Thứ Năm, 1 tháng 6, 2023

CHỦ ĐỘNG PHÒNG NGỪA, TÍCH CỰC TIẾN CÔNG TRONG CÔNG TÁC BẢO VỆ AN NINH TƯ TƯỞNG VĂN HÓA

 

Cơ sở khoa học của tư tưởng này xuất phát từ tư tưởng chỉ đạo chiến lược của Đảng và Nhà nước ta trong sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự an toàn xã hội. Bảo vệ an ninh văn hóa, tư tưởng là một nội dung quan trọng trong bảo vệ an ninh quốc gia nên nó cũng cần tuân theo tư tưởng chỉ đạo chung này. Bên cạnh đó, do đặc điểm, tính chất của đối tượng bảo vệ trong công tác bảo vệ an ninh văn hóa tư tưởng là sự ổn định và phát triển của nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa nên công tác bảo vệ an ninh văn hóa, tư tưởng phải nhấn mạnh yêu cầu phòng ngừa, giữ vững bên trong là chính. Vấn đ văn hóa, tư tưởng đều là mục tiêu số một mà các thế lực thù địch và các loại tội phạm tập trung tiến hành các hoạt động phá hoại tiến tới làm thay đổi thể chế chính trị, chế đ kinh tế trong nước. Xử lý những vấn đ về an ninh văn hóa, tư tưởng luôn rất nhạy cảm, dễ bị các phần tử xấu lợi dụng đ vu cáo, xuyên tạc, gây rối, làm mất uy tín chính trị của Đảng và Nhà nước, chính vì vậy yêu cầu giữ vững bên trong là chính được đặt lên hàng đầu.

Thực tiễn công tác bảo vệ an ninh văn hóa, tư tưởng trong những năm qua đã chứng minh tính đúng đắn của tư tưởng chủ động phòng ngừa, chủ động tấn công trong đó lấy phòng ngừa, giữ vững bên trong là chính trong công tác bảo vệ  an ninh văn hóa, tư tưởng. Cũng chính nhờ quán triệt tốt quan điểm chỉ đạo trên mà trong những năm qua tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội của chúng ta được giữ vững, việc nhấn mạnh yêu cầu giữ vững bên trong là chính hoàn toàn phù hợp với thực tế của công tác bảo vệ an ninh văn hóa, tư tưởng.

Đối với công tác bảo vệ an ninh văn hóa, tư tưởng thì toàn cầu hoá tạo điều kiện cho sự hợp tác quốc tế trên lĩnh vực an ninh, tạo điều kiện thuận lợi cho các quốc gia trong việc xử lý các tình huống có liên quan tới yếu tố nước ngoài, giúp chúng ta có cơ sở pháp lý để tiến hành công tác nghiệp vụ an ninh. Nhưng theo đó là sự khó khăn trong việc phát hiện đối tượng đấu tranh, trong việc áp dụng các biện pháp nghiệp vụ bí mật, trong xử lý các vấn đề liên quan đến quốc tế. Các thế lực thù địch triệt để lợi dụng những ưu thế về kinh tế từng bước tạo sức ép, truyền bá lối sống và giá trị văn hoá phương Tây và ràng buộc ta về chính trị.

 

BIỂU HIỆN TỰ DIỄN BIẾN, TỰ CHUYỂN HÓA DIỄN BIẾN RẤT PHỨC TẠP

 

Biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” công khai, nguy hiểm hơn theo xu hướng “ly khai Đảng”, thành lập tổ chức chính trị đối trọng với Đảng, thành phần ngày càng đa dạng, có xu hướng liên kết trong nội bộ với ngoài xã hội, trong nước với ngoài nước. Suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong một bộ phận cán bộ, đảng viên đang bộc lộ rất phức tạp, sai phạm, vi phạm kỷ luật Đảng, thậm chí vi phạm pháp luật trong cán bộ, đảng viên gia tăng. “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” tiếp tục diễn ra trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, kể cả trí thức, luật sư, cán bộ lão thành, văn nghệ sĩ, nguyên cán bộ cao cấp, tướng lĩnh lực lượng vũ trang.

Những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ công khai, nguy hiểm hơn theo xu hướng “ly khai Đảng”, thành lập tổ chức chính trị đối trọng với Đảng, thành phần ngày càng đa dạng, có xu hướng liên kết trong nội bộ với ngoài xã hội, trong nước với ngoài nước. Biểu hiện củа“tự diễn biến”, “tự chuyển hóа”trên lĩnh vực này là sự sùng bái, chạy theо văn hóа, lối sống phương Tây; xa rời các giá trị văn hóа, đạо đức truyền thống, đặc biệt là các giá trị văn hóа, đạо đức xã hội chủ nghĩа; có hành vi xuyên tạc lịch sử, phủ nhận nền văn hóа cách mạng; đề cао chủ nghĩа cá nhân, lối sống thực dụng; thương mại hóа các hоạt động văn hóа, đánh mất bản sắc văn hóа dân tộc... “Tự diễn biến” về văn hóа, xã hội, đạо đức, lối sống thường khởi đầu chо “tự diễn biến” về chính trị tư tưởng.

Suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, vi phạm kỷ luật Đảng, thậm chí vi phạm pháp luật trong cán bộ, đảng viên gia tăng; một số đảng viên không chấp hành các quy định của Đảng, tuyên bố công khai từ bỏ Đảng và kích động “từ bỏ Đảng Cộng sản”; tình trạng mâu thuẫn nội bộ, mất đoàn kết đang là những vấn đề mà các thế lực thù địch, phản động lợi dụng tuyên truyền, xuyên tạc phá hoại nội bộ; lộ, lọt bí mật nhà nước xảy ra với tính chất, mức độ rất nghiêm trọng.

Nguy hiểm hơn, một số cán bộ, đảng viên “tự chuyển hóa”, tự nguyện, sẵn sàng cộng tác, chủ động liên hệ với Cơ quan đặc biệt nước ngoài, phản động lưu vong để hoạt động chống phá; một bộ phận cán bộ có tư tưởng lừng chừng, hai mặt, chờ thời cơ có lợi cho cá nhân. Lộ, lọt bí mật nhà nước xảy ra với tính chất, mức độ rất nghiêm trọng.

BIỂN ĐÔNG ĐẶT RA NHIỀU THÁCH THỨC TỚI AN NINH QUỐC GIA

 

Tranh chấp chủ quyền và cạnh tranh thế chiến lược, tranh giành ảnh hưởng, lợi ích của các nước lớn ở Biển Đông ngày càng diễn biến phức tạp, khó lường không chỉ đe dọa hòa bình, ổn định khu vực, chủ quyền của Việt Nam mà còn đặt ra nhiều thách thức, hệ lụy đối với an ninh quốc gia Việt Nam.

Tại Biển Đông hiện đang tồn tại 02 nhóm mâu thuẫn lớn; mâu thuẫn về tranh chấp chủ quyền đang diễn biến phức tạp và khó giải quyết do liên quan nhiều bên (05 nước, 06 bên) với quan điểm khác biệt cả về chủ quyền, lợi ích và cách thức giải quyết tranh chấp, nhất là khác biệt về quan điểm, chủ trương của Trung Quốc với các bên có tranh chấp còn lại.

Biển Đông không chỉ đơn thuần là tranh chấp chủ quyền mà đan xen với đó là sự cạnh tranh chiến lược, tranh giành ảnh hưởng và lợi ích của hầu hết các nước lớn trên thế giới, đặc biệt là sự tranh giành thế chiến lược giữa Mỹ và Trung Quốc. Thực tế quan hệ giữa các nước lớn và quan hệ Mỹ - Trung những năm gần đây đã phản ánh rõ, mỗi khi cạnh tranh chiến lược Mỹ-Trung diễn ra gay gắt thì vấn đề Biển Đông cũng diễn biến phức tạp, căng thẳng, hoạt động của Trung Quốc và sự can dự của các nước lớn vào vấn đề Biển Đông đều gia tăng.

Hai nhóm mâu thuẫn trên khiến tình hình Biển Đông còn diễn biến phức tạp, kéo dài, không thể giải quyết trong ngắn hạn và trung hạn, tiếp tục là yếu tố quan trọng chi phối môi trường an ninh trong khu vực, trực tiếp tác động, ảnh hưởng tới lợi ích, ANQG, môi trường đối ngoại của các nước trong khu vực trong đó có Việt Nam. Sự bế tắc trong giải quyết giữa các bên có tranh chấp ở Biển Đông và sự can dự mạnh mẽ của các nước lớn làm phát sinh những nguy cơ về xung đột cục bộ trên biển, xu hướng chạy đua vũ trang trong khu vực. Bệnh cạnh đó, những căng thẳng ở Biển Đông còn kéo theo hàng loạt các hệ lụy khác như tác động, ảnh hưởng, làm chậm đà phát triển kinh tế biển của đất nước, nhất là các hoạt động dầu khí, nghề cá; những đe dọa về an ninh ngay trong nội địa như các đối tượng phản động, cơ hội chính trị lợi dụng để xuyên tạc đường lối đối ngoại của Đảng, Nhà nước, tiến hành các hoạt động chống phá, chia rẽ khối đại đoàn kết, kích động biểu tình, bạo loạn, phá hoại.

“Dân thụ hưởng” không phải là khẩu hiệu suông

 Có thể nói phương châm “dân thụ hưởng” đã được thể hiện rõ trong mục tiêu, đồng thời cũng đã được triển khai thực hiện trong suốt quá trình cách mạng XHCN tại Việt Nam. Đại hội XIII của Đảng tiếp tục thể hiện rõ quyết tâm chính trị của Đảng trong mục tiêu vì hạnh phúc của nhân dân, vì chủ nghĩa xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định rất rõ: “Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân”; “nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”. Rõ ràng hưởng thụ đầy đủ lợi ích cả về vật chất, tinh thần là khát vọng của người dân, là mục tiêu, lý tưởng cao đẹp của cách mạng XHCN và đang được hiện thực hóa trên đất nước ta. Từ sự cùng khổ của người dân một nước thuộc địa, bị đặt dưới ách thống trị của thực dân, đế quốc, trải qua chiến tranh đau thương, mất mát, đến nay người dân Việt Nam đã thực sự sống trong tự do, hòa bình, độc lập, thống nhất, đời sống ngày càng đi lên.

Thế nhưng trong suốt những năm qua, các thế lực thù địch, phản động luôn cố tình phủ nhận những thành quả ấy. Lợi dụng tình hình công cuộc đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực khiến một số cán bộ cấp cao vướng vào tham nhũng, tiêu cực nên bị kỷ luật, buộc phải từ chức hoặc phải chịu trách nhiệm hình sự, lực lượng thù địch đã rêu rao rằng chỉ có “quan cộng sản” mới có nhà lầu, xe hơi, cuộc sống sung sướng, được hưởng thụ và cho rằng “dân thụ hưởng chỉ là ru ngủ dân...". Ở đây, chúng ta phải khẳng định rằng những kẻ cơ hội chính trị và lực lượng thù địch không phải là không biết, không nhìn thấy những thành tựu to lớn về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội mà người dân Việt Nam ngày ngày được thụ hưởng. Tuy nhiên, chúng cố tình xuyên tạc sự thật; thấy cây mục cho rằng cả cánh rừng phải chặt bỏ; lấy hiện tượng quy chụp bản chất; lấy sự thoái hóa, biến chất của một số cán bộ, đảng viên để suy diễn về phẩm chất đạo đức của toàn bộ đội ngũ cán bộ,

Có thể nói, việc “dân thụ hưởng” thành quả cách mạng tại Việt Nam là sự thật không thể phủ nhận. Sự hưởng thụ của người dân Việt Nam toàn diện trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Đảng, Nhà nước luôn thực hiện nhất quán chủ trương gắn kết chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội; gắn kết giữa chính sách phát triển kinh tế với chính sách phát triển xã hội; dân chủ ngày càng được mở rộng, mỗi người dân luôn được tạo điều kiện thuận lợi nhất để thực hiện quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm của mình. Người dân thực sự là người chủ đất nước, bao nhiêu lợi ích, bao nhiêu quyền hành đều ở nhân dân. Chính người dân là người làm chủ quá trình xây dựng, bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ thành quả cách mạng XHCN, đồng thời người dân cũng trực tiếp thụ hưởng giá trị to lớn của quá trình đó.

Chúng ta thực hiện ngày càng tốt hơn quyền làm chủ của nhân dân trong việc quyết định những vấn đề hệ trọng của đất nước. Đảng, Nhà nước luôn tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của công dân. Đảng ta luôn đặt quyền lợi của nhân dân vào trung tâm các quyết sách, đường lối, với mục đích tối thượng là người dân được thụ hưởng mọi thành quả của sự phát triển đất nước. Điều đó được thể hiện qua hàng loạt con số biết nói: Năm 2021, chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam đạt mức 0,703, thuộc nhóm nước có HDI cao của thế giới, nhất là so với các nước có cùng trình độ phát triển.

Báo cáo hạnh phúc thế giới (World Happiness Report-WHR) năm 2023 công bố ngày 20-3-2023 cho thấy chỉ số hạnh phúc của Việt Nam đã tăng 12 bậc, từ vị trí 77 vào năm 2022 lên vị trí 65 trong năm 2023. Hạnh phúc là mục tiêu cơ bản của con người. Đại hội đồng Liên hợp quốc đã công nhận mục tiêu này và kêu gọi cách tiếp cận toàn diện, công bằng và cân bằng hơn đối với tăng trưởng kinh tế nhằm thúc đẩy hạnh phúc và phúc lợi của tất cả mọi người. Các tiêu chí được đánh giá gồm: GDP bình quân đầu người, hỗ trợ xã hội, tuổi thọ trung bình, quyền tự do lựa chọn cuộc sống, sự rộng lượng và nhận thức về tham nhũng.

Cùng với đó, Liên hợp quốc đánh giá Việt Nam đã hoàn thành mục tiêu phát triển thiên niên kỷ. Chỉ số bất bình đẳng giới (GII) của Việt Nam tiếp tục được cải thiện vào năm 2021, đạt 0,296, xếp hạng 71 trong số 170 quốc gia. Việt Nam là một trong 30 quốc gia đầu tiên áp dụng chuẩn nghèo đa chiều và hoàn thành trước 10 năm mục tiêu thiên niên kỷ về giảm nghèo. Mức sống tăng lên, sức khỏe của người dân được cải thiện nên tuổi thọ tăng qua các năm, chỉ số sức khỏe cả nước tăng từ 0,822 (năm 2016) lên 0,826 (năm 2020). Chỉ số giáo dục của Việt Nam là 0,618 vào năm 2016 và 0,640 vào năm 2020. Chỉ số thu nhập là 0,624 vào năm 2016 và 0,664 vào năm 2020. Như vậy có thể thấy, mặc dù là nước đang phát triển có xuất phát điểm rất thấp, nhưng các chỉ số cơ bản cho quyền lợi và sự thụ hưởng của người dân tại Việt Nam đều tăng dần qua từng năm, cho thấy đời sống của người dân Việt Nam đang đi lên một cách bền vững.

Theo tạp chí thương mại hàng đầu thế giới CEOWORLD (Mỹ), chất lượng sống của Việt Nam được cải thiện đáng kể. CEOWORLD đánh giá, Việt Nam có tổng số điểm là 78,49 và xếp hạng 62/165 quốc gia vào năm 2021. Thứ hạng chỉ số chất lượng sống được CEOWORLD dựa trên nhiều tiêu chí như: Chi phí sống; sự ổn định kinh tế-chính trị; môi trường làm việc; bình đẳng thu nhập; hệ thống giáo dục; hệ thống y tế...

Có thể thấy, Đảng và Nhà nước luôn chú trọng phát triển kinh tế vì mục tiêu con người, thực hiện nhất quán quan điểm gắn kết chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội; phát triển văn hóa, xã hội, giáo dục, y tế vì con người, xây dựng thiết chế chính trị, hệ thống pháp luật của nhà nước pháp quyền XHCN, quản lý đất nước, xã hội, mang lại những điều tốt đẹp cho con người. Vì vậy, đời sống vật chất, tinh thần của người dân ngày càng được cải thiện. Mỗi một người dân Việt Nam đang hằng ngày, hằng giờ được thụ hưởng môi trường hòa bình, ổn định, yên tâm lao động sản xuất và thừa hưởng chính thành quả đó. Trong xu thế đi lên của đất nước, ai cũng được tạo cơ hội phát triển, không ai bị bỏ lại phía sau. Người dân ở vùng sâu, vùng xa, vùng bị ảnh hưởng của bão lũ, thiên tai khiến đời sống còn khó khăn thì Đảng, Nhà nước có chính sách an sinh xã hội, toàn xã hội đều chung tay giúp đỡ. Mục đích cuối cùng là để mỗi người dân Việt Nam đều được bình đẳng tận hưởng cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, “ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành” đúng như tâm nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Như thế, “dân thụ hưởng” không dừng lại trên lý thuyết, trong nghị quyết, giấy tờ hay khẩu hiệu suông để hô hào mà được thể hiện sinh động, thuyết phục trong hiện thực đời sống mỗi người dân Việt Nam. Dù những phần tử cơ hội chính trị, thế lực thù địch có cố tình bóp méo, xuyên tạc thế nào thì cũng không thể phủ nhận được sự thật rằng đời sống của người dân Việt Nam đang ngày càng đi lên. Đó chính là động lực để người dân tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng; nỗ lực lao động, cống hiến để đất nước ngày càng phát triển thì những giá trị mà mỗi người được thụ hưởng sẽ ngày càng lớn hơn. đảng viên...