Thứ Năm, 7 tháng 5, 2020

Cảnh giác trước luận điệu lạc lõng xuyên tạc của các thế lực thù địch về tình hình chủ quyền biển, đảo


Cảnh giác trước luận điệu lạc lõng xuyên tạc của các thế lực thù địch về tình hình chủ quyền biển, đảo
Trước những diễn biến phức tạp của thế giới và khu vực, nhất là vấn đề chủ quyền biển, đảo, các thế lực thù địch và một số phần tử chống đối, cơ hội đã lợi dung tung hô những thông tin sai lệch bóp méo, xuyên tạc đường lối, chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ của Đảng, Nhà nước
Hiện nay, các thế lực thù địch ra sức công kích, xuyên tạc đường lối, chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Lợi dụng những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới và khu vực, nhất là quan hệ của Việt Nam với một số nước lớn và vấn đề chủ quyền của nước ta ở Biển Đông, trên các phương tiện thông tin, đặc biệt là mạng xã hội, các thế lực thù địch bên ngoài và một số phần tử chống đối, cơ hội bên trong đã tung nhiều thông tin sai lệch bóp méo, xuyên tạc đường lối, chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ của Đảng và Nhà nước. 
Trên các trạng mạng xã hội đã xuất hiện không ít các bài viết của cá nhân, nhóm cá nhân cố tỏ ra  là “người yêu nước”, “tâm huyết” với “vận mệnh quốc gia dân tộc” với những giọng điệu xuyên tạc. Chúng lập luận rằng, thế giới hiện nay đang là thời đại toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, các quốc gia dân tộc có mối quan hệ ràng buộc, phụ thuộc lẫn nhau. Vì thế, theo chúng chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ đã “lạc hậu, lỗi thời”, “không còn phù hợp”, nếu vẫn theo đuổi là “bảo thủ”, “tự mình cô lập mình”, là “tự tách ra khỏi dòng chảy” của thế giới; và trở thành “lực cản” đối với sự phát triển đất nước! Chúng cho rằng, Việt Nam thực hiện chính sách quốc phòng “ba không” (không tham gia các liên minh quân sự, không là đồng minh quân sự của bất kỳ nước nào, không cho bất cứ nước nào đặt căn cứ quân sự ở Việt Nam và không dựa vào nước này để chống nước kia) là “tự trói tay mình”, đó là chính sách “không phù hợp với thực tế, cần phải thay đổi”, nếu không thì không bảo vệ được độc lập, chủ quyền, nhất là chủ quyền ở Biển Đông… Bản chất sâu xa của những luận điệu này là dã tâm chống phá cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch, phản động.
Đúng là thế giới hiện nay đang là thời đại toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng, các quốc gia dân tộc có mối quan hệ ràng buộc và phụ thuộc lẫn nhau. Nhưng không phải vì thế mà chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ đã trở nên “lạc hậu”, phải “từ bỏ”. Việt Nam thực hiện chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ không phải là biệt lập, cô lập với thế giới bên ngoài, đứng ngoài lề hội nhập quốc tế, “tự mình cô lập mình” như sự xuyên tạc của các thế lực thù địch, mà đó chính là chúng ta thể hiện chủ quyền, quyền tự lựa chọn, quyền tự quyết định con đường, mô hình phát triển của quốc gia - dân tộc.
Không thể nói rằng, thực hiện chính sách quốc phòng "ba không" là “tự trói tay mình”, “cần phải thay đổi”, nếu không thì không thể bảo vệ được độc lập, chủ quyền đất nước. Đây thực sự là dã tâm thâm độc của các thế lực thù địch và các phần tử cơ hội chính trị trong mưu đồ “hướng lái” chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta; thực chất là nhằm “kích động” chúng ta phải liên minh với một nước lớn nhất định nào đó, để “bảo vệ độc lập, chủ quyền”! Đó là sự “hướng lái” nhằm đẩy nước ta rơi vào sự lệ thuộc, phụ thuộc mới.
Cần khẳng định cho họ rõ, từ trước đến nay trong lịch sử cũng như thời hiện đại, nhân dân Việt Nam bảo vệ độc lập, chủ quyền, bảo vệ Tổ quốc là luôn dựa trên tinh thần yêu nước, ý chí độc lập, tự chủ, tinh thần tự lực cánh sinh, phát huy sức mạnh tổng hợp, kết hợp sức mạnh bên trong với sức mạnh bên ngoài, sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của cộng đồng quốc tế. Đó là đường lối độc lập, tự chủ.
Đặc biệt trước những âm mưu thủ đoạn thâm độc của các thế lực thù địch hòng lợi dụng những chính sách ưu việt của Đảng, Nhà nước ta hòng kích động và "thổi lửa" vào những nhận thức sai lệch trong nhận thức về chủ quyền biển đảo, để hòng gây rối... Nhưng chúng đã nhầm không có gì quý hơn độc lập tự do, cuộc sống ấm no hạnh phúc của chính nhân dân, Đảng, Nhà nước ta đã làm tất cả vì Hạnh phúc của nhân dân, vì sự trường tồn của dân tộc Việt Nam. Chúng ta sớm biết và kiên quyết đập tan những âm mưu thâm độc của các thế lực thù địch để Việt Nam ta mãi mãi phát triển và thịnh vượng, đó là những mong ước của Đảng và nhân dân ta với tinh thần chính nghĩa, đập tan mọi âm mưu của các thế lực thù địch...
Chính sách quốc phòng "ba không" là biểu hiện đặc thù của đường lối, chính sách độc lập, tự chủ trên lĩnh vực quốc phòng trong bối cảnh lịch sử mới, là hoàn toàn đúng đắn... Thực hiện chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, chính sách quốc phòng "ba không", chúng ta mới có thể kết hợp và phát huy tốt nhất các nguồn sức mạnh để bảo vệ độc lập, chủ quyền. Nghiêng về bên này hay ngả về bên kia, tức là phụ thuộc vào một nước nào đó, thì cũng có nghĩa là chúng ta bị mất độc lập, tự chủ. Bị phụ thuộc, mất độc lập, tự chủ thì vấn đề bảo vệ độc lập, chủ quyền cũng không còn ý nghĩa. Luận điệu xuyên tạc chính sách đối ngoại độc lập tự chủ của Đảng và Nhà nước Việt Nam không đánh lừa được ai... Với tinh thần ấy, nhân dân ta mãi mãi Theo Đảng và tất cả vì một Việt Nam phát triển, sánh vai cùng bạn bè năm châu, xây dựng một đất nước Việt Nam hoà bình, thịnh vượng . Mỗi người chúng ta khi tiếp cần thông tin cần nêu cao cảnh giác để không mắc phải những âm mưu thâm độc đê hèn của chúng.


TIẾNG NÓI LẠC LÕNG

TIẾNG NÓI LẠC LÕNG
Trong lúc toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta đang quyết tâm chung lưng đấu cật quyết tâm đẩy lùi dịch bệnh Viêm đường hô hấp cấp chủng mới Corona (Viết tắt là Covid-19). Các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước thường xuyên chỉ đạo các bộ, ban, ngành và các địa phương tăng cường công tác kiểm soát dịch bệnh, đặc biệt là các bộ Y tế, Quốc Phòng, Công An, Ngoại giao... như thực hiện Lời kêu gọi của Tổng Bí thư - Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng, là với tinh thần coi trọng sức khỏe và tính mạng của con người là trên hết, để tiếp tục chủ động ngăn chặn, kiểm soát dịch bệnh, coi chống dịch như chống giặc; Chỉ thị số 16 của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc... Những ngày vừa qua hàng loại đối tượng thù địch trong và ngoài nước, các trang mạng xã hội, nhất là các báo mạng đưa tin thất thiệt, vu cáo, bôi nhọ thành quả phòng chống dịch Covid-19 của Nhà nước ta. Không những các trang mạng, blook lá cải như  trang “Nhật ký yêu nước”, Chân trời mới... thì còn có cả các tờ báo lớn như BBC News Tiếng Việt cũng đăng những bài nói xấu, phủ nhận công sức của Việt Nam trong phòng chống Covid-19, như tác giả Will Nguyen có đoạn: “Họ sẽ công bố con số thật nếu số người bị nhiễm ít, và có ít lý do hơn để làm như vậy, nếu số người bị nhiễm lên cao. Trong một hệ thống như vậy, thì làm sao người ta có thể biết được đâu là sự thật?”. Hiện nay sau thời gian thực hiện dãn cách xã hội theo Chỉ thị 16 của Thủ tướng Chính phủ chúng ta đã thu được những kết quả nhất định, việc kiểm soát dịch của chúng ta không chỉ đem lại niềm tin và sự đoàn kết trong nước mà còn cả những nhà lãnh đạo trên thế giới vô cùng ngưỡng mộ, khâm phục. Đây là âm mưu, thủ đoạn không mới nhưng hết sức thâm độc của các thế lực phản động, thù địch. Chúng ta cần tỉnh táo, nhận diện chính xác để không bị kích động, lôi kéo dẫn đến hoang mang, thiếu tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và sự điều hành của Chính phủ trong công tác phòng chống dịch bệnh hiện nay./

“TẠI SAO CHÚNG TA NÊN NGHĨ NHIỀU HƠN ĐẾN VIỆT NAM?”

Tạp chí Forbes phiên bản Israel vừa đăng bài viết có tựa đề “Tại sao chúng ta nên nghĩ nhiều hơn đến Việt Nam”, trong đó đánh giá cao thành tựu chính trị, kinh tế, ngoại giao và thành công của Việt Nam trong cuộc chiến chống đại dịch viêm đường hô hấp cấp COVID-19.
Bài viết đánh giá Việt Nam nằm trong số những quốc gia có mức tăng trưởng kinh tế cao nhất thế giới khi tăng trưởng Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) năm 2019 là 7,02%. Việt Nam cũng là quốc gia xuất khẩu thặng dư liên tục trong 4 năm trong bối cảnh số quốc gia thâm hụt thương mại gia tăng.
Giải thích cho điều này, Forbes cho rằng Việt Nam đạt được thành tích như vậy vì đã không ngừng cải thiện môi trường kinh doanh và cấu trúc lại nền kinh tế. Theo Chỉ số cạnh tranh toàn cầu năm 2019, Việt Nam đã tăng 10 bậc xếp hạng so với năm trước đó, lên vị trí 67, trở thành một trong những nước có bước tăng lớn nhất trong năm. Ngân hàng Thế giới (WB) cũng đánh giá Việt Nam có tiến bộ rõ ràng trong cải thiện môi trường kinh doanh trong thập kỷ qua.
Báo cáo Kinh Doanh năm 2020 của WB xếp hạng Việt Nam ở vị trí thứ 70 trong 190 nền kinh tế. Thứ hạng này tương đối tốt khi 10 năm trước đó, Việt Nam đứng ở vị trí 90. So với các nền kinh tế có thu nhập đầu người tương đương, Việt Nam có thành tích vượt trội hơn. WB cũng nhận định Việt Nam sẽ tiếp tục tiến bộ trong năm 2020 và những năm tiếp theo. Đánh giá này dựa trên hai lý do chính là Việt Nam đã cải thiện việc tiếp cận thông tin tín dụng thông qua việc cung cấp dữ liệu cho người dùng từ các ngân hàng thương mại và nâng cấp hệ thống thu thuế giúp các doanh nghiệp nộp thuế dễ dàng hơn. Quá trình thu thuế hiện có thể được hoàn thành chỉ trong 1 ngày so với 2 đến 3 ngày làm việc như những năm trước đó. Môi trường kinh doanh được cải thiện đã giúp Việt Nam thu hút nhiều đầu tư nước ngoài hơn. Năm 2019, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) cam kết đầu tư vào Việt Nam đã vượt mốc 38 tỷ USD, mức cao nhất trong 10 năm qua và tăng 7,2%/năm.

Forbes cũng cho biết Việt Nam đã ký 12 hiệp định thương mại tự do với các đối tác, bao gồm các hiệp định “thế hệ mới” có các cam kết cao hơn và rộng hơn. Nổi bật trong số các thỏa thuận này là Thỏa thuận thương mại tự do giữa Liên minh châu Âu (EU) và Việt Nam, ký vào tháng 6/2019. Đây là thỏa thuận đầu tiên của khối này với một quốc gia đang phát triển tại châu Á, mở đường cho việc giảm thuế đến 99% đối với hàng hóa giữa Việt Nam và EU. Bên cạnh đó, Forbes cũng đề cập đến việc Việt Nam là thành viên của Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP).
Bên cạnh đó, bài viết cũng đánh giá cao Việt Nam trong cách thức đối phó với đại dịch COVID-19 đang bùng phát trên toàn cầu. Forbes đã dẫn lại bình luận của tờ Financial Times nói rằng “Việt Nam đã chứng minh mô hình kiểm soát bệnh dịch tại một đất nước với nguồn lực hạn chế nhưng có lãnh đạo đầy quyết tâm”. Dù có chung biên giới dài 1.100 km với Trung Quốc, song đến ngày 26/4, Việt Nam chỉ ghi nhận 270 ca nhiễm và chưa có ca tử vong nào do COVID-19.

Bài báo cũng dẫn lại lời Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nói rằng “chống dịch như chống giặc”. Việt Nam đã chủ động ứng phó với dịch bệnh bùng phát trước khi nước này ghi nhận ca nhiễm đầu tiên. Theo Forbes, thành công trong việc kiểm soát đại dịch COVID-19 ở trong nước cho phép Việt Nam có nhiều không gian hơn để thực hiện vai trò của mình trong các diễn đàn ngoại giao khu vực và quốc tế.
Forbes cho biết với việc giành được 192/193 phiếu bầu, Việt Nam đã được bầu chọn là thành viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020-2021. Đây là lần thứ hai Việt Nam giữ vị trí này, chứng minh mong muốn của Việt Nam đóng góp cho an ninh và hòa bình của thế giới, đồng thời chứng tỏ Việt Nam là thành viên có trách nhiệm của Liên hợp quốc. Việt Nam cũng giữ chức Chủ tịch Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN). Đây là lần đầu tiên, Việt Nam đang cùng lúc giữ hai trách nhiệm một thời điểm.
Theo Forbes, đây là cơ hội cho Việt Nam tận dụng để phát triển mối quan hệ song phương với các quốc gia khác, tạo ra động lực mới để thúc đẩy vai trò và vị thế của đất nước. Trước đó, Việt Nam đã tổ chức Hội nghị thượng đỉnh lần 2 giữa Mỹ và Triều Tiên vào đầu năm 2019, được cộng đồng quốc tế đánh giá cao.
Từ ngày 23/4/2020, Việt Nam nằm trong số các quốc gia đầu tiên trên thế giới mở cửa trở lại sau hơn 3 tuần khi đại dịch COVID-19 bùng phát. Việt Nam đã duy trì được ổn định kinh tế - xã hội trong suốt nhiều thập kỷ qua. Môi trường kinh doanh thuận lợi và các hiệp định thương mại tự do được kỳ vọng giúp gia tăng nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam trong thời gian tới. Do đó, Forbes kêu gọi các nhà đầu tư nước ngoài nên nghĩ đến đầu tư vào Việt Nam trong bối cảnh nhiều nước khác đang chìm trong đại dịch COVID-19 và nguy cơ suy thoái kinh tế tại phương Tây.

Tư tưởng của Karl Marx về xây dựng Đảng


Tư tưởng của Karl Marx về xây dựng Đảng

 

Tên tuổi của Karl Marx gắn liền với một học thuyết cách mạng, làm thay đổi đời sống hiện thực của loài người. Giá trị và sức sống trường tồn của Học thuyết Marx được thể hiện trong hàng loạt nguyên lý, quan điểm mà Karl Marx đã nghiên cứu về các hiện tượng xã hội nói chung, về con đường phát triển của xã hội loài người nói riêng, trong đó vấn đề xây dựng Đảng có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Trong hoạt động lý luận và thực tiễn của mình và thông qua tổng kết kinh nghiệm các cuộc cách mạng ở châu Âu, Karl Marx và người bạn của mình Friedrich Engels đã chỉ ra bài học lớn là: “Để cho giai cấp vô sản đủ mạnh để chiến thắng trong giờ phút quyết định, cần phải… thành lập một đảng riêng biệt khác hẳn với các đảng khác và đối lập hẳn với các đảng này, một đảng giai cấp tự giác”(1).
Trong Tuyên ngôn Đảng cộng sản-một tác phẩm kinh điển chủ yếu của chủ nghĩa xã hội khoa học, Karl Marx và Friedrich Engels đã khẳng định rằng, sự ra đời của Đảng Cộng sản là tất yếu để bảo đảm cho giai cấp vô sản hoàn thành sứ mệnh lịch sử. Trong cuộc đấu tranh, Đảng Cộng sản không chỉ tập hợp giai cấp vô sản mà cả các tầng lớp trung gian, những nhà tiểu công nghiệp, tiểu thương, thợ thủ công, nông dân… vào trong hàng ngũ của mình. Marx và Engels cũng nhấn mạnh vai trò tiên phong của Đảng Cộng sản, khẳng định đây là điều kiện bảo đảm cho đảng tập hợp được giai cấp vô sản. Tuy nhiên, theo Marx và Engels, Đảng Cộng sản không phải là một đảng riêng biệt mà là một bộ phận gắn liền với giai cấp. Mục đích của Đảng là mục đích của giai cấp, Đảng là đại biểu cho lợi ích của toàn bộ phong trào vô sản. Kết quả của phong trào vô sản không dừng lại ở sự ra đời của chính Đảng mà còn biểu hiện ở chỗ giai cấp vô sản biết hành động theo sự lãnh đạo của Đảng.
Marx và Engels cũng chỉ ra rằng, đảng của giai cấp công nhân, muốn hoàn thành nhiệm vụ lịch sử của mình, muốn thực sự trở thành lực lượng xung kích có khả năng thống nhất giai cấp công nhân và tập hợp quần chúng lao động, phải được xây dựng vững mạnh về tổ chức. Đảng phải thật sự là một liên minh chiến đấu của những người giác ngộ chủ nghĩa cộng sản, là một khối thống nhất về ý chí và hành động.
Kế thừa Chủ nghĩa Marx, Vladimir Ilyich Lenin đưa trung tâm phong trào cách mạng từ Đức về Nga, đồng thời bổ sung, phát triển và vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Marx trên cả 3 phương diện: Triết học, kinh tế chính trị và chủ nghĩa xã hội khoa học. V.I.Lenin từng viết: “Chủ nghĩa Marx là lý luận của phong trào giải phóng của giai cấp vô sản”(2) và đương nhiên nó tất yếu phải trở thành hệ tư tưởng của Đảng Cộng sản”. Người cũng chỉ rõ: “Chỉ đảng nào được một lý luận tiên phong hướng dẫn thì mới có khả năng làm tròn vai trò chiến sĩ tiên phong”(3).
Bảo vệ quan điểm của Marx và Engels, chống lại mọi sự công kích và xuyên tạc của những phần tử cơ hội trong vấn đề xây dựng Đảng, V.I.Lenin đã kiên trì nguyên tắc tập trung dân chủ và khẳng định rằng tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức duy nhất đúng của đảng vô sản kiểu mới. Bên cạnh đó, V.I.Lenin đã không ngừng chăm lo xây dựng Đảng cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, thường xuyên nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng. Điều đó được thể hiện trong việc chuẩn bị tiến hành Cách mạng Tháng Mười và trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng và phát triển sáng tạo những nguyên tắc cơ bản của V.I.Lenin về đảng kiểu mới của giai cấp công nhân vào xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng ta ra đời năm 1930 là kết quả của sự kết hợp giữa Chủ nghĩa Marx-Lenin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước, tạo ra bước ngoặt vĩ đại của lịch sử dân tộc Việt Nam.
Trong 34 năm đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng ta, lấy Chủ nghĩa Marx-Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng, nước ta đã gặt hái được những thành quả to lớn về nhiều mặt, từ kinh tế, chính trị đến văn hóa, xã hội… Việt Nam đã vươn lên từ một quốc gia nghèo đói, kém phát triển trở thành quốc gia đang phát triển, có thu nhập trung bình. Quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và hiệu quả, góp phần nâng cao uy tín, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Những thành tựu trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam đã chứng minh rằng, những di sản tư tưởng của Karl Marx tiếp tục được kế thừa, phát huy và nhân rộng trong điều kiện lịch sử mới. Học thuyết Marx không chỉ có giá trị lịch sử mà còn mang ý nghĩa thời đại và trường tồn với thời gian. 

Tài sản bất minh và những “ngọn đèn pha soi sáng”


Tài sản bất minh và những “ngọn đèn pha soi sáng”

 

Kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn luôn là một giải pháp quan trọng trong tổng thể các biện pháp phòng, chống tham nhũng. Nhất là hiện nay, khi diễn ra đại hội đảng các cấp thì việc kê khai, kiểm soát tài sản của nhân sự cấp ủy, đặc biệt là cấp Trung ương luôn là vấn đề dư luận rất quan tâm.

Trong bài viết quan trọng mới đây về công tác chuẩn bị nhân sự Đại hội XIII của Đảng, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh: “Không để lọt vào Ban chấp hành Trung ương khóa XIII những người kê khai tài sản không trung thực, có biểu hiện giàu nhanh, nhiều nhà, nhiều đất, nhiều tài sản khác mà không giải trình rõ được nguồn gốc…”.
Lương hơn chục triệu đồng, sao nhiều tiền, nhiều nhà đất thế?
Nhấn mạnh của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng về vấn đề tài sản của cán bộ không chỉ là căn cứ quan trọng để lựa chọn nhân sự đại hội, mà còn là sự khẳng định dứt khoát loại bỏ những người không đủ tư cách, đạo đức, nhất là người tham ô, tham nhũng vào trong bộ máy; qua đó, chọn lựa được đội ngũ cán bộ vừa có đức, vừa có tài, trong đó đức là gốc.
Yêu cầu của người đứng đầu Đảng, Nhà nước là vấn đề cụ thể nhưng có tính định hướng cao về chiến lược cán bộ nói chung, nhân sự đại hội nói riêng. Bởi vì, qua kiểm chứng, để thấy được tư cách cán bộ là người có trung thực không; tài sản, thu nhập ấy có minh bạch, chính đáng, có nguồn gốc rõ ràng hay không; có tham ô, tham nhũng, có lợi dụng chức quyền để trục lợi hay không?… Ông Nguyễn Túc, Ủy viên Ðoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cho rằng, chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư, Chủ tịch nước cũng chính là mong muốn của mỗi người dân. Bởi vì, trong thực tế, “nhiều người sau khi được bổ nhiệm làm cán bộ, với quyền cao, chức trọng, thay vì tu dưỡng đạo đức, ra sức phục vụ đất nước, phục vụ nhân dân thì lại chỉ chăm chăm vun vén bổng lộc, tài sản cho cá nhân, gia đình và người thân”-ông Nguyễn Túc nêu.
Có thể thấy rằng, trong những năm qua, đặc biệt là nhiệm kỳ Đại hội XII, Đảng ta rất chú trọng công tác kiểm tra, kiểm soát tài sản, thu nhập của đội ngũ cán bộ, góp phần ngăn chặn, phòng ngừa hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn vì động cơ vụ lợi. Nghị quyết số 04-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã chỉ rõ: “Thực hiện nghiêm việc kê khai tài sản, thu nhập theo quy định; xây dựng và hoàn thiện cơ chế giải trình và giám sát việc tăng, giảm tài sản của cán bộ, đảng viên. Cơ quan đề xuất đề bạt, bổ nhiệm cán bộ phải tiến hành thẩm định, xác minh, đánh giá tính trung thực của việc kê khai tài sản, thu nhập và công khai theo quy định”. Ngày 23-5-2017, Bộ Chính trị ban hành Quy định số 85-QĐ/TW về kiểm tra, giám sát việc kê khai tài sản của cán bộ thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý, thể hiện tinh thần nêu gương và yêu cầu nêu gương đối với cán bộ cấp cao trong công tác kê khai và kiểm tra, giám sát việc kê khai tài sản. Thể chế hóa quan điểm của Đảng, Nhà nước ta đã ban hành nhiều quy định pháp luật, bảo đảm thực hiện có hiệu quả việc kê khai, kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ trong hệ thống công vụ…
Từ các chủ trương, quy định đó, việc kê khai, kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức quyền trong những năm qua đã chuyển biến nhất định, góp phần tích cực vào công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Tuy nhiên, việc kê khai, kiểm soát tài sản, thu nhập vẫn tồn tại không ít hạn chế, bất cập. Báo cáo Tổng kết 10 năm thực hiện Luật Phòng, chống tham nhũng (2006-2016) nhận định: “Việc kê khai tài sản, thu nhập còn nặng về hình thức; hầu hết các bản kê khai chưa được kiểm tra, xác minh, kiểm chứng; chưa giúp cho các cơ quan chức năng kiểm soát được những biến động về tài sản của người có chức vụ, quyền hạn”. Hằng năm, việc kê khai được làm rất nghiêm túc, đầy đủ. Số lượng người kê khai luôn đạt hơn 99%; kê khai đúng thời kỳ, đúng thời hạn nộp. Tuy nhiên, tính hiệu quả của việc kê khai, để phát hiện những bất thường, thậm chí tài sản tham nhũng để xử lý, thu hồi vẫn còn rất thấp. 
Trong khi đó, thực tế có nhiều cán bộ quyền cao, chức trọng, giàu nhanh chóng với khối tài sản lớn, sở hữu nhiều biệt phủ, siêu xe, vật dụng xa xỉ… Chỉ tính từ đầu nhiệm kỳ khoá XII đến nay, đã có gần 100 cán bộ cao cấp thuộc diện Trung ương quản lý bị kỷ luật, thậm chí bị xử lý hình sự, trong đó có những cán bộ liên quan đến tham ô, tham nhũng với số tiền lên đến hàng triệu USD. Ông Nguyễn Túc nêu câu hỏi: “Cán bộ lãnh đạo, quản lý, hưởng lương theo quy định của Nhà nước chỉ có hơn chục triệu đồng, mà sao gia đình, con cái, người thân nhiều tiền, nhiều đất đai đến thế? Rồi, vợ, chồng, con cái cũng chỉ làm công nhân, viên chức mà lại sở hữu xe sang, biệt thự, thậm chí như dư luận từng phản ánh có trường hợp sở hữu cả resort? Có trường hợp cán bộ để vợ, con lợi dụng làm ăn, lập dự án, kiếm tiền thiếu minh bạch”.
Sở dĩ việc kê khai, kiểm soát tài sản, thu nhập theo quy định còn nặng về hình thức là do nhiều nguyên nhân. Trong đó, các quy định về minh bạch tài sản, thu nhập chưa đủ mạnh để kiểm soát; việc xác định đối tượng kê khai, trình tự, thủ tục giải trình, xác minh tài sản, thu nhập và thẩm quyền của cơ quan chức năng có trách nhiệm phát hiện, xử lý vi phạm… còn bất cập; chưa có cơ chế hữu hiệu trong việc công khai bản kê khai tài sản nhằm phát huy sự giám sát của xã hội đối với tài sản của người có chức vụ, quyền hạn… Thực trạng đó cần phải có giải pháp đồng bộ, đột phá để tạo chuyển biến trong công tác này ngay khi diễn ra đại hội đảng các cấp, tiến tới Đại hội XIII của Đảng.
Dựa vào dân - “ngọn đèn pha soi sáng”
Trước hết, có thể khẳng định, tài sản do tham nhũng đem lại gắn liền với cán bộ có chức, có quyền và do bị tha hóa. Theo V.I.Lenin thì, nguyên nhân của quan liêu, tham nhũng bắt nguồn từ tư tưởng thích chức quyền, ham địa vị, ham lợi, ham giàu sang phú quý, “ăn trên ngồi trốc”... của một tầng lớp gồm những người trong ngành hành chính có chức, có quyền được hưởng một địa vị đặc quyền so với nhân dân. Ngay từ những ngày đầu thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã cảnh báo và lên án mạnh mẽ những biểu hiện của sự tha hóa quyền lực trong không ít cán bộ, đảng viên có chức, có quyền. Trong ba kẻ thù “nội xâm” là tham ô, lãng phí và quan liêu, Người coi tham ô là kẻ thù nguy hiểm nhất, bởi đó là hành động xấu xa nhất, tội lỗi, đê tiện nhất trong xã hội. Nó nguy hiểm đến mức mà Người từng xếp căn bệnh này ngang hàng với tội phản quốc.
Cũng đề cập về vấn đề này, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị toàn quốc về công tác phòng, chống tham nhũng năm 2018 đã khẳng định: “Quyền lực luôn có nguy cơ bị "tha hóa", tham nhũng là "khuyết tật bẩm sinh" của quyền lực, cho nên, phải thiết lập cho được một cơ chế kiểm soát việc thực thi quyền lực đối với người có chức vụ, quyền hạn theo nguyên tắc, mọi quyền lực đều phải được kiểm soát chặt chẽ bằng cơ chế; quyền hạn phải được ràng buộc với trách nhiệm, quyền hạn đến đâu, trách nhiệm đến đó, quyền hạn càng cao, trách nhiệm càng lớn. Do vậy, phải tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát để bảo đảm quyền lực được vận hành công khai, minh bạch, đúng đắn, không bị "tha hóa".
Việc kê khai, kiểm soát tài sản, thu nhập của những cán bộ có chức, có quyền chính là giải pháp để ngăn ngừa, phát hiện và xử lý tham nhũng, góp phần xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh, chống lại sự “tha hóa quyền lực”. Một trong những kênh quan trọng hàng đầu để kiểm soát quyền lực nói chung và tài sản của cán bộ, công chức nói riêng là từ nhân dân. Thực tế vừa qua, chính người dân, có thể trực tiếp hoặc thông qua báo chí, công luận, thậm chí mạng xã hội, đã góp phần vạch trần những khối tài sản lớn, bất minh của một số cán bộ, giúp cơ quan chức năng đưa ra ánh sáng và xử lý người vi phạm. Sinh thời, Bác Hồ luôn đề cao vai trò của quần chúng trong đấu tranh chống “thứ giặc ở trong lòng”. Người chỉ rõ: “Làm cho quần chúng khinh ghét tệ tham ô, lãng phí, quan liêu; biến hàng trăm, hàng triệu con mắt, lỗ tai cảnh giác của quần chúng thành những ngọn đèn pha soi sáng khắp mọi nơi, không để cho tệ tham ô, lãng phí, quan liêu còn chỗ ẩn nấp”.
Để phát huy vai trò của nhân dân trong công tác giám sát việc kê khai, kiểm soát tài sản của cán bộ, điều tiên quyết là cần có cơ chế hữu hiệu, khả thi để người dân tiếp cận được với thông tin về tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức. Mặc dù chúng ta đã có chủ trương về công khai bản kê khai tài sản của công chức nhưng khi thực hiện vẫn chưa rộng rãi, thông tin kê khai về cơ bản vẫn chỉ “khép kín”. Theo TS Đinh Văn Minh, Vụ trưởng Vụ Pháp chế (Thanh tra Chính phủ) thì có hai nguyên nhân chủ yếu của tình trạng này: Một là, về mặt kỹ thuật, với một số lượng bản kê khai tài sản quá lớn như hiện nay thì việc công khai tại nơi cứ trú là điều không hề đơn giản. Công khai ở đâu? Hình thức như thế nào? Ai là người thực hiện? Chi phí sẽ là bao nhiêu để công khai hơn một triệu bản kê khai?... Thứ hai, quan trọng hơn, là sự lo ngại về việc bảo đảm an toàn cho người có tài sản cả về tinh thần và vật chất. Việc bất kỳ một người nào đó biết được tài sản của công chức sẽ có thể dẫn đến nguy cơ sử dụng thông tin đó với dụng ý xấu hay vào việc bất minh. 
Những khó khăn này rất cần được các cơ quan chức năng nghiên cứu để có cách giải quyết, vừa bảo đảm sự tiếp cận của người dân với thông tin về tài sản của công chức, cán bộ lãnh đạo, quản lý, vừa bảo đảm an toàn cho người kê khai.
Để khắc phục tình trạng kê khai tài sản còn mang nặng tính hình thức và kiểm soát chặt chẽ, hiệu quả hơn thu nhập, tài sản của cán bộ, công chức cần phải có cơ quan đủ thẩm quyền, một đầu mối thống nhất để hoạt động. Đó phải là cơ quan hoặc đơn vị chuyên trách, có trách nhiệm và năng lực tiếp nhận, rà soát, xác minh thông tin tài sản của cán bộ, công chức.
Giải pháp rất cần thiết để tăng tính tự giác, trung thực của người kê khai tài sản là xử lý nghiêm minh nếu phát hiện vi phạm. Một trong những nội dung đáng chú ý trong dự thảo Nghị định về kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ quyền hạn, đó là khi sự thiếu trung thực bị phát hiện, hình thức xử phạt sẽ rất nặng. Đối với cán bộ, công chức có thể bị buộc thôi việc; cán bộ lãnh đạo, quản lý có thể bị bãi nhiệm, miễn nhiệm, cách chức.
Nói về việc kê khai và kiểm soát thu nhập, tài sản của cán bộ lãnh đạo, quản lý trong bộ máy, chúng ta cũng không được “đánh đồng” và “vơ đũa cả nắm” với những thu nhập, tài sản chính đáng, tường minh. Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng từng nói rằng, vấn đề kê khai tài sản cán bộ là vấn đề rất khó, nhạy cảm bởi nó liên quan đến quyền đời tư, quyền bí mật cá nhân. Vì vậy, phải được tiến hành thận trọng, đúng quy định, nhất là trong bối cảnh đang diễn ra đại hội đảng các cấp, tiến tới Đại hội XIII của Đảng. "Chìa khóa" để giải quyết hiệu quả vấn đề này là phải dựa vào tai mắt và sức mạnh của nhân dân. Ông Nguyễn Túc khi đề cập đến kinh nghiệm này, đã khẳng định: “Để có thể phát hiện những người giàu nhanh, bất thường, nhiều nhà, nhiều đất thì không chỉ dựa vào bộ máy Đảng, Nhà nước mà quan trọng nhất là phải dựa vào dân. Bác Hồ đã từng nói: Có khó khăn gì, cứ về hỏi dân”.

Giữ gìn bản sắc văn hóa-bảo vệ nền tảng tinh thần xã hội


Giữ gìn bản sắc văn hóa-bảo vệ nền tảng tinh thần xã hội

 

Lợi dụng chủ trương hội nhập ngày càng sâu rộng với thế giới của Đảng, Nhà nước Việt Nam, các thế lực thù địch càng có cơ hội đẩy mạnh âm mưu “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực văn hóa, nhằm phủ nhận những thành quả của cách mạng Việt Nam, thay đổi theo chiều hướng tiêu cực nền tảng tinh thần của xã hội.

Từ đó, hướng tới âm mưu tạo ra những cuộc “cách mạng màu”, “cách mạng nhung” nhằm thay đổi thể chế chính trị ở Việt Nam. Hơn lúc nào hết, việc giữ gìn bản sắc văn hóa-nền tảng tinh thần của xã hội-cần được đẩy mạnh, củng cố niềm tin cho nhân dân vào con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) mà dân tộc Việt Nam đã lựa chọn.
Bài học lớn từ quá khứ
Năm 1991, Liên bang Xô viết chính thức sụp đổ. Đó là mất mát vô cùng lớn lao đối với phong trào cộng sản trên toàn thế giới. Tuy nhiên, đó cũng là bài học kinh nghiệm rất có giá trị đối với những đất nước tiếp tục vững bước tiến lên theo con đường CNXH như Việt Nam. Một trong những bài học kinh nghiệm rút ra từ việc Liên bang Xô viết sụp đổ là sự xâm thực về văn hóa, dẫn tới thay đổi về nền tảng tinh thần xã hội.
Cuối năm 1958, Liên Xô và Hoa Kỳ thống nhất việc tổ chức hai cuộc triển lãm tại thành phố New York và thủ đô Moscow nhằm thúc đẩy giao lưu văn hóa và sự hiểu biết lẫn nhau. Đây được coi là một sự kiện gây chấn động thế giới, bởi hai quốc gia siêu cường Liên Xô và Hoa Kỳ đối nghịch về nền tảng chính trị và có những khác biệt rất lớn về văn hóa. Sau này, triển lãm của Liên Xô tại thành phố New York không được đề cập nhiều nhưng triển lãm của Hoa Kỳ lại gây tiếng vang đáng kể.
Tại công viên Sokolniki ở thủ đô Moscow, Hoa Kỳ đã quảng bá văn hóa, công nghệ cũng như các sản phẩm tiêu dùng, từ ô tô, đồ uống đến nghệ thuật, thời trang và kiến trúc. Nhiều nhà tài trợ và doanh nghiệp lớn nổi tiếng của xứ cờ hoa, như: Disney, Dixie Cup Inc, IBM, Pepsi… đều có gian hàng trưng bày sản phẩm. Ngày 24-7-1959, trước khi triển lãm Moscow chính thức khai mạc, Phó tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon đã mời nhà lãnh đạo Liên Xô Nikita Khrushchev tham quan các gian hàng. Họ dừng lại trước một căn bếp-nơi trở thành “hiện trường” cho cuộc tranh luận nổi tiếng trong chiến tranh Lạnh. Căn bếp này do các nhà thiết kế Hoa Kỳ dựng lên với đầy đủ tiện nghi, như: Máy rửa bát, lò nướng bánh mì, máy xay sinh tố… dường như là để “khoe” mọi người dân Mỹ đều có thể sở hữu căn bếp như thế. Lãnh đạo Liên Xô tỏ ý không vừa lòng, nói rằng các gia đình Liên Xô cũng có những thứ này. Cuộc tranh luận bắt đầu, chủ đề được mở rộng đến các vấn đề chính trị như chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa tư bản (CNTB), chiến tranh hạt nhân... Ngày hôm sau, "Cuộc tranh luận trong bếp" là tin tức xuất hiện trên trang nhất của các tờ báo ở Hoa Kỳ. Và điều thú vị nhất của “Cuộc tranh luận trong bếp” là sau khi nó kết thúc, Nixon và Khrushchev cùng uống Pepsi. Một nhiếp ảnh gia đã bắt được khoảnh khắc Nixon và Khrushchev đứng cạnh nhau trong khi nhà lãnh đạo Liên Xô thưởng thức nước ngọt có ga của một thương hiệu… phương Tây.
Cùng các cuộc chiến về chính trị, ngoại giao, văn hóa là mũi nhọn được các thế lực thù địch phương Tây sử dụng nhằm tiêu diệt nhà nước Nga Xô viết. Dưới thời nhà lãnh đạo Khrushchev, các thế lực chống cộng và chính quyền phương Tây căn cứ vào tình hình đã tăng cường thực thi “diễn biến hòa bình”, âm mưu phương Tây hóa, phân hóa Liên Xô. Đến thời Tổng thống Hoa Kỳ Ronald Reagan (hai nhiệm kỳ-1981-1989), Chính phủ Hoa Kỳ càng đẩy mạnh chủ trương ngoại giao cân bằng, thẩm thấu tư tưởng, văn hóa với Liên Xô và các nước Đông Âu qua truyền bá quan điểm phương Tây về tự do, nhân quyền với hạt nhân là lợi ích cá nhân. Reagan cho rằng, trong cuộc đấu tranh giữa CNTB và CNXH, nhân tố quyết định cuối cùng không phải là đọ sức đạn hạt nhân và tên lửa mà là cuộc đọ sức của ý chí và tư tưởng.
Ở chiều ngược lại, Tổng bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô khi đó là Mikhail Gorbachev lại ra sức cổ súy cho cái gọi là tư duy mới chính trị quốc tế. Lợi dụng thời cơ đó, các thế lực chống cộng ở phương Tây tài trợ cho một số cơ quan nghiên cứu lập phương án đánh vào những tình cảm nhân dân Liên Xô dành cho Lênin và Stalin. Các tác phẩm chống Lênin, Stalin xuất hiện đầy rẫy trên báo, đài phát thanh, đài truyền hình, phim ảnh... Họ kích động nhân dân Liên Xô đề nghị mai táng thi hài Lênin. Phương Tây còn ca tụng tư duy cải tổ của Gorbachev, nhằm làm suy yếu và hủy bỏ uy tín của Đảng Cộng sản Liên Xô, của chế độ xã hội chủ nghĩa (XHCN), tuyên truyền cho cái gọi là cuộc sống tươi đẹp ở phương Tây và tính ưu việt của chế độ tư bản. Phương Tây rất chú trọng dùng lối sống tiêu dùng để tác động và ảnh hưởng đến đông đảo người dân Liên Xô, đặc biệt là lứa tuổi thanh niên.
Sau này, tổng kết về “thắng lợi” của chiến lược “diễn biến hòa bình” đối với Liên Xô và Đông Âu, năm 1988, cựu Tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon đã xuất bản cuốn sách “1999-Chiến thắng không cần chiến tranh”. Trong đó, R.Nixon xác định: “Mặt trận tư tưởng là mặt trận quyết định nhất, toàn bộ vũ khí của chúng ta, các hoạt động mậu dịch, viện trợ, quan hệ kinh tế sẽ không đi đến đâu, nếu chúng ta thất bại trên mặt trận tư tưởng!".
Nguy cơ hiện hữu
Từ năm 1959, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra, cùng với âm mưu xâm lăng nước ta bằng quân sự, các nước đế quốc còn thực hiện âm mưu xóa bỏ những giá trị truyền thống, tinh hoa văn hóa tốt đẹp của dân tộc ta. Cuộc đấu tranh này ở nước ta, theo thời gian, theo sự phát triển của xã hội ngày càng diễn ra rất phức tạp, gay go và quyết liệt.
Nguy cơ “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực văn hóa-tư tưởng diễn ra từ hai góc độ: Hoạt động chống phá của các thế lực thù địch và xu hướng “tự chuyển hóa” của những đối tượng yếu kém bản lĩnh chính trị trước sự biến động của xã hội.
Ở góc độ chống phá của các thế lực thù địch, biểu hiện rõ nét nhất là hoạt động xuyên tạc, bôi đen giá trị văn hóa, đạo đức, lối sống XHCN, ra sức du nhập văn hóa, đạo đức, lối sống tư sản thực dụng, trụy lạc, tôn thờ đồng tiền là trên hết, sống ích kỷ, phi đạo đức. Cùng đó, các thế lực thù địch luôn khuyến khích khuynh hướng đòi văn hóa, văn nghệ hoạt động độc lập với chính trị, phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng, phủ nhận sự quản lý của Nhà nước đối với lĩnh vực này.
Trong nhiều năm qua, đã có không ít văn nghệ sĩ lạc đường, từ bỏ lợi ích của quốc gia, dân tộc, chuyển sang sáng tác theo khuynh hướng văn hóa, nghệ thuật phương Tây, hạ thấp, coi rẻ truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc, khuyến khích các giá trị văn hóa cá nhân cực đoan, đề cao giá trị dân chủ, tự do tư sản. Thậm chí, đã xuất hiện những sáng tác miêu tả cuộc chiến tranh chính nghĩa của dân tộc ta mang một màu đen tối, chết chóc, bi kịch, vô nghĩa; phủ định những sáng tạo văn hóa, văn nghệ trong thời kỳ chiến tranh, coi đó là “minh họa”, là tô hồng, là cao hơn, là đứng trên hiện thực. Chúng ta không phủ nhận những hạn chế lịch sử của mảng văn học, nghệ thuật trong chiến tranh nhưng không thể nhân danh đổi mới để bôi nhọ cuộc chiến đấu chính nghĩa của dân tộc bằng việc chỉ miêu tả mặt đen tối, sự chết chóc và tha hóa con người trong chiến tranh. Khuynh hướng này chỉ là phiến diện, chưa trung thực với lịch sử. Với vai trò văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, những sản phẩm đội danh văn hóa này đặc biệt nguy hiểm, có nguy cơ làm tha hóa thế hệ trẻ, tạo ra một thế hệ “mất gốc”, phủ nhận các giá trị truyền thống dân tộc, thích đua đòi, ăn chơi hưởng lạc, kích thích các tệ nạn xã hội phát triển.
Ở góc độ chủ quan những người “tự chuyển hóa”, khi đất nước mở cửa sâu rộng với thế giới, những yếu tố có khả năng tác động tới sự biến đổi về xã hội ùa vào theo là vấn đề tất yếu. Đó bao gồm hai sản phẩm cơ bản: Văn hóa và tiêu dùng. Cả hai sản phẩm này, dù được nhập khẩu chính ngạch nhưng đều mang tính hai mặt, đặc biệt với sản phẩm văn hóa. Những sản phẩm văn hóa được phép lưu hành đều mang những giá trị nhất định về chân-thiện-mỹ, cổ vũ lối sống lành mạnh, tốt đẹp. Tuy nhiên, đi kèm theo đó là việc phổ biến những giá trị văn hóa, hình ảnh xã hội khác biệt, thậm chí đi ngược với những giá trị văn hóa truyền thống của người Việt. Dưới góc độ hội nhập, chúng ta không thể không tiếp thu những tinh hoa của văn hóa thế giới nhằm bổ sung, làm giàu thêm nền văn hóa dân tộc. Tuy nhiên, nếu việc tiếp thu thiếu chủ động, không đủ bản lĩnh, năng lực để chỉ lựa chọn cái tốt, cái có ích cho đời sống văn hóa thì quá trình hội nhập về văn hóa sẽ trở thành nguy cơ làm “biến màu” nền văn hóa bản địa.
Đối với sản phẩm tiêu dùng, là những thứ vô cùng gần gũi trong cuộc sống mỗi người, như: Cái ăn, cái mặc, cái làm đẹp, sự tác động về văn hóa diễn ra âm thầm nhưng không kém phần mạnh mẽ. Bởi lẽ, bất cứ lĩnh vực nào, sản phẩm gì trong xã hội đều ẩn chứa yếu tố văn hóa. Một chiếc quần Jean gắn với hình ảnh chàng Cowboy miền Tây nước Mỹ. Một chiếc ô tô Mercedez gắn với văn hóa Đức. Một sản phẩm tiêu dùng tốt, bền, giá cả phải chăng thường gắn với hình ảnh đất nước Mặt trời mọc… Khi quen thuộc với những sản phẩm tiêu dùng ấy, đồng nghĩa với việc người sử dụng trở nên “thân thiết” với nền văn hóa làm ra chúng. Từ đó, tâm lý sùng bái hàng ngoại có thể tiếp biến thành sùng bái văn hóa ngoại.
Những tác động của văn hóa lên nền tảng tư tưởng xã hội thường không mang tính chất tức thời mà là một quá trình “mưa dầm thấm lâu”. Tuy nhiên, sự chuyển biến chậm rãi đó lại có khả năng thay đổi bền vững tư duy, tình cảm của mỗi người. Vì thế, nếu thiếu cảnh giác, để những tác động tiêu cực của văn hóa ngoại lai du nhập, thẩm thấu sâu vào đời sống xã hội Việt Nam, chúng ta sẽ phải trả cái giá rất đắt. Thậm chí, có thể là cả việc lạc mất con đường tiến lên CNXH mà Đảng, Bác Hồ, nhân dân đã lựa chọn.

Chính sách “3 không” của Việt Nam vẫn hoàn toàn đúng đắn

Trước sự kiện vi phạm của Trung Quốc, các thế lực thù địch đã công kích, đòi Việt Nam phải thay đổi chính sách “3 không”, tiến đến hợp tác toàn diện, là đồng minh của Mỹ, Nhật Bản… để chống lại hành động xâm phạm chủ quyền từ phía Trung Quốc.
Thực tiễn cho thấy, mọi hành động của các quốc gia, xét đến cùng đều bắt nguồn từ lợi ích, lợi ích cao nhất, tối thượng nhất là lợi ích quốc gia, dân tộc.
Đặc biệt, với các quốc gia tư bản chủ nghĩa, nếu không có lợi ích, Việt Nam là đối tác toàn diện, là đồng minh của họ, đang bị các quốc gia khác đe dọa chủ quyền, họ cũng chẳng lên tiếng, huống hồ là giúp đỡ.
Lịch sử cho thấy, nhiều quốc gia đã bị các nước lớn “đi đêm” mặc cả với nhau trên lưng các quốc gia khác, sẵn sàng hy sinh quyền lợi của các nước nhằm bảo vệ lợi ích của quốc gia họ, trong đó có Việt Nam.
Do đó, với chính sách “3 không: không tham gia lực lượng, liên minh quân sự của bên này chống bên kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ của Việt Nam để chống lại nước khác; không đe dọa hoặc sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế của Việt Nam là hoàn toàn đúng đắn, thể hiện quan điểm độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường của Đảng, Nhà nước ta về quốc phòng nói chung, công tác đối ngoại quốc phòng nói riêng, mang bản chất chế độ XHCN mà Việt Nam đang xây dựng, hướng đến sự hòa bình, thịnh vượng cho đất nước, khu vực và thế giới.
Chính sách quốc phòng, quân sự, xây dựng quân đội, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân của Việt Nam chỉ nhằm mục đích duy nhất là để bảo vệ Tổ quốc. Chúng ta không quên sự hợp tác, giúp đỡ chí nghĩa, chí tình của cộng đồng quốc tế đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; song từ xưa đến nay, cha ông ta luôn nhất quán tinh thần độc lập, tự chủ, lấy sức ta mà giải phóng cho ta, không dựa dẫm, ỷ lại, trông chờ duy nhất vào sự hỗ trợ từ bên ngoài để bị lệ thuộc, bị chi phối.
Đảng ta luôn nhất quán quan điểm biện chứng trong đối tượng và đối tác, có hợp tác và có đấu tranh; giải quyết mọi bất đồng, tranh chấp bằng biện pháp hòa bình trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, phù hợp với Hiến pháp, pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là thành viên.
Trong xu thế toàn cầu hóa, Việt Nam luôn chủ động hội nhập và phát triển; tiến hành hội nhập sâu rộng trên các lĩnh vực, như: hội nhập kinh tế quốc tế; hội nhập quốc tế về văn hóa – xã hội, môi trường và hội nhập quốc tế về chính trị, quốc phòng, an ninh.
Đến nay, Việt Nam đã có quan hệ quốc phòng với hơn 80 nước, bao gồm tất cả các thành viên Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc; đã ký 50 hiệp định, bản ghi nhớ hợp tác tương trợ tư pháp hình sự chống tội phạm, phòng, chống ma túy với các nước. Quan hệ quốc phòng – an ninh đa phương có bước phát triển về số lượng, chất lượng và hiệu quả…
Quá trình hội nhập đó, Việt Nam vẫn giữ được chủ trương, đường lối và bảo đảm thực hiện tốt chính sách “3 không”, giữ đúng định hướng. Đến nay, chính sách “3 không” vẫn hoàn toàn đúng đắn.

Phát huy tinh thần độc lập, tự chủ, quyết chiến, quyết thắng trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc


Phát huy tinh thần độc lập, tự chủ, quyết chiến, quyết thắng trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc

Đã 65 năm trôi qua nhưng âm hưởng, ý nghĩa và bài học lịch sử của chiến thắng ấy vẫn còn vang vọng mãi, là động lực và tiếp thêm sức mạnh cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta trên con đường đổi mới, hội nhập và phát triển, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đất nước ta trong những ngày đầu độc lập gặp muôn vàn khó khăn, thử thách trong bối cảnh “thù trong, giặc ngoài”-thực dân Pháp dã tâm quay trở lại xâm lược đất nước ta một lần nữa; vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, tập trung diệt giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm. Hưởng ứng Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh (tháng 12-1946), dưới sự lãnh đạo của Đảng, quân và dân ta đã nêu cao tinh thần độc lập, tự do, quyết chiến, quyết thắng, “thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”, nhất tề đứng lên thực hiện đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, dựa vào sức mình là chính; đồng thời, tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế, từng bước đánh bại các chiến lược quân sự của bè lũ thực dân, giành được những thắng lợi quan trọng, nổi bật là trên các mặt trận Việt Bắc 1947, Chiến dịch Biên giới Thu Đông 1950.
Trên cơ sở phân tích, đánh giá sâu sắc tình hình thế giới và trong nước, Trung ương Đảng đề ra kế hoạch chiến lược Đông Xuân 1953-1954, quyết tâm giữ vững thế chủ động, đánh địch cả chính diện và sau lưng, với phương châm tác chiến “tích cực, chủ động, cơ động, linh hoạt”, “đánh chắc thắng” để đánh bại kế hoạch Navarre của địch. Với tinh thần cả nước ra trận, quân và dân ta đã liên tục tiến công, giáng cho địch nhiều thất bại nặng nề, buộc chúng rơi vào thế bị động đối phó trên khắp các chiến trường. Trước nguy cơ kế hoạch Navarre bị phá sản, thực dân Pháp gấp rút điều động lực lượng nhảy dù, chiếm Điện Biên Phủ, tăng cường lực lượng, xây dựng nơi đây thành tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương-“một pháo đài không thể công phá”, nhằm tạo bàn đạp chiến lược khống chế khu vực Tây Bắc, Thượng Lào và thu hút, “nghiền nát” chủ lực của ta.
Nắm chắc tình hình, âm mưu, thủ đoạn của địch, đầu tháng 12-1953, Bộ Chính trị đã quyết định mở Chiến dịch Điện Biên Phủ, “tập trung đại bộ phận lực lượng chủ lực thiện chiến của ta lên Mặt trận Điện Biên Phủ, mở chiến dịch tiến công tiêu diệt những lực lượng tinh nhuệ nhất của địch trong tập đoàn cứ điểm mạnh nhất của chúng trên chiến trường Đông Dương”. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ đạo, đây là chiến dịch có ý nghĩa quân sự, chính trị, ngoại giao rất quan trọng; phải đánh thắng; chắc thắng mới đánh, không chắc thắng không đánh. Thực hiện tư tưởng chỉ đạo, quyết tâm chiến lược đó, quân và dân ta đã khẩn trương chuẩn bị tốt mọi mặt và bước vào trận quyết chiến chiến lược bằng khát vọng độc lập dân tộc cháy bỏng cùng ý chí quyết chiến, quyết thắng cao độ.
Trước thực tiễn chiến trường và quán triệt sâu sắc tư tưởng chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ủy và Bộ chỉ huy chiến dịch, đứng đầu là Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã quyết định chuyển phương châm tác chiến từ “đánh nhanh, giải quyết nhanh” sang “đánh chắc, tiến chắc” ngay trước giờ mở màn chiến dịch. Đây là một quyết định sáng suốt, thể hiện tài thao lược quân sự, phù hợp với thực tế diễn biến chiến dịch và chính là một trong những yếu tố mang tính quyết định đến thắng lợi cuối cùng. Trải qua “Năm mươi sáu ngày đêm khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt/ Máu trộn bùn non/ Gan không núng/ Chí không mòn!”, ngày 7-5-1954, lá cờ “Quyết chiến quyết thắng” của Chủ tịch Hồ Chí Minh trao cho Quân đội nhân dân Việt Nam đã hiên ngang tung bay trên nóc hầm De Castries, quân và dân ta đã làm nên Chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”. Đây là một trong những đỉnh cao chói lọi, kỳ tích vẻ vang trong lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm, xứng đáng được ghi vào lịch sử dân tộc như một Bạch Đằng, Chi Lăng, Đống Đa trong thời đại Hồ Chí Minh. Đó là thắng lợi của khát vọng hòa bình, độc lập, tự do, của ý chí tự lực, tự cường của dân tộc Việt Nam; thắng lợi của phong trào giải phóng dân tộc, dân chủ nhân dân trên thế giới và của lương tri thời đại. Chiến thắng Điện Biên Phủ đã giáng đòn quyết định, đập tan dã tâm xâm lược của các thế lực đế quốc, thực dân hiếu chiến, buộc Chính phủ Pháp phải ký Hiệp định Geneva, chấm dứt chiến tranh ở Đông Dương, mở ra trang mới cho cách mạng Việt Nam; đồng thời là một sự kiện quan trọng báo hiệu sự sụp đổ hoàn toàn của chủ nghĩa thực dân cũ trên toàn thế giới.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp mà đỉnh cao là Chiến dịch Điện Biên Phủ là chiến thắng của chủ nghĩa yêu nước, ý chí bất khuất, kiên cường của dân tộc Việt Nam được hun đúc qua hàng nghìn năm lịch sử; chiến thắng của đường lối chiến tranh nhân dân đúng đắn, sáng tạo của Đảng ta, của ý chí quyết chiến, quyết thắng, “dám đánh, quyết đánh, biết đánh và biết thắng”; của sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại; đồng thời, là chiến thắng của tình đoàn kết chiến đấu thủy chung, son sắt của quân, dân ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia và sự ủng hộ, giúp đỡ của bạn bè quốc tế.
Chiến thắng Điện Biên Phủ vừa mang ý nghĩa lịch sử to lớn, vừa mang tầm thời đại sâu sắc, làm sáng ngời chân lý: Một nước nhỏ, kinh tế chậm phát triển, nếu có một Đảng Mác-xít chân chính lãnh đạo, có đường lối chính trị, quân sự đúng đắn, phát huy được sức mạnh toàn dân tộc, được nhân dân thế giới đồng tình ủng hộ, thì nhất định đánh bại mọi cuộc chiến tranh xâm lược của kẻ thù, dù kẻ thù đó mạnh hơn nhiều lần. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ là dấu mốc bằng vàng. Đó là thắng lợi vĩ đại của nhân dân ta, mà cũng là thắng lợi chung của tất cả các dân tộc bị áp bức trên thế giới. Chiến thắng Điện Biên Phủ càng làm sáng ngời chân lý của Chủ nghĩa Mác-Lênin trong thời đại ngày nay: Chiến tranh xâm lược của bọn đế quốc nhất định bị thất bại, cách mạng giải phóng của các dân tộc nhất định thành công”. Chiến thắng Điện Biên Phủ là mốc son chói lọi, là niềm tự hào dân tộc. Tinh thần của chiến thắng vĩ đại này đã được quân và dân ta tiếp nối, phát huy cao độ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, lập nên những chiến công hiển hách, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước và làm nên những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong sự nghiệp đổi mới, hội nhập, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Ngày nay, xu thế chủ đạo của thế giới là hòa bình, hợp tác và phát triển nhưng vẫn còn tiềm ẩn những nguy cơ bất ổn, diễn biến phức tạp; cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn ngày càng gay gắt, chủ nghĩa dân tộc, dân túy, bảo hộ và các thách thức an ninh phi truyền thống, biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh… gia tăng. Khoa học công nghệ phát triển nhanh và Cách mạng công nghiệp lần thứ tư mở ra nhiều cơ hội nhưng cũng xuất hiện những thách thức mới trên mọi mặt của đời sống xã hội. Sau hơn 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, thế và lực của đất nước ta không ngừng được nâng lên; uy tín, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao. Tuy nhiên, sức chống chịu và khả năng cạnh tranh của nền kinh tế còn nhiều hạn chế; năng suất, chất lượng, hiệu quả chưa cao; nguy cơ rơi vào bẫy thu nhập trung bình và tụt hậu vẫn còn hiện hữu. Phát triển văn hóa, xã hội, bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quốc phòng, an ninh, đối ngoại mặc dù đã đạt được những thành tựu quan trọng nhưng nhiệm vụ đặt ra còn rất nặng nề. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế diễn ra sâu rộng, mạnh mẽ, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, bên cạnh những thuận lợi là cơ bản, đã và đang đặt ra những yêu cầu mới và đứng trước không ít khó khăn, thách thức cả về kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại.
Kế thừa và phát huy truyền thống vẻ vang trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của dân tộc; ý chí quyết chiến, quyết thắng và khát vọng hòa bình của nhân dân ta, thể hiện sâu sắc, đậm nét trong các cuộc kháng chiến mà đỉnh cao là Chiến dịch Điện Biên Phủ, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta tiếp tục đoàn kết, thống nhất, chung sức, đồng lòng, vượt qua mọi khó khăn, thách thức, nỗ lực phấn đấu thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội; tăng cường quốc phòng, an ninh, theo các nghị quyết của Đảng, Quốc hội, tạo nền tảng vững chắc để đất nước phát triển nhanh, bền vững hơn trong những năm tiếp theo; trong đó cần tập trung thực hiện tốt những định hướng chủ yếu sau:
Một là, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tổ chức triển khai thực hiện nghiêm túc, hiệu quả các chủ trương, đường lối của Đảng. Đây là điều kiện tiên quyết để thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, đã được thể hiện rõ trong các nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Trước bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, tình hình thế giới, khu vực diễn biến phức tạp, tiềm ẩn nguy cơ mất ổn định, khó dự báo; cơ hội và thách thức, đối tượng và đối tác đan xen; trong khi đó các thế lực thù địch, phản động đẩy mạnh chống phá cách mạng nước ta thông qua “diễn biến hòa bình” với nhiều thủ đoạn hết sức tinh vi, thâm độc, đòi hỏi chúng ta càng phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kiên định Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng.
Tiếp tục quán triệt và thực hiện nghiêm túc, hiệu quả đường lối đổi mới toàn diện, đồng bộ của Đảng; lấy phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội; tăng cường quốc phòng, an ninh là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên; kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế, xã hội với tăng cường quốc phòng, an ninh, đối ngoại. Trong quá trình thực hiện, phải kiên định các mục tiêu, nguyên tắc chiến lược; linh hoạt, mềm dẻo về sách lược; vừa hợp tác, vừa đấu tranh; kiên quyết, kiên trì đấu tranh, lấy bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc là mục tiêu tối thượng; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng, phát triển đất nước giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội. Kiên quyết bảo vệ đường lối, quan điểm, nền tảng tư tưởng, giữ vững sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, toàn xã hội và sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc của dân tộc ta.
Hai là, tiếp tục nâng cao hiệu quả hoạt động của cả hệ thống chính trị, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc gắn với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới; khơi dậy khát vọng vươn lên của dân tộc Việt Nam. Đây là một yêu cầu vừa cấp thiết, vừa mang tính chiến lược lâu dài đối với cách mạng Việt Nam; là nhiệm vụ chính trị quan trọng của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta. Tập trung kiện toàn, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị, tăng cường vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và các tổ chức thành viên; thực hiện tốt quy chế dân chủ cơ sở; phát huy hơn nữa quyền làm chủ của nhân dân. Tiếp tục xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, chủ động, sáng tạo, bồi đắp niềm tin, xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc.
Lịch sử đã chứng minh, sự đoàn kết và kỷ luật là cội nguồn sức mạnh của Đảng và là hạt nhân của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Bởi vậy, chúng ta cần đẩy mạnh công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức đảng; xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Đồng thời, các cấp, các ngành, cơ quan, đơn vị, từng tổ chức Đảng và từng đảng viên phải chủ động ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, xây dựng Đảng ta thực sự trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức. Qua đó, tập hợp lực lượng, tạo xung lực chính trị và tinh thần, phát huy trí tuệ, sức mạnh của toàn dân để thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, sức mạnh dân tộc cần phải gắn kết chặt chẽ với sức mạnh thời đại. Chúng ta phải tập trung quán triệt, thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại của Đảng với phương châm: Độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, hướng tới đẩy mạnh, nâng tầm đối ngoại đa phương và song phương; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. Thông qua đó, tận dụng các nguồn lực và tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế, tạo môi trường hòa bình, điều kiện thuận lợi để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Phát huy tinh thần quyết chiến, quyết thắng của Chiến dịch Điện Biên Phủ, chúng ta phải có ý chí, niềm tin, khát vọng vươn lên, xây dựng đất nước Việt Nam thịnh vượng. Biến quyết tâm thành hành động, thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Tập trung xây dựng Chính phủ và hệ thống hành chính nhà nước liêm chính, kiến tạo, hành động và phục vụ, tạo môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội và quá trình hội nhập quốc tế. Tập trung hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; nâng cao chất lượng xây dựng và thực thi pháp luật; siết chặt kỷ luật, kỷ cương, đề cao trách nhiệm của tập thể, cá nhân, nhất là người đứng đầu. Đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập; phát triển kinh tế tư nhân trở thành động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tạo mọi thuận lợi để người dân và doanh nghiệp không ngừng đổi mới, sáng tạo, khởi nghiệp, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh. Phát triển toàn diện, hài hòa kinh tế với văn hóa, xã hội, xây dựng con người Việt Nam, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững của đất nước. Thực hiện dân chủ, công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân, nhất là đối với người có công, đối tượng chính sách, người nghèo, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, căn cứ cách mạng, vùng bị thiên tai. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính gắn với đổi mới phương thức quản lý, hoạt động của hệ thống hành chính nhà nước từ Trung ương đến địa phương, bảo đảm thông thoáng, thuận lợi, công khai, minh bạch, phù hợp thực tiễn đất nước và thông lệ, chuẩn mực quốc tế. Phát huy tốt tiềm năng, lợi thế, thu hút và sử dụng hiệu quả các nguồn lực trong và ngoài nước; nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại, hội nhập quốc tế.
Ba là, tập trung xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh toàn diện, ngày càng hiện đại, tạo nền tảng bảo vệ vững chắc Tổ quốc từ sớm, từ xa. Dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc, nền tảng chính trị-tinh thần, ý chí quyết chiến, quyết thắng, sức mạnh của nền quốc phòng toàn dân, chiến tranh nhân dân Việt Nam được phát huy lên tầm cao mới. Để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước trong bối cảnh hiện nay, đòi hỏi phải không ngừng củng cố, tăng cường tiềm lực, sức mạnh quốc phòng theo hướng mạnh toàn diện, ổn định lâu dài, ngày càng hiện đại. Trong đó, đặc biệt coi trọng xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân vững chắc, nhất là trên các địa bàn chiến lược trọng điểm, biên giới, biển, đảo. Đây là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên, là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta.
Các cấp, ngành, địa phương tiếp tục quán triệt, thực hiện tốt chủ trương chiến lược của Đảng về xây dựng khu vực phòng thủ, trong đó cốt lõi là xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc ngay từ cơ sở; tạo nền tảng để xây dựng nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân vững mạnh; phòng ngừa, xử lý hiệu quả các tình huống về quốc phòng, an ninh; làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, phản động; không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống.
Từ kết quả, kinh nghiệm đã đạt được qua 10 năm thực hiện Nghị quyết số 28-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa X), cần tiếp tục hoàn thiện thể chế, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về quốc phòng; tăng cường công tác giáo dục quốc phòng và an ninh, tạo chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Đẩy mạnh kết hợp phát triển kinh tế-xã hội với tăng cường quốc phòng, an ninh, đối ngoại; gắn kết chặt chẽ việc thực hiện các chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội với thực hiện Chiến lược bảo vệ Tổ quốc và các chiến lược về quốc phòng, an ninh. Mở rộng, tăng cường hợp tác quốc tế và đối ngoại về quốc phòng; tranh thủ cơ hội từ hội nhập để tiếp tục nâng cao năng lực quốc phòng, an ninh; tăng cường tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc; xử lý hiệu quả những vấn đề quan trọng như an ninh biên giới, biển đảo, an ninh mạng, giải quyết hậu quả chiến tranh… góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc từ sớm, từ xa.
Bốn là, thường xuyên chăm lo xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, nòng cốt là Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Trước yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, chúng ta cần tiếp tục quán triệt sâu sắc, nắm vững đường lối chính trị, quân sự của Đảng và tư tưởng Hồ Chí Minh, tập trung xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh toàn diện, trước hết là vững mạnh về chính trị, có chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu cao, có cơ cấu, thành phần hợp lý, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của từng lực lượng, bảo đảm thực sự là lực lượng chính trị tin cậy, lực lượng chiến đấu tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc, Nhà nước và nhân dân. Trong đó, đẩy mạnh xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với lực lượng vũ trang. Xây dựng Đảng bộ Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và các tổ chức đảng trực thuộc thực sự trong sạch, vững mạnh, ngang tầm yêu cầu nhiệm vụ. Tập trung nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của quân đội; ưu tiên hiện đại hóa một số quân chủng, binh chủng và lực lượng; tổ chức, sắp xếp biên chế quân đội theo hướng tinh, gọn, mạnh, phù hợp với điều kiện tác chiến mới.
Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng công tác huấn luyện, giáo dục và đào tạo, nghiên cứu khoa học, hậu cần, kỹ thuật, công nghiệp quốc phòng, công nghiệp an ninh; chăm lo thực hiện tốt chính sách hậu phương quân đội, nhất là đối với người có công với cách mạng, gia đình liệt sĩ, thương binh, bệnh binh. Các đơn vị lực lượng vũ trang phải thường xuyên nêu cao cảnh giác, chủ động nắm, dự báo chính xác tình hình; phối hợp, hiệp đồng chặt chẽ, xử lý kịp thời, có hiệu quả các tình huống quốc phòng, an ninh, không để bị động, bất ngờ, cả về chiến lược và xử lý các trường hợp cụ thể. Đồng thời, tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và Phong trào Thi đua Quyết thắng trong toàn quân; tăng cường kỷ luật quân đội, giữ vững sự đoàn kết, thương yêu, gắn bó giữa cán bộ và chiến sĩ, đoàn kết quân-dân; kiên quyết đấu tranh phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, làm thất bại âm mưu “phi chính trị hóa”, “dân sự hóa” lực lượng vũ trang của các thế lực thù địch.
Trải qua gần 76 năm chiến đấu, xây dựng và trưởng thành, Quân đội nhân dân Việt Nam luôn thể hiện rõ bản chất, truyền thống của một đội quân cách mạng, từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu; là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu tuyệt đối trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân. Trong bất kỳ điều kiện, hoàn cảnh nào, Quân đội ta cũng luôn đoàn kết, gắn bó máu thịt với nhân dân, nêu cao tinh thần mưu trí, dũng cảm, quyết chiến, quyết thắng, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó, xứng đáng với danh hiệu cao quý Bộ đội Cụ Hồ, là quân đội anh hùng của dân tộc Việt Nam anh hùng.
Trong những năm qua, Đảng, Nhà nước và nhân dân luôn quan tâm, chăm lo xây dựng lực lượng vũ trang nói chung, Quân đội nhân dân Việt Nam nói riêng vững mạnh về mọi mặt, có chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu cao, sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Quân đội nhân dân không chỉ hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ của đội quân chiến đấu, mà còn thực hiện tốt chức năng đội quân công tác, đội quân lao động sản xuất, thiết thực góp phần xây dựng đất nước, nâng cao hình ảnh, uy tín, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Chúng ta giữ được độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, giữ được môi trường hòa bình, ổn định cho phát triển đất nước, là nhờ có công lao và sự đóng góp, hy sinh to lớn của các lực lượng vũ trang nhân dân, của những cán bộ, chiến sĩ đang ngày đêm canh giữ, bảo vệ vùng trời, vùng biển, biên giới, hải đảo thiêng liêng của Tổ quốc, bảo vệ cuộc sống bình yên, hạnh phúc của người dân.
Chúng ta mãi mãi khắc ghi công ơn to lớn của Bác Hồ kính yêu, của các vị tiền bối, lão thành đã cống hiến cả cuộc đời cho sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc. Chúng ta luôn ghi nhớ, tri ân các vị tướng lĩnh, cán bộ, chiến sĩ, thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến và quân dân cả nước đã anh dũng chiến đấu, hy sinh, đóng góp máu xương, làm nên Chiến thắng Điện Biên Phủ và các chiến công vĩ đại khác trong các cuộc kháng chiến giành độc lập, thống nhất đất nước.
Kỷ niệm 66 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ, phát huy truyền thống yêu nước, tinh thần tự hào dân tộc, ý chí quyết chiến, quyết thắng, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta chung sức, đồng lòng, gắn kết sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc với sức mạnh thời đại, nỗ lực phấn đấu thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, hội nhập và phát triển, xây dựng đất nước Việt Nam ngày càng đàng hoàng hơn, to đẹp hơn như Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu hằng mong muốn./. 

Chủ trương, đường lối, chính sách giải quyết bất đồng trên Biển Đông của Đảng, Nhà nước ta hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với xu thế của thời đại.

Trong xu thế hiện nay, thế giới là một mái nhà chung, các quốc gia đều có xu hướng vừa hợp tác, vừa đấu tranh, kể cả trong quan hệ song phương và đa phương; những điểm bất đồng giữa các quốc gia, dân tộc đều được giải quyết trên nền tảng hòa bình, đối thoại, cùng nhau tìm giải pháp chung và trên nền tảng nguyên tắc nhất định của luật pháp quốc tế.
Dĩ bất biến, ứng vạn biến, trong bối cảnh Trung Quốc vi phạm chủ quyền, quyền chủ quyền vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, Đảng, Nhà nước ta luôn giữ được chủ trương: “Giải quyết mâu thuẫn thông qua thương lượng hoà bình trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, phù hợp với luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước về Luật Biển năm 1982 của Liên hợp quốc, Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), nhằm tìm kiếm một giải pháp cơ bản và lâu dài, đáp ứng lợi ích chính đáng của các bên, tiến tới xây dựng Biển Đông thành vùng biển hòa bình, hợp tác và phát triển”.
Đảm bảo sự linh hoạt, mềm dẻo và giữ vững nguyên tắc không thể bác bỏ – chủ quyền quốc gia.
Chúng ta kiên trì đấu tranh trên các mặt trận, mọi cấp độ, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của các quốc gia trên thế giới, thẳng thắn đấu tranh kiên quyết, trao công hàm, tiếp xúc đại diện, lên tiếng phản đối Trung Quốc, yêu cầu tôn trọng chủ quyền biển, đảo của Việt Nam. Đồng thời, duy trì lực lượng chuyên trách, sử dụng biện pháp đấu tranh “hòa bình” không để xảy ra xung đột vũ trang. Bên cạnh đó, thường xuyên thông tin kịp thời tình hình diễn biến đến nhân dân, quản lý chặt chẽ tình hình an ninh trật tự và làm tốt công tác định hướng tư tưởng cho nhân dân.
Trước tình hình căng thẳng trên Biển Đông, nhờ đường lối đúng đắn, chúng ta vẫn bảo đảm và bảo vệ được lợi ích quốc gia dân tộc. Điều này cho thấy, chủ trương, đường lối, chính sách giải quyết bất đồng trên Biển Đông của Đảng, Nhà nước ta hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với xu thế của thời đại.

Quân đội nhân dân Việt Nam đấu tranh để bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộc, bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc

Các thế lực thù địch rêu rao: “Khi đối đầu với Trung Quốc trên Biển Đông, tại các vùng tranh chấp, Quân đội Việt Nam không dám nổ súng, không dám đấu tranh, để mặc Trung Quốc muốn làm gì thì làm…”. Những luận điệu đó là hoàn toàn xuyên tạc, không đúng sự thật, cố tình kích động gây căng thẳng tình hình với mục đích đẩy chúng ta vào cuộc đối đầu quân sự có thể dẫn đến hậu quả khó lường.
Thực tiễn cho thấy, trong suốt thời gian Trung Quốc vi phạm chủ quyền của Việt Nam trên biển, một trong những lực lượng thuộc biên chế của Quân đội Việt Nam luôn luôn có mặt 24/24h, thực hiện các hoạt động đấu tranh nhằm giữ vững chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc.
Trong mỗi tình huống, các phương án đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo luôn được lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam chuẩn bị, luyện tập nhuần nhuyễn và linh hoạt khi áp dụng vào thực tiễn đấu tranh, luôn giữ vững được định hướng, sự lãnh đạo của Đảng và tuân thủ nghiêm luật pháp quốc tế.
Bên cạnh lực lượng Cảnh sát biển, các thành phần khác của lực lượng vũ trang Việt Nam cùng lực lượng kiểm ngư luôn luôn sẵn sàng thực hiện phương án để bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc.
Mọi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước ta luôn vì lợi ích quốc gia dân tộc, các chính sách, biện pháp giải quyết trong các tình huống tranh chấp trên Biển Đông của Đảng, Nhà nước ta thể hiện nhất quán nguyên tắc, mục tiêu đó. Chủ trương, đường lối đó cần được sự đánh giá, nhìn nhận khách quan từ mọi thành phần trong xã hội, nhất là thế hệ trẻ ngày nay.
Tinh thần dân tộc, lòng yêu nước luôn cháy bỏng trong mỗi con dân đất Việt, hãy hiện thực hóa tinh thần đó bằng việc làm cụ thể để đưa đất nước ta ngày càng phát triển, giàu mạnh, tăng cường mọi tiềm lực, sánh vai được với các nước tiên tiến trong khu vực và thế giới đấu tranh, phản bác lại các quan điểm phiến diện, siêu hình, xuyên tạc tình hình Biển Đông của các thế lực thù địch, phản động trong và ngoài nước.
Mỗi người dân yêu nước cần tỉnh táo, bình tĩnh, kiên quyết, kiên trì, nhận thức rõ luận điệu xuyên tạc, kích động chống phá của các thế lực thù địch để có hành động đúng, góp phần bảo vệ Tổ quốc./.