Thứ Tư, 3 tháng 5, 2023

Đổi mới phương thức lãnh đạo, bảo đảm vai trò lãnh đạo của tập thể gắn với phát huy đầy đủ vai trò của người đứng đầu trong các tổ chức đảng hiện nay

 TCCS - Đổi mới phương thức lãnh đạo, bảo đảm vai trò lãnh đạo của tập thể gắn với phát huy đầy đủ vai trò của người đứng đầu có ý nghĩa rất quan trọng nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức đảng hiện nay.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đến thăm, chúc tết Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Thủ đô Hà Nội_Ảnh: TTXVN

Những hạn chế, thách thức trong đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng gắn với bảo đảm vai trò lãnh đạo của tập thể và phát huy vai trò của người đứng đầu

Phương thức lãnh đạo của Đảng được thể hiện rõ ở vai trò, mối quan hệ lãnh đạo của tập thể và cá nhân người đứng đầu. Tập thể lãnh đạo là cấp ủy, ban cán sự đảng, đảng đoàn (gọi chung là cấp ủy), là cơ quan lãnh đạo giữa hai kỳ đại hội, do đại hội bầu ra hoặc do cấp trên chỉ định; là tổ chức đảng (chi bộ, đảng bộ). Cấp ủy lãnh đạo toàn bộ hoạt động của tổ chức đảng: lãnh đạo công tác xây dựng tổ chức đảng, các tổ chức trong hệ thống chính trị và các lĩnh vực đời sống xã hội trên địa bàn. Người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng là bí thư cấp ủy, bí thư ban cán sự đảng, đảng đoàn, bí thư chi bộ. Người đứng đầu là người chịu trách nhiệm cao nhất trước cấp ủy, cùng cấp ủy chịu trách nhiệm trước tổ chức đảng và nhân dân về những công việc được phân công. Người đứng đầu có vai trò là người lãnh đạo, chủ trì, phối hợp mọi mặt công tác của cấp ủy, tổ chức đảng, đồng thời là người chịu trách nhiệm cao nhất trong tập thể và tổ chức đảng đối với thành công và hạn chế về việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của cơ quan, đơn vị, địa phương. Do đó, người đứng đầu phải có phẩm chất, năng lực và uy tín ngang tầm nhiệm vụ và các tố chất cá nhân: phát huy dân chủ, tập trung trí tuệ, là hạt nhân quy tụ đoàn kết, biết khơi dậy tiềm năng trí tuệ, ý chí quyết tâm của tập thể. Vai trò, thẩm quyền và trách nhiệm của tập thể cấp ủy, tổ chức đảng và người đứng đầu được xác định rõ ràng trong quy chế làm việc của cấp ủy, tổ chức đảng. Cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu hoạt động theo nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách.

Vị trí, vai trò, mối quan hệ của cấp ủy, tổ chức đảng và người đứng đầu được Đảng ta quan tâm lãnh đạo, đổi mới. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng nêu rõ: “Việc đổi mới phong cách, lề lối làm việc của các cơ quan lãnh đạo Đảng từ Trung ương tới cơ sở có bước tiến bộ. Coi trọng việc phát huy vai trò, trách nhiệm của các tổ chức đảng, đảng viên, nhất là người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội”(1). Trong thực tiễn đã xuất hiện nhiều tập thể cấp ủy, tổ chức đảng và người đứng đầu làm tốt vai trò lãnh đạo, chủ động, quyết liệt trong công tác, cải tiến lề lối làm việc, phong cách công tác, thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ trọng tâm, các khâu đột phá, góp phần nâng cao chất lượng lãnh đạo, uy tín của các tổ chức đảng.

Tuy nhiên, bên cạnh những chuyển biến tích cực, việc thực hiện các phương thức lãnh đạo, nhằm bảo đảm vai trò, trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng và phát huy vai trò của người đứng đầu các cấp vẫn còn bộc lộ những hạn chế, khuyết điểm, phát sinh nhiều tình huống khó khăn, thách thức:

Thứ nhất, về bảo đảm vai trò lãnh đạo của tập thể và phát huy đầy đủ vai trò của người đứng đầu cấp ủy trong xây dựng, tổ chức thực hiện chủ trương, nghị quyết của Đảng.

Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã chỉ rõ: “Việc cụ thể hóa, tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng của một số cấp ủy, tổ chức đảng chưa kịp thời, chưa sát thực tế; công tác lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện một số chủ trương, nghị quyết có nơi, có lúc chưa quyết liệt, còn yếu kém, chậm trễ nhưng chưa xác định rõ trách nhiệm của tập thể, cá nhân, nhất là người đứng đầu”(2). Những hạn chế, khuyết điểm trên có liên quan đến việc bảo đảm vai trò của cấp ủy, tổ chức đảng và vai trò của người đứng đầu, qua một số biểu hiện sau:

Một là, một số cấp ủy, tổ chức đảng buông lỏng vai trò lãnh đạo, chưa thực hiện đầy đủ thẩm quyền, trách nhiệm trong việc ban hành các quyết định, quy định, thiếu sâu sát trong tổ chức thực hiện, kiểm tra, giám sát, để cho cá nhân, người đứng đầu thao túng, lạm dụng, lợi dụng quyền lực để đưa ra những quyết định, quy định trái với đường lối, chủ trương, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Ngược lại, một số cấp ủy, tổ chức đảng mất đoàn kết, thiếu thống nhất, chia rẽ nội bộ, cản trở người đứng đầu thực hiện thẩm quyền, trách nhiệm của mình; hoặc do nhận thức chưa đúng thẩm quyền, trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng, nên can thiệp quá sâu, quá cụ thể vào thẩm quyền, trách nhiệm của người đứng đầu, làm cho họ mất chủ động, không dám đổi mới, sáng tạo, quyết liệt hành động, rốt cuộc là cả tập thể lãnh đạo và người đứng đầu đều suy giảm vai trò lãnh đạo, tính chiến đấu.

Hai là, một số người đứng đầu năng lực chưa ngang tầm nhiệm vụ, không đủ uy tín để quy tụ, dẫn dắt tập thể; thiếu bản lĩnh, thiếu quyết đoán, quyết liệt, dựa dẫm tập thể trong thực hiện chức trách; lúng túng trong xử lý tình huống phức tạp, để công việc trì trệ, không đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị của cơ quan, tổ chức, địa phương, đơn vị; quan liêu, thiếu trách nhiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành. Một số người đứng đầu vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, lạm quyền, lộng quyền, độc đoán trong thực hiện chức trách theo quy định; lợi dụng chức quyền để thao túng tổ chức, tạo vây cánh để trục lợi chính sách, thu vén cho lợi ích nhóm, lợi ích cá nhân; “tranh công”, “đổ tội” khi xảy ra sai phạm, không gương mẫu nhận trách nhiệm, đổ lỗi cho hoàn cảnh khách quan, cho cơ chế, cho tập thể và cấp dưới.

Ba là, một số tập thể chưa thể hiện đầy đủ vai trò lãnh đạo, tính chiến đấu, do bệnh nể nang, cơ hội, dĩ hòa vi quý, suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên. Năng lực lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức đảng trong ban hành, tổ chức thực hiện các quyết sách vẫn là khâu yếu, chậm khắc phục, như ban hành nghị quyết nhiều, nhưng hiệu lực, hiệu quả chưa cao; năng lực vận dụng, cụ thể hóa chủ trương, nghị quyết của cấp trên chưa sát hợp với tình hình thực tiễn cơ quan, địa phương, đơn vị...

Thứ hai, về bảo đảm vai trò lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức đảng và người đứng đầu trong công tác tư tưởng, tuyên truyền, vận động, thuyết phục, thực hiện trách nhiệm nêu gương của người đứng đầu.

Tự phê bình và phê bình là quy luật phát triển của Đảng, là phương thức nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng. Tuy nhiên, công tác tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt tư tưởng, sinh hoạt lãnh đạo của một số cấp ủy, tổ chức đảng hiện nay còn một số khuyết điểm, hạn chế. Một số cấp ủy thực hiện không nghiêm, thực hiện một cách hình thức quy định về tự phê bình và phê bình trong kiểm điểm, đánh giá cán bộ; không ít cán bộ, đảng viên còn né tránh, không dám vạch ra khuyết điểm của người đứng đầu, thậm chí còn bao che cán bộ mắc khuyết điểm, làm suy thoái tập thể lãnh đạo, tổ chức đảng.

Một số cấp ủy, tổ chức đảng còn hiện tượng bè phái, chia rẽ, mất đoàn kết, để một số cá nhân lợi dụng tự phê bình và phê bình để đấu đá, làm rối loạn tổ chức, cản trở quyết định đúng đắn của cấp ủy, tổ chức đảng và người đứng đầu. Ngược lại, một số cấp ủy, tổ chức đảng đoàn kết, thống nhất theo kiểu “xuôi chiều”, dễ dãi khi thảo luận, thông qua các quyết định, nên vai trò lãnh đạo, sức chiến đấu của tập thể lãnh đạo vì thế bị lu mờ.

Một số cấp ủy, tổ chức đảng chưa chú trọng công tác tư tưởng, công tác tuyên truyền, vận động, thuyết phục cán bộ, đảng viên và nhân dân trong hoạt động lãnh đạo; chưa thường xuyên giáo dục chính trị, tư tưởng, đường lối, chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước, thiếu quản lý cán bộ, đảng viên, để một bộ phận cán bộ, đảng viên hư hỏng, suy thoái, biến chất. Cán bộ, đảng viên, người đứng đầu trong tổ chức đảng hạn chế về năng lực, thiếu phương pháp khoa học, phong cách lãnh đạo, văn hóa ứng xử trong tuyên truyền, vận động, thuyết phục, làm ảnh hưởng đến vai trò, chất lượng lãnh đạo của tập thể cấp ủy và tổ chức đảng. 

Người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng buông lỏng công tác tư tưởng, chưa chú trọng công tác tuyên truyền, vận động, thuyết phục; chưa phát huy dân chủ trong thảo luận, tranh luận, đối thoại, tranh thủ trí tuệ tập thể, không chịu lắng nghe ý kiến của đảng viên và nhân dân. Một số cán bộ, đảng viên, người đứng đầu chưa gương mẫu trong công tác, chưa nêu gương về đạo đức, lối sống, để người nhà, người thân lợi dụng chức quyền của mình để trục lợi, vi phạm đạo đức xã hội và pháp luật của Nhà nước, làm mất niềm tin của nhân dân đối với tổ chức đảng.

Công tác tư tưởng, đề cao trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên và người đứng đầu đang đặt ra những khó khăn, thách thức: 1- Trong sinh hoạt đảng, tự phê bình và phê bình ở không ít cấp ủy, tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên còn hình thức, chất lượng thấp; chủ nghĩa “duy tình”, chủ nghĩa cơ hội chi phối, nên cán bộ, đảng viên không dám nói thẳng, nói thật, nể nang, né tránh, dĩ hòa vi quý, làm cho tổ chức đảng giảm sút tính tiên phong, tính chiến đấu, tính lãnh đạo; 2- Không ít cán bộ lãnh đạo lạm dụng, lợi dụng quyền uy, chức trách để độc đoán, áp đặt ý chí chủ quan, thay vì dùng uy tín, phẩm chất, đạo đức, phong cách công tác, trách nhiệm nêu gương để gây ảnh hưởng đến tổ chức trong lãnh đạo, điều hành; 3- Việc đẩy mạnh học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, gắn với tự phê bình và phê bình theo Nghị quyết, Kết luận Hội nghị Trung ương 4 khóa XI, XII, XIII ở một số cấp ủy, tổ chức đảng còn hình thức, hiệu quả chưa cao; một số cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu thực hiện chưa nghiêm túc, thiếu trung thực, chưa gương mẫu trong khắc phục sai lầm, sửa chữa khuyết điểm.

Thứ ba, bảo đảm vai trò lãnh đạo của tập thể, đồng thời phát huy vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu trong công tác cán bộ.

Đảng ta luôn xác định, công tác cán bộ là công việc gốc của Đảng, khâu “then chốt của then chốt”, rất hệ trọng. Trong thời gian qua, Đảng quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, ban hành nhiều chủ trương, nghị quyết, quy chế, quy định đổi mới, hoàn thiện công tác cán bộ, ngăn chặn suy thoái, tiêu cực, kiểm soát quyền lực, góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp vững mạnh, đáp ứng yêu cầu đổi mới toàn diện đất nước. Tuy nhiên, việc phát huy vai trò lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức đảng và người đứng đầu vẫn còn những hạn chế nhất định. Nhiều trường hợp, cán bộ được quy hoạch, đề bạt, luân chuyển, thay đổi vị trí công tác, nhưng không đủ tiêu chuẩn, điều kiện, thậm chí vi phạm khuyết điểm, suy thoái, tham nhũng, gây dư luận không tốt trong Đảng và nhân dân; có trường hợp thực hiện đúng quy trình, quy định, phiếu tín nhiệm cao, nhưng quá trình công tác bộc lộ nhiều yếu kém về phẩm chất và năng lực, không hoàn thành nhiệm vụ, vi phạm kỷ luật của Đảng, pháp luật của Nhà nước.

Một số cấp ủy, tổ chức đảng buông lỏng lãnh đạo, vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, chưa thực hiện nghiêm túc các quy định, quy chế, quy trình về công tác cán bộ, ban hành những quyết định thiếu chính xác, sai phạm. Ban hành quy chế, quy định về công tác cán bộ, chế độ làm việc của cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền chưa quán triệt đầy đủ, chưa cụ thể hóa sát với yêu cầu, tình hình nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị, địa phương, thiếu chặt chẽ, khi tổ chức thực hiện dễ bị vi phạm.

Một số cán bộ, người đứng đầu lợi dụng quyền hạn của mình để gây ảnh hưởng, chi phối người khác; trao đổi, thỏa hiệp ngầm hoặc công khai gợi ý, định hướng để tập thể thuận theo ý định chủ quan của mình. Một số trường hợp cán bộ chủ chốt, người đứng đầu lợi dụng hạn chế, thiếu sót hoặc cố tình vận dụng sai nghị quyết, quy chế, quy định để hợp thức hóa ý đồ cá nhân của mình, đưa vào quy hoạch, bổ nhiệm, đề bạt, luân chuyển người thân, phe cánh vào những vị trí “đắc địa”. Thậm chí một số trường hợp, người đứng đầu cấp ủy có biểu hiện suy thoái nghiêm trọng, dựa vào quyền thế để dung túng cho cán bộ cấp dưới làm sai, gây bè phái, làm mất đoàn kết nội bộ; tạo điều kiện cho các phần tử cơ hội chạy “quan hệ”, “chạy chức”, “chạy quyền” để thăng tiến, tìm mọi cách “chạy tội”, “chạy án” khi bị phát hiện sai phạm. Đây là biểu hiện hết sức nguy hiểm làm suy thoái cán bộ, suy thoái tổ chức đảng và hệ thống chính trị, gây mất niềm tin trong nhân dân đối với Đảng.

Dù thực hiện đúng quy định, quy chế, quy trình song vẫn để lọt những người không đủ tiêu chuẩn, thậm chí đã mắc khuyết điểm, sai phạm vào trong các cơ quan lãnh đạo của Đảng và hệ thống chính trị; quy định về kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ chưa được thực hiện nghiêm túc, nên vẫn còn cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu lợi dụng chức quyền gây ảnh hưởng tiêu cực đến công tác cán bộ và đội ngũ cán bộ.

Thứ tư, bảo đảm vai trò, thẩm quyền, trách nhiệm của tập thể lãnh đạo và cá nhân người đứng đầu trong công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng.

Công tác kiểm tra, giám sát là nội dung rất quan trọng trong quá trình lãnh đạo của Đảng, là chức năng, phương thức lãnh đạo, nhiệm vụ thường xuyên của Đảng. Thực hiện công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng ở các cấp, các ngành trong thời gian qua đã có nhiều chuyển biến tích cực, rõ nét và đạt những kết quả quan trọng, góp phần ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái, biến chất, đấu tranh phòng, chống tham nhũng trong cán bộ, đảng viên, tổ chức đảng và hệ thống chính trị. Tuy nhiên, sự lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức đảng và phát huy vai trò của người đứng đầu trong công tác kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực còn không ít hạn chế.

Một là, một số cấp ủy, tổ chức đảng buông lỏng công tác kiểm tra, giám sát; chưa chủ động, tích cực lãnh đạo, chỉ đạo công tác kiểm tra, giám sát, để sai phạm, khuyết điểm kéo dài, chậm phát hiện, chậm xử lý. Một số vụ, việc vi phạm kỷ luật của Đảng, pháp luật của Nhà nước, nhưng không phát hiện kịp thời, chỉ khi dư luận của nhân dân, báo chí và cấp trên phát hiện, chỉ ra, mới bị động xử lý, làm mất niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với vai trò, trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng. Một số cấp ủy, tổ chức đảng trong thi hành kỷ luật đối với cán bộ, đảng viên, người đứng đầu vi phạm kỷ luật của Đảng, pháp luật của Nhà nước còn có biểu hiện bao che, né tránh, không dám thẳng thắn chỉ rõ bản chất, tính chất, mức độ nguy hại trong những vi phạm, thậm chí còn nương nhẹ hình thức kỷ luật.

Hai là, chưa thực hiện đầy đủ vai trò, thẩm quyền, chức trách của mình trong việc giám sát, kiểm soát quyền lực, để một số cán bộ chủ chốt, người đứng đầu vi phạm quy định, quy chế làm việc, vượt quá thẩm quyền, lạm quyền, độc đoán trong chỉ đạo, điều hành, ban hành các quyết định vi phạm nguyên tắc, quy định của Đảng, trái với pháp luật của Nhà nước.

Một số cán bộ lãnh đạo chủ chốt, người đứng đầu có biểu hiện buông lỏng, xem nhẹ công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng; chưa chủ động, tích cực chỉ đạo cho cấp ủy, ủy ban kiểm tra thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ, chương trình, kế hoạch đặt ra; khi tiến hành kiểm tra, giám sát thì làm qua loa, chiếu lệ, chủ yếu tìm ưu điểm để tuyên dương, khen thưởng; khi kiểm tra dấu hiệu vi phạm, thi hành kỷ luật thì nể nang, né tránh.

Ba là, một số cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu chưa thể hiện vai trò tiên phong, gương mẫu trong tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất, đạo đức cách mạng, không dám thúc đẩy quyết liệt công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng, e ngại người khác lôi ra sai lầm, khuyết điểm của mình. Điều đó có thể làm mất tác dụng, vô hiệu hóa hoạt động kiểm tra, giám sát, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.

Khó khăn, thách thức đối với thực hiện kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng nổi lên mấy vấn đề: Nhận thức của cấp ủy, người đứng đầu chưa thấu suốt, còn xem nhẹ, chưa chủ động phòng, chống từ sớm, từ xa với những biểu hiện vi phạm, khuyết điểm; khi thi hành kỷ luật đảng thì hữu khuynh, nể nang, e ngại, sợ mất lòng, mất uy tín của tổ chức; vấn đề kiểm soát quyền lực đối với cán bộ giữ các chức vụ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu chưa có cơ chế chặt chẽ, thực hiện chưa nghiêm, nhất là đối với người đứng đầu “nhất thể hóa” hai chức danh lãnh đạo và quản lý...

Nguyên nhân của thực trạng yếu kém, khuyết điểm trong việc thực hiện vai trò lãnh đạo của tập thể và người đứng đầu trong các cấp ủy, tổ chức đảng các cấp hiện nay chủ yếu là do nhận thức, tư tưởng, phẩm chất, năng lực của cán bộ, đảng viên còn hạn chế, bất cập; quy chế, quy định, cơ chế, chính sách, môi trường tổ chức, hoạt động chưa đồng bộ, chưa hoàn thiện; phương thức lãnh đạo của các cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu chưa đổi mới, sáng tạo, thực hiện chưa hiệu quả...

Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng để vừa bảo đảm vai trò lãnh đạo của tập thể, vừa phát huy đầy đủ vai trò của người đứng đầu

Để khắc phục hạn chế, khuyết điểm, hóa giải khó khăn, thách thức, bảo đảm vai trò lãnh đạo của tập thể, phát huy đầy đủ vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu, cần thực hiện một số giải pháp sau:

Thứ nhất, xây dựng đội ngũ người đứng đầu cấp ủy đủ phẩm chất, năng lực, uy tín ngang tầm nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới.

Tăng cường rèn luyện, nâng cao bản lĩnh chính trị kết hợp với bồi dưỡng phẩm chất, đạo đức, lối sống và các tố chất lãnh đạo cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng các cấp. Việc rèn luyện bản lĩnh chính trị, phẩm chất, năng lực cùng với các tố chất của người lãnh đạo, phải kết hợp đào tạo trong trường, lớp với rèn luyện, thử thách trong thực tiễn, phải lấy kết quả hoạt động thực tiễn để đánh giá, lựa chọn để bổ nhiệm cán bộ vào các vị trí phù hợp.

Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Trương Thị Mai chung vui với Đảng bộ, chính quyền và nhân dân tỉnh Gia Lai tại Ngày hội Đại đoàn kết toàn dân tộc ở làng Wâu, xã Chư Á, tỉnh Gia Lai (tháng 11-2022)_Ảnh: TTXVN

Đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện phẩm chất, đạo đức, năng lực, phương pháp công tác, phong cách lãnh đạo gắn với học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, với tự phê bình và phê bình, coi đó là phương thức quan trọng để xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, người đứng đầu có phẩm chất, đạo đức cách mạng, phong cách lãnh đạo, quản lý nói đi đôi với làm, có phương pháp khoa học trong xử lý tình huống phức tạp, khó khăn.

Thứ hai, tiếp tục hoàn thiện, cụ thể hóa, đồng bộ hóa hệ thống nguyên tắc, quy định, quy chế, quy trình về tổ chức và hoạt động của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhằm tạo môi trường, điều kiện thuận lợi để bảo đảm vai trò lãnh đạo của cấp ủy và phát huy đầy đủ vai trò của người đứng đầu, ngăn chặn tình trạng người đứng đầu lợi dụng bất cập trong các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước để trục lợi, chuyên quyền, độc đoán.

Hoàn thiện quy chế, quy định xác định rõ trách nhiệm, quyền hạn của tập thể lãnh đạo trong cơ quan Đảng và Nhà nước với quyền hạn, trách nhiệm của người đứng đầu, để vừa phát huy tốt trí tuệ tập thể, vừa phát huy đầy đủ tính chủ động, đổi mới sáng tạo của người đứng đầu trong việc ban hành và tổ chức thực hiện các quyết định. Phân định rõ giữa chức năng, nhiệm vụ của tổ chức đảng với tổ chức nhà nước; chức năng, nhiệm vụ của các tổ chức đảng ở từng cấp, từng ngành, cơ quan, đơn vị, địa phương. Trên cơ sở đó, phân định rõ thẩm quyền, trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng và người đứng đầu cấp ủy, chính quyền để tránh trường hợp người đứng đầu ỷ lại tập thể, đổ lỗi cho tập thể khi không làm tròn trách nhiệm, hoặc ngược lại lợi dụng tập thể làm “bình phong” để lạm quyền, chuyên quyền, độc đoán.

Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, giám sát để nhanh chóng khắc phục tình trạng một số cấp ủy, tổ chức đảng chưa xây dựng đầy đủ hoặc chưa bám sát vào quy chế, quy định để hoạt động. Tình trạng phổ biến hiện nay ở không ít cấp ủy, tổ chức đảng là sao chép quy chế, quy định của cấp trên, không cụ thể hóa, vận dụng cho sát hợp với đặc điểm, tình hình, nhiệm vụ, nhất là những nhiệm vụ đặc thù, nhạy cảm, phức tạp dễ lạm dụng quyền lực dẫn đến sai phạm ở mỗi cơ quan, tổ chức, địa phương, đơn vị, như công tác cán bộ, quản lý đất đai, tài sản, tài chính công.

Hoàn thiện quy chế, quy định, chính sách, pháp luật, tạo môi trường, điều kiện cho người đứng đầu mạnh dạn đổi mới sáng tạo, nhất là trong những lĩnh vực khó, phức tạp của địa phương, cơ quan, đơn vị; khuyến khích, trọng dụng, bảo vệ những người đứng đầu dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm, hành động quyết liệt vì lợi ích của nhân dân. Người đứng đầu cấp ủy, chính quyền cần quyết đoán, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đương đầu với khó khăn, thử thách, hành động quyết liệt vì lợi ích chung, vì vậy, phải xây dựng môi trường, điều kiện thuận lợi để họ phát huy đầy đủ các tố chất đó, đồng thời tránh rủi ro không mong muốn khi thực hiện nhiệm vụ.

Đẩy mạnh xây dựng, hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực trong Đảng và hệ thống chính trị. Quyền lực không được kiểm soát sẽ dẫn đến tha hóa quyền lực. Người đứng đầu được trao quyền càng lớn thì nguy cơ bị tha hóa càng cao; người đứng đầu không thể được giao quyền mà không chịu trách nhiệm, ngược lại, không thể đòi hỏi trách nhiệm mà không được giao quyền tương ứng. Chủ trương của Đảng là xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm người đứng đầu cấp ủy, chính quyền trong mối quan hệ với tập thể cấp ủy, cơ quan, đơn vị(3), để tạo điều kiện cho cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu có tư duy và cách làm đổi mới, dám đột phá. Do vậy, cần phải xây dựng những quy định, quy chế để cán bộ hoạt động hiệu quả, nhưng được kiểm soát chặt chẽ.

Thứ ba, tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức đảng và người đứng đầu, nhằm bảo đảm vai trò lãnh đạo của tập thể và cá nhân người đứng đầu.

Tập trung khắc phục những khâu yếu trong ban hành, thực hiện nghị quyết của Đảng, nhất là khâu tổ chức thực hiện kém hiệu quả. Đổi mới phương thức lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu trong thực hiện quy trình ban hành, tổ chức thực hiện và đánh giá các chủ trương, nghị quyết. Xây dựng nghị quyết phải bảo đảm tính khoa học, phát huy dân chủ và năng lực trí tuệ của tập thể, đội ngũ chuyên gia, các nhà khoa học, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân. Năng lực, phương thức lãnh đạo của người đứng đầu quyết định chất lượng, hiệu quả của nghị quyết. Trong đánh giá người đứng đầu, phải lấy chất lượng tổ chức thực hiện, hiệu quả kinh tế - xã hội của nghị quyết và vai trò, ảnh hưởng của họ trong lãnh đạo, điều hành cấp ủy, tổ chức đảng làm tiêu chí đánh giá.

Nâng cao chất lượng công tác tư tưởng, tăng cường công tác tuyên truyền, vận động, thuyết phục cán bộ, đảng viên và nhân dân thấm nhuần, thông suốt các chủ trương, nghị quyết của cấp ủy, tổ chức đảng, tạo sự đồng thuận, thống nhất về nhận thức và hành động. Đề cao trách nhiệm nêu gương của cấp ủy, người đứng đầu trong sinh hoạt đảng, sinh hoạt cấp ủy, tự phê bình và phê bình. Nâng cao năng lực lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức đảng, khắc phục những hạn chế về tính đảng, tính chiến đấu, tính lãnh đạo trong sinh hoạt đảng. Cần bổ sung, hoàn thiện quy chế đánh giá cán bộ, đảng viên và người đứng đầu cấp ủy, kịp thời đưa ra khỏi cấp ủy, tổ chức đảng những cán bộ, đảng viên “hữu danh vô thực”, thiếu bản lĩnh, kém năng lực, quan liêu, không gương mẫu, nói không đi đôi với làm, ý thức xây dựng tập thể kém, bè phái, mất đoàn kết.

Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong công tác cán bộ, khắc phục mâu thuẫn bổ nhiệm, đề bạt, luân chuyển cán bộ thì đúng quy định, quy trình, nhưng lại để lọt những cán bộ phẩm chất kém, năng lực, uy tín thấp, thậm chí vi phạm khuyết điểm. Bổ sung, hoàn thiện các quy định, quy chế của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác cán bộ; xây dựng và hoàn thiện cơ chế về kiểm soát quyền lực; tăng cường thẩm quyền, trách nhiệm của người đứng đầu; đề cao trách nhiệm đến cùng của tập thể cấp ủy và người đứng đầu trong các quyết định về công tác cán bộ; cần có quy định về trách nhiệm bày tỏ quan điểm rõ ràng của từng thành viên và người đứng đầu bằng ý kiến trực tiếp và bằng phiếu giới thiệu có ghi danh và được cơ quan có trách nhiệm bảo lưu để xử lý khi cần thiết, nhằm bảo đảm tính khách quan, công bằng, minh bạch trong thực hiện quy trình công tác cán bộ.

Tiếp tục đổi mới hơn công tác đánh giá cán bộ vì đây vẫn là khâu khó và yếu nhất, nhằm bảo đảm lựa chọn đúng cán bộ thực sự có phẩm chất, năng lực, uy tín để bố trí vào các vị trí chủ chốt, người đứng đầu trong các cơ quan đảng, nhà nước. Tăng cường, đổi mới phương thức lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu trong công tác kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực; bổ sung và hoàn thiện quy định về kiểm tra, giám sát, kiểm soát trong nội bộ cấp ủy, tổ chức đảng do công tác kiểm tra, giám sát của cấp ủy và ủy ban kiểm tra đối với cấp ủy viên và người đứng đầu cùng cấp quy định chưa rõ ràng, còn bất cập. Hoàn thiện quy định này có ý nghĩa quan trọng, vì cán bộ, đảng viên của tổ chức đảng và nhân dân là những người có quan hệ trực tiếp, gần gũi, thường xuyên với cấp ủy và người đứng đầu cùng cấp, nên nếu có cơ chế giám sát, kiểm soát, hiệu quả thì những vi phạm, khuyết điểm trong tổ chức đảng mới được phát hiện và xử lý sớm, kịp thời khi chưa trở nên nghiêm trọng./.

Giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc ở Việt Nam hiện nay

 TCCS - Trong suốt cuộc đời mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn xác định đại đoàn kết dân tộc là phương thức, là sức mạnh và là mục tiêu quan trọng nhất của cách mạng Việt Nam. Với tư tưởng ấy, dân tộc Việt Nam đã giành được độc lập và xây dựng đất nước từng bước đạt mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trở thành giá trị văn hóa, giá trị chính trị quý báu của Việt Nam trong thời đại mới.

Bác Hồ với đồng bào các dân tộc Việt Nam (tranh lụa của họa sĩ Trần Minh Thái) _Ảnh: Tư liệu

Với Chủ tịch Hồ Chí Minh, nếu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là mục tiêu của cách mạng Việt Nam, Đảng Cộng sản là lực lượng lãnh đạo cách mạng Việt Nam, thì đại đoàn kết dân tộc là sức mạnh của cách mạng Việt Nam và tư tưởng về đại đoàn kết dân tộc là tư tưởng về tập hợp, tổ chức và phát huy sức mạnh của các lực lượng cách mạng trong nước, từ sức mạnh của các lực lượng xã hội, các tổ chức chính trị đến sức mạnh của toàn dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, làm nên nguồn lực tổng hợp nhằm hiện thực hóa mục tiêu cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, đoàn kết, trong đó có đại đoàn kết dân tộc, là một nội dung cơ bản, trung tâm của chính trị Việt Nam hiện đại. Người viết: “Tóm lại chính trị là: 1. Đoàn kết. 2. Thanh khiết từ to đến nhỏ”(1).

Tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc được Người xây dựng trên nền tảng đúc rút trí tuệ nhân loại cổ, kim, Đông, Tây về tập hợp và tổ chức lực lượng cách mạng; trên cơ sở tổng kết lịch sử dân tộc Việt Nam, lịch sử cách mạng Việt Nam và nhiều cuộc cách mạng trên thế giới; và nhất là dựa trên những suy tư rất sâu sắc của Người, ở tầm triết học, về bản chất con người, về vị trí và vai trò của con người trong thế giới, phương thức sống và hoạt động của con người..., nói cách khác trên nền tảng nhân sinh quan cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là nhà tư tưởng về đại đoàn kết dân tộc, mà Người trước hết là “nhà hoạt động chính trị chuyên nghiệp” - như chính Người khẳng định, trong đó tư tưởng và thực hành đại đoàn kết dân tộc, lý luận và thực tiễn đại đoàn kết dân tộc liên hệ chặt chẽ với nhau. Chủ tịch Hồ Chí Minh là linh hồn và là trung tâm dẫn dắt quá trình tập hợp và tổ chức lực lượng cách mạng trong thực tiễn. Tư tưởng đại đoàn kết, trong đó đại đoàn kết dân tộc là vấn đề hàng đầu mà Chủ tịch Hồ Chí Minh tính đến khi đứng trước những vấn đề lớn mà cách mạng đặt ra. Thực tiễn cách mạng Việt Nam chứng minh, với tư tưởng và vai trò thực tế của Chủ tịch Hồ Chí Minh, sức mạnh của dân tộc Việt Nam được tập hợp, tổ chức và phát huy cao độ; kết hợp nhuần nhuyễn giữa sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, góp phần làm nên những thắng lợi to lớn của cách mạng Việt Nam.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc cùng với khối đại đoàn kết dân tộc mà Chủ tịch Hồ Chí Minh dày công xây dựng là một di sản vô cùng quý báu cho Đảng ta và dân tộc ta. Trong bối cảnh hiện nay, khi mục tiêu được Đảng ta đưa ra trong Đại hội XIII của Đảng là: “khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại”(2) đang đặt ra mạnh mẽ, thì việc tiếp tục đi sâu nghiên cứu, khai thác, vận dụng một cách sáng tạo những giá trị trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc là nhiệm vụ có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng.

Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về tầm quan trọng của đại đoàn kết dân tộc.

Để giải quyết những vấn đề lớn của cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng việc tổng kết lịch sử. Khi tổng kết lịch sử dân tộc Việt Nam, Người đúc rút một quy luật: “Sử ta dạy cho ta bài học này: Lúc nào dân ta đoàn kết muôn người như một thì nước ta độc lập, tự do. Trái lại lúc nào dân ta không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn. Vậy nay ta phải biết đoàn kết, đoàn kết mau, đoàn kết chắc chắn thêm lên mãi”(3). Đây là quan điểm rất quan trọng, mang tính nền tảng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc, theo đó, việc lực lượng lãnh đạo cách mạng chú trọng củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, việc các tầng lớp nhân dân tích cực, chủ động tham gia khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đó chính là nhận thức và hành động đúng đắn, phù hợp với quy luật.

Nhìn vào các phong trào yêu nước của các tầng lớp nhân dân Việt Nam suốt nửa cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX và phong trào đấu tranh của nhân dân nhiều nước thuộc địa chống lại chủ nghĩa thực dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh thấy rõ, nguyên nhân khiến cho hầu hết các phong trào đó, dù nổ ra với tinh thần anh dũng, sẵn sàng hy sinh của nhân dân, nhưng đều thất bại, là do bị chia rẽ và cô lập, các lực lượng yêu nước không được tập hợp và tổ chức lại thành một khối đoàn kết vững chắc. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng dành thời gian nghiên cứu kinh nghiệm các cuộc cách mạng lớn nổ ra trên thế giới như cách mạng Pháp, cách mạng Mỹ và cách mạng Nga, từ đó đúc rút ra những chỉ dẫn quan trọng về đại đoàn kết dân tộc. Người còn đi sâu nghiên cứu nhiều tư tưởng, học thuyết của các nhà lãnh đạo chính trị tầm cỡ, như M. Gan-di, Tôn Trung Sơn..., và đặc biệt, đến với chủ nghĩa Mác - Lê-nin, nhờ vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có được cơ sở lý luận khoa học để luận giải sâu sắc về tầm quan trọng của đại đoàn kết dân tộc, nhận thức đúng đối tượng đại đoàn kết và cách thức tiến hành đại đoàn kết dân tộc.

Trên tất cả những cơ sở đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định tầm quan trọng đặc biệt của đại đoàn kết dân tộc:

Thứ nhất, đại đoàn kết dân tộc là một trong những vấn đề gốc của cách mạng. Nếu giải quyết thành công vấn đề này thì các vấn đề khác cũng sẽ có điều kiện để giải quyết thành công. Chủ tịch Hồ Chí Minh dùng từ “điểm mẹ” để diễn đạt quan điểm này. Người viết: Đoàn kết là “điểm mẹ. Điểm này mà thực hiện tốt thì đẻ ra con cháu đều tốt”(4).

Thứ hai, đại đoàn kết dân tộc là phương thức để tập hợp, tổ chức và phát huy cao độ sức mạnh của toàn thể dân tộc, góp phần quyết định đưa cách mạng Việt Nam đến thắng lợi. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “... nhờ sức đại đoàn kết mà cách mệnh thành công... nhờ sức đại đoàn kết mà kháng chiến sẽ thắng lợi”(5); “Thống nhất nước nhà là con đường sống của nhân dân ta. Đại đoàn kết là một lực lượng tất thắng. Nhờ đại đoàn kết mà cách mạng đã thắng lợi, kháng chiến đã thành công. Nay chúng ta đại đoàn kết thì cuộc đấu tranh chính trị của chúng ta nhất định thắng lợi, nước nhà nhất định thống nhất”(6).

Thứ ba, đại đoàn kết dân tộc là chiến lược hàng đầu của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong bất cứ giai đoạn nào của cách mạng, đại đoàn kết dân tộc luôn phải được Đảng Cộng sản Việt Nam quan tâm giải quyết trước hết. Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn, “Trước Cách mạng Tháng Tám và trong kháng chiến, thì nhiệm vụ tuyên huấn là làm cho đồng bào các dân tộc hiểu được mấy việc: Một là đoàn kết. Hai là làm cách mạng hay kháng chiến để đòi độc lập. Chỉ đơn giản thế thôi. Bây giờ mục đích tuyên truyền huấn luyện là: Một là đoàn kết. Hai là xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ba là đấu tranh thống nhất nước nhà”(7). Đảng Cộng sản Việt Nam xây dựng đường lối, chiến lược đại đoàn kết dân tộc và lãnh đạo hệ thống chính trị cùng toàn thể nhân dân tích cực thực hiện đường lối chiến lược đó, làm cho đại đoàn kết dân tộc trở thành một hiện thực đầy sức sống trong cách mạng Việt Nam.

Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đối tượng đại đoàn kết dân tộc.

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân. Trong bài nói chuyên tại Hội nghị đại biểu Mặt trận Liên Việt toàn quốc (tháng 1-1969), Chủ tịch Hồ Chí Minh phát biểu: “Đại đoàn kết tức là trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân ta là công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác. Đó là nền gốc của đại đoàn kết. Nó cũng như cái nền của nhà, gốc của cây. Nhưng đã có nền vững, gốc tốt, còn phải đoàn kết các tầng lớp nhân dân khác. Bất kỳ ai mà thật thà tán thành hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ thì dù những người đó trước đây chống chúng ta, bây giờ chúng ta cũng thật thà đoàn kết với họ”(8). Có thể thấy, ý nghĩa chữ “đại” trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc chính là biên độ của đại đoàn kết được mở rộng tối đa, là đoàn kết với mọi đối tượng có thể đoàn kết được.

Vấn đề đặt ra là, đó là những đối tượng nào?

Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định các đối tượng của đại đoàn kết bằng phương pháp rất khoa học. Theo Người, dân tộc không phải là một “cộng đồng tưởng tượng”(9), mà là một cộng đồng hiện thực của những con người hiện thực. Để nhận diện đúng cộng đồng ấy, Người tiếp cận cộng đồng dân tộc bằng nhiều “lát cắt” khác nhau: giai cấp, dân tộc, tôn giáo, giới tính, lứa tuổi, vùng miền,... Tùy từng “lát cắt” sẽ chia cộng đồng dân tộc thành những lực lượng xã hội khác nhau, với những đặc điểm về nhu cầu, lợi ích, tâm lý, thái độ,... riêng cùng những mối quan hệ đặc thù. Điều cần lưu ý là, Chủ tịch Hồ Chí Minh không tuyệt đối hóa một lát cắt hay quan hệ nào. Trái lại, áp dụng nhiều “lát cắt” để nhìn sâu vào cái bộ phận, nhưng không dừng ở cái bộ phận mà đi tới cái toàn thể, tức là để nhìn đối tượng đại đoàn kết trong tính chỉnh thể, trong tính tổng hòa khách quan vốn có, theo đúng quan điểm của C. Mác: Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội. Nhận diện một đối tượng đại đoàn kết không phải chỉ trên một phương diện nào đó, chẳng hạn dân tộc hay tôn giáo, mà trong tính tổng hòa đan xen của nó: cùng một đối tượng đại đoàn kết, vừa là con người dân tộc, vừa là con người giai cấp, vừa là con người tôn giáo, vừa là con người lứa tuổi... Cách tiếp cận toàn diện như vậy giúp chủ thể tìm ra những điểm chung để hóa giải các quan hệ khác biệt, mâu thuẫn trong quan hệ giữa các đối tượng đại đoàn kết. Có thể khẳng định, Chủ tịch Hồ Chí Minh phân tích để nhận diện sâu về đối tượng đại đoàn kết trên các phương diện khác nhau và lấy đó làm cơ sở để tổng hợp, để đại đoàn kết là cách tiếp cận độc đáo của Người, vừa khoa học, vừa rất văn hóa, độc đáo, đặc sắc và hiệu quả.

Chủ tịch Hồ Chí Minh không tuyệt đối hóa lát cắt nào, nhưng từ góc nhìn chung của đại đoàn kết dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh điểm chung xuyên qua những khác biệt của các thành viên trong cùng một quốc gia - dân tộc, đó là những giá trị liên quan đến lợi ích chung của dân tộc. Đó là cơ sở quan trọng để Người khẳng định rằng, dù giai cấp, tộc người, tôn giáo, vùng, miền khác nhau, dù là trong nước hay nước ngoài..., nhưng là người Việt Nam, thì đều có những lợi ích chung có thể chia sẻ, vì thế, đều có thể và cần thiết tham gia khối đại đoàn kết dân tộc để phấn đấu cho lợi ích chung. Trong bối cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam khi đó, lợi ích chung ấy được Chủ tịch Hồ Chí Minh diễn đạt là “yêu Tổ quốc, yêu hoà bình, yêu thống nhất”, hay “thật thà tán thành hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ”,... Hình ảnh “con Lạc, cháu Hồng”, “con dân nước Việt” mà Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu lên chính là hiện thân cho những giá trị chung trong mỗi đối tượng đại đoàn kết. Rõ ràng, nói đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân, ở đây, tuyệt nhiên không phải là một khẩu hiệu đơn thuần, mà là một chính sách dân tộc, một cương lĩnh hành động được xây dựng trên cơ sở nhận thức khoa học và mang tính khoan dung văn hóa rất sâu sắc.

Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Võ Văn Thưởng tặng bò giống cho đồng bào tại huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế, ngày 8-1-2023_Nguồn: baothuathienhue.vn

Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về nguyên tắc đại đoàn kết dân tộc.

Để có thể thực hiện được đại đoàn kết dân tộc, Hồ Chí Minh đã nêu lên một số nguyên tắc chỉ đạo hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn.

Thứ nhất, quán triệt nguyên tắc “cầu đồng, tồn dị”, trước hết phải “cầu đồng”, tức là phải tìm ra cái “đồng” mà các bên chia sẻ, lấy đó làm điểm quy tụ để đại đoàn kết.

Cái “đồng” đó, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, suy cho cùng chính là lòng yêu nước chân chính trong mỗi con người Việt Nam. Trong Thư gửi đồng bào Nam Bộ trước khi rời Việt Nam sang Pháp dự Hội nghị Phông-ten-nơ-b-lô, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Tôi khuyên đồng bào đoàn kết chặt chẽ và rộng rãi. Năm ngón tay cũng có ngón vắn ngón dài. Nhưng vắn dài đều họp nhau lại nơi bàn tay. Trong mấy triệu người cũng có người thế này thế khác, nhưng thế này hay thế khác đều dòng dõi của tổ tiên ta. Vậy nên ta phải khoan hồng đại độ. Ta phải nhận rằng đã là con Lạc cháu Hồng thì ai cũng có ít hay nhiều lòng ái quốc. Đối với những đồng bào lạc lối lầm đường, ta phải lấy tình thân ái mà cảm hoá họ. Có như thế mới thành đại đoàn kết, có đại đoàn kết thì tương lai chắc sẽ vẻ vang”(10). Thừa nhận rằng, đã là con Lạc, cháu Hồng, thì ai cũng có ít hay nhiều lòng ái quốc, đó chính là quan điểm nhấn mạnh cái “đồng” của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong tiếp cận các đối tượng đại đoàn kết.

Cái “đồng” đó còn là những quyền lợi chính đáng khác mà mỗi con người, dù ở giai cấp, tầng lớp, vùng, miền nào..., cũng hướng đến. Nói cách khác, cùng với “độc lập”, thì “tự do”, “hạnh phúc”, “cơm ăn”, “áo mặc”, “học hành”,... cũng là những giá trị chung cần được quan tâm và là điểm tựa để quy tụ, đoàn kết mọi lực lượng xã hội khác nhau vào một sự nghiệp chung.

Tìm ra cái chung, lấy cái chung làm điểm tựa, dựa vào cái chung để hóa giải những khác biệt, mâu thuẫn riêng, đó là triết lý rất sâu sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong thực hiện đại đoàn kết dân tộc.

Thực hiện nguyên tắc “cầu đồng, tồn dị” thì không chỉ “cầu đồng”, mà còn phải “tồn dị”, tức là phải chấp nhận và tôn trọng những cái khác biệt, miễn là không tổn hại đến cái chung. “Tồn dị” thể hiện tinh thần khoan dung, độ lượng, hay nói theo cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh là “khoan hồng đại độ”. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Tôi cả quyết cam đoan rằng Chính phủ và đồng bào ta sẽ hết sức khoan hồng đại độ. Chẳng những để cho những người đó cải quá tu tâm, quay về với Tổ quốc, mà lại sẵn sàng trọng dụng họ, nếu những người đó có tài nghệ. Một dân tộc đã tự cường, tự lập, dân chủ cộng hòa thì không làm những việc nhỏ nhen, báo thù báo oán”(11). Có khoan hồng đại độ, thì mới có đại đoàn kết, đó cũng là một triết lý đại đoàn kết rất sâu sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Khoan hồng đại độ không chỉ thể hiện cái tâm, mà còn thể hiện cái tầm của chủ thể đại đoàn kết. Hình ảnh thể hiện của tinh thần khoan dung chính là sông to và biển rộng: “Sông to, biển rộng, thì bao nhiêu nước cũng chứa được, vì độ lượng nó rộng và sâu. Cái chén nhỏ, cái đĩa cạn, thì một chút nước cũng đầy tràn, vì độ lượng nó hẹp nhỏ”(12). Cái tâm và cái tầm chủ thể đại đoàn kết dân tộc trái ngược hoàn toàn với sự “nhỏ nhen”, hẹp hòi, định kiến, càng xa lạ với lối ứng xử “báo thù báo oán”. Tinh thần khoan dung, độ lượng, hay khoan hồng đại độ ở Chủ tịch Hồ Chí Minh thực sự chính là tinh thần khoan dung văn hóa, mang tính nhân văn, nhân đạo cực kỳ sâu sắc.

Thứ hai, thực hiện nguyên tắc “cầu đồng, tồn dị” nói trên, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, cần được đặt trên nền tảng niềm tin đối với con người. Đứng vững trên quan điểm của chủ nghĩa Mác, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ, “mỗi con người đều có thiện và ác ở trong lòng”(13). Thiện hay ác đó không phải là “tính sẵn”, mang tính tiên thiên, mà do trình độ phát triển của xã hội quy định, do sự tập nhiễm của con người khi sống trong xã hội chưa thực sự đạt đến trình độ văn minh. Thiện hay ác đó cũng không phải là nhất thành bất biến, mà biến đổi tuỳ thuộc vào giáo dục, theo nghĩa là giáo dục từ phía xã hội, cũng như tự giáo dục của mỗi con người. Lực lượng lãnh đạo cách mạng cần phải có niềm tin vào sự tồn tại của cái thiện trong mỗi con người, và khả năng nảy nở, phát triển của nó nếu được tác động đúng hướng, đúng cách, và thái độ cần có của lực lượng lãnh đạo xã hội là phải làm cho cái thiện “nảy nở như hoa mùa Xuân” và cái ác “mất dần đi”. Lòng yêu nước chân chính, những định hướng giá trị tốt đẹp, như “ấm no”, “tự do”, “hạnh phúc”,... trong mỗi con người Việt Nam chính là cái thiện, và vì thế cần có niềm tin và thái độ ứng xử tích cực đối với cái thiện đó. Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “Không được báo thù báo oán. Đối với những kẻ đi lầm đường lạc lối, đồng bào ta cần phải dùng chính sách khoan hồng. Lấy lời khôn lẽ phải mà bày cho họ. Ai cũng có lòng yêu nước, chẳng qua có lúc vì lợi nhỏ mà quên nghĩa lớn. Nói lẽ phải họ tự nghe. Tuyệt đối không được dùng cách kịch liệt”(14). Có thể thấy, niềm tin không chỉ đầy tính khoa học, mà cũng cực kỳ nhân văn ở Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với cái thiện và năng lực hướng thiện của con người là một triết lý nhân sinh cực kỳ quan trọng, là một bệ đỡ cho hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, trong đó có tư tưởng về đại đoàn kết dân tộc, là cơ sở để thực hiện các nguyên tắc đại đoàn kết dân tộc một cách thành công. Đó cũng là một nguyên tắc thực hiện đại đoàn kết dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Thứ ba, đại đoàn kết dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh hướng tới hình thành một cộng đồng gắn bó và thống nhất. Có như vậy, mới tập hợp và phát huy được cao độ sức mạnh của mỗi thành viên trong khối đại đoàn kết tạo nên tổng hợp lực cho cách mạng. Để làm được điều đó, ngoài niềm tin và thái độ đúng, còn cần đến cách ứng xử phù hợp. Trừ bọn “Việt gian bán nước”, trừ bọn “phát xít thực dân”, mà Chủ tịch Hồ Chí Minh gọi là “những ác quỷ mà ta phải kiên quyết đánh đổ”(15), thì “đối với tất cả những người khác thì ta phải yêu quý, kính trọng, giúp đỡ”(16). Khi nói đến cách ứng xử để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, Hồ Chí Minh thường dùng những chữ “thật thà”, “chân thành”, “thân thiết”, “thân ái”, “yêu quý”, “kính trọng”, “giúp đỡ”,...  Người viết: “Phong trào giải phóng sôi nổi, nảy nở ra rất nhiều nhân tài ngoài Đảng. Chúng ta không được bỏ rơi họ, xa cách họ. Chúng ta phải thật thà đoàn kết với họ, nâng đỡ họ. Phải thân thiết với họ, gần gụi họ, đem tài năng của họ giúp ích vào công cuộc kháng chiến cứu nước. Chúng ta phải tẩy sạch các bệnh kiêu ngạo, bệnh hẹp hòi, bệnh bao biện”(17). Người còn chỉ dẫn: “Đồng chí ta, tuy có khi khác nhau về chủng tộc hay khác nhau về nguồn gốc giai cấp, nhưng là những người cùng chủ nghĩa, cùng mục đích, cùng sống, cùng chết, chung sướng, chung khổ, cho nên phải thật thà đoàn kết. Muốn đi tới mục đích, không phải chỉ tổ chức là đủ, phải chân thành trong tư tưởng nữa”(18),... Như vậy, dù góc tiếp cận nào: trong đảng hay ngoài đảng, chủng tộc hay giai cấp, thì để thực hiện được đại đoàn kết dân tộc, đều cần có cách ứng xử phù hợp, và cách ứng xử đó có thể khái quát là “cách Thiện”: cách Thiện để tạo ra cái Thiện, để làm cho những mầm Thiện nảy nở như hoa mùa Xuân. Đây cũng là một nguyên tắc quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc còn nhiều nội dung rất phong phú, sâu sắc. Những quan điểm đó chứa đựng những giá trị quan trọng đối với sự nghiệp củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc ở Việt Nam hiện nay. Có thể khái quát là:

Một là, đại đoàn kết toàn dân tộc đã, đang và sẽ luôn là một quy luật chi phối sự tồn tại và phát triển của quốc gia - dân tộc Việt Nam. Để có thể xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc, nhiệm vụ xây dựng, củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc luôn phải được đặt lên hàng đầu, phải là nhiệm vụ hàng đầu của Đảng và Nhà nước Việt Nam, và trực tiếp là của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Coi trọng vai trò của đại đoàn kết dân tộc đòi hỏi phải thực sự coi trọng vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong hệ thống chính trị.

Hai là, luôn quán triệt quan điểm mở rộng tối đa khối đại đoàn kết dân tộc. Trong xã hội mở và biến đổi nhanh chóng hiện nay, các lực lượng xã hội cấu thành dân tộc rất đa dạng, nhiều khác biệt. Tuy nhiên, dù đa dạng và nhiều khác biệt đến mấy, luôn cần nhìn nhận đó là các lực lượng cần tập hợp vào khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Cần mở rộng các hình thức tập hợp, tổ chức các lực lượng xã hội và có cơ chế để thu hút, quy tụ các hình thức đó vào trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phải thực sự là hiện thân của khối đại đoàn kết toàn dân tộc với các cấp độ tổ chức chặt chẽ và cơ chế hoạt động hiệu quả. Muốn vậy, Mặt trận phải rất thực chất và đầy sức sống, vừa rất thống nhất, vừa đa dạng và sinh động.

Ba là, để thực hiện được đại đoàn kết dân tộc trong bối cảnh xã hội phân hoá, phân tầng mạnh mẽ hiện nay, nguyên tắc “cầu đồng, tồn dị” càng hết sức quan trọng. Việc phát hiện và khơi dậy những giá trị, lợi ích chung, cũng như việc chấp nhận và tôn trọng những cái khác biệt sẽ khó khăn hơn, nhưng không thể không thực hiện. Đối với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, phải làm sao để các đại diện trong Mặt trận thật sự đại diện được cho sự đa dạng trong xã hội, đồng thời phải có cơ chế để sự đa dạng tương tác và tồn tại trong mục tiêu thống nhất. Tinh thần căn bản cần quán xuyến ở đây chính là dân chủ và pháp quyền.

Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là mục tiêu lớn của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, đó phải là nền “pháp quyền nhân nghĩa”. Không phải ngẫu nhiên mà có học giả gọi kỷ nguyên hiện nay là kỷ nguyên của văn hoá, do đó, cách thiện càng là một đòi hỏi về cách ứng xử đối với các lực lượng xã hội khác nhau trong xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc ở Việt Nam hiện nay. Chủ tịch Hồ Chí Minh chưa dùng khái niệm “quyền lực mềm”, “sức mạnh mềm”, nhưng Người nhiều lần chỉ dẫn về việc “bày lẽ phải”, “nói phải”, “thuyết phục”,... trong ứng xử với các đối tượng đại đoàn kết. Ngay đối với Đảng Cộng sản Việt Nam - tổ chức vừa là thành viên, vừa là lực lượng lãnh đạo Mặt trận, ngay từ rất sớm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lưu ý: “Đảng không thể đòi hỏi Mặt trận thừa nhận quyền lãnh đạo của mình, mà phải tỏ ra là một bộ phận trung thành nhất, hoạt động nhất và chân thực nhất. Chỉ trong đấu tranh và công tác hằng ngày, khi quần chúng rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo của Đảng, thì Đảng mới giành được địa vị lãnh đạo”(19). Đó không có gì khác hơn là ứng xử theo cách thiện, là phát huy sức mạnh của sự thuyết phục, là sử dụng sức mạnh mềm.

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, được tổ chức và hoạt động “theo nguyên tắc tự nguyện, hiệp thương dân chủ, phối hợp và thống nhất hành động giữa các thành viên”(20) cần và có điều kiện vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc./.

Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện nền hành chính chuyên nghiệp, liêm chính, hiện đại, phục vụ nhân dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay

 TCCS - Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền hành chính nhà nước trong sạch, vững mạnh vẫn còn nguyên giá trị trong bối cảnh hiện nay. Công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam tiếp tục đặt ra yêu cầu nghiên cứu, vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh để định hình một nền hành chính chuyên nghiệp, liêm chính, hiện đại, phục vụ nhân dân.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền hành chính quốc gia

Một là, xây dựng nền hành chính hợp hiến, hợp pháp

Chế độ dân chủ cộng hòa được Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định trong Tuyên ngôn độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Người nhấn mạnh: “Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để gây nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ Dân chủ Cộng hòa”(1). Nhà nước mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập đến là nhà nước của dân, do dân và vì dân; mang bản chất giai cấp công nhân, mang tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc; tổ chức và hoạt động dựa trên nguyên tắc pháp quyền. Do vậy, nền hành chính nhà nước phải phù hợp với bản chất của nhà nước, của chế độ chính trị do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, gắn bó với quần chúng nhân dân, phục vụ nhân dân và lấy lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc làm cơ bản.

Tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu: “Trước chúng ta đã bị chế độ quân chủ chuyên chế cai trị, rồi đến chế độ thực dân không kém phần chuyên chế, nên nước ta không có hiến pháp. Nhân dân ta không được hưởng quyền tự do dân chủ. Chúng ta phải có một hiến pháp dân chủ”(2). Điều này cho thấy vai trò, tầm quan trọng của hiến pháp trong xây dựng một nhà nước tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc pháp quyền, trước hết là hiến định chủ quyền của quốc gia - dân tộc, ghi nhận các quyền tự do, dân chủ của nhân dân.

Với tính chất quan trọng ấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề nghị tổ chức một cuộc tổng tuyển cử để bầu ra Quốc hội, lập Chính phủ chính thức cũng như ban hành Hiến pháp. Cuộc tổng tuyển cử ngày 6-1-1946 được tiến hành thắng lợi với chế độ phổ thông đầu phiếu. Qua bầu cử Quốc hội khóa I và các kỳ bầu cử Quốc hội sau đó, các quyền kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của công dân từng bước được thực thi. Bản Hiến pháp năm 1946 - Hiến pháp dân chủ đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - được Quốc hội thông qua với sự đồng thuận gần như tuyệt đối của các đại biểu (240/242 phiếu). Hiến pháp năm 1946 khẳng định tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, chế định bản chất cách mạng, tính dân chủ, nhân dân và pháp quyền thành những điều khoản cụ thể. Đây chính là quá trình hiện thực hóa, pháp chế hóa, thể hiện tính ưu việt của một chế độ mới luôn mưu cầu quyền lợi, hạnh phúc cho nhân dân.

Cùng với Hiến pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn đề cao nguyên tắc pháp quyền trong tổ chức và hoạt động của nhà nước. Trước đó, từ rất sớm, Người đã yêu cầu: “Bảy xin hiến pháp ban hành/ Trăm đều phải có thần linh pháp quyền”(3). Pháp luật là tối thượng và phải có mặt trong mọi hoạt động của đời sống xã hội, bất kể cá nhân hay tổ chức đều phải tuân theo. Việc xây dựng một nhà nước hợp hiến, hợp pháp gắn với xây dựng một nền hành chính dân chủ, liêm chính, khoa học luôn là vấn đề thường trực trong tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm hướng tới xây dựng “chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt” của nhân dân.

Hai là, xây dựng nền hành chính phục vụ nhân dân

Lấy mục tiêu phục vụ nhân dân làm mục tiêu cao nhất khi thiết kế nền hành chính nhà nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “1- Làm cho dân có ăn; 2- Làm cho dân có mặc; 3- Làm cho dân có chỗ ở; 4- Làm cho dân có học hành”(4). Đây cũng chính là ham muốn tột bậc của Người, rằng: “Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ”(5). Do vậy, nền hành chính nhà nước phải vì: “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc”. Đây là cơ sở để hướng mọi nỗ lực của các cơ quan hành chính vào phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Ngày 3-6-1955, tại Hội nghị sản xuất cứu đói, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt ra trách nhiệm của Đảng và Chính phủ trước nhân dân: “Chính sách của Đảng và Chính phủ là phải hết sức chăm nom đến đời sống của nhân dân. Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân ốm là Đảng và Chính phủ có lỗi”(6). Điều đó có nghĩa là Đảng và Chính phủ không chỉ lo những vấn đề lớn, mà còn cả những vấn đề thiết thực đối với nhân dân.

Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng một nền hành chính phục vụ, một nền hành chính của dân, do dân và vì dân; công chức hành chính là đầy tớ của dân, phục vụ nhân dân, chứ không phải “đè đầu cưỡi cổ” nhân dân như trong thời phong kiến, thực dân. Cá nhân hay tổ chức làm hại dân thì dân có quyền phê bình, thậm chí “đuổi cổ” họ. Với tư tưởng đó, nền hành chính trong tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện sự độc đáo, sáng tạo và mang tính dân chủ sâu sắc. Một nền hành chính mạnh mẽ, sáng suốt là nền tảng cho việc tổ chức nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân, làm cho hiệu lực pháp luật được triển khai trong thực tế.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng với Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Thủ đô Hà Nội_Ảnh: TTXVN

Ba là, xây dựng nền hành chính tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả

Xây dựng nền hành chính tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả là nhiệm vụ rất quan trọng trong xây dựng nhà nước theo nguyên tắc pháp quyền. Đây cũng là đòi hỏi khách quan của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển bền vững của đất nước.

Trong quá trình xây dựng nền hành chính nhà nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh kiên quyết chống lại các tiêu cực nhằm xây dựng một nền hành chính trong sạch, liêm chính, tinh gọn và hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, thể hiện bản chất nhà nước kiểu mới, vì lợi ích quốc gia - dân tộc, ra sức phục vụ nhân dân. Hiệu quả hoạt động của nền hành chính nhà nước phụ thuộc lớn vào hiệu quả hoạt động của các thành phần cấu thành nên nó. Do vậy, cần phải xây dựng một bộ máy hành chính đồng bộ, khoa học, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra một phương châm nhất quán: gọn nhẹ, có cơ cấu hợp lý, có khả năng bao quát và giải quyết tốt các vấn đề kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của đất nước.

Bốn là, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức đủ về số lượng, bảo đảm về chất lượng đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ

Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Cán bộ là những người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, để đặt chính sách cho đúng”(7). Do đó, việc xây dựng đội ngũ cán bộ ý nghĩa quyết định tới sự thành bại của cách mạng Việt Nam. Để có nền hành chính nhà nước hoạt động hiệu lực, hiệu quả cần có quy trình tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng đội ngũ cán bộ phù hợp, đủ số lượng, bảo đảm về chất lượng. Về số lượng, trước yêu cầu ngày càng lớn của cách mạng, Người rất quan tâm đến số lượng cán bộ, công chức. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, các hình thức chọn cán bộ để bảo đảm về số lượng, như qua kỳ thi, qua xét học bạ hay văn bằng và đề nghị của hội đồng tuyển trạch. Cùng với đó, Người đã ra thông lệnh Tìm người tài đức để tuyển chọn cán bộ: “Nước nhà cần phải kiến thiết. Kiến thiết cần phải có nhân tài. Trong số 20 triệu đồng bào chắc không thiếu người có tài có đức... các địa phương phải lập tức điều tra nơi nào có người tài đức, có thể làm được những việc ích nước lợi dân, thì phải báo cáo ngay cho Chính phủ biết”(8)Ngoài ra, Người còn chỉ ra các nguồn nhân tài từ các nhân sĩ, trí thức trong chế độ cũ có tinh thần yêu nước; từ các tổ chức đoàn thể cách mạng và rộng rãi trong nhân dân.

Về chất lượng, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu: Thứ nhất, cán bộ phải tuyệt đối trung thành với cách mạng, với Tổ quốc. Đây là phẩm chất đạo đức cao nhất đối với người cách mạng bởi trong các mối quan hệ thì mối quan hệ với Tổ quốc, với dân tộc là thiêng liêng và cao quý nhất. Cán bộ nhận thức đúng đắn được vấn đề này thì họ mới có thể toàn tâm, toàn ý phấn đấu, hy sinh cho lý tưởng cách mạng và đặt quyền lợi của Tổ quốc, dân tộc lên trên hết, trước hết. Lòng trung thành của cán bộ phải được thể hiện qua công việc hằng ngày, trong mọi lĩnh vực và trong hiệu quả công tác. Trong lịch sử, rất phổ biến tâm lý làm quan để “cả họ được nhờ”, rồi nghiễm nhiên trở thành “dân chi phụ mẫu”. Còn trong xã hội mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã “trả lại” cán bộ, công chức nhà nước về đúng vị trí là công bộc của nhân dân. Mỗi cán bộ phải nhận thức và hành động trong sáng, vì lợi ích của nhân dân và dân tộc. Cán bộ phải hiểu rằng, quyền lực mình đang có trong tay là do dân uỷ thác chứ không phải tự nhiên mà có, phải dùng quyền lực đó để phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân. Nhân dân mới là người có quyền lực to nhất, do vậy, mỗi cán bộ phải nhận thức và hành động theo phương châm: “Việc gì có lợi cho dân thì làm. Việc gì có hại cho dân thì phải tránh”(9).

Thứ hai, cán bộ phải có năng lực chuyên môn, năng lực lãnh đạo. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, cán bộ, công chức, viên chức phải bảo đảm trình độ về chuyên môn, đạo đức. Ngày 20-5-1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 76-SL, ban hành Quy chế công chức nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòà, Điều 17 của Sắc lệnh quy định rõ: “Tùy nhu cầu công việc, cấp quản trị công chức sẽ mở những kỳ thi tuyển dụng nhân viên. Kỳ thi phải công bố trước ngày thi ít nhất là 2 tháng. Thể lệ và chương trình thi vào mỗi ngạch sẽ do nghị định Bộ sở quản ấn định, sau khi thỏa thuận với Bộ Quốc gia Giáo dục và Bộ Nội vụ”. Bộ Nội vụ ban hành Thông tư số 10-NV2, quy định rõ các phần thi, gồm: “phần 1: một bài luận về văn chương, công dân, giáo dục và thường thức (làm bài trong 2 giờ, được tính hệ số 3); phần 2: một bài địa lý và sử ký (theo chương trung trung học phổ thông, 1 giờ 30 phút, hệ số 2); phần 3: một bài về tổ chức bộ máy chính quyền, Hội đồng nhân dân tỉnh, xã và ủy ban kháng chiến hành chính các cấp (3 giờ, hệ số 3); phần 4: một bài đánh máy chữ (30 phút, hệ số 2); phần 5: một bài tốc ký (Nếu thí sinh tình nguyện) và một giờ dịch ra tiếng Việt (hệ số 2); đồng thời, giới hạn nội dung cụ thể cho từng phần thi và quy định thang điểm là từ 0 đến 20 điểm. Thí sinh phải đạt 12/20 điểm mới trúng tuyển”(10). Thông qua hình thức thi tuyển công chức theo Sắc lệnh 76 và Hướng dẫn số 10 của Bộ Nội vụ, Nhà nước sẽ có được đội ngũ cán bộ nắm vững chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật, có tri thức cơ bản trên nhiều lĩnh vực khác nhau, đúng với tinh thần xây dựng đội ngũ cán bộ vừa “hồng”, vừa “chuyên”.

Thứ ba, cán bộ phải là người dám phụ trách, quyết đoán, dám chịu trách nhiệm. Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu, cán bộ phải luôn có tinh thần dám phụ trách, bất kỳ việc gì cũng vì lợi ích của nhân dân mà làm và chịu trách nhiệm trước nhân dân. Trong Di chúc, Người căn dặn cán bộ, đảng viên “phải thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”(11).

Thứ tư, cán bộ phải thường xuyên tự phê bình và phê bình, luôn có ý thức và hành động vì sự trong sạch, vững mạnh của nhà nước, của nền công vụ. Việc thường xuyên tự phê bình và phê bình là nhằm giữ gìn phẩm chất đạo đức cách mạng và nâng cao năng lực công tác, đồng thời để chăm lo xây dựng nền hành chính trong sạch, vững mạnh, vì nhân dân phục vụ. Đồng thời, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nhà nước phải thực sự liêm khiết. Từ rất sớm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định chủ nghĩa cá nhân là thứ “giặc trong lòng”, “giặc nội xâm”, là căn bệnh gốc sinh ra thói “quan cách mạng”, quan liêu, tham ô, lãng phí, ăn cắp của công. Người cho rằng, nếu Đảng, Chính phủ, đồng bào và chiến sĩ “ra sức chống giặc ngoại xâm và quên chống giặc nội xâm” là chưa làm tròn bổn phận của người cách mạng, người yêu nước.

Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào xây dựng nền hành chính chuyên nghiệp, liêm chính, hiện đại, góp phần hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Nền hành chính nhà nước ở nước ta qua hơn 36 năm đổi mới.

Qua hơn 36 năm đổi mới, việc cải cách hành chính trên một số lĩnh vực có bước đột phá(12). Hệ thống thể chế hành chính nhà nước được cải cách, sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với tình hình mới, tinh thần dân chủ trong cải cách hành chính được đề cao. Chính phủ đã ban hành Chương trình tổng thể cải cách hành chính trong từng giai đoạn cụ thể, đồng thời tiến hành đánh giá, xếp loại công tác cải cách hành chính và công bố kết quả rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng. Hệ thống tổ chức hành chính nhà nước từng bước được tinh gọn từ Chính phủ đến chính quyền địa phương, nhiều thủ tục hành chính được cắt giảm, chính phủ số, nền hành chính số từng bước định hình hướng tới một nền hành chính hiện đại. Trình độ của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức được nâng lên nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới. Chính phủ đã tiến hành tinh giản biên chế gắn với cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức theo vị trí việc làm. Các nguồn lực vật chất cần thiết được bảo đảm cho việc thực hiện nhiệm vụ quản lý hành chính nhà nước; các cơ quan, đơn vị đã chủ động tổ chức thực hiện các nhiệm vụ, không ngừng nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động...

Cán bộ, công chức Trung tâm Phục vụ hành chính công tỉnh Quảng Ninh hướng dẫn người dân nộp hồ sơ dịch vụ công trực tuyến_Nguồn: baoquangninh.com.vn

Mặc dù vậy, việc cải cách hành chính vẫn chưa đáp ứng được đầy đủ yêu cầu phát triển đất nước(13), nhiều hạn chế chậm được khắc phục, như tính đồng bộ chưa cao giữa cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, chất lượng thể chế thấp, thủ tục hành chính còn rườm rà, bộ máy hành chính cồng kềnh, chất lượng đội ngũ cán bộ còn hạn chế, việc tinh giản biên chế có nơi, có chỗ còn mang tính hình thức, chế độ, chính sách tiền lương chưa có đột phá. Chính phủ số và nền hành chính số còn phát triển chậm và chưa đồng bộ giữa các bộ, ngành, địa phương...

Trước tình hình đó, Đảng ta yêu cầu: “Tập trung xây dựng nền hành chính nhà nước phục vụ nhân dân, dân chủ, pháp quyền, chuyên nghiệp, hiện đại, trong sạch, vững mạnh, bảo đảm công khai, minh bạch, quản lý thống nhất, thông suốt, hiệu lực, hiệu quả. Tiếp tục thực hiện chương trình tổng thể cải cách hành chính và hiện đại hóa nền hành chính quốc gia”(14). Để thực hiện nhiệm vụ chính trị quan trọng này, cần tiếp tục vận dụng, phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh vào xây dựng nền hành chính nhà nước ở Việt Nam hiện nay. Cụ thể là:

Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với công cuộc xây dựng nền hành chính nhà nước của dân, do dân, vì dân.

Xây dựng nền hành chính nhà nước phải trên cơ sở giữ vững được bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Nhà nước ấy phải tôn trọng, bảo đảm thực hiện đầy đủ các quyền con người, quyền công dân, chăm lo đến lợi ích chính đáng của nhân dân. Pháp luật phải có tính nhân văn, hướng thiện, vì con người. Công tác xây dựng, cải cách nền hành chính phải gắn liền với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng nhằm giữ vững bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Cùng với đó, cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước, phát huy vai trò giám sát của nhân dân. Đây là giải pháp mang tính tất yếu, khách quan để khắc phục những bất cập, hạn chế của nền hành chính. Từ đó, nâng cao tính chuyên môn và đạo đức của cán bộ, công chức, viên chức để việc cải cách hành chính hướng đến công khai, minh bạch và dân chủ ngày càng đạt hiệu quả cao hơn. Đây cũng là mục tiêu của cải cách hành chính ở nước ta hiện nay, góp phần đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, phân cấp, phân quyền, uỷ quyền gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương, trách nhiệm cá nhân và nâng cao khả năng phối hợp giữa các cấp, các ngành để đạt hiệu quả cao trong quá trình hoạt động.

Kiện toàn bộ máy hành chính nhà nước theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại.

Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền hành chính nhà nước đòi hỏi hết sức chú trọng công tác cải cách, kiện toàn bộ máy hành chính nhà nước, bảo đảm một nền hành chính dân chủ, trong sạch, phục vụ đắc lực và có hiệu quả cho nhân dân. Cần kiên quyết đấu tranh chống các biểu hiện tiêu cực trong bộ máy hành chính nhà nước, như quan liêu, hách dịch, cửa quyền, tham nhũng, lãng phí, thiếu trách nhiệm, có lời nói, hành vi ứng xử thiếu chuẩn mực với nhân dân, gây bức xúc trong xã hội. Đồng thời, phải lấy hiệu quả công việc và sự hài lòng, sự tín nhiệm của nhân dân làm tiêu chí đánh giá quan trọng đối với tổ chức bộ máy và chất lượng cán bộ, công chức, viên chức.

Bên cạnh đó, cần bảo đảm công khai, minh bạch các thủ tục hành chính, chống các hiện tượng tiêu cực gây phiền hà, mất thời gian, công sức của nhân dân. Điều đó sẽ góp phần đổi mới, cải thiện mối quan hệ giữa Nhà nước và nhân dân. Cải cách thủ tục hành chính nhà nước phải đề cao trách nhiệm cá nhân trong giải quyết khiếu kiện của công dân đúng quy định của pháp luật. Cải cách thủ tục hành chính phải được thực hiện một cách quyết liệt, đồng bộ, hiệu quả, với quyết tâm cao nhằm xóa bỏ các rào cản hạn chế quyền tự do kinh doanh, cải thiện và nâng cao chất lượng môi trường kinh doanh, bảo đảm cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng, minh bạch.

Thường xuyên bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, công chức để trở thành những công chức chuyên nghiệp, thạo việc, công tâm và từng bước hoàn thiện các tiêu chuẩn đối với cán bộ, công chức phù hợp với vị trí việc làm nhằm bảo đảm chất lượng của đội ngũ cán bộ, công chức hiện nay.

Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền là chủ, làm chủ của nhân dân.

Xây dựng nền hành chính nhà nước phải hướng tới giữ vững chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa vì thực hành dân chủ là chiếc chìa khoá vạn năng để giải quyết mọi khó khăn. Chỉ có phát huy dân chủ mới giúp cho cán bộ đề ra nhiều sáng kiến và hăng hái hơn trong công tác. Hơn thế, việc phát huy dân chủ là để phát huy quyền là chủ và làm chủ của nhân dân theo luật định. Do đó, các mục tiêu, giải pháp xây dựng, cải cách và hoàn thiện nền hành chính phải vì lợi ích chính đáng của nhân dân và gắn bó chặt chẽ với quá trình đổi mới và yêu cầu phát triển của đất nước. Tuy nhiên, phát huy dân chủ phải đi đôi với giữ vững trật tự, kỷ cương, được bảo đảm bằng pháp luật và trong khuôn khổ pháp luật, khác hoàn toàn với thứ dân chủ quá trớn, vô chính phủ. Tiếp tục phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện ngày càng tốt hơn quyền làm chủ của nhân dân trong việc quyết định những vấn đề lớn và hệ trọng của đất nước. Tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân theo Hiến pháp năm 2013; gắn quyền công dân với nghĩa vụ và trách nhiệm đối với xã hội. Tăng cường bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức và công dân, kiên quyết xử lý các hành vi vi phạm pháp luật. Thực hiện tốt, có hiệu quả trên thực tế phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”(15).

Xây dựng Luật về đạo đức công vụ và thực hiện nghiêm Luật Cán bộ, công chức.

Khi đề cập đạo đức công vụ, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh đến các chuẩn mực: Cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư; phải có ý thức trách nhiệm cao đối với công việc được giao; có ý chí cầu tiến bộ, luôn luôn phấn đấu trong công việc; chấp hành nghiêm kỷ luật và có tinh thần sáng tạo trong thi hành công vụ; có tinh thần thân ái, hợp tác với đồng nghiệp. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay, chúng ta cần nghiên cứu, xây dựng Luật về đạo đức công vụ. Đây là công cụ để điều chỉnh hành vi đạo đức cho cán bộ, công chức trong quá trình thực thi công vụ, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả của công cuộc cải cách hành chính nhà nước hiện nay và từng bước tiến tới xây dựng nền hành chính chuyên nghiệp, hiện đại.

Đồng thời, trong quá trình cải cách hành chính cần thực hiện nghiêm Luật Cán bộ, công chức; từng bước hiện đại hóa nền công vụ nước nhà, khắc phục những biểu hiện tiêu cực trong nền hành chính, xây dựng bộ máy hành chính thành bộ máy phục vụ, kiến tạo, của dân, do dân, vì dân.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền hành chính nhà nước có giá trị to lớn cả về lý luận và thực tiễn. Từ những tư tưởng chỉ đạo của Người, nền hành chính của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã cùng với dân tộc hoàn thành trách nhiệm lịch sử trong sự nghiệp lãnh đạo cả dân tộc kháng chiến, kiến quốc và xây dựng xã hội mới. Chủ tịch Hồ Chí Minh trở thành người đặt nền móng cho việc xây dựng nền hành chính chuyên nghiệp, liêm chính, hiện đại, hoạt động hiệu lực và hiệu quả. Tư tưởng của Người mãi soi đường cho việc xây dựng nền hành chính nhà nước chuyên nghiệp, liêm chính, hiện đại, phục vụ nhân dân./.

--------------------------

TỔNG BÍ THƯ TRẦN PHÚ VÀ BÀI HỌC VỀ XÂY DỰNG, CHỈNH ĐỐN ĐẢNG TRONG BỐI CẢNH HIỆN NAY

 Tổng Bí thư đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam - đồng chí Trần Phú (quê xã Tùng Ảnh, huyện Đức Thọ, Hà Tĩnh) - đã cống hiến cả cuộc đời cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc. Trong bối cảnh ngày nay, những cống hiến của đồng chí càng có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với công cuộc xây dựng và chỉnh đốn Đảng.

Kỷ niệm 119 năm ngày sinh cố Tổng Bí thư Trần Phú 1/5 (1904-2023).
Tấm gương sáng ngời:
Đồng chí Trần Phú sinh ngày 1/5/1904, quê gốc ở xã Việt Yên, nay là xã Tùng Ảnh, huyện Đức Thọ. Sớm giác ngộ cách mạng, đồng chí Trần Phú đã tham gia nhiều hoạt động tiêu biểu như: tham gia thành lập Hội Phục Việt, sau đổi là Hội Hưng Nam, rồi lại đổi thành Việt Nam Cách mạng Đảng; sang Trung Quốc tham dự lớp huấn luyện chính trị do đồng chí Nguyễn Ái Quốc và Tổng bộ Thanh niên tổ chức; được cử sang Liên Xô học tại Trường Đại học Phương Đông và được kết nạp vào Đảng Cộng sản Bôn-sê-vích Nga; từng bị Tòa án Nam Triều kết án tử hình vắng mặt; được cử vào BCH Trung ương lâm thời và được phân công soạn thảo Luận cương Chính trị.
Tại Hội nghị BCH Trung ương (tháng 10/1930), đồng chí Trần Phú được bầu làm Tổng Bí thư của Đảng, khi mới 26 tuổi. Sau khi bị địch bắt và tra tấn dã man, ngày 6/9/1931, đồng chí Trần Phú trút hơi thở cuối cùng.
Bằng tầm vóc lý luận của mình, đồng chí Trần Phú đã soạn thảo Luận cương chính trị được thông qua tại Hội nghị lần thứ nhất BCH Trung ương Đảng. Đây là thành quả của quá trình dày công học tập, nghiên cứu lý luận chính trị và vốn sống trải nghiệm ở Thái Bình, Nam Định, Hải Phòng, Hà Nội, vùng mỏ Quảng Ninh... Luận cương chính trị của Đảng đã khẳng định 2 nhiệm vụ cơ bản của cách mạng Việt Nam là hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân gắn liền với cách mạng XHCN.
Trong quá trình hoạt động cách mạng, đồng chí Trần Phú thường xuyên quan tâm củng cố tổ chức Đảng, tổ chức quần chúng; chú trọng công tác tuyên truyền, xây dựng Đảng về tư tưởng. Từ đây có thể hiểu vì sao, cuối tháng 12/1930, trên cương vị Tổng Bí thư, đồng chí Trần Phú đã chủ trì Hội nghị Thường vụ Trung ương Đảng bàn việc đẩy mạnh công tác giáo dục lý luận cho đảng viên và đẩy mạnh công tác tuyên truyền.
Tiếp đó, tháng 3/1931, đồng chí chủ trì Hội nghị lần thứ hai BCH Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương để bàn về công tác tổ chức của Đảng, của đoàn thể, đánh dấu sự ra đời của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh.
Kiên định mục tiêu, lý tưởng của Đảng, của dân tộc:
Trong bối cảnh ngày nay, với sự phát triển của công nghệ thông tin, các thế lực thù địch có thêm nhiều phương thức để chống phá Đảng, Nhà nước ta bằng các chiêu bài thâm độc. Thậm chí, chúng xuyên tạc rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã không còn mang bản chất của giai cấp công nhân. Trong khi đó, nếu nhìn từ thời kỳ vận động thành lập Đảng, thời kỳ đồng chí Trần Phú làm Tổng Bí thư cho đến ngày nay, bản chất giai cấp công nhân của Đảng ta là không hề thay đổi.
Đảng ta đại diện cho lợi ích, lý tưởng của giai cấp công nhân và lợi ích của quốc gia - dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ kính yêu và cũng là người thầy của Tổng Bí thư Trần Phú từng khẳng định: Ngoài lợi ích của Nhân dân và của giai cấp công nhân, Đảng ta không có lợi ích nào khác. Đảng ta là kết tinh của giai cấp công nhân và gắn với quần chúng, thể hiện vai trò lãnh đạo, tinh thần phụ trách trước giai cấp và dân tộc.
Sinh thời, Tổng Bí thư Trần Phú rất quan tâm xây dựng Đảng về tổ chức và chú trọng vận động xây dựng các tổ chức quần chúng, xây dựng khối liên minh công nông. Bài học này mãi mãi có ý nghĩa quyết định trong xây dựng Đảng và củng cố hệ thống chính trị, bất luận thời kỳ nào.
Bản chất giai cấp công nhân của Đảng còn thể hiện ở việc Đảng luôn tiên phong trong hoạt động thực tiễn và lý luận. Về hoạt động thực tiễn, có thể thấy rõ ở sự kiên quyết, cách mạng nhất và là động lực của phong trào công nhân.
Tổng Bí thư Trần Phú là tấm gương sáng ngời cho hoạt động thực tiễn đấu tranh cách mạng. Trên tinh thần “tin theo chủ nghĩa cộng sản” (Hồ Chí Minh), Luận cương chính trị của Đảng (tháng 10/1930) do đồng chí Trần Phú soạn thảo tuyên bố: “Đảng là đội tiền phong của vô sản giai cấp lấy chủ nghĩa Các Mác và Lê-nin làm gốc”.
Ngày nay, dù bối cảnh xã hội có nhiều đổi thay, chúng ta vẫn kiên định con đường như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã cụ thể trong bài viết của mình: “Phải luôn luôn kiên định và vững vàng trên nền tảng tư tưởng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin - học thuyết khoa học và cách mạng của giai cấp công nhân và quần chúng lao động. Tính khoa học và cách mạng triệt để của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh là những giá trị bền vững, đã và đang được những người cách mạng theo đuổi và thực hiện”.
“Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”. Nhưng, một bộ phận cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín của Đảng, Nhà nước.
Trước thực trạng này, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII xác định: “Tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, “lợi ích nhóm”, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”. Đặt trong bối cảnh đó, tấm gương sắt son, một lòng một dạ với lý tưởng cộng sản, với Tổ quốc của đồng chí Trần Phú và các bậc tiền bối cách mạng trở thành tấm gương giáo dục, để mỗi cán bộ, đảng viên phải “tự soi, tự sửa”.
Bất chấp các thủ đoạn tra tấn tàn bạo, Tổng Bí thư Trần Phú vẫn quả quyết: “Ta không thể đem công việc của Đảng ta nói cho các người nghe”. Tổng Bí thư đầu tiên của Đảng còn nhắn gửi các đồng chí: “Hãy giữ vững chí khí chiến đấu!”.
Trong bối cảnh ngày nay, chí khí chiến đấu của người cộng sản càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Bởi chỉ có chí khí đó, bằng những biểu hiện sinh động, trong đó bao gồm thực hành đạo đức, mới xây dựng đất nước Việt Nam hùng cường theo con đường XHCN.
Nguồn: Báo Hà Tĩnh