Thứ Năm, 1 tháng 6, 2023

LỜI KÊU GỌI THI ĐUA ÁI QUỐC CỦA BÁC VẪN VẸN NGUYÊN GIÁ TRỊ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

 75 năm đã trôi qua kể từ ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh viết Lời kêu gọi thi đua ái quốc (11/6/1948 - 11/6/2023) nhưng đến nay những giá trị lý luận và thực tiễn của Lời kêu gọi vẫn còn vẹn nguyên.

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm tới phong trào thi đua yêu nước và chính Người cũng là một tấm gương thi đua mẫu mực. Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ để lại cho Đảng ta, nhân dân ta những quan điểm về thi đua yêu nước, mà phong trào thi đua yêu nước do Người và Đảng ta phát động đã để lại những kinh nghiệm quý báu trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức phong trào thi đua hiện nay.
Trong Lời kêu gọi thi đua yêu nước đầu tiên (11/5/1948), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: Để “diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm”, “Muốn tự cấp, tự túc, đi kịp người ta, thì chúng ta phải đi mau. Vì vậy, sĩ, nông, công, thương, binh, gái trai, già trẻ, toàn thể quốc dân ta, vô luận ở địa vị nào, làm công việc gì, phải ra sức tham gia cuộc Thi đua yêu nước”.
Như vậy, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, tất cả các tầng lớp nhân dân, dù ở địa vị nào, làm công việc gì, đều phải tham gia vào cuộc thi đua yêu nước.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã là người Việt Nam yêu nước thì phải thi đua, “thi đua tức là yêu nước”. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, thi đua không chỉ là hoạt động tích cực, sáng tạo trong công việc hàng ngày, mà còn là biểu hiện của lòng yêu nước, là tình cảm của mỗi con người Việt Nam đối với Tổ quốc, quê hương; lấy thi đua làm động lực để phát huy lòng yêu nước, làm cho lòng yêu nước được thể hiện bằng hành động thực tế trong lao động sản xuất, trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu và ngược lại lấy lòng yêu nước để nâng cao hiệu quả thi đua.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận định: “Nói yêu nước thì phải thi đua và những người thi đua là những người yêu nước nhất”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã làm cho phong trào thi đua của nhân dân ta mang bản sắc dân tộc Việt Nam. Bản sắc đó là lòng yêu nước được hun đúc qua hàng ngàn năm lịch sử, là đạo đức, văn hóa, cốt cách của dân tộc Việt Nam.
Về cách thức thi đua, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh là dựa vào “lực lượng của dân, tinh thần của dân”, “làm cho mau, làm cho tốt, làm cho nhiều”, làm cho phong trào thi đua ái quốc “ăn sâu, lan rộng khắp mọi mặt và mọi tầng lớp nhân dân”. Người khẳng định kết quả của thi đua ái quốc sẽ là: “Toàn dân đủ ăn đủ mặc, toàn dân biết đọc biết viết, toàn bộ đội đầy đủ lương thực, khí giới để diệt ngoại xâm, toàn quốc sẽ thống nhất độc lập hoàn toàn”.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, thi đua không chỉ nhằm phát triển sản xuất, nâng cao hiệu quả công tác, xây dựng những nhân tố tiên tiến, mà còn nhằm “nâng đỡ những người kém cỏi”, loại trừ phần tử lạc hậu, kìm hãm sự phát triển của sản xuất, của tiến bộ xã hội. Qua phong trào thi đua, quần chúng nhân dân hăng hái đi vào cuộc sống thực tiễn, tôi luyện và trưởng thành, để cho “mỗi người dân Việt Nam, bất kỳ già, trẻ, trai, gái; bất kỳ giàu, nghèo, lớn, nhỏ đều cần phải trở nên một chiến sĩ tranh đấu trên mặt trận: quân sự, kinh tế, chính trị, văn hoá”. Nhờ có phong trào thi đua mà nhân dân ta không những nâng cao năng suất, mà còn gạt bỏ dần những thói hư, tật xấu của chế độ cũ; phát huy đạo lý truyền thống tốt đẹp của dân tộc; góp phần xây dựng nền văn hóa mới, con người mới, đời sống mới.
Thực hiện Lời kêu gọi thi đua ái quốc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cả nước đã dấy lên các phong trào thi đua yêu nước rất sôi nổi và hiệu quả. Trên khắp các mặt trận, từ tiền tuyến đến hậu phương; trên khắp các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục, quân sự…; ở khắp các giới, các ngành, các cấp..., đâu đâu cũng sôi nổi phong trào thi đua yêu nước. Lịch sử cách mạng thời kỳ này còn in đậm hình ảnh các phong trào thi đua: “Xây dựng chi bộ bốn tốt” trong Đảng; “Sóng Duyên Hải” trong công nghiệp; “Gió Đại Phong” trong nông nghiệp; “Cờ ba nhất” trong các lực lượng vũ trang; “Ba sẵn sàng” với thanh niên; “Ba đảm đang” với phụ nữ; “Làm nghìn việc tốt” trong thiếu nhi; “Trống Bắc Lý” trong giáo dục...
Đúng như sau này Chủ tịch Hồ Chí Minh tổng kết: "Người người thi đua, ngành ngành thi đua; Ta nhất định thắng, địch nhất định thua". Thực tiễn thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược đã minh chứng hùng hồn cho nhận định này của Người.
Đó cũng là nguồn sức mạnh vô tận, góp phần vào thắng lợi trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội sau này.
Ra đời cách đây 75 năm, nhưng Lời kêu gọi thi đua ái quốc của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn mang tính thời sự sâu sắc, vẹn nguyên những giá trị lý luận và thực tiễn đối với phong trào thi đua yêu nước hiện nay. Những chỉ dẫn của Người về mục đích, lực lượng, cách làm trong Lời kêu gọi thi đua ái quốc vẫn tiếp tục soi đường cho dân tộc Việt Nam trên hành trình xây dựng một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Thực hiện theo tư tưởng Hồ Chí Minh về thi đua ái quốc, đến nay phong trào thi đua yêu nước đã đạt được nhiều kết quả quan trọng trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Phong trào thi đua đã ngày càng đi vào thực chất, đã bám sát nhiệm vụ chính trị của Đảng và của các ban, bộ, ngành, địa phương. Nhìn chung, việc tổ chức phát động thi đua với hình thức phong phú, chủ đề rõ ràng, tiêu chí cụ thể, nội dung thiết thực, triển khai có hiệu quả. Phong trào thi đua đã chú trọng vào việc xây dựng các mô hình mới, nhân tố mới và thực hiện đồng bộ tốt cả bốn khâu: Phát hiện, bồi dưỡng, tổng kết và nhân rộng điển hình tiên tiến.
Qua các phong trào thi đua đã xuất hiện nhiều tấm gương tiêu biểu, điển hình của tập thể, cá nhân trong lao động, sản xuất, chiến đấu, học tập... Kết quả đạt được từ các phong trào thi đua yêu nước là minh chứng thuyết phục cho việc Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã vận dụng, phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về thi đua ái quốc trong thời kỳ mới. Đồng thời, cũng minh chứng cho sức sống vững bền, giá trị lan tỏa của Lời kêu gọi thi đua ái quốc của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong thực tiễn./.
ST


NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG XÂY DỰNG ĐẢNG VỀ TƯ TƯỞNG TRONG THỜI KỲ MỚI

 Để hoàn thành thắng lợi sứ mệnh lịch sử trong thời kỳ phát triển mới của đất nước, Đảng phải đặc biệt coi trọng và đẩy mạnh hơn nữa công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ.

THỐNG NHẤT NHẬN THỨC VỀ TƯ TƯỞNG VÀ CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG
Trong sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN), Đảng ta xác định xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện là nhiệm vụ then chốt, là vấn đề quyết định đến vai trò lãnh đạo của Đảng và sự tồn vong của chế độ. Theo đó, xây dựng Đảng về tư tưởng giữ vai trò trọng yếu trong quá trình hoạt động của Đảng. Muốn xác định đúng nhiệm vụ và những giải pháp khả thi nhằm nâng cao chất lượng xây dựng Đảng về tư tưởng trong thời kỳ mới, trước hết cần thống nhất nhận thức.
Một là, về tư tưởng.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, mọi tư tưởng đều được rút ra từ kinh nghiệm; là sự phản ánh đúng đắn hay phản ánh xuyên tạc hiện thực. Nhưng tư tưởng không đơn thuần là sự phản ánh thế giới khách quan, mà trên cơ sở phản ánh thế giới khách quan, tư tưởng xác định con đường để cải tạo thế giới. Vì vậy, nội dung của bất kỳ tư tưởng nào cũng bao hàm những mục đích và những nhiệm vụ của hoạt động thực tiễn. Đó là sự khác nhau căn bản giữa tư tưởng với các hình thức phản ánh khác.
Sau khi xuất hiện, tư tưởng có tính độc lập tương đối và ảnh hưởng tích cực trở lại sự phát triển của hiện thực. Những tư tưởng khác nhau có tác dụng với hiện thực theo hướng khác nhau. Tư tưởng phản động phản ánh xuyên tạc hiện thực sẽ kìm hãm sự phát triển của xã hội, còn tư tưởng tiên tiến phản ánh đúng đắn hiện thực và thể hiện lợi ích của các giai cấp cách mạng thì thúc đẩy sự phát triển của xã hội theo hướng tiến bộ...
Vận dụng những luận điểm của C.Mác, Lênin đã bác bỏ thuyết tự phát, các xu hướng bè phái, vô chính phủ trong phong trào công nhân. Theo Lênin, Đảng Macxit phải đưa lý luận của Chủ nghĩa xã hội (CNXH) vào phong trào công nhân và tổ chức công nhân thành đội quân cách mạng: “...Sự thống nhất tư tưởng của giai cấp dựa trên cơ sở của nguyên lý của chủ nghĩa Mác, được củng cố bằng sự thống nhất vật chất của tổ chức, tập hợp hàng triệu lao động thành một đạo quân của giai cấp công nhân”(1).
Là người sáng lập, rèn luyện và lãnh đạo Đảng ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến công tác xây dựng chỉnh đốn Đảng một cách toàn diện cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Trong công tác xây dựng Đảng, Người xác định trước hết là xây dựng Đảng về tư tưởng chính trị. Người cho rằng chỉ có chủ nghĩa Mác - Lênin mới là “cái cẩm nang thần kỳ” để đưa cách mạng đến thành công. Về tầm quan trọng của lý luận chính trị, Hồ Chí Minh nhắc lại lời của V.Lênin: “Không có lý luận cách mạng thì không có phong trào cách mạng” “chỉ đảng nào có được một lý luận tiền phong hướng dẫn thì mới có khả năng làm tròn vai trò chiến sĩ tiền phong”. Người cũng nhấn mạnh: “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam”.
Theo Hồ Chí Minh, xây dựng Đảng về tư tưởng trước hết là xác lập thế giới quan và hệ tư tưởng của giai cấp công nhân - giai cấp tiên tiến nhất của thời đại. Người chỉ rõ, cái quyết định bản chất giai cấp công nhân không chỉ ở số lượng đảng viên xuất thân từ công nhân mà cơ bản ở nền tảng tư tưởng của Đảng - đó là chủ nghĩa Mác - Lênin, cương lĩnh, đường lối vì độc lập dân tộc và CNXH..; là học thuyết về sự phát triển xã hội, đồng thời là vũ khí tư tưởng để Đảng làm tròn vai trò tiên phong, lãnh đạo cách mạng.
Hồ Chí Minh luôn yêu cầu Đảng phải coi trọng công tác xây dựng Đảng về tư tưởng. Theo đó, giáo dục tư tưởng và lãnh đạo tư tưởng phải là công việc quan trọng hàng đầu: “Đảng phải chống cái thói xem nhẹ học tập lý luận vì không học lý luận thì chí khí kém kiên quyết, không trông xa thấy rộng, trong lúc đấu tranh dễ lạc phương hướng, kết quả là “mù chính trị” thậm chí hủ hóa, xa rời cách mạng”(2); “Phải nâng cao trình độ lý luận chung của Đảng, trước hết trong những cán bộ cốt cán của Đảng”(3). Xây dựng Đảng về tư tưởng không chỉ làm cho lý luận, thế giới quan và phương pháp luận Mác - Lênin thấm nhuần trong toàn Đảng, giữ vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội, mà còn làm cho Đảng và mỗi đảng viên không ngừng nâng cao ý chí phấn đấu, củng cố niềm tin vào con đường cách mạng, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, đấu tranh không khoan nhượng với các luận điệu xuyên tạc, phản động...
Hồ Chí Minh cũng luôn nhắc nhở cán bộ, đảng viên học tập chủ nghĩa Mác - Lênin không chỉ để thấm nhuần chủ nghĩa này, mà phải biết vận dụng sáng tạo vào thực tiễn cách mạng Việt Nam. Phải nắm vững phép duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, căn cứ vào thực tiễn để xác định đúng quan điểm, đường lối, chính sách, pháp luật; sáng tạo; không máy móc, giáo điều, rập khuôn, bảo thủ. Theo đó, mỗi đảng viên phải thường xuyên tu dưỡng rèn luyện, trau dồi tư tưởng chính trị, đạo đức; nghiêm túc thực hiện tự phê bình và phê bình; thực hiện tốt việc nêu gương, nói đi đôi với làm, lý luận gắn liền với thực tế...
Xây dựng Đảng vững mạnh về tư tưởng không ngoài mục đích làm cho toàn Đảng thống nhất một ý chí, đoàn kết, cùng toàn dân đồng lòng thực hiện thắng lợi cương lĩnh, đường lối, chính sách...
Xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức là trọng trách của công tác tư tưởng.
Hai là, về công tác tư tưởng.
Công tác tư tưởng là hoạt động có mục đích của một giai cấp, một chính Đảng nhằm hình thành, phát triển, truyền bá hệ tư tưởng trong quần chúng, thúc đẩy quần chúng hành động vì lợi ích của chủ thể hệ tư tưởng.
Đối với Đảng ta, công tác tư tưởng là một bộ phận cấu thành rất quan trọng trong toàn bộ hoạt động cách mạng của mình; cùng với công tác tổ chức trực tiếp góp phần xây dựng Đảng vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ. Tiến hành công tác tư tưởng nhằm vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, xây dựng cơ sở khoa học, thực tiễn để hình thành cương lĩnh, đường lối, chính sách trong từng thời kỳ; đem lại cho cán bộ, đảng viên và nhân dân sự giác ngộ về thế giới quan khoa học, nhân sinh quan cộng sản, biến nó thành niềm tin, lý tưởng, thành nguyên tắc đạo đức, tình cảm cách mạng; cổ vũ, động viên tính tích cực, tự giác, sáng tạo của cán bộ, đảng viên và nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN.
Công tác tư tưởng góp phần quan trọng vào việc hình thành thượng tầng kiến trúc mới về mặt hình thái ý thức; xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc; giáo dục, bồi dưỡng xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện...
Lịch sử hơn 90 năm lãnh đạo công tác tư tưởng Đảng ta đã tổng kết, rút ra được những bài học kinh nghiệm quý báu, nhất là những nguyên tắc công tác tư tưởng, bao gồm: nguyên tắc tính Đảng; nguyên tắc tính khoa học; nguyên tắc thống nhất giữa lý luận với thực tiễn; nguyên tắc toàn Đảng làm công tác tư tưởng, trước hết là bí thư, cấp ủy, người đứng đầu các cơ quan, đơn vị.
Nguyên tắc “tính Đảng” là nguyên tắc cơ bản nhất của công tác tư tưởng; là biểu hiện tập trung của tính giai cấp, có nghĩa tính Đảng là tính giai cấp ở trình độ triệt để nhất, sâu sắc nhất, tự giác nhất. Theo đó, khi tiến hành các hoạt động tư tưởng, cán bộ phải đứng vững trên lập trường giai cấp, luôn xuất phát từ thế giới quan Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, coi đó là cơ sở khoa học, mục đích và nội dung cốt lõi của công tác tư tưởng; phải bảo vệ nền tảng tư tưởng, cương lĩnh, đường lối và sự lãnh đạo của Đảng, kiên quyết đấu tranh phản bác mọi tư tưởng thù địch, sai trái...
Nguyên tắc “tính khoa học” trước hết phải tuân thủ những quy luật vận động biến đổi của tư tưởng, tâm lý con người và của xã hội; phải biết dựa vào thành tựu của các khoa học khác để từng bước nâng cao trình độ khoa học của hoạt động tư tưởng. Tính khoa học đòi hỏi khi tiến hành công tác tư tưởng phải quán triệt thế giới quan, phương pháp luận Mác-xít, trước hết là quan điểm lịch sử cụ thể đối với các sự kiện, hiện tượng, quá trình diễn ra trong đời sống xã hội; khi xác định và lựa chọn nội dung, phương pháp, hình thức, phương tiện, chủ thể làm công tác tư tưởng phải tính đến không chỉ tình hình kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội trong nước và thế giới, mà còn phải tính đến đặc điểm dân tộc, địa phương, trạng thái ý thức xã hội, tâm lý, tư tưởng, tình cảm… của từng nhóm xã hội, từng con người cụ thể. Đồng thời, phải thường xuyên đổi mới, sáng tạo những nội dung, hình thức và phương pháp phù hợp với sự vận động và phát triển; biết vận dụng những thành tựu khoa học - công nghệ và kịp thời sử dụng những phương tiện hiện đại vào công tác tư tưởng.
Tính khoa học của công tác tư tưởng còn được thể hiện ở tính chân thật. Tính chân thật đảm bảo sức mạnh cho công tác tư tưởng, là tiêu chuẩn quan trọng của công tác tư tưởng. Theo đó, khi đánh giá tình hình phải kiên quyết khắc phục bệnh chủ quan, phiến diện, một chiều, tô hồng hoặc bôi đen, chạy theo thành tích... Tính khoa học còn được thể hiện ở nghệ thuật nói, nghệ thuật viết và phương pháp, phương thức, tình cảm giàu tính sáng tạo nhằm đem lại hiệu quả cao.
Nguyên tắc “thống nhất giữa lý luận với thực tiễn”: Lý luận phải xuất phát từ thực tiễn và trở lại phục vụ nhiệm vụ thực tiễn, soi đường cho thực tiễn cách mạng. Thực tiễn là cơ sở của lý luận, là tiêu chuẩn để kiểm nghiệm tính đúng đắn của lý luận. Nguyên tắc này đòi hỏi công tác tư tưởng phải gắn với thực tiễn cuộc sống, thực tiễn cách mạng, thực tiễn đấu tranh của quần chúng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; phải luôn nắm được tư tưởng, tâm trạng của các tầng lớp xã hội trước mỗi sự kiện, chủ trương, chính sách... Chỉ có gắn chặt với thực tiễn mới kịp thời phát hiện được những nhân tố mới, những kinh nghiệm hay để tổng kết, nhân rộng; phát hiện kịp thời những yếu kém, khuyết điểm, sai lầm để khắc phục, bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách. Chỉ gắn với thực tiễn, công tác tư tưởng mới khắc phục được “bệnh” giáo điều, lý thuyết suông, nhất là tệ chạy theo thành tích, báo cáo không trung thực. Tổng kết thực tiễn là phương pháp căn bản thực hiện sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong công tác tư tưởng nhằm khắc phục chủ nghĩa giáo điều, chủ nghĩa kinh nghiệm.
Nguyên tắc “toàn Đảng làm công tác tư tưởng, trước hết là bí thư, cấp ủy, người đứng đầu các cơ quan đơn vị” xuất phát từ vị trí, vai trò, nhiệm vụ: Đảng ta là chủ thể của công tác tư tưởng. Nguyên tắc này được xác lập từ nội hàm của công tác tư tưởng với 3 quá trình: 1) Phát triển, vận dụng sáng tạo hệ tư tưởng thành cương lĩnh, đường lối, chính sách; 2) Truyền bá hệ tư tưởng, cương lĩnh, đường lối, chính sách; 3) Hiện thực hóa cương lĩnh, đường lối, chính sách. Theo đó, bí thư, cấp ủy là người lãnh đạo, chỉ đạo công tác tư tưởng; ban tuyên giáo là cơ quan tham mưu của cấp ủy về những lĩnh vực liên quan, đồng thời là cơ quan chuyên môn, nghiệp vụ về công tác tuyên giáo; đội ngũ cán bộ chuyên trách là các chiến sỹ xung kích trên mặt trận tư tưởng - văn hóa; đảng viên phải trực tiếp tham gia các quá trình làm công tác tư tưởng của tổ chức Đảng nơi mình sinh hoạt, đồng thời trực tiếp làm công tác tư tưởng với quần chúng, tích cực tu dưỡng, rèn luyện để làm gương cho quần chúng noi theo.
CẦN TIẾP TỤC XÁC ĐỊNH RÕ NỘI HÀM XÂY DỰNG ĐẢNG VỮNG MẠNH VỀ TƯ TƯỞNG
Đại hội XIII của Đảng tiếp tục xác định những nội dung liên quan đến xây dựng Đảng về tư tưởng. Trong đó, công tác tư tưởng phải kết hợp giữa “xây” và “chống”, lấy “xây” là nhiệm vụ cơ bản, chiến lược, lâu dài, làm cho tư tưởng tiến bộ tích cực thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, có tác dụng uốn nắn những biểu hiện lệch lạc, cải tạo những tư tưởng lạc hậu... Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ nội dung phương thức công tác tư tưởng, bảo đảm tính Đảng, tính khoa học, tính chiến đấu, tính thực tiễn, kịp thời, hiệu quả; nâng cao chất lượng tuyên truyền, giáo dục học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Dự báo sát, chủ động nắm bắt tình hình tư tưởng kịp thời xử lý thông tin, định hướng dư luận xã hội bảo đảm sự thống nhất tư tưởng trong Đảng, đồng thuận trong xã hội. Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Tăng cường quản lý và định hướng hoạt động của các cơ quan báo chí. Đẩy mạnh ứng dụng thành tựu khoa học - công nghệ phục vụ công tác tuyên truyền bảo đảm an ninh tư tưởng trên môi trường không gian mạng. Nâng tầm tư duy lý luận của Đảng, đẩy mạnh tổng kết thực tiễn nghiên cứu lý luận, cung cấp kịp thời cơ sở khoa học cho việc hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Kết hợp chặt chẽ hiệu quả giữa học tập lý luận với rèn luyện, thử thách cán bộ trong thực tiễn để nâng cao bản lĩnh chính trị. Tập trung xây dựng, củng cố, thường xuyên bồi dưỡng nâng cao phẩm chất năng lực của đội ngũ giảng viên chính trị, báo cáo viên. Kiện toàn, nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống các trường chính trị...
Hệ thống các nhiệm vụ, giải pháp xây dựng Đảng về tư tưởng được Đảng ta tiếp tục xác định và bổ sung tại Đại hội XIII là đúng đắn, đáp ứng được mục tiêu yêu cầu xây dựng Đảng vững mạnh về tư tưởng trong thời kỳ mới. Tuy nhiên, vẫn còn một số hạn chế trong phương hướng và chưa xác định rõ mục tiêu, nội dung trong hệ thống 4 nhiệm vụ giải pháp nhằm xây dựng Đảng vững mạnh về tư tưởng.
Theo chúng tôi, cần xác định rõ nội hàm xây dựng Đảng vững mạnh về tư tưởng trong thời kỳ mới là:
Thứ nhất, theo Hồ Chí Minh, Đảng muốn vững mạnh về tư tưởng chính trị thì phải “có chủ nghĩa làm cốt”, trong Đảng ai cũng phải hiểu, phải theo chủ nghĩa ấy. Đại hội VII của Đảng đã xác định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho cách mạng. Do đó, nội hàm xây dựng Đảng vững mạnh về tư tưởng trong thời kỳ mới là phải làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như thế giới quan, phương pháp luận Mác - Lênin, Hồ Chí Minh thấm nhuần trong toàn Đảng và giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội. Mỗi cán bộ, đảng viên không những thấm nhuần mà còn biết vận dụng sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong quá trình xây dựng, xác định, hiện thực hóa đường lối, chủ trương, chính sách.
Thứ hai, phải tiếp tục xây dựng, triển khai thực chất, hiệu quả, sâu, rộng những giải pháp, biện pháp làm cho toàn Đảng thực sự là một ý chí vững mạnh, đoàn kết, thống nhất, đồng lòng cùng toàn dân thực hiện thắng lợi Cương lĩnh, chủ trương, đường lối của Đảng. Phải tăng cường về “chất” công tác giáo dục, hướng dẫn đảng viên thường xuyên tu dưỡng rèn luyện, trau dồi tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống; thực sự nghiêm túc, tự giác trong tự phê bình và phê bình; thực sự làm gương, nêu gương trước quần chúng.
Thứ ba, trong hệ thống 4 nhiệm vụ giải pháp xây dựng Đảng về tư tưởng, phần giải pháp còn định tính. Vì vậy, cần định lượng từng biện pháp, xác định rõ tổ chức, cơ quan nào phải thực hiện, thời hạn hoàn thành. Muốn xây dựng Đảng vững mạnh về tư tưởng thì phải có giải pháp đột phá trong củng cố, kiện toàn, nâng cao chất lượng hoạt động của cơ quan tham mưu về công tác tư tưởng từ Trung ương đến cơ sở; có giải pháp khả thi về đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ tham mưu công tác tư tưởng; chú trọng giải pháp tổng thể trong quy hoạch, đào tạo đội ngũ cán bộ lý luận, giảng viên lý luận, báo cáo viên, phóng viên - biên tập viên báo chí, văn nghệ sĩ...
Thứ tư, đề nghị Ban Bí thư xem xét, có quyết định về việc: các cấp ủy thực hiện giao ban tư tưởng định kỳ và đột xuất để nắm tư tưởng, phối hợp chỉ đạo các “binh chủng” tiến hành các hoạt động tư tưởng phục vụ nhiệm vụ chính trị; đồng thời chỉ đạo xử lý các tình huống, điểm nóng tư tưởng… Định kỳ, các đồng chí thường trực cấp ủy phải xuống cơ sở để nắm tư tưởng và đối thoại với nhân dân.
Thứ năm, trong đổi mới nội dung, phương thức nâng cao chất lượng công tác tư tưởng cần bổ sung nguyên tắc: Toàn Đảng làm công tác tư tưởng, trước hết là bí thư cấp ủy, người đứng đầu các cơ quan, đơn vị./.
ST


NGẪM CÂU CHUYỆN Ý NGHĨA VÀ SÂU SẮC

 Người thợ xây nọ đã làm việc rất chuyên cần và hiệu quả trong nhiều năm cho một công ty thầu xây dựng. Một ngày kia, ông ngỏ ý với công ty muốn xin nghỉ việc về hưu để vui thú với gia đình.

Công ty rất tiếc khi thiếu đi một người thợ giỏi đã tận tụy nhiều năm. Ông chủ công ty đề nghị ông cố gắng ở lại giúp công ty xây một căn nhà trước khi thôi việc. Ông ta nhận lời.
biết mình sẽ giải nghệ, cùng với sự miễn cưỡng, ông ta làm việc một cách tắc trách qua quít, xây dựng căn nhà với những vật liệu tầm thường, kém chọn lọc, miễn có một bề ngoài đẹp đẽ mà thôi.
Mấy tháng sau, căn nhà đã hoàn thành. Người chủ công ty mời ông đến, trao cho ông chiếc chìa khóa của ngôi nhà và nói: “Ông đã gắn bó và làm việc rất tận tụy với công ty trong nhiều năm, để tưởng thưởng về sự đóng góp của ông cho sự thịnh vượng của công ty, chúng tôi xin tặng ông ngôi nhà vừa xây xong!”
Thật là b.àng h.oàng! Nếu người thợ biết mình sẽ xây cất căn nhà cho chính mình thì hẳn ông ta đã làm việc cẩn thận hơn và chọn lựa những vật liệu có chất lượng tốt hơn. Sự làm việc tắc trách chỉ có mình ông biết và nay thì ông phải sống với căn nhà mà ông biết rõ là k.ém chất lượng như thế nào.
Câu chuyện người thợ xây cũng tương tự như chuyện đời của chúng ta. Cũng như người thợ già kia, chúng ta thường tạo dựng một đời sống hào nhoáng, tạm bợ, đua đ.òi không chú trọng tới phẩm chất của nó. Nhiều khi ngồi kiểm điểm những sự b.ê b.ối của mình trong quá khứ, chúng ta thấy mình đang phải cam ch.ịu những h.ậu quả của nó.
Cuộc đời là một công trình kiến trúc do chính mình tạo nên. Đời sống hiện tại là kết quả của sự tạo dựng trong quá khứ, đời sống ngày mai sẽ là kết quả của sự tạo dựng hôm nay. Hãy xây dựng đời mình một cách đúng đắn!
ST


BẠN CHÍNH LÀ “VẠCH XUẤT PHÁT” CỦA CON MÌNH

 Cuộc sống không dễ dàng, bạn phải trải qua nhiều gian truân, nếm trải đủ vị đời trước khi nhận ra sự vất vả của nó. Đôi khi, những nỗ lực mà bạn đưa vào cả đời chỉ để đạt được một tầm cao mới, nhưng nó lại là điểm khởi đầu cho người khác.

Đừng cảm thấy buồn vì chúng ta không thể lựa chọn nơi chúng ta sinh ra, không thể kiểm soát hoàn cảnh đầu đời của mình. Cũng đừng cảm thấy buồn nếu bạn sinh ra không phải con của tỷ phú. Thay vào đó hãy cố gắng từng ngày để con bạn sinh ra là con của tỷ phú.
Hãy nhớ rằng: Bạn chính là “xuất phát điểm” của con bạn./.
ST


LOẠI BỎ NHỮNG BÀI VIẾT CHỐNG PHÁ, XUYÊN TẠC VÀ CỔ VŨ, ĐỘNG VIÊN CHO NHỮNG BÀI VIẾT HAY, Ý NGHĨA TỐT

 Mạng xã hội ở nước ta phát triển rất nhanh và ngày càng lan rộng, thu hút nhiều thành phần, đối tượng tham gia.

Trong đó, tỷ lệ cán bộ, đảng viên sử dụng facebook hiện nay chiếm khá cao. Hầu như ai cũng có tài khoản cá nhân facebook, thậm chí có người sở hữu 2, 3 tài khoản.
Tuy nhiên, bên cạnh một số ít cán bộ đảng viên mạnh dạn đăng tải hoặc chia sẻ các thông tin, hình ảnh từ các trang chính thống thể hiện quan điểm, ý kiến cá nhân của mình về một vấn đề nào đó thì vẫn còn đại đa số người còn thờ ơ, phớt lờ những vấn đề xã hội đang quan tâm.
Vậy thì vai trò của họ ở đâu trên không gian mạng này?
Cái tư duy thấy đúng cũng không bảo vệ, thấy sai cũng không lên án, phê phán đã và đang tồn tại ở nhiều cơ quan, đơn vị. Và chính tư duy cá nhân ấy cũng được nhiều người áp dụng khi tham gia mạng xã hội.
Họ lẳng lặng vào mạng, dò đọc, rồi lẳng lặng, âm thầm trở ra như chiếc bóng. Đối với những bài viết hay, tích cực, nguồn dẫn chính thống đàng hoàng, báo đài rầm rộ đưa tin nhưng cũng không thấy họ tham gia chia sẻ, bình luận, like bài.
Hay đối với những thông tin tiêu cực, bức xúc, xã hội đang quan tâm cũng chẳng thấy họ biểu thị cảm xúc gì. Tốt cũng được, chẳng khen động viên, mà xấu cũng mặc kệ, chẳng thèm phê phán, phản ứng.
Ôi, một thái độ dửng dưng, vô cảm đến lạ lùng.
Mỗi cán bộ, đảng viên nên chủ động nghiên cứu bài viết để nhận thức được thông tin nào đúng, sai, tích cực, tiêu cực. Khi tiếp xúc với một bài đăng mà bản thân thấy hay, đúng, nguồn đăng rõ ràng thì cũng nên thể hiện cảm xúc của mình, đó có thể là “thích”, “thả tim”, "thương thương".
Hay hơn nữa là thêm những bình luận động viên, khen ngợi để cổ vũ nhau.
Còn nếu bạn nhận thấy rằng thông tin sai, lệch lạc hoặc còn nghi ngờ độ chính xác thì ít ra cũng nên bày tỏ thái độ bằng icon cảm xúc “ngạc nhiên”, “buồn” hoặc “phẫn nộ”.
Xem, đọc xong mà vô cảm đến mức lặng lẽ cho qua, thế thì khác nào bạn đã đồng tình, ủng hộ thông tin xấu đó rồi.
Bởi trong một số trường hợp được mặc nhiên rằng “im lặng là đồng ý”.
Nhiều người rất thích truy cập internet để coi và cập nhật thông tin, nhưng lại rất mù mờ và không phân biệt được đâu là thông tin chính thống, đâu là thông tin giả làm mất ổn định và định hướng, dẫn dắt dư luận xã hội của các thế lực thù địch.
Hãy để cái tốt đẹp được lan tỏa, đồng thời cũng phải đẩy lùi những cái xấu, tiêu cực, đó không chỉ là trách nhiệm của cộng đồng mạng nói chung mà đó còn là trách nhiệm của mỗi cán bộ, đảng viên khi tham gia mạng xã hội facebook đó các bạn à!
Thiết nghĩ, mỗi cán bộ, đảng viên cần nhận thức đúng đắn và đầy đủ hơn về trách nhiệm của mình đối với xã hội, đất nước. Là cán bộ, đảng viên trước hết phải có lập trường, tư tưởng, quan điểm rõ ràng ở mọi lúc, mọi nơi.
Trên không gian mạng lại rất cần thể hiện vai trò đó. Hãy là những nhân tố mang tính nòng cốt, tích cực trong xây dựng mặt trận đoàn kết toàn dân./.
ST


HÀNH TRÌNH THEO CHÂN BÁC HỒ

 Ngày 02 tháng 6

“Việc thiện thì dù nhỏ mấy cũng làm”.
Cách đây 112 năm, ngày 2-6-1911, Nguyễn Tất Thành xuống tàu Amiral Latouche Tréville của Hãng Năm sao (Charges Réunis), chuẩn bị rời bến cảng Sài Gòn qua cảng Marseille của nước Pháp để xin việc.
Ngày 2-6-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh lưu lại thành phố Calcuta (Ấn Độ), đến chào Toàn quyền Anh, đến thăm một tòa báo và tiếp xúc với báo giới Ấn cùng một số bà con Việt kiều sống tại đây. Từ đây, Bác rất chu đáo gửi về nước bức điện cho Chính phủ: “Chúng tôi đã tới Calcuta được bình yên cả... Chúng tôi nhờ Chính phủ cảm ơn đồng bào ta và các bạn người Pháp đã tiễn chúng tôi ở Gia Lâm. Tôi gửi những cái hôn cho các cháu”.
Ngày 2-6-1949, Báo Cứu Quốc đăng tiếp bài “Thế nào là Chính” của Bác, ký bút danh là Lê Quyết Thắng. Bài báo phân tích: “Chính nghĩa là không tà, nghĩa là thẳng thắn, đứng đắn. Điều gì không đứng đắn, thẳng thắn là tà. Cần, Kiệm, Liêm là gốc rễ của Chính. Nhưng một cây cần có gốc rễ, lại cần có ngành, lá, hoa, quả mới là hoàn toàn. Một người phải Cần, Kiệm, Liêm, nhưng còn phải Chính mới là người hoàn toàn... Làm việc Chính là người thiện. Làm việc Tà là người ác... Lười biếng, xa xỉ, tham lam là tà, là ác... Cụ Khổng Tử nói: mình có đứng đắn mới tề gia được, trị được quốc, bình được thiên hạ. Tự mình Chính trước, mới giúp người khác Chính. Mình không Chính mà muốn người khác Chính là vô lý... Việc thiện thì dù nhỏ mấy cũng làm. Việc ác thì dù nhỏ mấy mình cũng tránh. Việc gì dù có lợi cho mình, phải xét có lợi cho nước không? Nếu không có lợi mà có hại cho nước thì quyết không làm... Cả 20 triệu đồng bào ta đều làm như vậy, thì nước ta nhất định mau giàu, dân ta nhất định được nhiều hạnh phúc”.
Cũng trong thời gian này, Chủ tịch Hồ Chí Minh trả lời báo Pháp “Franc-Tireur”, khẳng định lập trường: “Quan niệm hợp tác thân thiện giữa hai dân tộc Pháp và Việt Nam của tôi vẫn không thay đổi”. Về những cải cách xã hội đã làm: “Đã thanh toán gần hết nạn mù chữ, tránh được nạn đói kém, thủ tiêu những thứ thuế má nô lệ. Về việc cải cách ruộng đất, giảm địa tô hai mươi phần trăm. Không chia ruộng đất”. Với câu hỏi: “Nếu quả thật cụ là người cộng sản thì lý tưởng của riêng cụ khác với ý nguyện độc lập quốc gia của nhân dân Việt Nam ở điểm nào?”, Bác trả lời: “Lý tưởng chung của tôi và của nhân dân Việt Nam là nước nhà độc lập thống nhất thực sự... Chúng tôi bao giờ cũng trọng ở sức mình. Chúng tôi không sợ ai cả. Không nước nào có thể thống trị được chúng tôi.”
Ngày 2-6-1950, Báo Cứu Quốc đăng thư cảm ơn của Bác, trong đó bày tỏ: “Về phần tôi, tôi xin báo cáo với chiến sĩ và đồng bào rằng: 60 tuổi cũng còn xuân chán. Tôi vẫn đủ tinh thần và sức khỏe để cùng chiến sĩ và đồng bào đánh đuổi giặc Pháp, tranh lại độc lập và thống nhất thực sự cho Tổ quốc, hợp sức với các nước bạn để giữ gìn dân chủ và thế giới hòa bình”./.
ST


KHUYÊN TRUNG QUỐC!

Liên hợp quốc thông qua công ước 
Năm 82 luật được ban ra
Trường Sa cùng với Hoàng Sa 
Chủ quyền ghi rõ đó là Việt Nam 

"Hoàng triều trực " lấy làm bằng chứng 
Đảo Hải Nam cực cuối Trung Hoa 
Xưa Mao chủ tịch chỉ ra 
Bản đồ Trung Quốc đúng là đến đây

Khuyên Trung Quốc dừng ngay sai trái 
Chiếm Hoàng Sa rồi lại đặt đèn 
Đưa tàu khảo sát mon men 
Đi vào vùng biển chủ quyền Việt Nam

Nhìn lịch sử kẻ tham bại trận 
Bạch Đằng xưa dấu vẫn còn ghi 
Tham lam kết cục được gì 
Danh ô tiếng nhục dân thì hận căm 

Vốn hai nước bao năm hữu nghị 
Việt Nam tôi thiện chí hòa bình 
Nên tôi khuyên bạn chân thành 
Làm người tử tế để danh muôn đời./.


Môi trường ST.

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: HIỂU VỀ TỰ DO TÔN GIÁO!

     Những ngày này, đại lễ Phật đản - Phật lịch 2567 đã được tổ chức trang trọng ở khắp các cơ sở Phật giáo trên cả nước. Dịp này, Đức Pháp chủ Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã có Thông điệp kêu gọi tất cả tăng ni, phật tử hãy cùng nhau dấn thân hơn nữa trên con đường thực hành Bồ-tát hạnh. Mỗi tăng ni, phật tử các giới ra sức làm các thiện sự, tích cực góp phần xây dựng đất nước, kiến tạo hòa bình tự thân để kết nên một đài sen cúng dường Đức Thế Tôn trong mùa Phật đản năm nay.
Với đường hướng gắn bó, đồng hành cùng dân tộc, Giáo hội Phật giáo Việt Nam luôn hướng dẫn tăng ni, phật tử sống theo giáo lý Phật giáo, chấp hành pháp luật Nhà nước, làm tròn nghĩa vụ công dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo, tích cực tham gia các phong trào thi đua yêu nước tại địa phương, nhất là các hoạt động an sinh xã hội, thực hiện nếp sống văn minh.
Không chỉ với mùa Phật đản, dịp lễ Giáng sinh hằng năm bây giờ cũng trở thành một dịp lễ hội của rất nhiều người chung vui với đồng bào Công giáo. Với đồng bào Chăm theo đạo Bàlamôn, lễ hội Katê còn được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa vào danh mục Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Tháng lễ Ramadan của đồng bào Chăm theo đạo Hồi cũng được cộng đồng tôn trọng, các cấp chính quyền tạo điều kiện thuận lợi cho đồng bào thực hành nghi lễ,
Có thể kể ra rất nhiều các hoạt động tôn giáo đa dạng, phong phú đã và đang diễn ra bình thường trên lãnh thổ Việt Nam. Những điểm chung của các hoạt động tôn giáo đó là phù hợp với văn hóa truyền thống của dân tộc, đáp ứng được nhu cầu đời sống tín ngưỡng tinh thần trong cộng đồng và được pháp luật bảo hộ.
Nhằm bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người dân, ngay từ Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (năm 1946) và các bản Hiến pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam sau này đều luôn khẳng định quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là một trong các quyền cơ bản của con người. Hiến pháp 2013 quy định quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là quyền của mọi người. Nhằm cụ thể hóa Hiến pháp năm 2013 và phù hợp với đời sống thực tiễn hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam, Quốc hội Việt Nam đã thông qua Luật Tín ngưỡng, tôn giáo ngày 18/11/2016. Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định số 162/2017/NĐ-CP ngày 30/12/2017 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Tín ngưỡng, tôn giáo.
Trên thực tế, quyền tự do, tín ngưỡng quy định trong pháp luật đã được thực thi đầy đủ. Bằng chứng là đến nay, Nhà nước Việt Nam đã công nhận 36 tổ chức tôn giáo, cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo cho 4 tổ chức và 1 pháp môn tu hành thuộc 16 tôn giáo. Hiện cả nước có trên 26,5 triệu tín đồ tôn giáo (chiếm 27% dân số cả nước), hơn 54.000 chức sắc, 135.000 chức việc và 29.658 cơ sở thờ tự; hàng ngàn nhóm sinh hoạt tôn giáo tập trung, trong đó có các nhóm sinh hoạt tôn giáo tập trung của người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam.
Có thể thấy, các tôn giáo đã được tạo điều kiện tối đa để phát triển đáp ứng nhu cầu của các tín đồ. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn có những hội nhóm, tổ chức nhân danh tôn giáo để hoạt động trái với thuần phong mỹ tục, văn hóa truyền thống của dân tộc, xâm phạm lợi ích Nhà nước, cộng đồng và các cá nhân nên không được pháp luật công nhận. Có thể kể đến như tà đạo Hà Mòn ở một số tỉnh Tây Nguyên, tà đạo Giê Sùa, bà cô Dợ ở một số tỉnh Tây Bắc… Các đối tượng chủ chốt của các tà đạo này tuyên truyền chủ yếu những nội dung mê tín dị đoan, đả kích các tôn giáo chính thống, chê bai phong tục truyền thống của đồng bào, tuyên truyền về ngày tận thế, kích động li khai tự trị… nên cần phải xử lý nghiêm minh theo pháp luật.
Ở các nước trên thế giới, việc quản lý các tôn giáo bằng pháp luật và xử lý những hành vi lợi dụng tôn giáo để vi phạm pháp luật cũng là hết sức bình thường. Mới đây, tại Kenya, chính quyền đã bắt giữ 26 nghi phạm liên quan đến giáo phái “tuyệt thực”, xúi giục các tín đồ bỏ đói con cái và nhịn ăn để có thể lên thiên đường trước ngày tận thế. Giới chức đã tìm thấy 201 thi thể và số người được báo cáo mất tích là 610 người. Mấy năm trước, cảnh sát Italy cũng đã phục kích một giáo phái chuyên dụ dỗ những cô gái trẻ, nhiều trong số đó là trẻ em và thực hiện nhiều hành vi lạm dụng tình dục đối với họ.
Bởi vậy, những ý kiến cho rằng Việt Nam chưa đảm bảo được tự do tôn giáo chỉ có thể là cố tình xuyên tạc hoặc chưa có thông tin đầy đủ. Như Người Phát ngôn Bộ Ngoại giao Lê Thị Thu Hằng mới đây đã khẳng định: Việt Nam ghi nhận việc Báo cáo Tự do tôn giáo quốc tế năm 2020 của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đã đề cập đến những nỗ lực của Việt Nam trong việc đảm bảo và thúc đẩy đời sống tôn giáo, tín ngưỡng. Tuy nhiên, Báo cáo vẫn đưa ra một số nhận định thiếu khách quan dựa trên những thông tin không chính xác về tình hình thực tế tại Việt Nam. Việt Nam luôn sẵn sàng trao đổi thẳng thắn, cởi mở và trên tinh thần xây dựng với Hoa Kỳ về những vấn đề còn có sự khác biệt để tăng cường hiểu biết và đóng góp vào sự phát triển của quan hệ Đối tác toàn diện giữa hai nước./.
Yêu nước ST.

BÀ "NGHỊ" PHÁT BIỂU HỒ ĐỒ!

     Mỗi kỳ họp Quốc hội, thỉnh thoảng lại nghe được mấy phát biểu theo kiểu dân tuý, nhiều khi nghĩ rằng Đại biểu đang nói ở quán nước, quán vỉa hè chứ không phải giữa nghị trường quốc hội, mỗi lời nói được hàng triệu cử tri đang lắng nghe, bình luận.
     Như Đại biểu Phạm Khánh Phong Lan phát biểu ngày hôm qua, cho rằng cuộc chiến chống Covid thất bại, khi phải ”trảm tướng, thay tướng”. Tôi nghĩ rằng, phát biểu như thế là phiến diện, tiêu cực, nhổ toẹt đi công sức của hàng vạn người, trong đó, có hàng trăm người là y bác sĩ, công an, quân đội….đã hi sinh trong đại dịch. 
     Chúng ta thừa nhận có tham nhũng ở một bộ phận quan chức, doanh nghiệp….nhưng nó chỉ là con sâu làm rầu nồi canh và đã được xử lý, bóc gỡ triệt để. Nhưng còn đó là công sức của cả hệ thống chính trị trong công tác phòng dịch. Mà thực sự, nếu không có công sức đó, con số người thiệt mạng do đại dịch không chỉ là 43.000 người đâu nghị sỹ ạ. Nó phải là gấp 5, gấp 7 thậm chí là gấp 10 lần con số này. Và để có thành quả đó là sự chung sức của cả đất nước, là sự hi sinh thầm lặng của 25.000 y, bác sĩ, hàng vạn cán bộ, công an, quân đội.
     Thành quả công cuộc chống dịch của hàng triệu người không thể phủ nhận chỉ bằng sai phạm của một vài cá nhân./.
Yêu nước ST.

Chăm lo công tác cán bộ dân tộc thiểu số

 

Thời gian qua, Huyện ủy Hòa An, tỉnh Cao Bằng luôn chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao chất lượng, từng bước chuẩn hóa đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số (DTTS), đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.

Chung tay chăm lo cho thế hệ tương lai

 

Thời gian qua, việc bảo vệ trẻ em đã được Đảng, Nhà nước quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo và đạt được nhiều kết quả quan trọng. Tuy nhiên, công tác chăm lo, bảo vệ trẻ em như vấn đề phát triển thể chất, dinh dưỡng, bảo vệ trẻ em trên môi trường internet, nhất là mạng xã hội vẫn còn nhiều vấn đề phải làm. Báo Quân đội nhân dân ghi nhận một số ý kiến về vấn đề này nhân Ngày Quốc tế thiếu nhi 1-6.

Bảo vệ trẻ em trên môi trường mạng

 

Tháng hành động vì trẻ em năm 2023 được lấy chủ đề “Chung tay giảm thiểu tổn hại trẻ em”, trong đó đề cao trách nhiệm của gia đình và các bậc phụ huynh, cần có biện pháp bảo vệ trẻ em an toàn trên môi trường mạng.

“Đảo xanh” giữa trùng khơi

 

Cùng với quá trình thực hiện nhiệm vụ, lao động sản xuất, quân và dân trên đảo Sinh Tồn (quần đảo Trường Sa) luôn chú trọng trồng cây xanh, xây dựng cảnh quan môi trường sống. Chính vì vậy, dù phải thường xuyên đối diện với thời tiết, thiên nhiên khắc nghiệt, vùng đất giữa trùng khơi của Tổ quốc ta vẫn luôn hiện hữu một màu xanh của thiên nhiên.

Sau ba tiếng nổ...

 

Thấm thoắt thoi đưa, nắng gió thao trường mưa dông biên giới. Xứ sở phương Nam nơi chúng tôi đóng quân, cuối cùng, mùa khô rát bỏng đã phải nhường sự mát mẻ từ cuộc chuyển giao trong một cơn mưa đầu mùa. Sự trùng hợp ngẫu nhiên của đất trời với chúng tôi hoàn thành mục tiêu cao nhất của chiến sĩ mới với ba tiếng nổ đầu đời quân ngũ.

Mục đích của phê bình

 

Trong hội nghị chi bộ ra nghị quyết lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ tháng tới của đơn vị X, không khí hội nghị mỗi lúc một “nóng” thêm. Bởi, có đảng viên khi tập thể chỉ ra khuyết điểm, góp ý cho mình tiến bộ thì ngay lập tức tìm khuyết điểm của người phê bình để “phản pháo”.

Sinh hoạt nền nếp, sức chiến đấu nâng cao

 

Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu tổ chức cơ sở đảng là nền tảng vững chắc bảo đảm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị. Nhận thức sâu sắc tầm quan trọng đó, thời gian qua, Huyện ủy Hòa An, tỉnh Cao Bằng đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, đổi mới, tạo sự chuyển biến rõ nét về chất lượng sinh hoạt chi bộ, chất lượng đảng viên và kết nạp đảng viên mới.

VIỆT NAM ĐIỂM SÁNG TRONG THỰC HIỆN CÔNG ƯỚC QUỐC TẾ VỀ QUYỀN CON NGƯỜI

 


          Trong bản Tuyên ngôn độc lập mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc trước quốc dân, đồng bào ngày 02/9 có đoạn “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”. Khi vận nước lâm nguy, tính mạng của hàng triệu đồng bào bị đe dọa, Trung ương Đảng và Bác Hồ đã phát động phong trào diệt giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm. Chủ trương của Đảng đã hợp lòng dân, nên được Nhân dân đồng lòng, chung sức, góp công, góp của sát cánh cùng Chính phủ vượt qua cơn hoạn nạn, đưa đất nước qua cơn nguy biến. Nhân dân hiểu rằng, khi đất nước còn giặc ngoại xâm thì các quyền tối thiểu của một con người như quyền sống, quyền được tự do và bình đẳng đều bị tước đoạt. Nhân dân cũng hiểu rằng, trong bối cảnh đất nước cơ cực, làm than dưới ách thống trị tham tàn của quân xâm lược, chỉ có những người đảng viên kiên trung dám đứng lên chiến đấu, hi sinh bảo vệ họ. Vì lẽ đó, họ hết lòng ủng hộ và đi theo cách mạng.

LỜI NÓI DỐI VĨ ĐẠI!

Edison, sinh ngày 11/2/1847, tại Milan, Ohio (Mỹ), vốn bị coi là đứa trẻ "đần độn, rối trí" (tâm thần). Vào khoảng năm 7 tuổi, một hôm cậu từ trường về nhà và nói với mẹ: "Mẹ, thầy giáo bảo con đưa cho mẹ cái này!".


TĂNG CƯỜNG QUỐC PHÒNG, AN NINH, BẢO VỆ VỮNG CHẮC TỔ QUỐC VIỆT NAM XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

 

Tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của cách mạng Việt Nam. Đó là quan điểm nhất quán, được Đảng ta khẳng định sâu sắc và rõ nét trong Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng. Thế trận “kết hợp kinh tế với quốc phòng, an ninh” trên biển được hiểu là sự bố trí các lực lượng, cơ sở vật chất - kỹ thuật của các ngành kinh tế biển, của quốc phòng, an ninh trên biển và ven biển theo ý định, quy hoạch và kế hoạch thống nhất, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung thống nhất của Đảng và Nhà nước trong phạm vi cả nước và trong từng vùng, từng địa phương, nhằm tạo được thuận lợi cho nhau, hỗ trợ lẫn nhau giữa kinh tế với quốc phòng, an ninh trên biển, bảo đảm sự phát triển nhanh và bền vững của kinh tế biển, đồng thời tăng cường được sức mạnh bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia trên biển và vùng ven biển.  

Xây dựng thế trận kết hợp kinh tế với quốc phòng, an ninh trên biển phải dựa vào các vùng kinh tế, trước hết là các vùng kinh tế trọng điểm đã được quy hoạch, để thực hiện kết hợp kinh tế với quốc phòng, an ninh và quốc phòng, an ninh với kinh tế trong các kế hoạch phát triển vùng. Mỗi vùng được quy hoạch đều có những kế hoạch khác nhau để phát triển toàn diện về chính trị, kinh tế - xã hội, khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo, xây dựng kết cấu hạ tầng, đào tạo nguồn nhân lực, bố trí dân cư.

Xây dựng thế trận kết hợp kinh tế với quốc phòng, an ninh cần được hiểu là phải thực hiện sự kết hợp tất cả các lĩnh vực đó với quốc phòng, an ninh và quốc phòng, an ninh các lĩnh vực đó ngay từ khi điều tra, phân tích, đánh giá và dự báo các nguồn lực (bên trong và bên ngoài) phát triển của vùng; trong khi thiết kế quy hoạch và trong quá trình tổ chức thực hiện quy hoạch.

Tăng cường quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên của Đảng, Nhà nước và của toàn dân, trong đó quân đội nhân dân và công an nhân dân là lực lượng nòng cốt”. Đảng ta đã xác định: “Xây dựng quân đội nhân dân cần hiệp đồng chặt chẽ bộ đội phòng không với không quân và hải quân. Việc đổi mới trang bị của bộ đội phòng không, đáp ứng yêu cầu tác chiến phòng không bảo vệ lãnh thổ nói chung và vùng ven biển nói riêng là rất cấp thiết. Cần chuẩn bị trước những điều kiện cần thiết (trang bị, tổ chức, huấn luyện) để có thể nhanh chóng hình thành mạng lưới hỏa lực phòng không rộng khắp của chiến tranh nhân dân ở vùng ven biển, khi có nguy cơ chiến tranh. Về tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh, xây dựng nền quốc phòng toàn dân gắn với nền an ninh nhân dân, Đảng ta chủ trương tiếp tục “Tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh; xây dựng và phát huy mạnh mẽ “thế trận lòng dân” trong nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân; xây dựng và củng cố vững chắc thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân”(10). Dựa vào nhân dân, tổ chức vận động, khai thác, huy động cao nhất trách nhiệm và mọi nguồn lực của nhân dân kết hợp với nguồn lực của Nhà nước tạo thành sức mạnh tổng hợp để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh là quan điểm xuyên suốt, nhất quán của Đảng ta trong mọi giai đoạn cách mạng, đặt ra yêu cầu xây dựng nền quốc phòng toàn dân gắn với nền an ninh nhân dân phải toàn diện cả về lực lượng, tiềm lực và thế trận trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, cả ở trong và ngoài nước. Trong xây dựng lực lượng cần coi trọng xây dựng cả lực lượng chính trị (lực lượng của các ngành, ở các cấp và nhân dân trong các cộng đồng dân cư...) và lực lượng vũ trang nhân dân, trong đó quan tâm đặc biệt đến xây dựng lực lượng vũ trang vững mạnh làm nòng cốt. Cùng với xây dựng lực lượng, cần tập trung xây dựng tiềm lực quốc phòng, an ninh toàn diện, trong đó chú trọng các tiềm lực cơ bản, như chính trị tinh thần, văn hóa, xã hội, kinh tế, khoa học - công nghệ, quốc phòng, an ninh và đối ngoại. Đồng thời, với xây dựng lực lượng, tiềm lực cần xây dựng và củng cố vững chắc thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân cả về “thế trận lòng dân” và thế trận quân sự, an ninh.

DẤU TRANH, BÁC BỎ LUẬN ĐIỆU “THAM NHŨNG, THA HÓA, BIẾN CHẤT LÀ CÁI “PHỔ BIẾN” VÀ “TẤT YẾU” CỦA CHẾ ĐỘ ĐỘC ĐẢNG”

 

Lịch sử hàng nghìn năm của dân tộc Việt Nam có nhiều thời kỳ phát triển rực rỡ nhưng hiếm thấy thời kỳ nào vị thế của dân tộc lại có được như hiện nay. Thành công đó là minh chứng hùng hồn về sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và sự tin tưởng tuyệt đối của toàn dân, toàn quân ta với Đảng để đồng lòng, chung sức xây dựng đất nước Việt Nam ngày càng vững mạnh, hùng cường vững bước trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Nhưng với mưu đồ chính trị, các thế lực thù địch đã và đang tìm mọi cách chống phá Đảng và chế độ ta. Khi các chiêu bài đòi “đa nguyên, đa đảng” đã hoàn toàn thất bại, họ lại dùng những thủ đoạn khác để thực hiện âm mưu đó. Nhằm mục tiêu làm suy giảm niềm tin của Nhân dân với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa, các thế lực thù địch xuyên tạc rằng: “tham nhũng, tha hóa, biến chất là cái “phổ biến” và “tất yếu” của chế độ độc đảng”. Đây là luận điệu hoàn toàn méo mó về lý luận, lệch lạc về thực tiễn, không thể lừa dối được ai. Trong lúc Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta kiên quyết đẩy mạnh công tác đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng tham nhũng, tha hóa, biến chất trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và từng bước đạt được những thành công, thì những thế lực chống đối lại đưa ra luận điệu: “tham nhũng, tha hóa, biến chất là cái “phổ biến” và “tất yếu” của chế độ độc đảng”. Đây vẫn là thủ đoạn xảo trá quen thuộc “lấy bé xé ra to”, lấy hiện tượng quy thành bản chất để phủ định tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Bác Hồ và Nhân dân ta đã lựa chọn. Song, chúng ta có đầy đủ lý lẽ và chứng cứ thực tiễn để bác bỏ luận điệu này.

Một là, Đảng và Nhà nước ta nhận thức rõ sự nguy hại và đánh giá đúng thực trạng, tình hình tham nhũng, tha hóa, biến chất trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. Tham nhũng và sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, tha hóa, biến chất là những hiện tượng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Tham nhũng là một trong những biểu hiện của suy thoái, tha hóa, biến chất và nó là hiện tượng nghiêm trọng nhất. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gọi đó là “giặc nội xâm” phải kiên quyết đấu tranh chống kẻ địch nguy hiểm này cùng với các căn bệnh khác như tha hóa, thoái hóa, biến chất. Hiện nay, Đảng ta xác định, tham nhũng cùng với tha hóa, biến chất là một trong những “nguy cơ lớn” đe dọa sự tồn vong của chế độ ta.

Nhận rõ sự nguy hại của tình trạng tham nhũng, tha hóa, biến chất của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, tại các kỳ đại hội Đảng, nhất là những đại hội gần đây, Đảng ta đã luôn đặc biệt chú trọng đến nhiệm vụ phòng, chống các tệ nạn này. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng tiếp tục nhấn mạnh: “Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, chủ nghĩa cá nhân, “lợi ích nhóm”, bệnh lãng phí, vô cảm, bệnh thành tích ở một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi”. Những đánh giá của Đảng ta là rất nghiêm túc, khách quan, khoa học, đúng thực chất mức độ và tác hại của các hiện trạng tiêu cực vẫn đang diễn biến phức tạp. Có thể thấy rằng, việc xác định một bộ phận không nhỏ là sự đánh giá định tính nhưng rất chính xác (không nhỏ nghĩa là đã có con số đáng kể, có lớn nhưng chưa phải số đông, đáng kể nhưng vẫn là thiểu số, không phải đa số). Từ đầu nhiệm kỳ XIII đến nay đã thi hành kỷ luật 67 cán bộ thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý, trong đó có 07 Ủy viên Trung ương Đảng, 06 nguyên Ủy viên Trung ương Đảng. Với số lượng 67 trường hợp bị xử lý trong hàng nghìn cán bộ do Trung ương quản lý cũng như 07 trường hợp kỷ luật trong hàng trăm Ủy viên Trung ương thì không thể coi đó là “phổ biến”.

Hai là, Đảng và Nhà nước ta kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, suy thoái, tha hóa, biến chất trong đội ngũ cán bộ, đảng viên và đã đạt được những kết quả tích cực. Nhận thức rõ tham nhũng, tha hóa, biến chất trong một bộ phận cán bộ, đảng viên sẽ làm suy yếu Đảng, suy giảm quyền lực của Nhà nước và sói mòn lòng tin của Nhân dân, ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình hình chung của đất nước, Đảng và Nhà nước có quyết tâm chính trị cao trong việc phòng, chống các biểu hiện tiêu cực này. Bởi vậy, việc phòng, chống tham nhũng, tha hóa, biến chất trong đội ngũ cán bộ, đảng viên trở thành nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách của công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước và hệ thống chính trị. Đại hội XII của Đảng xác định nhiệm vụ trọng tâm: “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”. Đến Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ: “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, lãng phí, với quyết tâm chính trị cao hơn, hành động mạnh mẽ, triệt để hơn, hiệu quả hơn. Kết hợp chặt chẽ giữa tích cực phòng ngừa với chủ động phát hiện, xử lý nghiêm minh, kịp thời những hành vi tham nhũng, lãng phí, bao che, dung túng, tiếp tay cho tham nhũng, can thiệp, cản trở việc chống tham nhũng, lãng phí, không có vùng cấm, không có ngoại lệ”. Với quyết tâm chính trị cao của Đảng và Nhà nước, sự vào cuộc tích cực của cả hệ thống chính trị và sự đồng thuận, hưởng ứng của nhân dân, công tác phòng, chống tham nhũng, tha hóa, biến chất đã đạt được những kết quả tích cực. Tổng Bí thư chỉ rõ: trước một số ý kiến cho rằng, nếu quá tập trung vào chống tham nhũng sẽ làm “nhụt chí”, “chùn bước” những người dám nghĩ, dám làm, sẽ làm “chậm sự phát triển đất nước”, nhưng thực tế đã chứng minh, chính nhờ làm tốt công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị, đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, chúng ta giữ vững ổn định chính trị xã hội, phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, mở rộng quan hệ đối ngoại, củng cố, tăng cường niềm tin của nhân dân và bạn bè quốc tế.

Ba là, tình trạng tham nhũng, tha hóa, biến chất về nhân cách là “quốc tế nạn” chứ không phải ở chế độ một đảng cầm quyền. Chúng ta biết, quy luật của tự nhiên và xã hội luôn có sự phát triển không đồng đều. Trong một khu rừng, cùng một loại cây hoặc muông thú đều có cá thể mạnh, yếu và khuyết tật; trong một cây rất tươi tốt cũng có cành mục, cành khô; trong đời sống xã hội bao giờ cũng có người tốt và kẻ xấu và tham nhũng, suy thoái, tha hóa nhân cách cũng vậy, ở chế độ nào cũng có, nhưng không thể là cái “phổ biến”, mà chỉ là hiện tượng mang tính xã hội, tồn tại ở tất cả các quốc gia khi quyền lực nhà nước bị thao túng, lợi dụng để trục lợi và được coi là “quốc tế nạn” ở mọi thể chế chính trị, là căn bệnh nan y đã có từ rất lâu trong lịch sử loài người. Như vậy, chế độ một đảng cầm quyền không phải là nguyên nhân sinh ra tệ tham nhũng, suy thoái, tha hóa, biến chất. Theo Tổ chức Minh bạch Quốc tế, tham nhũng là tệ nạn rất nhức nhối, xuất hiện ở nhiều quốc gia, trong đó nhiều nhất lại là ở các quốc gia có chế độ đa đảng do giai cấp tư sản lãnh đạo. Nhiều quốc gia không phải đảng cộng sản cầm quyền, như: Hàn Quốc, Malaysia, Colombia, Brazil, Ukraine,… tham nhũng xảy ra rất nghiêm trọng.

Như vậy những luận chứng, luận cứ ở trên một lần nữa khẳng định: “tham nhũng, tha hóa, biến chất” là một hiện tượng mang tính xã hội, ở chế độ xã hội nào cũng có, không thể quy thành bản chất của chế độ độc đảng. Vì thế, luận điệu: Tham nhũng, tha hóa, biến chất là cái “phổ biến” và “tất yếu” của chế độ độc đảng - một cách nhìn méo mó về lý luận, lệch lạc về thực tiễn, cần kiên quyết bác bỏ. Với sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, sự quyết liệt trong điều hành của Nhà nước, sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, cùng sự đồng thuận của nhân dân, chúng ta hoàn toàn tin tưởng cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tha hóa, biến chất nhất định sẽ đạt nhiều thắng lợi, sự nghiệp cách mạng của chúng ta nhất định thành công./.

                                                                                                           VHT.