phát triển bản chất khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin trong hoàn cảnh mới, phù hợp với đặc thù mỗi nước, các nước XHCN đã không những trụ vững, vượt qua khủng hoảng, mà còn tiếp tục phát triển ở Trung Quốc, Việt Nam, Lào, Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên và Cuba với hơn 1,5 tỷ người. Sự trụ vững cùng với những thành tựu phát triển mọi mặt ở các nước XHCN trong hơn hai thập kỷ đầu tiên của thế kỷ XXI trước sự tiến công điên cuồng của chủ nghĩa đế quốc không chỉ cỗ vũ phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, mà còn cho thấy sức sống và triển vọng của chủ nghĩa Mác - Lênin trong tình hình mới.

Sau Chiến tranh Lạnh, các đảng cộng sản và các đảng cánh tả ở châu Mỹ Latinh đều tìm kiếm nhận thức lý luận mới về CNXH, nhất là về địa vị và vận mệnh của chủ nghĩa Mác - Lênin. Đến cuối thập kỷ đầu tiên của thế kỷ XXI, “thay đổi lớn nhất trong điều chỉnh lý luận của đảng Cộng sản và đảng cánh tả Mỹ Latinh là phát triển từ giáo điều hóa sang bản địa hóa và Mỹ Latinh hóa chủ nghĩa Mác - Lênin”[1]. Đa số các đảng cộng sản, các đảng cánh tả Mỹ Latinh đã kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với tình hình thực tế và đặc điểm riêng có của nước mình để vận dụng, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin. Theo đó, “bản địa hóa” chủ nghĩa Mác - Lênin đã trở thành xu thế phát triển của các đảng cộng sản và các đảng cách tả ở Mỹ Latinh. Tuy cách thức “bản địa hóa” ở mỗi nước là khác nhau nhưng đều hướng đến xây dựng đất nước theo con đường XHCN, làm cho “trung tâm của CNXH đang chuyển về châu Mỹ Latinh”[2], khu vực vốn được coi là “sân sau” của Mỹ. Điều đó cho thấy, sức sống mãnh liệt của chủ nghĩa Mác - Lênin trong vòng cương tỏa của chủ nghĩa đế quốc.

Trong những năm 2008 - 2010, cuộc khủng hoảng tài chính khởi phát từ Mỹ lan rộng trên toàn cầu, làm nhiều nền kinh tế lớn nhất thế giới rơi vào suy thoái. Trong khủng hoảng, nhiều chính khách, học giả cũng như các doanh nhân thành đạt ở phương Tây, nhất là những người hoạt động trong lĩnh vực tài chính đã quay “trở lại” nghiên cứu bộ Tư bản của C.Mác và tìm thấy trong đó lời giải thích về nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ hệ thống tài chính của thế giới đương đại. Bộ Tư bản của C. Mác và tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản trở thành đầu sách bán chạy ở nhiều nước tư bản trên thế giới, chủ nghĩa Mác - Lênin lại trở lên “thời thượng”. Điều đó có nghĩa là các nhà tư bản lại đi tìm sự cứu rỗi cho mình, từ hiện thực ảm đạm đến sự thanh thản của linh hồn trong những trang sách của một con người cả cuộc đời dấn thân vào cuộc chiến đấu không khoan nhượng chống chủ nghĩa tư bản. Đây là nghịch lý hay thuận lý? “Đây lại là một sự “xác tín” không chút hoài nghi nào về giá trị, ý nghĩa, ảnh hưởng to lớn và sức sống bất diệt của chủ nghĩa Mác trong thời đại chúng ta, rằng thế kỷ XXI này, không thể hiểu được nếu không tính đến sự hiện diện của C.Mác và chủ nghĩa Mác”[3].

Mặc dù đã có tín hiệu khởi sắc, nhưng trên bình diện thế giới, các dự báo đều cho rằng trong tương lai gần, CNXH khó có được những bước tiến đột phá căn bản để mở rộng mảnh đất hiện thực của mình. Về triển vọng của chủ nghĩa Mác - Lênin và CNXH, học giả A. Lilốp nhận định: “Tương lai của CNXH trên phạm vi thế giới phụ thuộc ở mức độ quyết định vào những cuộc cải cách của CNXH ở Trung Quốc và Việt Nam”[4].

Ở Việt Nam, trong quá trình đi theo con đường XHCN, nhất là trong công cuộc đổi mới, nhờ nắm vững bản chất khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, chúng ta đã giành được những thắng lợi vĩ đại. Thành tựu của công cuộc đổi mới đất nước hơn 35 năm qua cho thấy: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”[5]. Tuy nhiên, trong suốt quá trình đó và cho đến ngày nay, các thế lực thù địch không ngừng chống phá cách mạng Việt Nam trên nhiều phương diện. Hiện nay, chúng tập trung chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng, trọng tâm là chống phá chủ nghĩa Mác - Lênin, với những luận điệu chủ yếu như: 1. Chủ nghĩa Mác - Lênin là sản phẩm của nền văn minh cơ khí, nó chỉ thích hợp với thế kỷ XIX chứ không phù hợp với thời đại ngày nay. 2. Những sai lầm, sụp đổ và thách thức mà các nước XHCN đã và đang phải đối mặt là hậu quả của việc đi theo chủ nghĩa Mác - Lênin, một học thuyết “sai lầm”. 3. Chủ nghĩa Mác - Lênin ra đời ở phương Tây, nó chỉ phản ánh lịch sử phương Tây mà không bao quát được lịch sử phương Đông. 4. Việt Nam đi theo chủ nghĩa Mác - Lênin là sai lầm, Việt Nam chỉ cần tư tưởng Hồ Chí Minh…



[1] Lò Thị Phương Nhung, Về CNXH ở Mỹ Latinh, Tạp chí Châu Mỹ ngày nay, 2011, số 2, tr.39.

[2] Đào Thế Tuấn, Trung tâm của CNXH đang chuyển về châu Mỹ Latinh, Tạp chí Xưa và Nay, 2008, số 319, tr.38.

[3] Hoàng Chí Bảo, Sức sống của chủ nghĩa Mác trong thời đại ngày nay, Tạp chí Lịch sử quân sự, 2018, số 317, tr.10.

[4] Dẫn theo: Trần Văn Phòng, Triển vọng của CNXH trong điều kiện toàn cầu hóa, Tạp chí Quản lý nhà nước, 2012, số 198, tr.5.

[5] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.322.

SỨC SỐNG CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN TRONG LỊCH SỬ

 

Cho đến nay, thắng lợi đầu tiên và cũng là thắng lợi vĩ đại nhất của chủ nghĩa Mác - Lênin trong thực tiễn chính là thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga (1917). Cách mạng tháng Mười Nga đã làm cho CNXH, chủ nghĩa cộng sản từ chỗ chỉ là một ước mơ cao đẹp của loài người trở thành một hiện thực trong xã hội; đồng thời, mở ra một thời đại mới. Tại Lễ Kỷ niệm lần thứ tư cuộc cách mạng vĩ đại này, V.I.Lênin khẳng định: “Chúng ta có quyền tự hào và quả thật chúng ta tự hào là đã có cái hân hạnh được bắt đầu việc xây dựng nhà nước Xôviết và do đó, mở đầu một thời đại mới trong lịch sử thế giới, thời đại thống trị của một giai cấp mới, giai cấp bị áp bức trong tất cả các nước tư bản và ở khắp nơi đều đang tiến tới một cuộc đời mới, tới chỗ chiến thắng giai cấp tư sản, tới chỗ thành lập chuyên chính vô sản, tới chỗ giải phóng nhân loại khỏi ách tư bản, khỏi những cuộc chiến tranh đế quốc chủ nghĩa”[1]. Trong bài viết cho báo Pravada nhân Kỷ niệm lần thứ 50 Cách mạng tháng Mười Nga, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng khẳng định: “Cách mạng tháng Mười mở ra con đường giải phóng cho các dân tộc và cả loài người, mở đầu một thời đại mới trong lịch sử, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên CNXH trên toàn thế giới”[2].

Nhờ tính ưu việt của chế độ XHCN, nước Nga đã đánh bại thù trong, giặc ngoài, bảo vệ chính quyền non trẻ, thu hút hàng chục nước lân cận để thành lập nên Liên bang Cộng hòa XHCN Xôviết (gọi tắt là Liên Xô, năm 1922). Với những chủ trương đúng, Liên Xô đã nhanh chóng trở thành một cường quốc trên thế giới, đóng vai trò quyết định cứu nhân loại khỏi thảm họa diệt chủng của chủ nghĩa phát xít Đức và chủ nghĩa quân phiệt Nhật Bản trong Chiến tranh thế giới lần thứ hai, chứng minh cho sức sống chủ nghĩa Mác - Lênin và sức mạnh của CNXH hiện thực. Vì vậy, có thể khẳng định: “Cách mạng tháng Mười là sự khẳng định bằng thực tiễn tính chân lý của chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung và CNXH khoa học nói riêng”[3].

Sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai, một loạt nước đi theo chủ nghĩa Mác - Lênin đã lựa chọn phát triển theo con đường XHCN, làm cho CNXH hiện thực trở thành hệ thống thế giới. CNXH hiện thực đã trở thành mẫu hình lý tưởng về việc giải phóng người lao động, là thành trì của hòa bình và cách mạng; là chỗ dựa vững chắc của phong trào giải phóng dân tộc - phong trào đã làm biến đổi lịch sử loài người ở thế kỷ XX. Nhờ hệ thống CNXH hiện thực mà nhân loại đã ngăn ngừa được nhiều cuộc chiến tranh hủy diệt, duy trì được môi trường hòa bình và ổn định trong một thời gian dài. Thực tế đó là minh chứng sinh động cho sức sống mãnh liệt và vai trò to lớn của chủ nghĩa Mác - Lênin trong tiến trình phát triển của nhân loại.

Tuy nhiên, lịch sử rất nghiệt ngã, không phải lúc nào những người cộng sản cũng nắm vững, vận dụng sáng tạo và phát triển bản chất khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin. Điều đó là một trong những nguyên nhân dẫn đến sai lầm, khủng hoảng, sụp đổ và tan rã trong hệ thống XHCN.

Trong những năm 60 của thế kỷ XX, trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế cùng hệ thống các nước XHCN liên tục xuất hiện những bất đồng nghiêm trọng trên hàng loạt vấn đề quan điểm lý luận, chiến lược, sách lược và về đánh giá tình hình thế giới. Những bất đồng, mâu thuẫn đó thực chất là cuộc đấu tranh giữa các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin với các biểu hiện khác nhau của chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa xét lại, chủ nghĩa dân tộc; giữa một bên là những người nắm vững bản chất khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin với một bên là những người đang dần xa rời nó do nhiều nguyên nhân khác nhau. Điều đó, đã làm suy yếu sức mạnh tự thân của mỗi quốc gia, tạo cơ hội cho chủ nghĩa tư bản lợi dụng, chống phá và làm suy yếu sức mạnh của cả hệ thống XHCN.

Tiếp đó, những người cộng sản, điển hình là những người cộng sản ở Liên Xô đã mắc phải những sai lầm nghiêm trọng mà nguyên nhân sâu xa là hiểu sai, làm sai chủ nghĩa Mác - Lênin. Thông qua cuộc cải tổ, Ban Lãnh đạo Đảng mà đứng đầu là Tổng Bí thư Goócbachốp đã loại dần những người trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin ra khỏi bộ máy lãnh đạo, quản lý đất nước và cho rằng chủ nghĩa Mác - Lênin đã lỗi thời, sai lầm. Từ đó, “người ta đã xem nhẹ vấn đề đấu tranh giai cấp, nhấn mạnh những giá trị chung toàn nhân loại, xem nhẹ chuyên chính vô sản, nhấn mạnh hòa hoãn, nhân quyền, cho rằng chủ nghĩa tư bản đã thay đổi bản chất, xét lại sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, nhấn mạnh vấn đề dân tộc, xem nhẹ chủ nghĩa đế quốc, nhấn mạnh vấn đề công khai, xem nhẹ vấn đề kỷ luật tập trung trong Đảng dẫn đến sự sụp đổ của CNXH hiện thực và làm tan rã Đảng về mặt tư tưởng”[4]. Có hậu quả nghiêm trọng đó “chính là vì người ta hiểu sai và làm sai chủ nghĩa Mác - Lênin: sai cả về thực hiện các nguyên lý cơ bản, về vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng”[5]. Vì thế, có thể khẳng định: “sự sụp đổ của Liên Xô là sự sụp đổ của mô hình CNXH hiện thực được xây dựng ở Nga và sau đó là ở Liên bang Xô Viết, chứ không phải là sự sụp đổ của học thuyết Mác - Lênin về CNXH”[6].

Thực tiễn đó một lần nữa chứng tỏ, sự thành công của các cuộc cách mạng XHCN, sự ra đời và thăng trần của CNXH hiện thực gắn liền với sự vận dụng sáng tạo hay giáo điều bản chất khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin trong thực tiễn mỗi nước.

 



[1] V.I. Lênin, Toàn tập, tập 44, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.184 - 185.

[2] Hồ Chí Minh toàn tập, tập 15, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.388.

[3] Nguyễn Văn Nam, Cách mạng tháng Mười Nga - sự kiểm chứng CNXH khoa học, Tạp chí Lý luận chính trị & Truyền thông, 2008, số 11, tr.9.

[4] Nguyễn Phú Trọng, Vì sao Đảng Cộng sản Liên Xô tan rã, Tạp chí Cộng sản, 1992, số 4, tr.20.

[5] Vì sao Đảng Cộng sản Liên Xô tan rã, Tlđd, tr.22.

[6] Trần Nguyên Việt, Quan điểm và cách nhìn nhận của các học giả Việt Nam về sự sụp đổ của Liên Xô và tiền đồ CNXH, Tạp chí Triết học, 2010, số 3, tr.62.

BẢN CHẤT KHOA HỌC, CÁCH MẠNG CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN

 

Bản chất khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin được thể hiện ở chỗ nó được kết tinh và là kết quả đỉnh cao của tư duy khoa học, của tinh hoa văn hoá mà nhân loại đã sáng tạo ra. Nó không chỉ là sản phẩm của sự kế thừa, tiếp thu, mà còn là kết quả của sự phát triển sáng tạo tất cả những gì tiến bộ, hợp lý trong các trào lưu tư tưởng xã hội tiên tiến của nhân loại; đồng thời, là kết quả của sự tổng kết lịch sử, thực tiễn phát triển xã hội loài người; được kiểm nghiệm trong thực tiễn đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản thế giới. Khi nói về học thuyết của C.Mác, V.I.Lênin khẳng định: “Học thuyết của ông ra đời là sự thừa kế thẳng và trực tiếp những học thuyết của các đại biểu xuất sắc nhất trong triết học, kinh tế chính trị học và trong CNXH. Học thuyết của Mác là học thuyết vạn năng vì nó là một học thuyết chính xác. Nó là một học thuyết hoàn bị và chặt chẽ; nó cung cấp cho người ta một thế giới quan hoàn chỉnh, không thỏa hiệp với bất cứ một sự mê tín nào, một thế lực phản động nào, một hành vi nào bảo vệ sự áp bức của tư sản. Nó là người thừa kế chính đáng của tất cả những cái tốt đẹp nhất mà loài người đã tạo ra hồi thế kỷ XIX, đó là triết học Đức, kinh tế chính trị học Anh và CNXH Pháp”[1].

Bản chất khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin thể hiện ở hệ thống quy luật chung nhất của thế giới mà nó phản ánh và ở chức năng thế giới quan, phương pháp luận khoa học trong hoạt động nhận thức và cải tạo thực tiễn của con người. Các nhà triết học trước C. Mác chỉ giải thích thế giới bằng nhiều cách khác nhau, song vấn đề là cải tạo thế giới. Chủ nghĩa Mác - Lênin đã đưa đến cuộc cách mạng khi không dừng lại ở việc đem đến cơ sở khoa học đúng đắn cho việc nhận thức thế giới mà còn tiến xa hơn là cải tạo thế giới hiện thực.

Chủ nghĩa Mác - Lênin mang tính cách mạng bởi nó là học thuyết duy nhất từ trước tới nay đặt ra mục tiêu, chỉ rõ con đường giải phóng triệt để giai cấp công nhân, nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức trên thế giới thoát khỏi tình trạng bị nô dịch và bóc lột, thoát khỏi đói nghèo và tha hoá về nhiều mặt. V.I.Lênin khẳng định: “Chỉ có chủ nghĩa duy vật triết học của Mác là đã chỉ cho giai cấp vô sản con đường phải theo để thoát khỏi chế độ nô lệ về tinh thần, trong đó tất cả các giai cấp bị áp bức đã sống lay lắt từ trước tới nay”[2].

Chủ nghĩa Mác - Lênin còn chỉ ra quy luật của sự giải phóng và phát triển xã hội. Đó là quy luật về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, về sự chuyển biến từ hình thái kinh tế xã hội này sang hình thái kinh tế xã hội khác không phải diễn ra một cách tự phát mà phải thông qua cuộc đấu tranh giai cấp gay go, quyết liệt. Từ đó, C. Mác - Ph. Ăngghen và V.I. Lênin đã trực tiếp nghiên cứu sự vận động của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, tìm ra quy luật về sự diệt vong của chủ nghĩa tư bản, cũng như sự thắng lợi của CNXH như một tất yếu thông qua cuộc cách mạng xã hội.

Nói về tính khoa học và tính cách mạng của học thuyết Mác, V.I. Lênin khẳng định, toàn bộ giá trị của học thuyết Mác là ở chỗ, lý luận đó “về bản chất là một lý luận có tính chất phê phán và cách mạng”. Sự phê phán đó là “sự phê phán duy vật chủ nghĩa”, sự phê phán duy nhất mà C. Mác coi là “có tính chất khoa học”, và do vậy nó mang lại cho học thuyết Mác bản chất khoa học, cách mạng. Tính khoa học và tính cách mạng là những cái vốn có trong bản chất của chủ nghĩa Mác - Lênin. V.I. Lênin khẳng định: “Sức hấp dẫn không gì cưỡng nổi đã lôi cuốn những người xã hội chủ nghĩa (XHCN) của tất cả các nước đi theo lý luận đó, chính là ở chỗ nó kết hợp tính chất khoa học chặt chẽ và cao độ (đó là đỉnh cao nhất của khoa học xã hội) với tinh thần cách mạng, và kết hợp không phải một cách ngẫu nhiên, không phải chỉ vì người sáng lập ra học thuyết ấy đã kết hợp trong bản thân mình những phẩm chất của nhà bác học và của nhà cách mạng, mà là kết hợp trong chính bản thân lý luận ấy, một sự kết hợp nội tại và khăng khít”[3].

Bản chất khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin còn thể hiện ở chỗ nó là học thuyết mở và mang tính sáng tạo, không cứng nhắc, bất biến mà đòi hỏi luôn được bổ sung, tự đổi mới, tự phát triển trong dòng phát triển trí tuệ của nhân loại. V.I. Lênin khẳng định: “Chúng ta không hề coi lý luận của Mác như là một cái gì đã xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm; trái lại, chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa học mà những người XHCN cần phải phát triển hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc hậu đối với cuộc sống[4][5].

Do bản chất của chủ nghĩa Mác - Lênin nên tính khoa học và tính cách mạng luôn thống nhất biện chứng với nhau trong nội tại của học thuyết, gắn bó chặt chẽ, không tách rời nhau. Trong mối quan hệ biện chứng đó, tính khoa học đóng vai trò cơ sở của tính cách mạng, đảm bảo tính cách mạng gắn liền với sự sáng tạo và khả năng hiện thực hóa. Khi nói bản chất khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin là mặc nhiên thừa nhận thuộc tính khoa học là cơ sở cho thuộc tính cách mạng, chứ không phải ngược lại. Tính cách mạng tạo nên sức sống của tính khoa học và làm cho vai trò hướng dẫn, soi đường của tri thức khoa học đi vào thực tiễn. Nếu tính cách mạng tách rời tính khoa học sẽ là tự rời bỏ gốc rễ của chính nó, tất yếu sẽ dẫn đến sai lầm với những hậu quả khó lường. Nếu tính khoa học không gắn liền với tính cách mạng thì bản thân sự tồn tại của học thuyết sẽ mất đi ý nghĩa thực tiễn, lý luận khoa học sẽ đứng trước nguy cơ trở thành lý thuyết suông, giáo điều, kinh viện.

Trong thực tiễn, chúng ta thường quan niệm tính khoa học gắn với hoạt động nhận thức, tính cách mạng gắn với hoạt động thực tiễn. Nên trong quá trình vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin, thường xuất hiện khuynh hướng tách rời tính khoa học với tính cách mạng, thậm chí đề cao tính cách mạng mà coi nhẹ tính khoa học. Điều này, dẫn đến việc những người cộng sản thường phạm sai lầm tả khuynh hơn là sai lầm hữu khuynh. Nhưng điểm chung nhất là những sai lầm đó đều bắt nguồn từ việc chưa thực sự coi trọng tính khoa học trong hoạt động cách mạng, tách rời tính khoa học với tính cách mạng trong thực tiễn. Ở đâu và khi nào, những người cộng sản nắm vững bản chất khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin và vận dụng sáng tạo nó trong hoạt động thực tiễn thì cách mạng thắng lợi và ngược lại. Nói cách khác, bản chất khoa học, cách mạng là cội nguồn sức sống trường tồn của chủ nghĩa Mác - Lênin và điều này đã được thực tiễn lịch sử kiểm nghiệm.

 



[1] V.I. Lênin, Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr.50.

[2] V.I. Lênin, Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr.57 - 58.

[3] V.I. Lênin, Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr.421.

[4] V.I. Lênin, Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr.232.