Lương cơ sở tăng từ 1,49 lên 1,8 triệu đồng từ ngày 1/7 kéo các khoản đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp của lao động khối nhà nước tăng theo.
Tăng tiền lương tháng trích đóng bảo hiểm
Theo quy định hiện hành, người lao động trích 8% tiền lương hàng tháng đóng bảo hiểm xã hội (BHXH) bắt buộc. Nếu mức lương cao hơn 20 tháng lương cơ sở thì lương tháng đóng bảo hiểm bắt buộc bằng 20 tháng lương cơ sở, tương đương 36 triệu đồng. Với quy định đóng 8%, tiền lương trích đóng tối đa sẽ tăng từ 2,384 lên 2,88 triệu đồng mỗi tháng.
Tiền đóng bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) mỗi tháng bằng 1% tiền lương làm căn cứ đóng BHXH bắt buộc, nên mức trích tối đa cũng tăng lên 360.000 đồng sau ngày 1/7 thay vì 298.000 đồng như hiện nay.
Tương tự với BHYT, lao động mỗi tháng trích 1,5% tiền lương làm căn cứ đóng BHXH bắt buộc. Nếu lương tháng cao hơn 20 lần mức lương cơ sở, tức 36 triệu đồng trở lên thì tiền trích đóng BHYT sẽ là 540.000 đồng thay vì 447.000 đồng như hiện nay.
Với BHYT hộ gia đình, mức đóng theo quy định hiện hành áp dụng cho người thứ nhất bằng 4,5% lương cơ sở, tương ứng tăng từ 67.050 lên 81.000 đồng mỗi tháng; người thứ hai, thứ ba, thứ tư đóng lần lượt bằng 70%, 60% và 50% mức đóng của người đầu tiên, tương ứng 56.700, 48.600 và 40.500 đồng. Người thứ năm trở đi đóng bằng 40% mức của người thứ nhất, tức 32.400 đồng.
Người đóng BHYT từ đủ 5 năm liên tục trở lên và có số tiền cùng chi trả phí khám chữa trong năm lớn hơn 6 tháng lương cơ sở thì được Quỹ Bảo hiểm y tế thanh toán toàn bộ, mức này sẽ tăng lên 10,8 triệu đồng từ ngày 1/7 so với 8,94 triệu như hiện nay.
Mức hưởng trợ cấp, phụ cấp tăng
Theo nguyên tắc đóng - hưởng của bảo hiểm xã hội, một số loại trợ cấp, phụ cấp của lao động làm việc trong cơ quan, doanh nghiệp nhà nước sẽ tăng.
Cụ thể, lao động nữ khi sinh con hoặc nhận con nuôi (dưới 6 tháng tuổi) được nhận trợ cấp một lần cho mỗi con bằng 2 lần mức lương cơ sở. Trường hợp sinh con nhưng chỉ có cha tham gia BHXH thì người cha được nhận trợ cấp. Từ ngày 1/7, mức này tăng từ 2,98 lên 3,6 triệu đồng.
Mức trợ cấp mỗi ngày cho lao động sau ốm đau phải dưỡng sức, phục hồi; người sau điều trị thương tật; lao động nữ phải phục hồi sau thai sản theo quy định bằng 30% mức lương cơ sở, tương đương 540.000 đồng, thay vì 447.000 đồng như hiện nay. Riêng với người suy giảm khả năng lao động 31% trở lên, nếu sau đó bị suy giảm thêm thì cứ 1% được hưởng thêm 2% lương cơ sở, tức 36.000 đồng.
Người bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, suy giảm 5% khả năng lao động hưởng trợ cấp một lần bằng 5 lần mức lương cơ sở, sau đó cứ suy giảm thêm 1% thì hưởng thêm 0,5 lần lương cơ sở. Mức trợ cấp này sau ngày 1/7 sẽ tăng từ 7,45 triệu lên 9 triệu đồng; sau đó nếu lao động bị suy giảm thêm 1% thì được hưởng thêm 900.000 đồng.
Người suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên mà liệt cột sống, liệt chi hoặc bị tâm thần, ngoài trợ cấp hàng tháng được hưởng trợ cấp phục vụ bằng với lương cơ sở. Mức này sẽ từ 1,49 lên 1,8 triệu đồng khi lương cơ sở tăng.
Người tử vong do tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp hoặc qua đời trong thời gian điều trị mà chưa được giám định thì thân nhân được hưởng trợ cấp một lần bằng 36 lần lương cơ sở, tức 64,8 triệu đồng từ 1/7 (hiện nay là 53,64 triệu).
Trợ cấp mai táng theo quy định bằng 10 lần mức lương cơ sở tại tháng mà lao động tử vong, tương đương 18 triệu đồng. Tiền tuất hàng tháng với mỗi thân nhân đủ điều kiện hưởng bằng 50% mức lương cơ sở, lên 900.000 đồng mỗi tháng so với 745.000 đồng như hiện nay. Trường hợp thân nhân không có người trực tiếp nuôi dưỡng thì trợ cấp tuất bằng 70% lương cơ sở, tức 1,26 triệu đồng so với 1,043 triệu đồng như hiện nay.
Mức lương cơ sở được áp dụng đối với cán bộ, công chức, viên chức, người hưởng lương, phụ cấp và người lao động làm việc trong các cơ quan, tổ chức, đơn vị sự nghiệp của Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội được ngân sách nhà nước hỗ trợ kinh phí hoạt động ở trung ương, ở cấp tỉnh, huyện, xã, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt và lực lượng vũ trang. Lương cơ sở cũng được dùng làm căn cứ để điều chỉnh lương hưu.
Mức lương này không áp dụng với lao động trong doanh nghiệp. Nhóm này sẽ hưởng lương tối thiểu vùng.
Bộ Tài chính đề xuất ba nguồn để các bộ, cơ quan trung ương tăng lương cơ sở năm 2023, trong đó có số tiền thu được để lại và tiết kiệm chi thường xuyên.
Dự thảo Thông tư hướng dẫn xác định nhu cầu, nguồn điều chỉnh mức lương cơ sở đối với cán bộ, công chức, viên chức năm 2023 đang được Bộ Tài chính lấy ý kiến nhân dân.
Trong đó, Bộ đề xuất kinh phí tăng lương cơ sở năm 2023 của các bộ, cơ quan trung ương từ nguồn cải cách tiền lương năm 2022 chưa sử dụng hết chuyển sang năm 2023 (nếu có).
Hai là các đơn vị sử dụng tối thiểu 40% số thu được để lại theo chế độ năm 2023; số thu từ khám chữa bệnh, y tế dự phòng và dịch vụ y tế khác của bệnh viện công lập thì sử dụng tối thiểu 35%.
Nguồn thứ ba là sử dụng nguồn tiết kiệm 10% chi thường xuyên dự toán năm 2023 tăng thêm so với dự toán năm 2022 được cấp có thẩm quyền giao.
Bộ Tài chính đề xuất nguồn kinh phí để tăng lương cơ sở và điều chỉnh trợ cấp cán bộ xã đã nghỉ việc của các tỉnh, thành từ nguồn tiết kiệm 10% chi thường xuyên dự toán năm 2023 đã được cấp có thẩm quyền giao.
Các địa phương có thể sử dụng nguồn 70% tăng thu ngân sách năm 2022 so với dự toán được Thủ tướng giao, không bao gồm tăng thu từ tiền sử dụng đất; xổ số kiến thiết; thu tiền bảo vệ và phát triển đất trồng lúa; phí tham quan các khu di tích, di sản thế giới; phí sử dụng công trình kết cấu hạ tầng, công trình dịch vụ, tiện ích công cộng trong khu vực cửa khẩu; phí bảo vệ môi trường đối với khai thác khoáng sản; thu từ quỹ đất công ích, thu hoa lợi, công sản tại xã.
Các nguồn khác có thể sử dụng là kinh phí cải cách tiền lương năm 2022 chưa sử dụng hết chuyển sang nếu có; hoặc sử dụng tối thiểu 40% số thu được để lại năm 2023 (số thu từ khám chữa bệnh, y tế dự phòng và dịch vụ y tế khác của bệnh viện công lập sử dụng tối thiểu 35%).
Theo dự thảo, ngân sách trung ương sẽ hỗ trợ nhu cầu điều chỉnh tiền lương tăng thêm cho các bộ, cơ quan trung ương và địa phương ngân sách khó khăn sau khi đã cân đối các nguồn nêu trên mà chưa đáp ứng đủ nhu cầu tăng lương cơ sở.
Lương cơ sở dùng làm căn cứ tính lương trong các bảng lương, phụ cấp, sinh hoạt phí, bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, lương hưu. Tháng 11/2022, Quốc hội đồng ý tăng lương cơ sở cho cán bộ, công chức, viên chức từ 1,49 triệu đồng lên 1,8 triệu đồng một tháng (tăng 20,8%) từ 1/7/2023.
Cùng với đó, lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội, người nghỉ hưu trước năm 1995 cũng tăng 12,5% và tăng 20,8% chi các chính sách an sinh xã hội đang gắn với lương cơ sở. Tổng chi cho cải cách tiền lương và điều chỉnh lương hưu, một số chế độ trợ cấp, phụ cấp, và chính sách an sinh xã hội là 12.500 tỷ đồng.
Cán bộ có từ 2/3 tổng số đại biểu trở lên đánh giá "tín nhiệm thấp" thì cơ quan có thẩm quyền có thể trình Quốc hội, HĐND miễn nhiệm tại kỳ họp gần nhất.
Ban Công tác đại biểu (Ủy ban Thường vụ Quốc hội) đang lấy ý kiến dự thảo Nghị quyết về lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội, HĐND bầu hoặc phê chuẩn, dự kiến trình Quốc hội xem xét, quyết định tại kỳ họp thứ 5, khai mạc ngày 22/5.
Theo dự thảo, Quốc hội lấy phiếu tín nhiệm (thực hiện quyền giám sát, đánh giá mức độ tín nhiệm) đối với người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn, gồm: Chủ tịch nước, Thủ tướng, Chủ tịch Quốc hội, Chánh án TAND tối cao, Viện trưởng VKSND tối cao, Phó chủ tịch nước, Phó chủ tịch Quốc hội, Ủy viên Thường vụ Quốc hội, Tổng kiểm toán Nhà nước. Các chức danh Quốc hội phê chuẩn gồm: Phó thủ tướng, bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ.
HĐND lấy phiếu tín nhiệm đối với chủ tịch, phó chủ tịch, trưởng ban của HĐND; chủ tịch, phó chủ tịch, các ủy viên UBND. HĐND tổ chức lấy phiếu tín nhiệm một lần trong mỗi nhiệm kỳ vào kỳ họp thường lệ cuối năm thứ ba của nhiệm kỳ.
Việc lấy phiếu tín nhiệm bằng hình thức bỏ phiếu kín. Trên phiếu ghi rõ họ tên, chức vụ của những người được lấy phiếu tín nhiệm với các mức độ "tín nhiệm cao", "tín nhiệm", "tín nhiệm thấp".
Người có quá nửa đến dưới 2/3 tổng số đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND đánh giá "tín nhiệm thấp" thì có thể xin từ chức, hoặc Quốc hội, HĐND bỏ phiếu tín nhiệm tại kỳ họp gần nhất. Người được lấy phiếu tín nhiệm có từ 2/3 tổng số đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND trở lên đánh giá "tín nhiệm thấp" thì cơ quan có thẩm quyền trình Quốc hội, HĐND miễn nhiệm tại kỳ họp gần nhất.
Với trường hợp bỏ phiếu tín nhiệm (thể hiện sự tín nhiệm hoặc không đối với người giữ chức vụ), Ủy ban Thường vụ Quốc hội trình Quốc hội bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn trong trường hợp: Ủy ban Thường vụ Quốc hội tự mình đề nghị; có kiến nghị của Hội đồng Dân tộc hoặc ủy ban của Quốc hội; có kiến nghị của ít nhất 20% tổng số đại biểu Quốc hội; người được lấy phiếu tín nhiệm có quá nửa đến dưới 2/3 tổng số đại biểu Quốc hội trở lên đánh giá "tín nhiệm thấp".
Với HĐND, Thường trực HĐND bỏ phiếu đối với trường hợp: Có kiến nghị của ít nhất 1/3 tổng số đại biểu HĐND; có kiến nghị của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc cùng cấp; người được lấy phiếu tín nhiệm có quá nửa đến dưới 2/3 tổng số đại biểu HĐND trở lên đánh giá "tín nhiệm thấp".
Theo dự thảo nghị quyết, người được bỏ phiếu tín nhiệm có quá nửa tổng số đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND đánh giá "không tín nhiệm" thì xin từ chức. Trường hợp không từ chức, cơ quan hoặc người có thẩm quyền giới thiệu người đó để Quốc hội, HĐND bầu hoặc phê chuẩn có trách nhiệm trình Quốc hội, HĐND xem xét, quyết định việc miễn nhiệm hoặc phê chuẩn đề nghị miễn nhiệm đối với người đó tại kỳ họp gần nhất.
Việc đánh giá mức độ tín nhiệm dựa trên phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, việc chấp hành Hiến pháp và pháp luật của cán bộ; thông qua việc chấp hành sự phân công của tổ chức, khả năng quy tụ, đoàn kết nội bộ và xử lý những vấn đề khó, phức tạp, nhạy cảm; kết quả thực hiện quy định về đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; sự gương mẫu của bản thân và vợ, chồng, con trong việc chấp hành chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Ngoài ra, mức độ tín nhiệm còn được đánh giá dựa trên kết quả công tác của cơ quan trong lĩnh vực, phạm vi phụ trách; tính năng động, đổi mới, sáng tạo, quyết đoán, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm; hiệu quả thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao; mức độ hoàn thành nhiệm vụ của đơn vị trực thuộc.
Kết quả lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm được công khai trên phương tiện thông tin đại chúng để cử tri và nhân dân biết.
Việc xây dựng Nghị quyết này nhằm thể chế hóa Quy định 96/2023 của Bộ Chính trị. Theo đó, người có trên 1/2 nhưng dưới 2/3 số phiếu tín nhiệm thấp sẽ bị đưa ra khỏi quy hoạch chức vụ cao hơn; xem xét cho thôi giữ các chức vụ đang đảm nhiệm, bố trí công tác khác; cho từ chức; hoặc sẽ bỏ phiếu tín nhiệm.
Người có từ 2/3 số phiếu tín nhiệm thấp sẽ bị miễn nhiệm chức vụ đang đảm nhiệm và bố trí công tác khác thấp hơn mà không chờ đến hết nhiệm kỳ hoặc thời hạn bổ nhiệm. Như vậy, kết quả lấy phiếu tín nhiệm được dùng để đánh giá cán bộ, chứ không phải chỉ để "tham khảo trong đánh giá" như trước đây.
Quốc hội từng lấy phiếu tín nhiệm ba lần vào tháng 6/2013, tháng 11/2014 và tháng 10/2018, bằng cách bỏ phiếu kín với ba mức độ tín nhiệm cao, tín nhiệm, tín nhiệm thấp. Trong cả ba lần, không có ai bị trên 50% tín nhiệm thấp.
Trước, trong và sau mỗi phiên tòa xét xử các
đối tượng phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia, chống phá Nhà nước thì những màn
kịch kêu oan, khóc mướn, “tẩy trắng” tội danh lại được dịp “bung nở” trên một
số hội nhóm truyền thông, mạng xã hội. Đây là những chiêu trò quen thuộc
của những tổ chức, cá nhân chống phá đội lốt “dân chủ”, “nhân quyền” và các
hãng truyền thông thù địch hoặc thiếu thiện chí với Việt Nam.
Màn kịch kêu oan, khóc mướn, “tẩy trắng” tội danh được các thế lực thù
địch, phản động, cơ hội chính trị diễn đi diễn lại nhiều lần theo cách rập
khuôn cùng chung kịch bản, chỉ khác là thay tên đối tượng, thời điểm cùng những
hành vi liên quan. Người được các đối tượng rêu rao “dân chủ”, “nhân quyền”
xướng tên lần này là Nguyễn Lân Thắng.
Trong phiên xét xử kín sáng 12/4 vừa qua, cáo trạng của VKSND Hà Nội
nêu rõ, từ ngày 13/6/2018 đến 31/12/2020, bị cáo Thắng trực tiếp tham gia trả
lời phỏng vấn các trang mạng và được đăng tải lên Internet 12 video tuyên
truyền thông tin, tài liệu nhằm chống Nhà nước. Trong đó có 11 nội dung tuyên
truyền thông tin xuyên tạc đường lối, chính sách của Nhà nước, phỉ báng chính
quyền nhân dân; 8 nội dung tuyên truyền luận điệu chiến tranh tâm lý, phao tin
bịa đặt; 4 nội dung xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của tổ chức, danh dự
và nhân phẩm của cá nhân...
Đối chiếu theo Điều 117, Bộ luật Hình sự (tội “Làm, tàng trữ, phát tán
hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hòa
XHCN Việt Nam”), người nào có một trong những hành vi sau nhằm chống Nhà nước
sẽ bị phạt tù 5-12 năm: Làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin,
tài liệu, vật phẩm có nội dung xuyên tạc, phỉ báng chính quyền nhân dân hoặc có
nội dung bịa đặt, gây hoang mang trong nhân dân hoặc gây chiến tranh tâm lý.
Căn cứ hành vi, tính chất phạm tội của bị cáo, TAND Hà Nội tuyên phạt bị cáo
Nguyễn Lân Thắng 6 năm tù về tội danh trên. Ngoài án tù, theo phán quyết của
tòa, bị cáo Thắng bị quản thúc 2 năm sau khi chấp hành xong hình phạt.
Sau khi Nguyễn Lân Thắng bị tuyên phạt bản án nêu trên, trên nhiều
trang mạng của các tổ chức, cá nhân chống phá, số báo, đài định kiến với Việt
Nam đã đánh tráo bản chất, hướng lái vụ án theo chiều hướng tiêu cực. Trên
trang mạng xã hội facebook Việt Tân, BBC, Đài Á châu tự do, VOA, Chân trời mới
Media… dùng các từ mĩ miều để tung hô, tán dương Nguyễn Lân Thắng là “nhà yêu nước”,
ca ngợi Thắng là “người sống có lý tưởng cao đẹp”. Tổ chức Ân xá quốc tế xuyên
tạc việc xét xử là “Việt Nam đang làm xấu vị trí trong Hội đồng nhân quyền”.
Các thế lực thù địch đã tạo nên làn sóng phản đối nhằm tẩy chay phiên tòa, “tẩy
trắng” tội danh cho các đối tượng, đưa ra yêu cầu phi lý khi đòi “thả tự do”
cho Nguyễn Lân Thắng.
Thủ đoạn tiến hành theo kiểu “mưa dầm thấm lâu”, thẩm thấu từ từ, nếu
không có cách nhìn nhận, xem xét thấu đáo sẽ dễ sa vào màn kịch giả tạo do họ
tạo ra. Tuy nhiên, trên thực tế dù các đối tượng đã giở đủ trò, rêu rao, lu
loa, “khóc mướn” trên các trang mạng xã hội để chính trị hóa vụ án với hy vọng
tìm kiếm sự đồng tình của dư luận, can thiệp từ bên ngoài song không đem lại
kết quả như mong muốn bởi không thể đánh tráo bản chất vụ án. Do đó, chiêu trò
này thành ra chỉ là những màn tấu hài lố bịch, tung hứng kệch cỡm.
Các tổ chức, cá nhân thù địch, phản động đã khai thác, giật dây, lợi
dụng, tiêu khiển số đối tượng trên như những con rối nhằm phục vụ cho những mưu
đồ chính trị của họ. Khi những con rối đứng trước vành móng ngựa, phải nhận
những bản án nghiêm khắc của pháp luật thì họ lại “thổi lửa”, “ném đá” phiên
tòa, diễn màn kịch khóc thuê, kêu oan, để bao biện “tẩy trắng” tội danh.
Thực tế từ trước đến nay, các tổ chức phản động, cơ hội chính trị, các
nhà dân chủ giả hiệu, số báo, đài hải ngoại thù địch hoặc thiếu thiện chí với
Việt Nam vẫn đưa ra luận điệu đả phá theo kiểu “bình mới rượu cũ”. Các thế lực
thù địch cố tình bôi đen, xuyên tạc, vu cáo Việt Nam “vi phạm dân chủ, nhân
quyền”; đánh lạc hướng, lôi kéo dư luận vào những màn kịch giả tạo do chính họ
dàn dựng. Lợi dụng quá trình xét xử, tuyên án nhằm tuyên truyền xuyên tạc, bôi
nhọ ngành tư pháp và chế độ; kêu gọi một số chính phủ, tổ chức quốc tế can
thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam; sâu xa hơn nhằm lật đổ chế độ ở nước
ta. Xét đến cùng, đây là một chiêu trò chống phá nguy hiểm trong tổng thể chiến
lược “diễn biến hoà bình” nhằm chống phá cách mạng Việt Nam.
Hơn mười năm qua, cái tên Nguyễn Lân Thắng không còn xa lạ với cộng
đồng mạng. Thắng tự phong cho mình là nhà đấu tranh, hoạt động dân chủ nhưng từ
lời nói cho đến hành động đều bộc lộ rõ thái độ bất mãn, hằn học, kích động
chống phá Đảng, Nhà nước, bôi nhọ, xúc phạm tổ chức, cá nhân… Mặc dù đã được cơ
quan chức năng nhiều lần giáo dục, nhắc nhở, khuyên răn song Thắng vẫn nuôi tư
tưởng, hành vi sai trái. Thế nên khi nghe tin Nguyễn Lân Thắng bị bắt, dư luận
cho rằng đó là kết cục đã được dự báo trước.
Quá trình tạm giam, xét xử đối với Nguyễn Lân Thắng, quyền của bị cáo
được bảo đảm theo quy định pháp luật. Bản án dành cho Nguyễn Lân Thắng đã được
hội đồng xét xử xem xét, đánh giá thấu đáo. Vì vậy, màn kịch tung hô, kêu oan,
“tẩy trắng” tội danh cho bị cáo Thắng mà các thế lực thù địch, phản động, cơ
hội, số tổ chức, cá nhân định kiến đã và đang làm là kệch cỡm.
Quyền dân chủ, tự do ngôn luận là những quyền cơ bản của con người.
Song không thể sử dụng các quyền này để chống phá thể chế chính trị, có hành vi
trái với lợi ích quốc gia, dân tộc cũng như không thể sử dụng quyền này để bôi
nhọ danh dự, nhân phẩm của tổ chức, cá nhân. Điều này đã được quy định rõ trong
các công ước, thông lệ, luật pháp quốc tế. Đối với Việt Nam, hệ thống pháp
luật, nền tư pháp đều được xây dựng trên cơ sở nguyện vọng, ý chí của nhân dân,
vì nhân dân, phục vụ nhân dân. Pháp luật Việt Nam được xây dựng phù hợp với các
quy định của pháp luật quốc tế và yêu cầu thực tiễn nhằm bảo đảm cho sự phát
triển tự do, toàn diện của nhân dân, góp phần xây dựng và duy trì xã hội trật
tự, ổn định, ngăn chặn các tổ chức và cá nhân lợi dụng quyền tự do, dân chủ để
xâm phạm lợi ích Nhà nước, xã hội, quyền con người.
Ở Việt Nam, Nhà nước luôn đặt quyền tự do dân chủ của công dân lên
hàng đầu, được quy định rõ trong Hiến pháp và các quy định của pháp luật. Thực
tế chứng minh, công dân Việt Nam có đầy đủ các quyền như tự do ngôn luận, tự do
báo chí, tự do tín ngưỡng, tôn giáo, tự do lập hội, quyền khiếu nại, tố cáo… và
được Nhà nước tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm việc thực hiện các quyền đó.
Bất kỳ ai tự cho mình có quyền tự do tuyệt đối, bất chấp tất cả để bán
rẻ lương tri, phản bội Tổ quốc, nhân dân, làm con rối, quân cờ cho các thế lực
thù địch để chống phá Đảng, Nhà nước thì đều phải chấp hành những bản án nghiêm
minh của pháp luật. Cùng với đó, pháp luật Việt Nam mang tính nhân văn, nhân
đạo, tạo cơ hội cho người mắc sai lầm, vi phạm có cơ hội cải tạo, biết “quay
đầu là bờ”, trở thành công dân có ích cho xã hội./.
Đây là Đại tá tình báo, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, phi công Nguyễn Thành Trung (Đinh Khắc Chung, quê xã An Khánh, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre).
Ông là người đã lái máy bay F-5E ném bom vào Dinh Độc Lập vào ngày 08/4/1975 và dẫn đầu phi đội A-37 ném bom sân bay Tân Sơn Nhất khi ông đang trong quân phục của Không lực nguỵ quyền.
Cùng với các đồng chí Phạm xuân Ẩn, Vũ ngọc Nhạ, Anh hùng LLVT Nguyễn Thành Trung là điệp viên nằm lâu nhất trong lòng địch cho đến ngày ném bom vào Dinh Độc lập. Cựu Đại tá, AHLLVTND, Phi công Nguyễn Thành Trung là con của Bí thư huyện ủy Châu Thành Đinh Văn Dậu (còn gọi là Tư Dậu), hoạt động cách mạng cùng thời kỳ với bà Nguyễn Thị Định. Ông được sinh ra trong một gia đình cách mạng lọt vào hoạt động trong hàng ngũ địch; Cấp trên chỉ đạo Nguyễn Thành Trung thi tuyển vào ngành không quân của Không lực nguỵ quyền lúc bấy giờ.
Cũng giống như các cuộc sát hạch tuyển phi công quân sự khác, Nguyễn Thành Trung phải trải qua vòng tuyển lựa gắt gao về thể lực, tiếng Anh, trình độ văn hóa… Mọi yêu cầu ông đều vượt qua dễ dàng.
Ngày 01/6/1969, Nguyễn Thành Trung nhận được giấy báo trình diện nhập ngũ. Trước đó một ngày, ngày 31/5, Nguyễn Thành Trung nhận chỉ thị của Ban Binh vận khu 8, quyết định kết nạp ông vào Đảng Lao động Việt Nam.
Sau hơn một năm huấn luyện tại Nha Trang, Nguyễn Thành Trung được đưa đi đào tạo phi công ở các căn cứ Hoa Kỳ tại các bang Texas, Louisiana và Mississippi.
Ông học rất giỏi và được xếp thứ 2 trong tổng số 40 học viên của khóa. Trong thời gian học bên Mỹ, mọi liên lạc của Nguyễn Thành Trung với tổ chức Đảng vẫn diễn ra thông suốt và thường xuyên bằng những cánh thư tay, ngắn gọn, súc tích nhưng đầy đủ thông tin.
Ngày 8/4/1975, tổ chức của ta quyết định để Nguyễn Thành Trung thực hiện việc ném bom vào Dinh Độc Lập. Quyết định nằm ngoài dự kiến vì tình hình hoạt động bí mật của Nguyễn Thành Trung đang có nguy cơ bị lộ do một cán bộ của ta bị địch bắt và khai ra.
Tất cả các tình báo của ta hoạt động ở cơ sở pháo binh của địch đều đã bị bắt. Cán bộ này cũng khai luôn việc có biết một tình báo của ta hoạt động bên không quân, mặc dù không biết tên nhưng có một chi tiết rất quan trọng là phi công đó người Bến Tre.
Ông nhận được lệnh từ Bí thư Trung ương Cục miền Nam Phạm Hùng: "Nếu chạy bộ thì phải chạy vào rừng, còn nếu đánh cắp được máy bay thì phải bay ra Lộc Ninh, nhảy dù xuống để máy bay tự rơi và anh em sẽ đón. Nhưng đó là phương án cuối cùng mà tất cả mọi phương án đã chuẩn bị đều không thực hiện được".
8 giờ sáng ngày 8-4-1975, Nguyễn Thành Trung nhận được lệnh xuất kích từ sân bay Biên Hòa, lái máy bay F5-E ném bom ở Phan Thiết. Nguyễn Thành Trung đã suy nghĩ rất nhiều, vì đây là cơ hội tốt làm tròn nhiệm vụ tuyệt mật mà Đảng và nhân dân tin tưởng giao phó, nhưng làm được là rất khó khăn. Khi đang bay thì không thể tách rời phi đội. Một mình cũng không thể lấy máy bay trong căn cứ với cả một ê kíp phục vụ, khởi động rồi lái ra đường băng để cất cánh.
Theo quy định, máy bay sau phải cất cánh theo máy bay trước 5 giây và tối đa là 10 giây. Nguyễn Thành trung đã quyết định dùng 10 giây quý giá để đánh lạc hướng phi tuần trưởng, đài quan sát mặt đất.
Quy định của hàng không quân sự, khi chuẩn bị cất cánh cũng như khi bay, phi đội không trao đổi với nhau qua máy vô tuyến điện mà chỉ được ra hiệu bằng tay điều muốn nói.
Chỉ riêng phi tuần trưởng mới được trao đổi với đài chỉ huy mặt đất. Đây chính là lỗ hổng mà ông thừa thông minh để khai thác, tạo ra sự hiểu lầm giữa phi tuần trưởng và đài chỉ huy.
Khi hai chiếc máy bay số 1 và số 3 đã cất cánh, thay vì phải ở lại theo lệnh của phi tuần trưởng, Nguyễn Thành Trung chờ đúng giây thứ 10 và ông cất cánh bay lên, nhưng thay vì nhập đội ông đã bay ngược về Sài Gòn, tiến đánh vào Dinh Độc Lập. Cú lừa ngoạn mục và bất ngờ đến mức khi ông đã thực hiện xong việc ném bom, 2 phi công bay cùng và đài chỉ huy mặt đất vẫn còn chưa biết gì.
Máy bay F5-E mang theo 4 quả bom, mỗi quả nặng 500 pound (1 pound = 0,45359237kg) và việc cho nổ hay không là quyết định của phi công. Nguyễn Thành Trung biết rằng, trong dinh thự to lớn này sẽ có rất nhiều người vô tội đang ở đó nên ông quyết định không cho bom nổ hết trong dinh và thầm vái trời không có ai bị thương vong.
Sau này, ngày 2-5-1975, Nguyễn Thành Trung quay lại dinh và biết chính xác không có ai bị chết mà chỉ có 1 người bị thương nhẹ, ông thở phào.
Mục đích lớn nhất của việc làm này chỉ là để đánh động vào cơ quan đầu não của địch, nên hai quả bom đầu tiên Nguyễn Thành Trung cho phát nổ ở ngoài sân, hai quả cuối cùng ông cho nổ một trong dinh và một quả không cho nổ.
Hoàn thành nhiệm vụ ném bom vào Dinh Độc Lập và kho xăng Nhà Bè, Nguyễn Thành Trung còn một nhiệm vụ quan trọng khó khăn nữa là phải hạ cánh an toàn xuống sân bay Phước Long.
Máy bay F5-E là loại máy bay chiến đấu tối tân nhất của Mỹ, đòi hỏi đường bay cất và hạ cánh tối thiểu 3.000m, nhưng sân bay dã chiến Phước Long lúc này chỉ có đường băng 1.000m và rất gồ ghề. Để chuẩn bị cho giây phút này, trước đó Nguyễn Thành Trung đã thử hạ cánh trong khoảng cách 1.000m trong lúc đang tập.
Cuộc thử nghiệm đã được tính toán rất kỹ nhưng không thành công và kết quả là máy bay sụp càng, nổ lốp nhưng nó giúp ông rút ra bài học là ít nhất máy bay có thể dừng lại được, nhờ bật dù hãm ở phía đuôi máy bay với tốc độ hợp lý. Sau sự cố này, Nguyễn Thành Trung bị kỷ luật, hạ lon từ Đại úy xuống Trung úy, phạt 50 điểm tiêu cực.
Nguyễn Thành Trung không bao giờ quên phút giây hạ cánh an toàn xuống sân bay dã chiến Phước Long. Qua cả ngàn giờ bay nhưng có lẽ đây mới là những giờ bay hạnh phúc nhất của đời ông.
Nguyễn Thành Trung lúc đó vừa tròn 28 tuổi, mang quân hàm Trung úy Không quân của nguỵ quyền. Trở về với cách mạng, ông được phong quân hàm Đại úy quân Giải phóng, tiếp tục thực hiện sứ mệnh cao cả trên bầu trời.
Ông là người Việt Nam đầu tiên lái máy bay Boeing 767 và 777 và là phi công dày dạn kinh nghiệm nhất của Việt Nam với hơn 35 năm kinh nghiệm và hơn 22000 giờ bay.
Thời gian quan, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị lợi dụng việc các cơ quan tiến hành tố tụng khởi tố, truy tố, xét xử các vụ án tham nhũng, tiêu cực nghiêm trọng để tung ra luận điệu sai trái, xuyên tạc trên các phương tiện truyền thông xã hội.
Đặc biệt gần đây, khi cơ quan tiến hành tố tụng điều tra, làm rõ những vụ án lớn như vụ án xảy ra tại Cục Lãnh sự Bộ Ngoại giao và một số bộ, ngành, địa phương (còn gọi là vụ án "chuyến bay giải cứu), vụ Việt Á, các đối tượng rêu rao rằng, tham nhũng ở Việt Nam hiện trở thành "hệ thống", bản chất và muốn chống không còn cách nào khác phải thay đổi cơ chế, phải "xóa bỏ chế độ"!
Nhiều bài viết vu cáo rằng, đấu tranh, phòng, chống tham nhũng, xử lý cán bộ, đảng viên là "đấu đá nội bộ, phe cánh", "thanh trừng phe phái" nên "ai đen thì chết"!. Họ cố tình bội đen việc thực hiện công cuộc đấu tranh chống tham nhũng ở nước ta, cho rằng việc bắt bớ nhiều, xử lý nhiều không làm ai run sợ, không hề có tính cảnh tỉnh, răn đe mà ngược lại, việc xử lý nhiều làm cho "tình hình thêm phức tạp, nghiêm trọng"!.
Một số bài viết lại quy kết rằng, cuộc
chiến chống tham nhũng của Đảng đang “làm ảnh hưởng xấu đến kinh tế”. Họ cho
rằng, cuộc chiến chống tham nhũng rộng khắp của Đảng Cộng sản Việt Nam đang
khiến cho nhiều giao dịch kinh tế bị tê liệt, có thể ảnh hưởng đến đầu tư trực
tiếp nước ngoài, giảm xuất khẩu. Suy diễn việc chống tham nhũng làm tê liệt
hoạt động kinh doanh, đặc biệt “nếu việc thực thi pháp luật bị cho là không rõ
ràng và có động cơ chính trị”…
Một số bình luận vu cáo, chiến dịch
chống tham nhũng của Việt Nam làm tê liệt chuỗi cung ứng đầu tư, làm “nhà đầu
tư nước ngoài lo sợ”!. Họ lập luận rằng, chiến dịch chống tham nhũng ở Việt Nam
đã làm tê liệt nhiều giao dịch thông thường trong nước, gây ra tình trạng thiếu
hàng hóa thiết yếu và làm giảm niềm tin của nhà đầu tư vào một trong những nền
kinh tế phát triển nhanh nhất châu Á.
Các cá nhân, tổ chức chống phá Việt Nam
đã chia sẻ những bài viết này lên các trang mạng xã hội, từ đó đi đến quy kết,
xuyên tạc bản chất cuộc chiến chống tham nhũng, hạ uy tín của Việt Nam trên
trường quốc tế, tác động vào tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của người dân, nhất
là đối với các doanh nhân, cán bộ trong bộ máy Nhà nước.
Thực tế, với sự lãnh đạo đúng đắn, sáng
suốt trong cuộc chiến chống tham nhũng của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự vào cuộc
của cả hệ thống chính trị, trong đó có sự ủng hộ của nhân dân, cuộc chiến này
đã có chuyển biến tích cực, rõ rệt và mang lại những thành quả quan trọng.
Đánh giá về nhiệm vụ phòng, chống tham
nhũng, trong cuộc họp của Thường trực Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống
tham nhũng, tiêu cực ngày 18/11/2022, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Trưởng Ban
Chỉ đạo đã nhấn mạnh: “Càng đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu
cực, Đảng của chúng ta càng mạnh lên, càng củng cố, tăng cường niềm tin của
nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ, làm cho bộ máy trong sạch, siết chặt
kỷ luật, kỷ cương, góp phần quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội,
giữ vững ổn định chính trị, tăng cường quốc phòng, an ninh và đối ngoại, đồng
thời bác bỏ luận điệu sai trái của các thế lực xấu, thù địch, chống đối cho
rằng đấu tranh phòng, chống tham nhũng, xử lý cán bộ, đảng viên sai phạm là
"đấu đá nội bộ", "phe cánh", làm "nhụt chí" những
người khác”.
Với luận điệu “chống tham nhũng làm ảnh
hưởng xấu đến kinh tế” là hoàn toàn không có cơ sở. Cần phải nhìn nhận, tham
nhũng tác động trực tiếp đến sự ổn định và phát triển đối với mọi mặt của đời
sống xã hội. Hành vi này gây ra những hậu quả, tác hại to lớn trên các lĩnh vực
như chính trị, kinh tế, văn hóa-xã hội, nhất là đối với kinh tế, tình trạng
tham nhũng gây thất thoát nghiêm trọng tài sản công, bào mòn ngân sách nhà nước
để làm lợi cho một số cá nhân, nhóm người tham nhũng. Tham nhũng còn đe dọa sự
ổn định, an ninh xã hội, xâm hại các thể chế và giá trị dân chủ, các giá trị
đạo đức, công lý. Nếu không kịp thời ngăn chặn, tham nhũng sẽ trở thành mối đe
dọa đặc biệt nghiêm trọng đối với sự phát triển kinh tế xã hội, đe dọa đến tồn
vong của chế độ.
Lợi dụng một số vụ việc tham nhũng, tiêu
cực, suy thoái, biến chất của một bộ phận cán bộ, đảng viên được phát hiện
trong thời gian gần đây, đặc biệt là liên quan đến vụ kit test Việt Á, vụ
“chuyến bay giải cứu”, các cá nhân, tổ chức thù địch đã lấy hiện tượng làm bản
chất, quy chụp rằng toàn bộ đội ngũ cán bộ của Đảng, Nhà nước “đang rơi vào
tình trạng tham nhũng, tiêu cực, suy thoái, thoái hóa, biến chất”. Họ vu cáo
rằng, đó là bản chất, là “căn bệnh nan y, kinh niên” của chế độ độc đảng cầm
quyền.
Trên thực tế, chế độ một đảng lãnh đạo
cầm quyền không phải là nguyên nhân sinh ra tệ nạn tham nhũng, suy thoái, biến
chất trong đội ngũ cán bộ. Tổ chức Minh bạch quốc tế (AI) đã từng cho rằng tham
nhũng là tệ nạn nhức nhối, xảy ra ở nhiều quốc gia trên thế giới, trong số đó,
đa số là các quốc gia thực hiện chế độ đa đảng lãnh đạo, tam quyền phân lập, do
giai cấp tư sản lãnh đạo. Một số quốc gia có biểu hiện nguy hiểm khi tình trạng
tham nhũng đã leo đến tận các nguyên thủ quốc gia như Hàn Quốc, Brazil
Colombia, Malaysia; một số quốc gia thuộc nhóm “nước tham nhũng nghiêm trọng”
đều theo thể chế đa đảng, không do Đảng Cộng sản cầm quyền, lãnh đạo.
Do đó, việc cho rằng, tham nhũng, tiêu
cực, suy thoái, biến chất là “căn bệnh nan y”, chỉ xảy ra ở các quốc gia do
Đảng Cộng sản lãnh đạo hay ở quốc gia do một đảng lãnh đạo, cầm quyền là hoàn
toàn không đúng với thực tế, là sự quy chụp, suy diễn. Âm mưu của chúng là nhằm
gây ra tình trạng nghi ngờ, hoang mang, gây lầm tưởng tham nhũng phức tạp là do
chế độ một đảng lãnh đạo, làm suy giảm niềm tin của nhân dân đối với chế độ.
Đồng thời, thông qua đó, các đối tượng nhằm phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam đối với xã hội, Nhà nước; gây tâm lý hoài nghi, dao động,
thiếu niềm tin, kích động chống phá Đảng, Nhà nước ta.
Để phòng, chống tham nhũng, Chủ tịch Hồ
Chí Minh chỉ rõ, cần phải có sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung, thống nhất của
Đảng và Chính phủ; cần xây dựng kế hoạch, tổ chức thực hiện rộng rãi trong cán
bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân; phải làm cho quần chúng nhân dân khinh
ghét, xa lánh tham ô, lãng phí; kết hợp chặt chẽ giữa “xây” và “chống”; mỗi cán
bộ, đảng viên phải nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân. Đại
hội XIII của Đảng đánh giá: “Tham nhũng, lãng phí trên một số lĩnh vực, địa bàn
vẫn còn nghiêm trọng, phức tạp với những biểu hiện ngày càng tinh vi, gây bức
xúc trong xã hội. Tham nhũng vẫn là một trong những nguy cơ đe dọa của Đảng và
chế độ ta”.
Do đó, việc kiên trì đấu tranh phòng,
chống tham nhũng, tiêu cực là quan điểm nhất quán, xuyên suốt của Đảng ta, xuất
phát từ yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng đặt ra. Điều này cũng xuất phát từ vị thế,
uy tín của Đảng trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, từ đòi hỏi công tác
xây dựng Đảng ta trong sạch, vững mạnh, đủ sức chèo lái con thuyền cách mạng
Việt Nam. Việc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực không làm cho nội bộ
mất đoàn kết, không phải giữa các “phe cánh”, “đấu đá” mà góp phần quan trọng
vào việc thực hiện thắng lợi các Cương lĩnh, Điều lệ của Đảng, nâng cao năng
lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng; tăng cường đoàn kết, gắn bó máu
thịt giữa Đảng với nhân dân. Chống tham nhũng cũng nhằm thúc đẩy kinh tế - xã
hội phát triển; giữ vững ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội; giữ vững,
củng cốniềm tin vững chắc của cán bộ, đảng viên, các tầng lớp nhân dân vào sự
lãnh đạo của Đảng./.
Đổi mới phương thức lãnh đạo, bảo đảm vai trò lãnh đạo của tập thể gắn với phát huy đầy đủ vai trò của người đứng đầu có ý nghĩa rất quan trọng nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức đảng hiện nay.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đến thăm, chúc tết Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Thủ đô Hà Nội_Ảnh: TTXVN
Những hạn chế, thách thức trong đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng gắn với bảo đảm vai trò lãnh đạo của tập thể và phát huy vai trò của người đứng đầu
Phương thức lãnh đạo của Đảng được thể hiện rõ ở vai trò, mối quan hệ lãnh đạo của tập thể và cá nhân người đứng đầu. Tập thể lãnh đạo là cấp ủy, ban cán sự đảng, đảng đoàn (gọi chung là cấp ủy), là cơ quan lãnh đạo giữa hai kỳ đại hội, do đại hội bầu ra hoặc do cấp trên chỉ định; là tổ chức đảng (chi bộ, đảng bộ). Cấp ủy lãnh đạo toàn bộ hoạt động của tổ chức đảng: lãnh đạo công tác xây dựng tổ chức đảng, các tổ chức trong hệ thống chính trị và các lĩnh vực đời sống xã hội trên địa bàn. Người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng là bí thư cấp ủy, bí thư ban cán sự đảng, đảng đoàn, bí thư chi bộ. Người đứng đầu là người chịu trách nhiệm cao nhất trước cấp ủy, cùng cấp ủy chịu trách nhiệm trước tổ chức đảng và nhân dân về những công việc được phân công. Người đứng đầu có vai trò là người lãnh đạo, chủ trì, phối hợp mọi mặt công tác của cấp ủy, tổ chức đảng, đồng thời là người chịu trách nhiệm cao nhất trong tập thể và tổ chức đảng đối với thành công và hạn chế về việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của cơ quan, đơn vị, địa phương. Do đó, người đứng đầu phải có phẩm chất, năng lực và uy tín ngang tầm nhiệm vụ và các tố chất cá nhân: phát huy dân chủ, tập trung trí tuệ, là hạt nhân quy tụ đoàn kết, biết khơi dậy tiềm năng trí tuệ, ý chí quyết tâm của tập thể. Vai trò, thẩm quyền và trách nhiệm của tập thể cấp ủy, tổ chức đảng và người đứng đầu được xác định rõ ràng trong quy chế làm việc của cấp ủy, tổ chức đảng. Cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu hoạt động theo nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách.
Vị trí, vai trò, mối quan hệ của cấp ủy, tổ chức đảng và người đứng đầu được Đảng ta quan tâm lãnh đạo, đổi mới. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng nêu rõ: “Việc đổi mới phong cách, lề lối làm việc của các cơ quan lãnh đạo Đảng từ Trung ương tới cơ sở có bước tiến bộ. Coi trọng việc phát huy vai trò, trách nhiệm của các tổ chức đảng, đảng viên, nhất là người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội”(1). Trong thực tiễn đã xuất hiện nhiều tập thể cấp ủy, tổ chức đảng và người đứng đầu làm tốt vai trò lãnh đạo, chủ động, quyết liệt trong công tác, cải tiến lề lối làm việc, phong cách công tác, thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ trọng tâm, các khâu đột phá, góp phần nâng cao chất lượng lãnh đạo, uy tín của các tổ chức đảng.
Tuy nhiên, bên cạnh những chuyển biến tích cực, việc thực hiện các phương thức lãnh đạo, nhằm bảo đảm vai trò, trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng và phát huy vai trò của người đứng đầu các cấp vẫn còn bộc lộ những hạn chế, khuyết điểm, phát sinh nhiều tình huống khó khăn, thách thức:
Thứ nhất, về bảo đảm vai trò lãnh đạo của tập thể và phát huy đầy đủ vai trò củangười đứng đầu cấp ủy trong xây dựng, tổ chức thực hiện chủ trương, nghị quyết của Đảng.
Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã chỉ rõ: “Việc cụ thể hóa, tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng của một số cấp ủy, tổ chức đảng chưa kịp thời, chưa sát thực tế; công tác lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện một số chủ trương, nghị quyết có nơi, có lúc chưa quyết liệt, còn yếu kém, chậm trễ nhưng chưa xác định rõ trách nhiệm của tập thể, cá nhân, nhất là người đứng đầu”(2). Những hạn chế, khuyết điểm trên có liên quan đến việc bảo đảm vai trò của cấp ủy, tổ chức đảng và vai trò của người đứng đầu, qua một số biểu hiện sau:
Một là, một số cấp ủy, tổ chức đảng buông lỏng vai trò lãnh đạo, chưa thực hiện đầy đủ thẩm quyền, trách nhiệm trong việc ban hành các quyết định, quy định, thiếu sâu sát trong tổ chức thực hiện, kiểm tra, giám sát, để cho cá nhân, người đứng đầu thao túng, lạm dụng, lợi dụng quyền lực để đưa ra những quyết định, quy định trái với đường lối, chủ trương, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Ngược lại, một số cấp ủy, tổ chức đảng mất đoàn kết, thiếu thống nhất, chia rẽ nội bộ, cản trở người đứng đầu thực hiện thẩm quyền, trách nhiệm của mình; hoặc do nhận thức chưa đúng thẩm quyền, trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng, nên can thiệp quá sâu, quá cụ thể vào thẩm quyền, trách nhiệm của người đứng đầu, làm cho họ mất chủ động, không dám đổi mới, sáng tạo, quyết liệt hành động, rốt cuộc là cả tập thể lãnh đạo và người đứng đầu đều suy giảm vai trò lãnh đạo, tính chiến đấu.
Hai là, một số người đứng đầu năng lực chưa ngang tầm nhiệm vụ, không đủ uy tín để quy tụ, dẫn dắt tập thể; thiếu bản lĩnh, thiếu quyết đoán, quyết liệt, dựa dẫm tập thể trong thực hiện chức trách; lúng túng trong xử lý tình huống phức tạp, để công việc trì trệ, không đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị của cơ quan, tổ chức, địa phương, đơn vị; quan liêu, thiếu trách nhiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành. Một số người đứng đầu vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, lạm quyền, lộng quyền, độc đoán trong thực hiện chức trách theo quy định; lợi dụng chức quyền để thao túng tổ chức, tạo vây cánh để trục lợi chính sách, thu vén cho lợi ích nhóm, lợi ích cá nhân; “tranh công”, “đổ tội” khi xảy ra sai phạm, không gương mẫu nhận trách nhiệm, đổ lỗi cho hoàn cảnh khách quan, cho cơ chế, cho tập thể và cấp dưới.
Ba là, một số tập thể chưa thể hiện đầy đủ vai trò lãnh đạo, tính chiến đấu, do bệnh nể nang, cơ hội, dĩ hòa vi quý, suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên. Năng lực lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức đảng trong ban hành, tổ chức thực hiện các quyết sách vẫn là khâu yếu, chậm khắc phục, như ban hành nghị quyết nhiều, nhưng hiệu lực, hiệu quả chưa cao; năng lực vận dụng, cụ thể hóa chủ trương, nghị quyết của cấp trên chưa sát hợp với tình hình thực tiễn cơ quan, địa phương, đơn vị...
Thứ hai, về bảo đảm vai trò lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức đảng và người đứng đầu trong công tác tư tưởng, tuyên truyền, vận động, thuyết phục, thực hiện trách nhiệm nêu gương của người đứng đầu.
Tự phê bình và phê bình là quy luật phát triển của Đảng, là phương thức nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng. Tuy nhiên, công tác tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt tư tưởng, sinh hoạt lãnh đạo của một số cấp ủy, tổ chức đảng hiện nay còn một số khuyết điểm, hạn chế. Một số cấp ủy thực hiện không nghiêm, thực hiện một cách hình thức quy định về tự phê bình và phê bình trong kiểm điểm, đánh giá cán bộ; không ít cán bộ, đảng viên còn né tránh, không dám vạch ra khuyết điểm của người đứng đầu, thậm chí còn bao che cán bộ mắc khuyết điểm, làm suy thoái tập thể lãnh đạo, tổ chức đảng.
Một số cấp ủy, tổ chức đảng còn hiện tượng bè phái, chia rẽ, mất đoàn kết, để một số cá nhân lợi dụng tự phê bình và phê bình để đấu đá, làm rối loạn tổ chức, cản trở quyết định đúng đắn của cấp ủy, tổ chức đảng và người đứng đầu. Ngược lại, một số cấp ủy, tổ chức đảng đoàn kết, thống nhất theo kiểu “xuôi chiều”, dễ dãi khi thảo luận, thông qua các quyết định, nên vai trò lãnh đạo, sức chiến đấu của tập thể lãnh đạo vì thế bị lu mờ.
Một số cấp ủy, tổ chức đảng chưa chú trọng công tác tư tưởng, công tác tuyên truyền, vận động, thuyết phục cán bộ, đảng viên và nhân dân trong hoạt động lãnh đạo; chưa thường xuyên giáo dục chính trị, tư tưởng, đường lối, chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước, thiếu quản lý cán bộ, đảng viên, để một bộ phận cán bộ, đảng viên hư hỏng, suy thoái, biến chất. Cán bộ, đảng viên, người đứng đầu trong tổ chức đảng hạn chế về năng lực, thiếu phương pháp khoa học, phong cách lãnh đạo, văn hóa ứng xử trong tuyên truyền, vận động, thuyết phục, làm ảnh hưởng đến vai trò, chất lượng lãnh đạo của tập thể cấp ủy và tổ chức đảng.
Người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng buông lỏng công tác tư tưởng, chưa chú trọng công tác tuyên truyền, vận động, thuyết phục; chưa phát huy dân chủ trong thảo luận, tranh luận, đối thoại, tranh thủ trí tuệ tập thể, không chịu lắng nghe ý kiến của đảng viên và nhân dân. Một số cán bộ, đảng viên, người đứng đầu chưa gương mẫu trong công tác, chưa nêu gương về đạo đức, lối sống, để người nhà, người thân lợi dụng chức quyền của mình để trục lợi, vi phạm đạo đức xã hội và pháp luật của Nhà nước, làm mất niềm tin của nhân dân đối với tổ chức đảng.
Công tác tư tưởng, đề cao trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên và người đứng đầu đang đặt ra những khó khăn, thách thức: 1- Trong sinh hoạt đảng, tự phê bình và phê bình ở không ít cấp ủy, tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên còn hình thức, chất lượng thấp; chủ nghĩa “duy tình”, chủ nghĩa cơ hội chi phối, nên cán bộ, đảng viên không dám nói thẳng, nói thật, nể nang, né tránh, dĩ hòa vi quý, làm cho tổ chức đảng giảm sút tính tiên phong, tính chiến đấu, tính lãnh đạo; 2- Không ít cán bộ lãnh đạo lạm dụng, lợi dụng quyền uy, chức trách để độc đoán, áp đặt ý chí chủ quan, thay vì dùng uy tín, phẩm chất, đạo đức, phong cách công tác, trách nhiệm nêu gương để gây ảnh hưởng đến tổ chức trong lãnh đạo, điều hành; 3- Việc đẩy mạnh học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, gắn với tự phê bình và phê bình theo Nghị quyết, Kết luận Hội nghị Trung ương 4 khóa XI, XII, XIII ở một số cấp ủy, tổ chức đảng còn hình thức, hiệu quả chưa cao; một số cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu thực hiện chưa nghiêm túc, thiếu trung thực, chưa gương mẫu trong khắc phục sai lầm, sửa chữa khuyết điểm.
Thứ ba, bảo đảm vai trò lãnh đạo của tập thể, đồng thời phát huy vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu trong công tác cán bộ.
Đảng ta luôn xác định, công tác cán bộ là công việc gốc của Đảng, khâu “then chốt của then chốt”, rất hệ trọng. Trong thời gian qua, Đảng quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, ban hành nhiều chủ trương, nghị quyết, quy chế, quy định đổi mới, hoàn thiện công tác cán bộ, ngăn chặn suy thoái, tiêu cực, kiểm soát quyền lực, góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp vững mạnh, đáp ứng yêu cầu đổi mới toàn diện đất nước. Tuy nhiên, việc phát huy vai trò lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức đảng và người đứng đầu vẫn còn những hạn chế nhất định. Nhiều trường hợp, cán bộ được quy hoạch, đề bạt, luân chuyển, thay đổi vị trí công tác, nhưng không đủ tiêu chuẩn, điều kiện, thậm chí vi phạm khuyết điểm, suy thoái, tham nhũng, gây dư luận không tốt trong Đảng và nhân dân; có trường hợp thực hiện đúng quy trình, quy định, phiếu tín nhiệm cao, nhưng quá trình công tác bộc lộ nhiều yếu kém về phẩm chất và năng lực, không hoàn thành nhiệm vụ, vi phạm kỷ luật của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Một số cấp ủy, tổ chức đảng buông lỏng lãnh đạo, vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, chưa thực hiện nghiêm túc các quy định, quy chế, quy trình về công tác cán bộ, ban hành những quyết định thiếu chính xác, sai phạm. Ban hành quy chế, quy định về công tác cán bộ, chế độ làm việc của cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền chưa quán triệt đầy đủ, chưa cụ thể hóa sát với yêu cầu, tình hình nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị, địa phương, thiếu chặt chẽ, khi tổ chức thực hiện dễ bị vi phạm.
Một số cán bộ, người đứng đầu lợi dụng quyền hạn của mình để gây ảnh hưởng, chi phối người khác; trao đổi, thỏa hiệp ngầm hoặc công khai gợi ý, định hướng để tập thể thuận theo ý định chủ quan của mình. Một số trường hợp cán bộ chủ chốt, người đứng đầu lợi dụng hạn chế, thiếu sót hoặc cố tình vận dụng sai nghị quyết, quy chế, quy định để hợp thức hóa ý đồ cá nhân của mình, đưa vào quy hoạch, bổ nhiệm, đề bạt, luân chuyển người thân, phe cánh vào những vị trí “đắc địa”. Thậm chí một số trường hợp, người đứng đầu cấp ủy có biểu hiện suy thoái nghiêm trọng, dựa vào quyền thế để dung túng cho cán bộ cấp dưới làm sai, gây bè phái, làm mất đoàn kết nội bộ; tạo điều kiện cho các phần tử cơ hội chạy “quan hệ”, “chạy chức”, “chạy quyền” để thăng tiến, tìm mọi cách “chạy tội”, “chạy án” khi bị phát hiện sai phạm. Đây là biểu hiện hết sức nguy hiểm làm suy thoái cán bộ, suy thoái tổ chức đảng và hệ thống chính trị, gây mất niềm tin trong nhân dân đối với Đảng.
Dù thực hiện đúng quy định, quy chế, quy trình song vẫn để lọt những người không đủ tiêu chuẩn, thậm chí đã mắc khuyết điểm, sai phạm vào trong các cơ quan lãnh đạo của Đảng và hệ thống chính trị; quy định về kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ chưa được thực hiện nghiêm túc, nên vẫn còn cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu lợi dụng chức quyền gây ảnh hưởng tiêu cực đến công tác cán bộ và đội ngũ cán bộ.
Thứ tư, bảo đảm vai trò, thẩm quyền, trách nhiệm của tập thể lãnh đạo và cá nhân người đứng đầu trong công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng.
Công tác kiểm tra, giám sát là nội dung rất quan trọng trong quá trình lãnh đạo của Đảng, là chức năng, phương thức lãnh đạo, nhiệm vụ thường xuyên của Đảng. Thực hiện công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng ở các cấp, các ngành trong thời gian qua đã có nhiều chuyển biến tích cực, rõ nét và đạt những kết quả quan trọng, góp phần ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái, biến chất, đấu tranh phòng, chống tham nhũng trong cán bộ, đảng viên, tổ chức đảng và hệ thống chính trị. Tuy nhiên, sự lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức đảng và phát huy vai trò của người đứng đầu trong công tác kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực còn không ít hạn chế.
Một là, một số cấp ủy, tổ chức đảng buông lỏng công tác kiểm tra, giám sát; chưa chủ động, tích cực lãnh đạo, chỉ đạo công tác kiểm tra, giám sát, để sai phạm, khuyết điểm kéo dài, chậm phát hiện, chậm xử lý. Một số vụ, việc vi phạm kỷ luật của Đảng, pháp luật của Nhà nước, nhưng không phát hiện kịp thời, chỉ khi dư luận của nhân dân, báo chí và cấp trên phát hiện, chỉ ra, mới bị động xử lý, làm mất niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với vai trò, trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng. Một số cấp ủy, tổ chức đảng trong thi hành kỷ luật đối với cán bộ, đảng viên, người đứng đầu vi phạm kỷ luật của Đảng, pháp luật của Nhà nước còn có biểu hiện bao che, né tránh, không dám thẳng thắn chỉ rõ bản chất, tính chất, mức độ nguy hại trong những vi phạm, thậm chí còn nương nhẹ hình thức kỷ luật.
Hai là, chưa thực hiện đầy đủ vai trò, thẩm quyền, chức trách của mình trong việc giám sát, kiểm soát quyền lực, để một số cán bộ chủ chốt, người đứng đầu vi phạm quy định, quy chế làm việc, vượt quá thẩm quyền, lạm quyền, độc đoán trong chỉ đạo, điều hành, ban hành các quyết định vi phạm nguyên tắc, quy định của Đảng, trái với pháp luật của Nhà nước.
Một số cán bộ lãnh đạo chủ chốt, người đứng đầu có biểu hiện buông lỏng, xem nhẹ công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng; chưa chủ động, tích cực chỉ đạo cho cấp ủy, ủy ban kiểm tra thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ, chương trình, kế hoạch đặt ra; khi tiến hành kiểm tra, giám sát thì làm qua loa, chiếu lệ, chủ yếu tìm ưu điểm để tuyên dương, khen thưởng; khi kiểm tra dấu hiệu vi phạm, thi hành kỷ luật thì nể nang, né tránh.
Ba là, một số cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu chưa thể hiện vai trò tiên phong, gương mẫu trong tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất, đạo đức cách mạng, không dám thúc đẩy quyết liệt công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng, e ngại người khác lôi ra sai lầm, khuyết điểm của mình. Điều đó có thể làm mất tác dụng, vô hiệu hóa hoạt động kiểm tra, giám sát, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.
Khó khăn, thách thức đối với thực hiện kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng nổi lên mấy vấn đề: Nhận thức của cấp ủy, người đứng đầu chưa thấu suốt, còn xem nhẹ, chưa chủ động phòng, chống từ sớm, từ xa với những biểu hiện vi phạm, khuyết điểm; khi thi hành kỷ luật đảng thì hữu khuynh, nể nang, e ngại, sợ mất lòng, mất uy tín của tổ chức; vấn đề kiểm soát quyền lực đối với cán bộ giữ các chức vụ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu chưa có cơ chế chặt chẽ, thực hiện chưa nghiêm, nhất là đối với người đứng đầu “nhất thể hóa” hai chức danh lãnh đạo và quản lý...
Nguyên nhân của thực trạng yếu kém, khuyết điểm trong việc thực hiện vai trò lãnh đạo của tập thể và người đứng đầu trong các cấp ủy, tổ chức đảng các cấp hiện nay chủ yếu là do nhận thức, tư tưởng, phẩm chất, năng lực của cán bộ, đảng viên còn hạn chế, bất cập; quy chế, quy định, cơ chế, chính sách, môi trường tổ chức, hoạt động chưa đồng bộ, chưa hoàn thiện; phương thức lãnh đạo của các cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu chưa đổi mới, sáng tạo, thực hiện chưa hiệu quả...
Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng để vừa bảo đảm vai trò lãnh đạo của tập thể, vừa phát huy đầy đủ vai trò của người đứng đầu
Để khắc phục hạn chế, khuyết điểm, hóa giải khó khăn, thách thức, bảo đảm vai trò lãnh đạo của tập thể, phát huy đầy đủ vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu, cần thực hiện một số giải pháp sau:
Thứ nhất, xây dựng đội ngũ người đứng đầu cấp ủy đủ phẩm chất, năng lực, uy tín ngang tầm nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới.
Tăng cường rèn luyện, nâng cao bản lĩnh chính trị kết hợp với bồi dưỡng phẩm chất, đạo đức, lối sống và các tố chất lãnh đạo cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng các cấp. Việc rèn luyện bản lĩnh chính trị, phẩm chất, năng lực cùng với các tố chất của người lãnh đạo, phải kết hợp đào tạo trong trường, lớp với rèn luyện, thử thách trong thực tiễn, phải lấy kết quả hoạt động thực tiễn để đánh giá, lựa chọn để bổ nhiệm cán bộ vào các vị trí phù hợp.
Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Trương Thị Mai chung vui với Đảng bộ, chính quyền và nhân dân tỉnh Gia Lai tại Ngày hội Đại đoàn kết toàn dân tộc ở làng Wâu, xã Chư Á, tỉnh Gia Lai (tháng 11-2022)_Ảnh: TTXVN
Đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện phẩm chất, đạo đức, năng lực, phương pháp công tác, phong cách lãnh đạo gắn với học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, với tự phê bình và phê bình, coi đó là phương thức quan trọng để xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, người đứng đầu có phẩm chất, đạo đức cách mạng, phong cách lãnh đạo, quản lý nói đi đôi với làm, có phương pháp khoa học trong xử lý tình huống phức tạp, khó khăn.
Thứ hai, tiếp tục hoàn thiện, cụ thể hóa, đồng bộ hóa hệ thống nguyên tắc, quy định, quy chế, quy trình về tổ chức và hoạt động của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhằm tạo môi trường, điều kiện thuận lợi để bảo đảm vai trò lãnh đạo của cấp ủy và phát huy đầy đủ vai trò của người đứng đầu, ngăn chặn tình trạng người đứng đầu lợi dụng bất cập trong các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước để trục lợi, chuyên quyền, độc đoán.
Hoàn thiện quy chế, quy định xác định rõ trách nhiệm, quyền hạn của tập thể lãnh đạo trong cơ quan Đảng và Nhà nước với quyền hạn, trách nhiệm của người đứng đầu, để vừa phát huy tốt trí tuệ tập thể, vừa phát huy đầy đủ tính chủ động, đổi mới sáng tạo của người đứng đầu trong việc ban hành và tổ chức thực hiện các quyết định. Phân định rõ giữa chức năng, nhiệm vụ của tổ chức đảng với tổ chức nhà nước; chức năng, nhiệm vụ của các tổ chức đảng ở từng cấp, từng ngành, cơ quan, đơn vị, địa phương. Trên cơ sở đó, phân định rõ thẩm quyền, trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng và người đứng đầu cấp ủy, chính quyền để tránh trường hợp người đứng đầu ỷ lại tập thể, đổ lỗi cho tập thể khi không làm tròn trách nhiệm, hoặc ngược lại lợi dụng tập thể làm “bình phong” để lạm quyền, chuyên quyền, độc đoán.
Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, giám sát để nhanh chóng khắc phục tình trạng một số cấp ủy, tổ chức đảng chưa xây dựng đầy đủ hoặc chưa bám sát vào quy chế, quy định để hoạt động. Tình trạng phổ biến hiện nay ở không ít cấp ủy, tổ chức đảng là sao chép quy chế, quy định của cấp trên, không cụ thể hóa, vận dụng cho sát hợp với đặc điểm, tình hình, nhiệm vụ, nhất là những nhiệm vụ đặc thù, nhạy cảm, phức tạp dễ lạm dụng quyền lực dẫn đến sai phạm ở mỗi cơ quan, tổ chức, địa phương, đơn vị, như công tác cán bộ, quản lý đất đai, tài sản, tài chính công.
Hoàn thiện quy chế, quy định, chính sách, pháp luật, tạo môi trường, điều kiện cho người đứng đầu mạnh dạn đổi mới sáng tạo, nhất là trong những lĩnh vực khó, phức tạp của địa phương, cơ quan, đơn vị; khuyến khích, trọng dụng, bảo vệ những người đứng đầu dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm, hành động quyết liệt vì lợi ích của nhân dân. Người đứng đầu cấp ủy, chính quyền cần quyết đoán, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đương đầu với khó khăn, thử thách, hành động quyết liệt vì lợi ích chung, vì vậy, phải xây dựng môi trường, điều kiện thuận lợi để họ phát huy đầy đủ các tố chất đó, đồng thời tránh rủi ro không mong muốn khi thực hiện nhiệm vụ.
Đẩy mạnh xây dựng, hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực trong Đảng và hệ thống chính trị. Quyền lực không được kiểm soát sẽ dẫn đến tha hóa quyền lực. Người đứng đầu được trao quyền càng lớn thì nguy cơ bị tha hóa càng cao; người đứng đầu không thể được giao quyền mà không chịu trách nhiệm, ngược lại, không thể đòi hỏi trách nhiệm mà không được giao quyền tương ứng. Chủ trương của Đảng là xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm người đứng đầu cấp ủy, chính quyền trong mối quan hệ với tập thể cấp ủy, cơ quan, đơn vị(3), để tạo điều kiện cho cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu có tư duy và cách làm đổi mới, dám đột phá. Do vậy, cần phải xây dựng những quy định, quy chế để cán bộ hoạt động hiệu quả, nhưng được kiểm soát chặt chẽ.
Thứ ba, tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức đảng và người đứng đầu, nhằm bảo đảm vai trò lãnh đạo của tập thể và cá nhân người đứng đầu.
Tập trung khắc phục những khâu yếu trong ban hành, thực hiện nghị quyết của Đảng, nhất là khâu tổ chức thực hiện kém hiệu quả. Đổi mới phương thức lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu trong thực hiện quy trình ban hành, tổ chức thực hiện và đánh giá các chủ trương, nghị quyết. Xây dựng nghị quyết phải bảo đảm tính khoa học, phát huy dân chủ và năng lực trí tuệ của tập thể, đội ngũ chuyên gia, các nhà khoa học, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân. Năng lực, phương thức lãnh đạo của người đứng đầu quyết định chất lượng, hiệu quả của nghị quyết. Trong đánh giá người đứng đầu, phải lấy chất lượng tổ chức thực hiện, hiệu quả kinh tế - xã hội của nghị quyết và vai trò, ảnh hưởng của họ trong lãnh đạo, điều hành cấp ủy, tổ chức đảng làm tiêu chí đánh giá.
Nâng cao chất lượng công tác tư tưởng, tăng cường công tác tuyên truyền, vận động, thuyết phục cán bộ, đảng viên và nhân dân thấm nhuần, thông suốt các chủ trương, nghị quyết của cấp ủy, tổ chức đảng, tạo sự đồng thuận, thống nhất về nhận thức và hành động. Đề cao trách nhiệm nêu gương của cấp ủy, người đứng đầu trong sinh hoạt đảng, sinh hoạt cấp ủy, tự phê bình và phê bình. Nâng cao năng lực lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức đảng, khắc phục những hạn chế về tính đảng, tính chiến đấu, tính lãnh đạo trong sinh hoạt đảng. Cần bổ sung, hoàn thiện quy chế đánh giá cán bộ, đảng viên và người đứng đầu cấp ủy, kịp thời đưa ra khỏi cấp ủy, tổ chức đảng những cán bộ, đảng viên “hữu danh vô thực”, thiếu bản lĩnh, kém năng lực, quan liêu, không gương mẫu, nói không đi đôi với làm, ý thức xây dựng tập thể kém, bè phái, mất đoàn kết.
Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong công tác cán bộ, khắc phục mâu thuẫn bổ nhiệm, đề bạt, luân chuyển cán bộ thì đúng quy định, quy trình, nhưng lại để lọt những cán bộ phẩm chất kém, năng lực, uy tín thấp, thậm chí vi phạm khuyết điểm. Bổ sung, hoàn thiện các quy định, quy chế của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác cán bộ; xây dựng và hoàn thiện cơ chế về kiểm soát quyền lực; tăng cường thẩm quyền, trách nhiệm của người đứng đầu; đề cao trách nhiệm đến cùng của tập thể cấp ủy và người đứng đầu trong các quyết định về công tác cán bộ; cần có quy định về trách nhiệm bày tỏ quan điểm rõ ràng của từng thành viên và người đứng đầu bằng ý kiến trực tiếp và bằng phiếu giới thiệu có ghi danh và được cơ quan có trách nhiệm bảo lưu để xử lý khi cần thiết, nhằm bảo đảm tính khách quan, công bằng, minh bạch trong thực hiện quy trình công tác cán bộ.
Tiếp tục đổi mới hơn công tác đánh giá cán bộ vì đây vẫn là khâu khó và yếu nhất, nhằm bảo đảm lựa chọn đúng cán bộ thực sự có phẩm chất, năng lực, uy tín để bố trí vào các vị trí chủ chốt, người đứng đầu trong các cơ quan đảng, nhà nước. Tăng cường, đổi mới phương thức lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu trong công tác kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực; bổ sung và hoàn thiện quy định về kiểm tra, giám sát, kiểm soát trong nội bộ cấp ủy, tổ chức đảng do công tác kiểm tra, giám sát của cấp ủy và ủy ban kiểm tra đối với cấp ủy viên và người đứng đầu cùng cấp quy định chưa rõ ràng, còn bất cập. Hoàn thiện quy định này có ý nghĩa quan trọng, vì cán bộ, đảng viên của tổ chức đảng và nhân dân là những người có quan hệ trực tiếp, gần gũi, thường xuyên với cấp ủy và người đứng đầu cùng cấp, nên nếu có cơ chế giám sát, kiểm soát, hiệu quả thì những vi phạm, khuyết điểm trong tổ chức đảng mới được phát hiện và xử lý sớm, kịp thời khi chưa trở nên nghiêm trọng./.
----------------------
(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 77 (2) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. II, tr. 168