Thực hiện tốt khâu đột phá
trong phòng, chống
tham nhũng
Trong bài viết trước, tác giả đã nêu một cách
khái quát về tham nhũng và thực trạng, quy mô và tác hại của tham nhũng đối với
sự phát triển của xã hội và về cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng trong
thời gian qua ở nước ta. Để đạt hiệu quả cao trong công tác đấu tranh phòng,
chống tham nhũng ở nước ta cần phải nhằm trúng khâu đột phá. Khâu đột phá đó,
như quan niệm của tác giả, là cần trừng phạt nghiêm những kẻ tham nhũng, đặc
biệt với những kẻ tham nhũng là đảng viên – cán bộ.
Trong những năm qua, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã lên án mạnh mẽ tệ
tham nhũng, quyết tâm đấu tranh phòng ngừa và chặn đứng, đẩy lùi tham nhũng. Nhận
xét, đánh giá về tình hình tham nhũng và những quốc sách phòng, chống tham
nhũng đã được nhiều lần nêu lên trong các nghị quyết của Đảng, pháp luật của
Nhà nước, quyết định của các cơ quan chức năng, đoàn thể quần chúng. Những chủ
trương, biện pháp phòng, chống tham nhũng của Đảng và Nhà nước đã liên tục được
tuyên truyền đến người dân bằng các phương tiện thông tin đại chúng, bằng học
tập, hội nghị, hội thảo chuyên đề ở từng cấp, từng ngành, từng khu vực. Tình
hình tham nhũng và phòng, chống tham nhũng trở thành đề tài thường xuyên trong
các báo cáo chỉ đạo định kỳ của Chính phủ, của các địa phương, đơn vị và của
các cơ quan chuyên trách chịu trách nhiệm chính về vấn đề này. Đồng thời, nó
cũng là những câu chuyện thường ngày phản ánh sự bất bình, bức xúc của mỗi
người dân cả ở thành thị lẫn nông thôn, không phân biệt vùng, miền nào.
Các biện pháp phòng, chống tham nhũng đã được triển khai toàn diện, thường
xuyên, đợt này nối tiếp đợt khác. Nhiều biện pháp đấu tranh phòng, chống tham
nhũng đã được sử dụng, như biện pháp hành chính, kinh tế, giáo dục - cảm hoá,
trừng trị bằng pháp luật,... Tuy vậy, tình hình tham nhũng ở nước ta vẫn không
giảm.
Ngày 20 tháng 11 năm 2018, Quốc hội khóa XIV ban hành Luật sửa đổi số: 36/2018/QH14
Phòng, chống tham nhũng; Nghị định số 59/2019/NĐ-CP ngày 01 tháng 7 năm 2019 của Thủ tướng
Chính phủ Quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật phòng chống
tham nhũng… Những việc làm đó tỏ rõ sự quyết tâm rất cao của Đảng, Nhà
nước và nhân dân ta trong công tác phòng, chống tham nhũng, để làm cho mọi
người có đủ bốn điều kiện: 1- không cần tham nhũng, 2-
không thể (hoặc rất khó) tham nhũng, 3- không muốn tham nhũng, 4- không dám
tham nhũng. Tuy nhiên, tính hiệu quả của các giải pháp này
chưa đáp ứng được đòi hỏi của thực tiễn. Hiện nay, ở nước ta, tình hình “tham
nhũng, lãng phí vẫn diễn ra nghiêm trọng ở nhiều ngành, nhiều cấp, nhiều lĩnh
vực với phạm vi rộng, tính chất phức tạp gây hậu quả xấu về nhiều mặt, làm giảm
sút lòng tin của nhân dân, là một trong những nguy cơ lớn đe doạ sự tồn vong
của Đảng và chế độ ta”.
Kết quả chưa khả quan về công tác phòng, chống tham nhũng vừa qua không thể
phủ nhận được tính toàn diện, sâu sắc của các biện pháp phòng, chống tham nhũng
mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã và đang sử dụng. Điều đó nói lên rằng, liều
lượng của những biện pháp ấy chưa đủ mạnh và chưa nhằm trúng khâu đột phá để
công tác phòng, chống tham nhũng có hiệu quả.
Theo tôi, nếu chúng ta tìm đúng được khâu đột phá để phòng, chống tham
nhũng thì chắc chắn sẽ mang lại những hiệu quả rất lớn.
Việc Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã nỗ lực triển khai những biện pháp
phòng, chống tham nhũng nhằm tạo ra đủ 4 điều kiện trên để công tác phòng,
chống tham nhũng có hiệu quả là rất cần thiết, rất toàn diện. Bởi lẽ:
Để có điều kiện khiến cho người ta không cần tham nhũng thì
phải làm cho Nhà nước giàu mạnh, có thể đáp ứng, thoả mãn những nhu cầu về vật
chất và tinh thần cho mọi người dân. Muốn vậy, phải đẩy mạnh phát triển kinh tế
- xã hội, phát triển khoa học - công nghệ tiên tiến, xây dựng nền sản
xuất có năng suất, chất lượng cao, tạo ra nhiều của cải vật chất cho xã hội. Đó
là cả một quá trình lâu dài, cần phải mất nhiều thời gian, không thể có trong
một sớm, một chiều.
Để người ta không thể (hoặc rất khó) tham
nhũng thì bộ máy tổ chức, quản lý của Đảng, Nhà nước phải
rất khoa học, bao gồm cả cơ chế, cả con người và hệ thống luật pháp chặt chẽ
không có kẽ hở để tham nhũng không thể luồn lọt. Đồng thời, đời sống dân chủ
trong xã hội phải được nâng cao, mọi hành vi tham nhũng đều không lọt nổi con
mắt làm chủ của nhân dân. Để đạt được điều đó, Đảng, Nhà nước và nhân dân phải
có sự đổi mới và cố gắng rất lớn trong công cuộc đẩy mạnh cải cách hành chính,
xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân...
Để người ta không muốn tham nhũng thì,
hoặc là, phải có một quá trình với thời gian lâu dài để tạo đủ điều kiện thỏa
mãn về vật chất và tinh thần cho mọi người dân khiến họ không cần phải tham
nhũng như đã phân tích ở trên; hoặc là, xã hội phải tạo ra nếp sống không có
tham nhũng, coi tham nhũng là xấu xa, tội lỗi, bất cứ ai tham nhũng cũng đều bị
lên án, trừng trị... để gây áp lực tâm lý làm cho người ta không muốn và không
dám tham nhũng. Trong hai phương án ấy, chỉ có phương án thứ hai là phù hợp với
hoàn cảnh xã hội nước ta hiện nay. Muốn thực hiện được phương án thứ hai này,
chúng ta phải ra sức xây dựng một xã hội dân chủ mà ở đó, mọi người sống có đạo
đức, trong sạch, liêm khiết.
Để người ta không dám tham nhũng thì, thứ nhất, phải xây dựng được một xã hội đạo đức, thực
sự dân chủ, phát huy được tinh thần làm chủ của nhân dân, có thể tố giác và
ngăn chặn được mọi hành vi tham nhũng, dù chúng có được che đậy tinh vi đến
mấy. Thứ hai, một khi kẻ tham nhũng đã bị tố giác và có
những bằng chứng không thể chối cãi thì Nhà nước phải xử lý nghiêm, xử lý nặng,
buộc đương sự phải bồi thường thiệt hại, đồng thời tạo được làn sóng phê phán,
lên án họ trong từng cộng đồng, trong toàn xã hội (thời gian qua ta đã thực
hiện tương đối hiệu quả vấn đề này).
Như vậy, xét một cách tổng thể
hoàn cảnh kinh tế, chính trị và xã hội của nước ta hiện nay, có thể nói, chúng
ta chưa đủ sức để triển khai đồng loạt các biện pháp nhằm đưa lại cho mọi người
đủ cả 4 điều kiện để không cần tham nhũng, không thể (hoặc khó) tham nhũng,
không muốn tham nhũng và không dám tham nhũng. Tuy nhiên, về mặt nhận thức, vẫn phải khẳng định việc tạo đủ 4 điều kiện trên
là phương hướng đúng đắn để diệt trừ tận gốc tham nhũng, dù đó là một quá trình
lâu dài và đầy gian khổ. Vậy, chúng ta phải làm gì để có thể “hạ
nhiệt được cơn sốt” tham nhũng đang ở vào giai đoạn nguy kịch như hiện nay?
Theo tôi, chúng ta cần phải thực hiện ngay những biện
pháp cần thiết nhằm thoả mãn 2 điều kiện để người ta không muốn tham
nhũng và không dám tham nhũng.
Trước mắt, chúng ta phải chọn được khâu đột phá và tập trung tác động vào đó
tạo động lực cho việc hoàn thành cả hệ thống các biện pháp.
Khâu đột phá phòng, chống tham nhũng
Như đã phân tích ở trên, để thỏa mãn 2 điều kiện khiến
cho người ta không muốn tham nhũng và không dám tham nhũng, nếu chờ đợi đến khi nền sản
xuất phát triển có khả năng thoả mãn được nhu cầu vật chất và tinh thần của mọi
người và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa được xây dựng hoàn thiện, có hệ
thống luật pháp chặt chẽ, hoàn chỉnh không còn kẽ hở cho tham nhũng tồn tại thì
sẽ quá lâu. Do vậy, trước mắt chúng ta có thể ưu tiên sử dụng ba biện pháp phù
hợp hơn cả là: 1- Phát động xây dựng một nếp sống đạo đức xã
hội “đói cho sạch, rách cho thơm”, tẩy chay tham nhũng, coi tham nhũng là trộm cắp, là nhục nhã và
hèn hạ; 2- Trên cơ sở những thành tựu thu được của việc thực hiện Quy chế dân
chủ ở cơ sở, xây dựng trong xã hội một nếp sống dân chủ, khuyến khích mọi người
nói lên sự thật, có cơ chế bảo vệ những người dũng cảm tố cáo, phát hiện bọn
tham nhũng; 3- Khi đã phát hiện được tham nhũng, cần phải trừng phạt nghiêm;
đặc biệt với những kẻ tham nhũng là cán bộ, đảng viên. Cần xác định đây là khâu
đột phá để phòng, chống tham nhũng có hiệu quả.
Cần phải nói thêm rằng, ba biện pháp này chúng ta đã làm và đang làm, nhưng làm một cách dàn trải cùng với các biện pháp
phòng, chống tham nhũng khác, chứ chưa coi đó là biện pháp ưu tiên để tập trung
giải quyết, tạo đà cho việc thực hiện các biện pháp khác.
Để thực hiện tốt ba biện pháp này, phải xác định khâu đột phá như đã phân
tích. Khâu đột phá đó sẽ tác động mạnh vào đối tượng là đảng viên - cán
bộ, làm cho họ luôn tự giác, gương mẫu đi đầu trong phòng, chống tham nhũng.
Muốn thực hiện được khâu đột phá này, theo tôi, cần tập trung vào hai nhiệm vụ
chính sau đây.
Thứ
nhất, tiếp tục tăng cường chỉnh đốn Đảng, giáo
dục cho đảng viên “có lối sống trong sạch, lành mạnh, có kỷ cương, kỷ luật.
Không quan liêu, tham nhũng, lãng phí và kiên quyết đấu tranh phòng, chống quan
liêu, tham nhũng, lãng phí và các tiêu cực khác”(2). Điều này cũng được ghi rõ
trong Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam. Thiết nghĩ, trong xã hội ta, nếu các đảng viên chấp hành nghiêm Điều lệ thì
chắc hẳn nạn tham nhũng khó có đất sống. Bởi vì, người đảng viên
luôn là tấm gương sáng cho mọi người noi theo. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng
nói: “Đảng viên đi trước, làng nước theo sau”. Nhưng, hiện nay, có một thực tế
đau đớn là, hầu hết các vụ tham nhũng ở nước ta đều dính dáng trực tiếp, hoặc
gián tiếp đến đảng viên - những người có chức, có quyền. Dù những hành động
tham nhũng này có được biện bạch thế nào chăng nữa thì cũng là vô đạo, phi nhân
tính, bất nghĩa mà người đảng viên không được phép làm. Do vậy, mấu chốt là ở
chỗ, chúng ta cần tăng cường chỉnh đốn Đảng, đổi mới công tác đảng, kiên quyết đưa ra khỏi hàng ngũ của Đảng những đảng viên mắc vào
tham nhũng, dù đó là đảng viên thường, hay đảng viên có chức, có quyền ở bất cứ
cương vị nào. Chúng ta phải làm mạnh, mạnh từ trên xuống dưới,
từ trong Đảng ra ngoài Đảng. Đối với người đảng viên - cán bộ, chúng ta phải
làm cho họ nâng cao tính tiên phong, gương mẫu, biết “lo trước thiên hạ”, nhận
khó khăn về mình và biết nhường nhịn, “hưởng sau thiên hạ”. Làm như thế là đúng
với lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: muốn có chủ nghĩa xã hội, trước
hết phải có con người xã hội chủ nghĩa. Người đảng viên phải nêu
gương trước để trở thành con người xã hội chủ nghĩa có nếp sống trong sáng.
Điều này không phải là hô hào, duy ý chí hoặc thần thánh hóa người đảng viên.
Ai đó đã ngụy biện rằng, đảng viên cũng là con người, cũng có những nhu cầu,
những ham muốn như những người bình thường khác, không thể đòi hỏi ở họ những
gì quá đáng; cho nên, họ vẫn có thể có những hành động tham nhũng, tiêu cực!
Nếu quả người đảng viên không hơn những người bình thường khác, vẫn có thể tham
nhũng, tiêu cực và luôn đặt lợi ích cá nhân của mình lên trên lợi ích của nhân
dân, của dân tộc thì tốt nhất, hãy ra khỏi hàng ngũ của Đảng; bởi vì, mục đích
của Đảng, Điều lệ của Đảng không cho phép họ làm như vậy. Người đảng viên, nhất
thời do hoàn cảnh này, nọ, có thể mắc khuyết điểm, nhưng phải giữ được lòng tự
trọng, tự xấu hổ, tự đấu tranh, chuộc lại những lỗi lầm.
Mọi tổ chức đảng, đặc biệt là các tổ chức đảng ở cơ sở, như tổ đảng, chi bộ
đảng - nơi mà từng đảng viên trực tiếp sinh hoạt, phải xây dựng được môi trường
dân chủ thực sự, có tinh thần đấu tranh nội bộ mạnh mẽ, thẳng thắn phê bình và
tự phê bình, tự tìm ra những kẻ tham nhũng, không cần phải nhờ đến cơ quan chức
năng hoặc lực lượng nào khác.
Thứ
hai, khi đã phát hiện tham nhũng thì phải xử phạt nghiêm minh với mọi đối tượng
và có hình thức tăng nặng đối với đảng viên - cán bộ. Điều này, đất nước ta đã có những kinh nghiệm bổ ích. Ngay từ thế kỷ
XV, dưới triều Hồng Đức (Vua Lê Thánh Tông), tại Điều 138 của Bộ Quốc triều
Hình luật đã ghi: “Quan ty làm trái pháp luật mà ăn hối lộ từ 1 đến 9 quan thì
xử tội chém. Những bậc công thần, quý thần cùng những người có tài được giữ vào
hàng bát nghị mà ăn hối lộ từ 1 đến 9 quan thì phạt 50 quan; từ 10 đến 19 quan
thì phạt từ 60 đến 100 quan; từ 20 quan trở lên thì xử tội đồ và những tiền ăn
hối lộ xử phạt gấp đôi nộp vào kho”(3). Còn đối với chế độ ta hiện nay, thiết
tưởng, cùng tội trạng như nhau, những đối tượng là đảng viên - cán bộ
phải bị xử phạt nặng hơn dân thường; người ở ngôi vị càng cao, càng phải xử
nặng. Bởi lẽ, “thượng bất chính, hạ tắc loạn”; nếu không thì quần
chúng nhân dân sẽ không phục.
Đối với toàn xã hội, cần đẩy mạnh thực hành dân chủ để mọi người dân
có điều kiện kiểm tra, giám sát lẫn nhau, giám sát công việc của các tổ chức,
cơ quan mà kịp thời ngăn chặn, phát hiện những hành động tham nhũng. Đẩy mạnh
hoạt động của báo chí trong công tác phòng, chống tham nhũng, từ đó có thể tạo
ra dư luận và tâm lý xã hội tích cực đối với việc phòng, chống tham nhũng. Cần
xây dựng một nếp sống trong sáng, lành mạnh trong xã hội, “phát động tư tưởng
quần chúng, làm cho quần chúng khinh ghét tệ tham ô, lãng phí, quan liêu; biến
hàng ức, hàng triệu con mắt, lỗ tai cảnh giác của quần chúng thành những ngọn
đèn pha soi sáng khắp nơi, không để cho tệ tham ô, lãng phí, quan liêu có chỗ
ẩn nấp”. Việc tạo ra một dư luận xã hội mạnh mẽ để
tẩy chay tham nhũng có tác dụng răn đe rất lớn đối với những kẻ có hành vi tham
nhũng. Tác dụng của việc răn đe này nhiều khi còn cao hơn cả sự răn đe của pháp
luật.
Thiết nghĩ, thực hiện được khâu đột phá này để phòng, chống tham nhũng có
hiệu quả, chúng ta vẫn có thể xây dựng được một xã hội tốt đẹp, có đời sống văn
hóa lành mạnh, khi mà nền kinh tế của chúng ta còn chưa phát triển như cố Tổng
bí thư Lê Duẩn đã từng nói./.