Chủ Nhật, 1 tháng 10, 2023

Thực tiễn bi hài của những kẻ phụ bạc với quê hương

 

          Thời gian qua, người sử dụng các nền tảng mạng xã hội đã “nhẵn mặt” với những cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước mang danh nghĩa “tự do, dân chủ”, “yêu nước”, “dân oan”, tung ra video, bài viết xuyên tạc, kích động hòng gây mất ổn định chính trị-xã hội, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

          Tuy nhiên, đằng sau những hành động khoác áo vì tự do, dân chủ, nhân quyền mà họ hô hào thì đích đến là nhận sự ban phát về lợi ích vật chất hoặc tị nạn chính trị ở các quốc gia phương Tây và Hoa Kỳ.

          Những chiêu trò quen thuộc

          Trong thế giới phẳng ngày nay, việc mỗi người đi, đến hay định cư ở một quốc gia nào đó hoàn toàn là quyền cá nhân. Quan trọng là có đáp ứng được các yêu cầu của nước sở tại khi đến định cư hay không. Với nhiều người Việt Nam, việc đi ra nước ngoài học tập, làm việc và định cư, đến Châu Âu, Úc, Mỹ là hoàn toàn bình thường, nhất là khi đất nước ta đã và đang ngày càng mở rộng quan hệ hợp tác, phát triển kinh tế, hội nhập sâu rộng.

          Nhưng ở một khía cạnh nào đó, vẫn còn có những người không có năng lực, trình độ, không có công ăn việc làm ổn định nhưng luôn mang trong mình giấc mộng phù hoa dù họ không đáp ứng được yêu cầu của các nước sở tại. Cũng có người có chút năng lực, khi “nổ” trên mạng xã hội thì ảo tưởng mình là tài năng, là hiếm có, cho rằng ở trong nước “nhân tài không được trọng dụng” nên tìm cách vu cáo mất dân chủ, nhân quyền hòng nhận sự để ý và hỗ trợ vật chất từ bên ngoài, dần dần tạo cớ để được “chiêu mộ đến xứ thiên đường”!

          Để đạt được mục đích đó, họ đã bất chấp tất cả, đi ngược lại lợi ích quốc gia, dân tộc, phản bội lại mảnh đất đã nuôi dưỡng mình trưởng thành…

          Vẫn là những chiêu trò cũ rích của thế lực thù địch, các tổ chức phản động lưu vong ở nước ngoài, lợi dụng chiêu bài dân chủ, nhân quyền đưa ra những thủ đoạn, các luận điệu để xuyên tạc, bóp méo sự thật về dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam như: Phủ nhận giá trị lý luận, thành tựu, thực tiễn, các quan điểm, đường lối của Đảng về dân chủ, nhân quyền; xuyên tạc, kích động vấn đề dân tộc, tôn giáo, tự do, dân chủ; lợi dụng những hạn chế, yếu kém trong quản lý xã hội, sơ hở, thiếu sót trong quản lý, điều hành đất nước hoặc những vấn đề bức xúc, khiếu kiện kéo dài chưa được giải quyết dứt điểm để lôi kéo, kích động người dân vào các hoạt động biểu tình, gây mất an ninh trật tự, xã hội...

          Để thực hiện được những âm mưu đó, các thế lực thù địch và các tổ chức phản động lưu vong ở nước ngoài cần những con rối ở trong nước tiếp tay hoạt động. Với chiêu trò cho tị nạn, hứa hẹn một tương lai xán lạn nơi xứ người đã khiến cho nhiều kẻ trở lên lóa mắt và sẵn sàng làm con rối cho chúng. Hằng năm, các thế lực thù địch, các tổ chức phản động lưu vong nước ngoài gửi về nước ngoại tệ cùng các phương tiện kỹ thuật như máy tính xách tay, máy ảnh kỹ thuật số, điện thoại thông minh, máy ghi âm từ xa… cho các đối tượng trong nước tiến hành kích động biểu tình, gây mất an ninh trật tự, an toàn xã hội. Do sự hậu thuẫn, hỗ trợ của các thế lực thù địch, các tổ chức phản động lưu vong ở nước ngoài nên số chống đối trong nước thời gian qua hoạt động chống phá ngày càng quyết liệt, nguy hiểm, thậm chí một số đối tượng coi hoạt động chống đối là một nghề kiếm sống, là một con đường để rời bỏ quê hương, tị nạn chính trị.

          Khi số đối tượng trên bị cơ quan chức năng Việt Nam xử lý về các hành vi vi phạm pháp luật theo quy định thì các thế lực thù địch, phản động đã triệt để lợi dụng để "tôn vinh" những đối tượng trên bằng những cái tên mỹ miều như "nhà dân chủ", "nhà phản biện", "luật sư nhân quyền" để rồi lớn tiếng cho rằng việc bắt giam những người này là "vi phạm dân chủ, nhân quyền". Một mặt, lo sợ trước sự phản ứng của người dân trong nước và sợ bị pháp luật trừng trị, các đối tượng đã tìm cách đào tẩu ra nước ngoài, xin tị nạn chính trị để tiếp tục bám gót các thế lực chống đối và sử dụng không gian mạng để phát tán tin giả, thông tin bịa đặt chống phá, bôi nhọ hình ảnh đất nước Việt Nam trên trường quốc tế.

          Khi giấc mộng tan vỡ nơi xứ người

          Thực tế cho thấy, không ít đối tượng sau khi rời khỏi Việt Nam đã vỡ mộng với “giấc mơ miền đất hứa” hoặc sống chui lủi trong các trại tị nạn ở nước thứ ba… Thật không khó để đoán được một tương lai khó khăn đối với những người vốn chỉ “dùng loa để kiếm sống”, khi ra nước ngoài do không có trình độ, năng lực, không còn được các tổ chức phản động sử dụng nên số này lâm vào túng quẫn.

          Một điều dễ nhận thấy nhất là khi số đối tượng trên rời Việt Nam ra nước ngoài thì cũng là lúc họ không còn nhận được sự quan tâm từ những kẻ vốn luôn hứa hão, dần dần “chìm nghỉm” trên mạng, thậm chí số đối tượng trên còn phải chịu sự “ghẻ lạnh” từ chính những tổ chức từng đỡ đầu, khích lệ các hành vi chống phá ở trong nước do không còn giá trị lợi dụng. Trước khi rời Việt Nam, mạng xã hội được các đối tượng trên triệt để lợi dụng để kích động, chống đối, xuyên tạc sự thật. Còn sau khi rời Việt Nam thì mạng xã hội lại là nơi để các đối tượng kêu than về sự quay lưng của chính tổ chức từng cưu mang rồi cuộc sống khó khăn khi không có chuyên môn, trình độ…

          Chuyện các nhà “dân chủ” ngày càng vỡ mộng về cuộc sống trời Tây đã chẳng còn là chuyện gì xa lạ nữa, thậm chí khi bị vỡ mộng, số này còn liên tục có những bài viết tố cáo lẫn nhau cho thấy thực tế thực sự bi hài. Kể từ khi Nguyễn Ngọc Như Quỳnh (blogger Mẹ Nấm) được bảo lãnh “xuất khẩu miễn phí” ra nước ngoài từ năm 2018 đến nay, gần như các thông tin về “Mẹ Nấm” đã không còn xuất hiện nhiều trên mạng xã hội khi mà công việc chính là chống phá ở trong nước đã không còn thực hiện được nữa. Đến nay, những thông tin về “Mẹ Nấm” có chăng chỉ là những lời than vãn trên mạng xã hội về cuộc sống khó khăn, khổ sở mà trợ cấp thì không đủ để duy trì cuộc sống tối thiểu.

          Trần Thị Nga khi sang đến Mỹ lại không nhận được sự trợ giúp từ những tổ chức vẫn nói “luôn đồng hành”, Nga túng thiếu, vật lộn khó khăn cả vật chất lẫn tinh thần, khi đó mới nhận ra mình đã bị mắc mưu những kẻ giảo hoạt. Còn kẻ giảo hoạt thì nói rồi quên, hứa rồi bỏ, tung hô rồi phó mặc, sự thật ấy khi Nga nhận ra thì đã quá muộn. Thực tiễn vỡ mộng đó đã khiến cho Trần Thị Nga thốt lên chua xót: “Vậy là tôi đã có thêm một bài học một kinh nghiệm có giá trị”! Vậy mà, khi còn trong tù, Nga không hối lỗi cải tạo để sớm được trở về với xã hội, trở về với cộng đồng hưởng cuộc sống thanh bình, tự do, mà còn tìm kiếm mộng ảo nơi “thiên đường đất Mỹ”, giờ đây mới đớn đau tỉnh ngộ.

          Hay như Lê Thu Hà, một người từng được biết đến là cộng sự đắc lực của Nguyễn Văn Đài trong các hoạt động gây rối khi còn ở Việt Nam. Tuy nhiên khi sang Đức tị nạn thì Hà đã bị Đài bỏ rơi vì không còn giá trị sử dụng mà chỉ làm vướng bận thêm cuộc sống của y để rồi khi tìm đường về Việt Nam thì không còn cơ hội nữa. Cũng có những trường hợp sau khi sang Mỹ, châu Âu, nhờ được sự giúp đỡ của người thân, họ tìm được việc làm, tạm ổn định cuộc sống. Tuy nhiên, dù không quá vất vả, lận đận kiếm tiền song các “nhà dân chủ” sớm nhận ra sự thật đắng cay: Các tổ chức, cá nhân vốn hứa bao bọc, giúp đỡ nhằm tạo ngọn cờ chống đối trong nước, nay tìm cách tảng lờ, coi như không liên quan như Bạch Hồng Quyền, Nguyễn Văn Hải…

          Có lẽ, đây mới chỉ là những đoạn đầu của con đường không tương lai của những người trên, những kẻ phản bội đất nước, dân tộc để cầu hư vinh. Chỉ khi ra nước ngoài, bản chất thật sự của số gọi là “nhà dân chủ, người yêu nước, nhà đấu tranh nhân quyền” mới bộc lộ, để rồi chìm dần vào sự quên lãng khi đã không còn giá trị sử dụng đối với các tổ chức chống phá ở nước ngoài. Cha ông ta thường dạy “không ai cho không thứ gì”. Những kẻ phản bội đất nước thì đa phần đều đã làm cha làm mẹ, luôn nói rằng được sống trong môi trường giáo dục nhưng bản thân lại không làm theo điều cha ông đã dạy “đói cho sạch, rách cho thơm”.

          Quê hương, đất nước bất luận trong hoàn cảnh nào cũng thiêng liêng, cao quý, làm sao có thể rời bỏ mẹ cha, ruồng bỏ quê hương. Chỉ có những người phụ bạc với đất mẹ, với Tổ quốc thì bước đi đâu mà không phải cúi đầu, còn gì liêm sỉ để ngẩng lên mà nhìn người khác? Con đường do họ chọn và chính họ chấp nhận rời bỏ quê hương, phản bội lại Tổ quốc, đi ngược lại với lợi ích của nhân dân. Đến khi nhận ra bị chính những tổ chức phản động lợi dụng “vắt chanh, bỏ vỏ”, sức tàn lực kiệt, hối cải, nghĩ đường về quê hương thì mọi thứ đã muộn. Đây cũng là bài học cho những kẻ trong nước lựa chọn con đường phản bội lại đất nước, dân tộc, tiếp tay cho các tổ chức thù địch, phản động, nuôi mộng định cư ở miền đất hứa và “đổi đời”.

                                                                   Bình Nguyên - Hoàng Ly

Thủ đoạn xuyên tạc về quyền con người trong bảo vệ môi trường

 

          Ngày 28/9 vừa qua, TAND TP Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm, tuyên phạt bị cáo Hoàng Thị Minh Hồng (SN 1972) 3 năm tù về tội “Trốn thuế”, phạt bổ sung 100 triệu đồng. Quá trình xét xử tại toà đảm bảo công khai, dân chủ theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, thế nhưng với mưu đồ chống phá, các thế lực thù địch, phản động lại tìm cách xuyên tạc, “bẻ lái” vụ việc sang chiều hướng tiêu cực, lấy cớ vu cáo Đảng, Nhà nước, bôi nhọ các cơ quan tiến hành tố tụng.

          Bị cáo Hoàng Thị Minh Hồng từng là Giám đốc Trung tâm Hành động và Liên kết vì môi trường và phát triển (Change). Cáo trạng xác định, quá trình hoạt động, từ năm 2012 - 2022, trung tâm này phát sinh doanh thu hơn 69 tỷ đồng. Bà Hồng đã chỉ đạo nhân viên không xuất hóa đơn giá trị gia tăng, không thực hiện đầy đủ thủ tục về kế toán, hóa đơn, chứng từ nhằm trốn thuế hơn 6,7 tỷ đồng. Tại CQĐT, bà Hồng đã thừa nhận hành vi phạm tội và có đơn xin nộp khắc phục hậu quả để được hưởng khoan hồng của pháp luật.

          Tại tòa, bị cáo Hoàng Thị Minh Hồng thừa nhận hành vi phạm tội và khai đã vận động gia đình khắc phục hơn 3,5 tỷ đồng. Bị cáo Hồng thừa nhận rất ăn năn, hối hận về hành vi phạm tội của mình. Việc bị cáo đứng tại tòa hôm nay là bài học cho bị cáo, cho các tổ chức phi lợi nhuận khác để họ vẫn tiếp tục sứ mệnh của mình và không vi phạm pháp luật.

          “Bị cáo mong HĐXX cân nhắc mức án nhẹ nhất để bị cáo trở về gia đình và tiếp tục đóng góp cho xã hội, đất nước” - bị cáo Hoàng Thị Minh Hồng nói lời sau cùng.

          HĐXX nhận định, lời khai nhận tội tại tòa của bị cáo Hoàng Thị Minh Hồng phù hợp kết quả điều tra và kết luận giám định nên cáo trạng truy tố bị cáo là có căn cứ. HĐXX áp dụng các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo như: thành khẩn khai báo, khắc phục hậu quả, được Chính phủ tặng Bằng khen... để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo. Sau khi áp dụng các tình tiết giảm nhẹ, HĐXX tuyên phạt bị cáo 3 năm tù về tội “trốn thuế”, phạt bổ sung 100 triệu đồng và bị cáo có trách nhiệm nộp lại hơn 6,7 tỷ đồng tiền trốn thuế.

          Trong quá trình cơ quan chức năng tiến hành khởi tố, bắt tạm giam, xét xử, tuyên phạt tù đối với bà Hoàng Thị Minh Hồng theo trình tự, quy định của pháp luật, chính bà Hồng đã thừa nhận hành vi phạm tội, tỏ rõ ăn năn, hối cải về việc làm sai trái của mình; hợp tác với cơ quan tiến hành tố tụng để mong muốn nhận được sự khoan hồng của pháp luật. Thế nhưng bất chấp thực tế ấy, các thế lực thù địch lại đưa ra những luận điệu sai trái, xuyên tạc bản chất vụ việc. Trên mạng xã hội của các tổ chức, hội nhóm vốn thù địch với Việt Nam xuất hiện nhiều bài viết với nội dung sai trái, xuyên tạc như “cấm cản những người hoạt động môi trường”; “không có tự do trong hoạt động môi trường”; “ở Việt Nam bị phạt tù chỉ vì lên tiếng bảo vệ môi trường”…

          Từ những luận điệu sai trái trên, họ dựng chuyện, vu cáo chính quyền Việt Nam “không quan tâm bảo vệ môi trường”, “bỏ tù nhà hoạt động môi trường”... Những hội nhóm “dân chủ” giả hiệu này lại lớn tiếng đòi thả tự do cho đối tượng phạm tội, cố tình phớt lờ bản chất vụ án. Các trang VOA, RFI, RFA đưa các bài viết dưới dạng “nhà hoạt động môi trường Hoàng Thị Minh Hồng bị kết án 3 năm tù”.

          Trước khi phiên tòa diễn ra, tổ chức Theo dõi Nhân quyền quốc tế (HRW) ra lời kêu gọi một cách phi lý rằng: “Chính phủ Việt Nam cần lập tức hủy bỏ mọi cáo buộc chống lại nhà hoạt động môi trường nổi tiếng Hoàng Thị Minh Hồng và trả tự do cho bà vô điều kiện”.

          Phía đại diện của tổ chức này còn lập luận quy chụp, vu cáo “chính quyền Việt Nam đang sử dụng luật thuế mơ hồ như một vũ khí để trừng phạt các nhà lãnh đạo môi trường mà Đảng Cộng sản cầm quyền coi là mối đe dọa đối với quyền lực của họ”. Ngay khi phiên tòa diễn ra và khi kết thúc, nhiều đối tượng chống đối, các tổ chức, trung tâm truyền thông thù địch lại tiếp tục “tô rồng, vẽ phượng” cho Hoàng Thị Minh Hồng, đưa ra những thông tin sai trái với luật pháp Việt Nam cũng như luật pháp quốc tế về xử lý các đối tượng có hành vi xâm phạm đến khách thể được pháp luật bảo vệ.

          Trong đó, bài viết trên RFI vu cáo: “Một tòa án ở Việt Nam hôm 28/9/2023 đã kết án bà Hoàng Thị Minh Hồng, một nhà hoạt động môi trường nổi tiếng 3 năm tù vì tội “trốn thuế”, một bản án minh họa cho bầu không khí đàn áp nhắm vào những nhà bảo vệ môi trường ở Việt Nam”. Bằng việc trích dẫn ý kiến sai trái, bài viết này đưa ra bình luận xuyên tạc: “Việt Nam thường xuyên bị các tổ chức bảo vệ nhân quyền cáo buộc đàn áp mọi tiếng nói bất đồng, đặc biệt là những tiếng nói lên án những hành động gây ảnh hưởng đến môi trường, tại một quốc gia mà việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường thường xung khắc với nhau”. Cùng phụ họa, tung hứng để tạo ra một chiến dịch truyền thông gây áp lực với Việt Nam là các đài RFA, VOA Tiếng Việt, Saigon Broadcasting Television Network...

          Trước đó, các đối tượng có hành vi trốn thuế hoạt động trong lĩnh vực bảo vệ môi trường như Ngụy Thị Khanh, Đặng Đình Bách, Mai Phan Lợi, Bạch Hùng Dương đều đã được điều tra, truy tố và xét xử theo đúng quy định pháp luật với các tài liệu, chứng cứ kết tội rõ ràng, khách quan. Trong đó bà Ngụy Thị Khanh phạm tội trốn thuế với số tiền 456 triệu đồng; ông Mai Phan Lợi, Bạch Hùng Dương trốn thuế gần 2 tỷ đồng và Đặng Đình Bách là 1,38 tỷ đồng. Vậy nhưng bất chấp thực tế đó, các đối tượng núp bóng dân chủ, nhân quyền vốn thù địch, định kiến, thiếu thiện chí với Việt Nam lại cố tình đánh tráo bản chất vụ việc, thực hiện mưu đồ kêu oan, tẩy trắng tội danh.

          Có thể thấy, các thế lực thù địch luôn lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội, trong đó có bảo vệ môi trường để chống phá Việt Nam. Không khó để hiểu vì sao những năm gần đây họ lại vin vào vấn đề môi trường, quyền con người trong lĩnh vực này để tìm cách xuyên tạc, đưa ra những luận điệu sai trái để đả phá. Bởi lẽ, vấn đề bảo vệ môi trường đang trở nên nóng hổi, bức thiết hơn bao giờ hết, luôn được các nước, tổ chức quốc tế quan tâm khi mà tình trạng ô nhiệm môi trường đang là vấn nạn của các quốc gia, thách thức toàn cầu. Mục đích của các thế lực thù địch đưa vấn đề quyền con người trong bảo vệ môi trường để tạo ra bức bình phong, vỏ bọc để dễ bề thực hiện âm mưu, thủ đoạn chống phá. Từ đó họ cố gắng “bẻ lái”, thay đổi sự thật nhằm tìm kiếm sự can thiệp từ bên ngoài vào nước ta, vu cáo “bắt bỏ tù nhà hoạt động môi trường” để gây sức ép, can thiệp vào công việc nội bộ Việt Nam. Từ đó, họ phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, bôi nhọ năng lực quản lý xã hội của Nhà nước; hạ thấp vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế. Còn ở trong nước, một số đối tượng cũng che đậy dưới danh nghĩa “hoạt động vì môi trường” để thực hiện hành vi chống đối, gây rối trật tự.

          Quyền con người về môi trường là một quyền cơ bản, được công nhận, tôn trọng, bảo vệ

          Đảng, Nhà nước ta luôn xác định bảo vệ môi trường và phát triển bền vững có mối quan hệ biện chứng với nhau. Trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng, mối quan hệ lớn “Giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội” được bổ sung thêm nội dung bảo vệ môi trường. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2021 - 2026 tiếp tục khẳng định: “Phát triển nhanh và bền vững…; phát triển hài hòa giữa kinh tế với văn hóa, xã hội, bảo vệ môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu”.

          Đối với quyền con người về môi trường và tiếp cận quyền con người trong bảo vệ môi trường là vấn đề mới với các quốc gia khác trên thế giới. Ngày 20/9/1977, nước ta gia nhập Liên hợp quốc. Quá trình phát triển đều xác định bảo vệ môi trường và quyền con người về môi trường là một nội dung được quan tâm, chú trọng trong chính sách pháp luật của Đảng, Nhà nước ta. Các bản Hiến pháp năm 1980, 1992, 2013 đều khẳng định trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong bảo vệ môi trường. Đặc biệt, Hiến pháp 2013 chính thức coi quyền con người về môi trường là một quyền cơ bản, được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm. Điều 43 quy định: “Mọi người có quyền được sống trong môi trường trong lành và có nghĩa vụ bảo vệ môi trường”.

          Trên tinh thần khẳng định quyền con người về môi trường của các bản hiến pháp, nhiều chính sách pháp luật cụ thể hóa Hiến pháp về bảo vệ môi trường được ban hành. Trong đó, vấn đề quyền con người trong bảo vệ môi trường không ngừng được bổ sung, hoàn thiện phù hợp với thực tiễn. Cho đến nay, quyền con người về môi trường được thể hiện trong nhiều văn bản pháp luật, từ Luật Điện lực sửa đổi 2012, Luật Thủy sản 2017, Luật Lâm nghiệp 2017, Luật Đo đạc và bản đồ 2018 đến Luật Bảo vệ môi trường 2020...

          Trong quá trình tham gia hợp tác quốc tế về bảo vệ môi trường, Việt Nam đã chứng minh là thành viên có trách nhiệm trong cuộc chiến chống ô nhiễm môi trường và biến đổi khí hậu toàn cầu, nỗ lực hoạt động và có nhiều sáng kiến thiết thực. Thể hiện qua các cam kết mạnh mẽ của Việt Nam như: Đưa phát thải ròng về “0” vào năm 2050; không xây mới điện than từ năm 2030 và loại bỏ dần điện than từ năm 2040; tuyên bố về rừng và sử dụng đất; tham gia liên minh thích ứng toàn cầu; giảm 30% khí thải metan vào năm 2030 so với mức năm 2020…

          Cần phải khẳng định, hành động vu cáo về dân chủ, nhân quyền, kêu gọi trả tự do cho Hoàng Thị Minh Hồng cũng như vu cáo trong các vụ việc tương tự còn ảnh hưởng đến tình hình chính trị, ngoại giao của Việt Nam. Việc một vụ án hình sự bị lợi dụng để hướng lái sang động cơ chính trị xấu có thể gây ra những quan điểm lệch lạc và chia rẽ trong dư luận xã hội. Điều này tác động đến lợi ích của quốc gia, hình ảnh, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Do đó, việc kêu gọi trả tự do hay đưa ra những luận điệu tuyên truyền sai sự thật dù là với động cơ, mục đích cá nhân hay chính trị đều là hành vi sai trái cần lên án. Chúng ta cần xây dựng một xã hội công bằng và tuân thủ luật pháp của mọi công dân, các giá trị dân chủ phải được hiểu và thực hiện đúng bản chất chứ không phải là sự bóp méo vì động cơ xấu.

          Biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường đang là trở ngại không nhỏ trong quá trình phát triển của các quốc gia. Nhận thức đầy đủ, sâu sắc vấn đề đó, Đảng, Nhà nước ta luôn đề cao, phát huy vai trò, trách nhiệm của mọi tổ chức, cá nhân nhằm chung tay xây dựng môi trường xanh, sạch, đẹp. Những tổ chức, cá nhân có những đóng góp tích cực, hiệu quả trong công tác bảo vệ môi trường đều được Nhà nước, nhân dân ghi nhận, tôn vinh. Pháp luật Việt Nam cũng quy định và xử lý nghiêm minh đối với các hành vi phạm pháp về môi trường, gây ô nhiễm môi trường, điển hình như việc xử lý vụ Công ty Formosa xả thải gây ô nhiễm môi trường biển nghiêm trọng ở 4 tỉnh miền Trung. Đồng thời, các cơ quan chức năng làm rõ, xử lý các hành vi lợi dụng danh nghĩa bảo vệ môi trường để phạm pháp, gây rối an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, trong đó có hành vi trốn thuế.

                                                                   Chu Thắng – Huân Nguyễn

Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng văn hóa con người

Hồ Chí Minh nêu văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do loài người sáng tạo ra với phương thức sử dụng chúng, nhằm đáp ứng lẽ sinh tồn, đồng thời đó cũng là mục đích của cuộc sống loài người. 1. Khái niệm văn hóa theo tư tưởng Hồ Chí Minh Khái niệm văn hóa có nội hàm phong phú và ngoại diên rất rộng, vì vậy có rất nhiều định nghĩa khác nhau về văn hóa. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, khái niệm văn hóa được hiểu theo cả ba nghĩa rộng, hẹp và rất hẹp. Theo nghĩa rộng, Hồ Chí Minh nêu văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do loài người sáng tạo ra với phương thức sử dụng chúng, nhằm đáp ứng lẽ sinh tồn, đồng thời đó cũng là mục đích của cuộc sống loài người. Người viết: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”. Định nghĩa về văn hóa của Hồ Chí Minh đã khắc phục được những quan niệm phiến diện về văn hóa trong lịch sử và hiện tại. Theo nghĩa hẹp, Người viết: “Trong công cuộc kiến thiết nước nhà, có bốn vấn đề cần chú ý đến, cũng phải coi là quan trọng ngang nhau: chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa. Nhưng văn hóa là một kiến trúc thượng tầng”. Theo nghĩa rất hẹp, văn hóa đơn giản là trình độ học vấn của con người, thể hiện ở việc Hồ Chí Minh yêu cầu mọi người phải đi học “văn hóa”, xóa mù chữ,… 2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng nền văn hóa mới Theo Hồ Chí Minh, nền văn hóa dân tộc phải được xây dựng trên năm điểm lớn sau đây: 1- Xây dựng tâm lý: tinh thần độc lập tự cường. 2- Xây dựng luân lý: biết hy sinh mình, làm lợi cho quần chúng. 3- Xây dựng xã hội: mọi sự nghiệp liên quan đến phúc lợi của nhân dân trong xã hội. 4- Xây dựng chính trị: dân quyền. 5- Xây dựng kinh tế”. Muốn xây dựng nền văn hóa dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh thì phải xây dựng trên tất cả các mặt kinh tế, chính trị, xã hội, đạo đức, tâm lý con người. 3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng con người 3.1- Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của con người Hồ Chí Minh khẳng định, con người là vốn quý nhất, nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp cách mạng. Theo Người, “vô luận việc gì, đều do người làm ra, và từ nhỏ đến to, từ gần đến xa, đều thế cả”. Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng. Con người là mục tiêu của cách mạng, nên mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Chính phủ đều vì lợi ích chính đáng của con người, có thể là lợi ích lâu dài, lợi ích trước mắt; lợi ích cả dân tộc và lợi ích của bộ phận, giai cấp, tầng lớp và cá nhân. Không phải mọi con người đều trở thành động lực mà phải là những con người được giác ngộ và tổ chức. Họ phải có trí tuệ và bản lĩnh, văn hóa, đạo đức, được nuôi dưỡng trên nền tảng truyền thống lịch sử và văn hóa hàng ngàn năm của dân tộc Việt Nam… Chính trị, văn hóa, tinh thần là động lực cơ bản trong động lực con người. Con người là động lực chỉ có thể thực hiện được khi họ hoạt động có tổ chức, có lãnh đạo. Vì vậy, cần có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. 3.2- Quan điểm của Hồ Chí Minh về chiến lược “trồng người” Hồ Chí Minh khẳng định: “Trồng người” là yêu cầu khách quan, vừa cấp bách, vừa lâu dài của cách mạng. Con người phải được đặt vào vị trí trung tâm của sự phát triển, vừa nằm trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước với nghĩa rộng, vừa nằm trong chiến lược giáo dục - đào tạo theo nghĩa hẹp… Trên con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội, “trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa”. Điều này cần được hiểu là ngay từ đầu phải đặt ra nhiệm vụ xây dựng con người có những phẩm chất cơ bản, tiêu biểu cho con người mới xã hội chủ nghĩa, làm gương, lôi cuốn xã hội. Đây là một quá trình lâu dài, phải không ngừng hoàn thiện, nâng cao; là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, gia đình và của chính bản thân mỗi người. Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người mới xã hội chủ nghĩa gồm hai mặt gắn bó chặt chẽ với nhau. Một là, kế thừa những giá trị tốt đẹp của con người truyền thống (Việt Nam và phương Đông). Hai là, hình thành những phẩm chất mới như: có tư tưởng xã hội chủ nghĩa; có đao đức xã hội chủ nghĩa; có trí tuệ và bản lĩnh để làm chủ (bản thân, gia đình, xã hội, thiên nhiên…); có tác phong xã hội chủ nghĩa; có lòng nhân ái, vị tha, độ lượng. Chiến lược “trồng người” là một trọng tâm, một bộ phận hợp thành của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Để thực hiện chiến lược “trồng người”, cần có nhiều biện pháp, nhưng giáo dục và đào tạo là biện pháp quan trọng bậc nhất. Bởi vì, giáo dục tốt sẽ tạo ra tính thiện, đem lại tương lai tươi sáng cho thanh niên. Ngược lại, giáo dục tồi sẽ ảnh hưởng xấu đến thanh niên. Nội dung và phương pháp giáo dục phải toàn diện, cả đức, trí, thể, mỹ; phải đặt đạo đức, lý tưởng và tình cảm cách mạng, lối sống xã hội chủ nghĩa lên hàng đầu. “Trồng người” là công việc “trăm năm”, không thể nóng vội “một sớm một chiều”, “việc học không bao giờ cùng, còn sống còn phải học”.

 

Giải quyết vấn đề lao động, việc làm, ứng phó biến đổi khí hậu vùng đồng bằng sông Cửu Long

(LLCT) - Đánh giá chính sách giải quyết vấn đề lao động, việc làm trước những tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu là yêu cầu quan trọng trong quá trình phát triển bền vững vùng Tây Nam Bộ. Bài viết đề cập đến những tác động của biến đổi khí hậu đến vấn đề lao động, việc làm ở đồng bằng sông Cửu Long và hệ thống giải pháp khắc phục.


1. Biến đổi khí hậu và những tác động đến vấn đề lao động, việc làm ở đồng bằng sông Cửu Long

Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) có vị thế địa - chính trị, địa - kinh tế, địa - văn hóa quan trọng của Việt Nam. Vùng có diện tích 40.572 km², có bờ biển dài trên 700 km với khoảng 360.000 km² khu vực đặc quyền kinh tế. Tây Nam Bộ là nơi sinh sống của 19,5% dân số cả nước, là vùng kinh tế nông nghiệp quan trọng nhất, chiếm 25,5% diện tích đất nông nghiệp của cả nước, đóng góp hơn 50% sản lượng lương thực và phần lớn nguồn gạo, thủy sản xuất khẩu của Việt Nam. 

Dân số khu vực Tây Nam Bộ chiếm tỷ trọng lớn. Tình trạng thiếu việc làm đang là vấn đề cấp bách hiện nay, khắc phục được tình trạng này sẽ ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của cả vùng. Để cải thiện tình trạng thất nghiệp, nâng cao mức sống và thu nhập, rút ngắn dần khoảng cách giữa nông thôn và thành thị đòi hỏi phải có những biện pháp tạo việc làm, thu hút lao động nông nghiệp, giảm dần tình trạng thất nghiệp ở nông thôn, nâng cao chất lượng nguồn lao động đáp ứng yêu cầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Theo nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới (WB) và Bộ Kế hoạch và đầu tư năm 2014, biến đổi khí hậu vùng Tây Nam Bộ đang đe dọa sự phát triển đất nước, vì hơn một nửa lực lượng lao động phụ thuộc vào tài nguyên thiên nhiên và đa số người dân sống ở các vùng ven biển và đồng bằng trũng thấp. Kịch bản biến đổi khí hậu chính thức dự kiến mức tăng nhiệt độ trung bình sẽ từ 0,6 đến 1,2°C vào năm 2040 và từ 1,1°C đến 3,6°C vào năm 2100. Người nghèo ở nông thôn Tây Nam Bộ là những đối tượng dễ bị tổn thương nhất. Quá trình tăng trưởng trong thời gian dài đã gây ra những chi phí môi trường khá lớn. Vùng nông thôn Tây Nam Bộ đang phải đối mặt với những rủi ro rất lớn. Lưu lượng nước mặt thay đổi tại các tỉnh ven biển như Trà Vinh, Bến Tre, Bạc Liêu… đang gây ra tình trạng xâm nhập mặn vào đất liền. Điều này ảnh hưởng đến độ phì nhiêu của đất và cân bằng muối, gây ra rủi ro đối với sinh vật, đặc biệt là thủy sản. Ngoài ra, các quốc gia trên thượng nguồn sông Cửu Long đã xây dựng một số công trình thuỷ lợi, thủy điện, làm giảm lượng nước chảy vào Việt Nam, đồng thời làm cho lượng nước biến động nhiều hơn, đe dọa trực tiếp đến tập quán, thói quen sản xuất của người dân vùng nông thôn Tây Nam Bộ(1).  

Tính đến quý II năm 2020, dân số từ 15 tuổi trở lên ước tính đạt gần 73,5 triệu người, trong đó 53,1 triệu người thuộc lực lượng lao động. Mặc dù, tiến trình đô thị hóa ở Việt Nam đã và đang diễn ra nhưng đến nay lao động nông thôn vẫn được xem là đông đảo, hiện chiếm khoảng 66,5% lực lượng lao độngTrong những năm qua, nông nghiệp, nông thôn Tây Nam Bộ đã đạt được những thành tựu nổi bật, trong đó lao động, việc làm (LĐVL) cũng có nhiều thay đổi, người dân năng động, chủ động, sáng tạo hơn trong nền kinh tế thị trường; việc làm ngày càng đa dạng, thu nhập của nông dân liên tục tăng.   

Trình độ học vấn của người lao động nông thôn vùng Tây Nam Bộ khá thấp nên năng lực tiếp thu và áp dụng tiến bộ KHCN vào sản xuất còn hạn chế, vẫn sản xuất nông nghiệp theo truyền thống. Hệ quả là giá bán nông sản bấp bênh bởi chất lượng thấp, thiếu đa dạng, không cạnh tranh được trên thị trường. Theo kết quả khảo sát, có 131 (4,1%) chủ hộ mù chữ; 1.341 (42%) chủ hộ có trình độ học vấn cấp 1; 1.165 (36,5%) chủ hộ có trình độ học vấn cấp 2; trong khi chỉ 490 (15,4%) chủ hộ có trình độ học vấn cấp 3 và số chủ hộ có trình độ học vấn cao hơn không đáng kể (bảng 1)(2).

Bảng 1Phân phối trình độ học vấn của chủ hộ theo cấp học

Cấp học

Số chủ hộ

Tỷ trọng (%)

Cấp học

Số chủ hộ

Tỷ trọng (%)

Sau đại học

2

0,1

Cấp 3

490

15,4

Đại học

28

0,9

Cấp 2

1.165

36,5

Cao đẳng

11

0,3

Cấp 1

1.341

42,0

Trung cấp

21

0,7

Mù chữ

131

4,1

 

 

 

Tổng cộng

3.189

100,0

Nguồn : Lê Khương Ninh, 2018.

Nhằm đưa Đề án 1956 vào cuộc sống, các địa phương tổ chức quán triệt và thống nhất chỉ đạo, triển khai trên địa bàn thông qua ban hành các chỉ thị, nghị quyết của tỉnh ủy, hội đồng nhân dân (HĐND), các quyết định, kế hoạch và văn bản chỉ đạo của ủy ban nhân dân tỉnh (UBND) về triển khai, thực hiện Đề án 1956. Để thực hiện được mục tiêu trên, Đề án đưa ra 3 nhóm chính sách (đối với người học, người dạy và cơ sở đào tạo), 5 nhóm giải pháp, 8 nhóm hoạt động dạy nghề cho lao động nông thôn và 4 nhóm hoạt động đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức xã. Kinh phí thực hiện Đề án giai đoạn 2009-2020 là 25.980 tỷ đồng (bình quân mỗi năm khoảng 2.363 tỷ đồng; giai đoạn 2009-2011 đã được bố trí khoảng 2.800 tỷ đồng).

Để hỗ trợ người dân giải quyết việc làm, chính sách tín dụng của Nhà nước được đánh giá khá tốt. Theo khảo sát năm 2020, tại 6 tỉnh vùng Tây Nam Bộ, tỷ lệ người trả lời đồng ý cao ở tất cả các nhận định tích cực được đưa ra (khoảng 45%). Tỷ lệ người trả lời không đồng ý chỉ đạt xấp xỉ 30% tại các nhận định và tỷ lệ người trả lời không có ý kiến đạt xấp xỉ 20% tại các nhận định. Khảo sát này cho thấy, chính sách đất đai được đánh giá cao ở tính minh bạch và khả năng chuyển nhượng tại các địa phương. Điều này được thể hiện ở tỷ lệ người trả lời đồng ý đạt tỷ lệ cao nhất (trên 40%). Trong khi đó, khả năng tiếp cận đất đai của doanh nghiệp được đánh giá là không thuận lợi (41.8%)(3). Tây Nam Bộ là vùng có diện tích đất sản xuất lớn, đạt 76,3% diện tích đất tự nhiên là đất sản xuất (Niên giám thống kê cả nước 2019) do vậy, khả năng thiếu đất sản xuất cho người lao động ít xảy ra.  

Trong những năm qua, các trung tâm dịch vụ việc làm, trung tâm hướng nghiệp, dạy nghề và giới thiệu việc làm ở các tỉnh khu vực Tây Nam Bộ đã được quan tâm đầu tư nhằm nâng cao năng lực tư vấn, giới thiệu việc làm và cung cấp thông tin thị trường lao động; đào tạo kỹ năng cho người lao động; thực hiện các chương trình, dự án việc làm. Số lao động tìm việc làm, số doanh nghiệp tuyển dụng lao động qua hệ thống các trung tâm đều tăng qua các năm. Các trung tâm tư vấn việc làm chưa thật sự là cầu nối giữa người lao động và người sử dụng lao động do thủ tục, hồ sơ còn phức tạp. Thời gian giải quyết hồ sơ kéo dài. Bên cạnh đó, các trung tâm tư vấn việc làm có thu phí dịch vụ của người lao động nên hạn chế số lượng người lao động sử dụng dịch vụ. Phần lớn lao động nông thôn vẫn tiếp cận việc làm qua hình thức người quen giới thiệu hoặc bảng tin trực tiếp tại các đơn vị tuyển dụng là chủ yếu.

 Mặc dù Tây Nam Bộ có nguồn lao động đồi dào nhưng hiện nay chất lượng nguồn nhân lực được đánh giá là thấp nhất cả nước. Tỷ lệ thất nghiệp có xu hướng giảm theo từng năm nhưng vẫn cao nhất so với các vùng khác trên toàn quốc. Các chính sách của Nhà nước đã tạo ra môi trường pháp lý tốt cho người lao động, tuy nhiên vẫn còn một số chính sách chưa thực sự phát huy hết hiệu quả và chưa được áp dụng triệt để đối với người lao động như các chính sách về đào tạo nghề, xúc tiến việc làm.  

Những hạn chế trên bắt nguồn từ các nguyên nhân sau đây:

Thứ nhất, chất lượng giáo dục - đào tạo, dạy nghề của vùng nông thôn Tây Nam Bộ còn hạn chế nên chưa tạo ra nền tảng cơ bản phát triển nghề nghiệp.

Thứ hai, nhận thức về việc học nghề, trình độ của người lao động nông thôn vùng Tây Nam Bộ còn hạn chế. Nhiều học sinh sau khi tốt nghiệp trung học phổ thông nếu không đỗ vào các trường công lập có uy tín thì sẽ không tiếp tục việc học. Một bộ phận không nhỏ người dân trong khu vực chưa thực sự coi trọng việc học tập, nâng cao trình độ để tăng cơ hội tìm việc làm, thay vào đó là tâm lý học cho xong chương trình để có bằng cấp, chứng chỉ. Coi đào tạo nghề chỉ là cứu cánh, có tính thời điểm, không phải là vấn đề quan tâm thường xuyên, liên tục và có hệ thống.

Thứ ba, thiếu sự liên kết giữa người lao động, trung tâm xúc tiến việc làm với người sử dụng lao động.    

Thứ tư, khó khăn trong cân đối ngân sách đầu tư phát triển ở nông thôn vùng Tây Nam Bộ. 

Thứ năm, cơ cấu kinh tế bất hợp lý, chậm chuyển dịch. Quá trình chuyển dịch  diễn ra chậm được xác định nguyên nhân một phần là do nguồn nhân lực, một phần do chủ trương chưa quyết liệt, cơ chế, chính sách kèm theo chưa phù hợp. Để phát triển nông nghiệp, đặc biệt là nông nghiệp công nghệ cao và công nghiệp, dịch vụ thì nguồn lao động chất lượng cao là điều kiện không thể thiếu. Tuy nhiên, chính vì sự chậm chuyển dịch này đã không tạo ra được động lực phát triển qua đó góp phần giải quyết vấn đề LĐVL.

2. Giải pháp giải quyết vấn đề lao động, việc làm ứng phó với biến đổi khí hậu ở vùng Tây Nam Bộ

BĐKH đã, đang và sẽ tạo ra những thách thức, tác động đến mọi mặt đời sống kinh tế - văn hóa - xã hội của vùng, trong đó nổi bật là vấn đề LĐVL của người nông dân ở nông thôn. Thách thức trực tiếp của BĐKH đến vấn đề LĐVL của người nông dân vùng Tây Nam Bộ đến từ việc suy giảm năng suất cây trồng, vật nuôi, đặc biệt là lúa nước, tình trạng canh tác hạn chế hoặc phải chuyển đổi mùa vụ do sự xâm nhập mặn, dịch bệnh, tình trạng mất đất sản xuất do nước mặn, do sạt lở... Những tác động tiêu cực này gây nên những khó khăn trong giải quyết vấn đề LĐVL. Những thách thức đó của BĐKH đến giải quyết vấn đề LĐVL cho người nông dân ở nông thôn vùng Tây Nam Bộ đòi hỏi các chủ thể cùng chung tay giải quyết, chủ động thích ứng với BĐKH, đặc biệt là sự chủ động, có kế hoạch toàn diện, lâu dài của Chính phủ và chính quyền các địa phương. Để thực hiện tốt vấn đề này, trong những năm tới cần giải quyết tốt một số vấn đề sau đây:

Thứ nhất, đẩy nhanh tiến độ quy hoạch tổng thể phát triển bền vững vùng Tây Nam Bộ thích ứng với BĐKH, phù hợp với điều kiện của vùng trên cơ sở tích hợp thống nhất các quy hoạch ngành, địa phương và sản phẩm chủ lực; hình thành các lãnh thổ trọng điểm.Từ quy hoạch tổng thể để tổ chức, phát triển hệ thống đô thị và điểm dân cư nông thôn phù hợp với đặc điểm hệ sinh thái tự nhiên, điều kiện cụ thể của vùng và từng tiểu vùng sinh thái; rà soát, hoàn thiện quy hoạch sử dụng đất, bố trí lại dân cư. Hình thành và phát triển các lãnh thổ trọng điểm ở vùng cần thực hiện theo hướng: (i) phát huy đúng mức vai trò của vùng kinh tế trọng điểm vùng Tây Nam Bộ; (ii) xây dựng thành phố Cần Thơ trở thành thành phố sinh thái, văn minh, hiện đại mang đậm bản sắc văn hóa sông nước Tây Nam Bộ; là đô thị hạt nhân vùng ĐBSCL;(iii) xây dựng Phú Quốc trở thành trung tâm du lịch sinh thái chất lượng cao, trung tâm giao thương lớn của vùng, cả nước và khu vực; (iv) phát triển các khu kinh tế ven biển như khu kinh tế Định An (Trà Vinh), khu kinh tế Năm Căn (Cà Mau).

Thứ hai, tăng cường xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng, nhất là hạ tầng giao thông vận tải. Hiện nay, sự chưa đồng bộ và bất cập về hệ thống giao thông vận tải được coi là một trong những nút thắt lớn nhất đối với sự phát triển cũng như quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn vùng Tây Nam Bộ. Tập trung nguồn lực và đẩy nhanh việc thực hiện các dự án phát triển kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp thích ứng với biến đổi khí hậu và hạn mặn, trong đó cần đặc biệt đẩy nhanh tiến độ thực hiện đề án Hiện đại hóa hệ thống thủy lợi phục vụ chuyển đổi, phát triển nông nghiệp bền vững tại các tiểu vùng sinh thái vùng đồng bằng sông Cửu Long; tập trung nguồn lực để sửa chữa, nâng cấp, xây dựng mới công trình để bảo đảm khả năng kiểm soát nguồn nước, chất lượng nước liên vùng, chủ động điều hòa, phân phối nguồn nước hợp lý cho các đối tượng sử dụng nước ở các vùng: vùng thượng, vùng giữa, vùng ven biển; đầu tư, nâng cấp hệ thống tiếp ngọt; nâng cấp hoàn thiện công trình kiểm soát triều cường; công trình chuyển nước ngọt liên vùng cho vùng nuôi trồng thủy sản; xây dựng các hồ trữ nước để tạo nguồn cấp nước sinh hoạt...

Thứ ba, tăng cường huy động nguồn lực và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư. Thực hiện các giải pháp: (i) Nhà nước tăng cường đầu tư vào các công trình thuộc kết cấu hạ tầng sản xuất của vùng, nhất là hệ thống giao thông, thủy lợi bằng nhiều cơ chế tài chính như:tín dụng đầu phát triển của Nhà nước,hỗ trợ phát triển chính thức (ODA),vốn tự có của các doanh nghiệp nhà nướcvốn vaytừngân hàng thương mại và vốn vay từ các nguồn khác,huy động nguồn vốn của khu vực tư nhân trong nước.

Thứ tư, phát triển doanh nghiệp khu vực kinh tế tư nhân, thông qua: (i) khuyến khích các doanh nghiệp phát triển trong lĩnh vực nông nghiệp và du lịch trên cơ sở một hệ thống thuế thu nhập doanh nghiệp riêng; (ii) thống nhất và hợp nhất các chương trình phát triển doanh nghiệp quốc gia, bảo đảm cơ hội thực sự cho doanh nghiệp vay vốn để phát triển; (iii) xây dựng các phòng thí nghiệm trong lĩnh vực khoa học tự nhiên nhằm góp phần hỗ trợ doanh nghiệp trong nghiên cứu sáng tạo; (iv) khuyến khích thành lập mới doanh nghiệp, khuyến khích các hộ kinh doanh cá thể chuyển đổi sang hình thức doanh nghiệp; (v) đơn giản hóa thủ tục hành chính; (vi) có sự hỗ trợ kịp thời đối với doanh nghiệp đang hoạt động.

Thứ năm, coi trọng phát triển khoa học và công nghệ để thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tăng trưởng theo hướng gia tăng đóng góp của yếu tố TFP trong tăng trưởng. Để phát triển KHCNnghệ vùng, cần giải quyết ba vấn đề cơ bản, đó là: (i) tăng cường hoạt động KHCNtheo hướng đầu tư củng cố các cơ sở nghiên cứu khoa học trong vùng, đặc biệt ưu tiên cho các cơ sở nghiên cứu về nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản; (ii)đẩy mạnh ứng dụng các kết quả nghiên cứu khoa học và công nghệ vào sản xuất theo hướng có chính sách khuyến khích; (iii) phát triển thị trường KHCNtheo hướngkhuyến khích ký hợp đồng nghiên cứu và triển khai giữa các cơ sở nghiên cứu khoa học trong vùng và ngoài vùng với các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất trong vùng.

Thứ sáu, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng quá trình CNH-HĐHtheo hướng: (i) mở rộng quy mô đào tạo thông qua tiếp tục mở rộng quy mô nhằm tăng nhanh tỷ trọng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật trong tổng lao động xã hội; (ii) điều chỉnh cơ cấu trình độ và ngành nghề theo hướng phù hợp với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.; (iii) nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục; đổi mới nội dung; thường xuyên cập nhật những thành tựu mới nhất trong lĩnh vực khoa học và công nghệ; xây dựng chuẩn đầu ra riêng để bảo đảm người học sau khi ra trường có đủ kỹ năng mà nhà tuyển dụng yêu cầu…; (iv) có các chính sách đãi ngộ thu hút nhân tài và lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật.

Thứ bảy, mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hóa và dịch vụ; hoàn thiện chính sách ưu đãi về thuế, tín dụng thông qua: (i) nâng cao năng lực dự báo nhu cầu của thị trường trong nước và nước ngoài để định hướng đúng loại sản phẩm; (ii) hỗ trợ các doanh nghiệp tham gia hội chợ, triển lãm trong nước và nước ngoài; (iii) phát triển mạng lưới lưu thông hàng nông - lâm - thủy sản trong vùng một cách hợp lý; (iv) duy trì và phát triển các thị trường xuất khẩu hiện có, mở rộng các thị trường mới cho một số mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của vùng, như gạo, rau quả, thủy sản, hàng may mặc và giày dép.

Thứ támđổi mới tư duy về phát triển nông nghiệp ở vùng Tây Nam Bộ. Trong thời kỳ dài trước đây, vùng Tây Nam bộ là nơi bảo đảm an ninh lương thực cho cả nước. Do đó, toàn vùngcoi trọng phát triển nông nghiệp theo hướng độc canh cây lúa. Cần thay đổi tư duy trong phát triển nông nghiệp ở vùng Tây Nam Bộ từ chỗ coi trọng độc canh cây lúa sang nền nông nghiệp hàng hóa có cơ cấu phù hợp, “thuận thiên”.

Thứ chín, phát triển thông tin thị trường lao động, hoàn thiện hệ thống giao dịch chính thức trên thị trường lao động cho lao động nông thôn. Chính quyền địa phương các tỉnh, thành vùng Tây Nam Bộ cần đẩy mạnh phát triển hệ thống thông tin thị trường lao động nhằm giúp các cơ sở đào tạo và người lao động các nước có đầy đủ thông tin cần thiết về thị trường lao động trong nước và nước ngoài, trong đó chú trọng xây dựng được kho dữ liệu cung - cầu lao động của thị trường lao động, quamột số giải pháp cơ bản như:rà soát quy hoạch, củng cố sắp xếp hệ thống giới thiệu việc làm, mạng lưới trung tâm giới thiệu việc làm cũng như nâng cao chất lượng hoạt động của các sàn giao dịch việc làm. Tăng cường sự phối hợp giữa các bên và sự kết nối các cấp trong thu thập và giới thiệu thông tin. Theo đó, UBND cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã cần kết nối tốt đểxây dựng và tổ chức thu thập, cập nhật, lưu trữ, tổng hợp dữ liệu thông tin thị trường lao động, phục vụ xây dựng chính sách, quản trị thị trường lao động trên cơ sở tối ưu hóa việc kết nối, chia sẻ với dữ liệu đã có. 

Thứ mười, thiết lập và hoàn thiện cơ chế tài chính thúc đẩy giải quyết lao động, việc làm ở nông thôn thông qua đổi mới và hoàn thiện cơ chế chính sách về tài chính, cụ thể: (i) hoàn thiện cơ chế tài chính theo hướng có nhiều ưu đãi về vốn vay, thời hạn cho vay, mức cho vay nhằm thúc đẩy doanh nghiệp và tư nhân tham gia đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng; (ii) hoàn thiện và thiết lập cơ chế tài chính theo hướng ưu đãi về thuế, tài chính, đất đai… nhằm thu hút doanh nghiệp đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh trên địa bàn khu vực nông thôn, nhất là sử dụng nguyên liệu và lao động ở khu vực nông thôn; (iii) hoàn thiện cơ chế tài chính theo hướng có nhiều ưu đãi về thuế, tín dụng, đất đai nhằm thúc đẩy phát triển du lịch nông thôn cũng như thúc đẩy cư dân nông thôn vùng Tây Nam Bộ phát triển kinh tế phi nông nghiệp, nhất là phát triển tiểu thủ công nghiệp; (iv) hoàn thiện và thiết lập cơ chế tài chính nhằm bảo đảm việc tiếp cận vốn sản xuất cho hộ gia đình nghèo; (v) thiết lập và hoàn thiện cơ chế tài chính nhằm thúc đẩy doanh nghiệp tư nhân đầu tư vào lĩnh vực dạy nghề.

Những thách thức của biến đổi khí hậu đến giải quyết vấn đề lao động, việc làm cho người nông dân ở nông thôn vùng Tây Nam Bộ đòi hỏi các chủ thể cùng chung tay giải quyết, chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu, đặc biệt là sự chủ động, có kế hoạch toàn diện, lâu dài của Chính phủ và chính quyền các địa phương.

__________________

(1)  World Bank, Bộ Kế hoạch và Đầu tư: Việt Nam 2035: Hướng tới thịnh vượng, công bằng và dân chủ, Nxb Hồng Đức, 2014.

(2)  Lê Khương Ninh: Lao động và sinh kế ở nông thôn đồng bằng sông Cửu Long, Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Giải quyết vấn đề lao động, việc làm ở nông thôn vùng Tây Nam Bộ - Thực trạng và giải pháp”, Cần Thơ, 2019.

Học viện Chính trị khu vực IV: Báo cáo kết quả điều tra, khảo sát lao động, việc làm tại các tỉnh Long An, Tiền Giang, Sóc Trăng, Trà Vinh, Hậu Giang, TP Cần Thơ, Cần Thơ, 2020.                                         

Nguồn:   TS TRẦN MAI HÙNG

                                          Viện Chính trị học,

                                             Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

 

Chiến thắng Điện Biên Phủ - biểu tượng sức mạnh dân tộc Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh

(LLCT) - Chiến thắng Điện Biên Phủ là đỉnh cao của chiến công giữ nước, giải phóng dân tộc của Việt Nam, bổ sung, làm phong phú và nâng cao các giá trị truyền thống của dân tộc. Trong quá trình lãnh đạo cuộc kháng chiến cứu nước, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khơi dậy, quy tụ sức mạnh tiềm tàng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, chuyển hóa thành sức mạnh trong thực tiễn chiến đấu, làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ vĩ đại.


1. Điện Biên Phủ - Chiến thắng của khát vọng độc lập, tự do, truyền thống yêu nước, đoàn kết và ý chí tự lực tự cường

Chiến thắng Điện Biên Phủ thể hiện sức mạnh, ý chí của một dân tộc quyết tâm thoát khỏi cuộc đời nô lệ. Theo thuyết “Thách thức và ứng phó” của nhà nghiên cứu văn hóa lớn thế kỷ XX là A.Toynbee, biết cách ứng phó và vượt qua những thách thức, cùng với những đặc điểm khác của dân tộc, nhân dân Việt Nam đã tạo nên bản lĩnh kiên cường, rèn đúc nên nhiều truyền thống tốt đẹp, nhiều giá trị văn hóa quý giá, trong đó nổi bật là chủ nghĩa yêu nước, ý thức tự lực tự cường, truyền thống đoàn kết vì đại nghĩa dân tộc, quyết tâm chiến đấu vì độc lập, tự do và hòa bình.

Đây là chiến thắng của dân tộc Việt Nam, một dân tộc có hàng nghìn  năm lịch sử, mà thời gian dành cho những cuộc kháng chiến chiếm hơn một nửa thời gian dựng nước và giữ nước. Kể từ cuộc kháng chiến chống Tần cuối thế kỷ III trước Công nguyên đến những cuộc kháng chiến vừa kết thúc trong thế kỷ XX, dân tộc ta đã phải tiến hành hàng chục cuộc kháng chiến, cùng hàng trăm cuộc khởi nghĩa và đấu tranh chống đô hộ nước ngoài. Điều đặc biệt là dân tộc Việt Nam đã phải tiến hành những cuộc chiến tranh giữ nước trong điều kiện hết sức khó khăn, với kẻ xâm lược là những đế quốc lớn mạnh, và với so sánh lực lượng quá chênh lệch. Những điều kiện khắc nghiệt của chiến tranh đã hun đúc nên ở dân tộc ta truyền thống yêu nước, ý chí quyết chiến, quyết thắng vì độc lập, tự do và lòng yêu hòa bình. Tuy trải qua hơn một nghìn năm Bắc thuộc, dân tộc ta vẫn vượt qua mọi thử thách, giành thắng lợi, giữ vững độc lập dân tộc, bản sắc và cốt cách Việt Nam. Lịch sử chống ngoại xâm là một bộ phận của lịch sử Việt Nam và tạo thành dòng lịch sử anh hùng của dân tộc. Chiến thắng Điện Biên Phủ là sự kế thừa, phát triển những chiến thắng trong lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc.

Chiến thắng Điện Biên Phủ là chiến thắng của sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, tổ chức và động viên truyền thống yêu nước. Kế thừa truyền thống đánh giặc của dân tộc và tiếp thu tinh hoa quân sự thế giới, Đảng đã lãnh đạo thực hiện toàn dân kháng chiến với mục tiêu cao cả là giải phóng dân tộc, đã thu hút mọi tầng lớp nhân dân, toàn dân tộc tham gia.

Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã động viên được sức mạnh của toàn quân, toàn dân, từ tiền tuyến đến hậu phương vào trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ. Lần đầu tiên, ta tập trung gần 5 sư đoàn chủ lực  vào một trận đánh, động viên các chiến trường trong cả nước và hai nước bạn Lào, Campuchia chiến đấu phối hợp với chiến trường chính. Với khẩu hiệu Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng, nhân dân các dân tộc khắc phục khó khăn, ngày đêm phục vụ chiến dịch. Hàng chục vạn đồng bào đã hăng hái đi dân công, thanh niên xung phong, tham gia làm đường, vận tải, phục vụ chiến trường, bảo đảm hậu cần cho một mặt trận xa hậu phương hàng trăm kilômét, trong điều kiện đường sá khó khăn, phương tiện vận tải thô sơ, địch đánh phá ác liệt. Ta đã làm được một việc mà kẻ thù không thể ngờ là có thể làm được.

Số vật chất và nhân lực mà đồng bào Tây Bắc, Việt Bắc, Liên khu III và Liên khu IV đóng góp cho chiến dịch là rất lớn, bảo đảm sức khoẻ cho bộ đội xây dựng trận địa và chiến đấu ròng rã trong nhiều tháng. Các địa phương đã huy động trên 26 vạn dân công (trên 14 triệu ngày công), cả vùng tự do và vùng tạm bị chiếm, phục vụ tiền tuyến. Huy động 20.991 xe đạp thồ và hàng chục nghìn phương tiện vận chuyển thô sơ và nửa thô sơ; cung cấp cho chiến dịch 250.056 tấn lương thực, 907 tấn thịt và hàng nghìn tấn thực phẩm khác (số huy động tại gốc). Tính riêng số vật phẩm chuyển được ra mặt trận là hơn 20 nghìn tấn(1).

Riêng đồng bào các dân tộc Tây Bắc đã đóng góp 7.310 tấn gạo, 389 tấn thịt, 700 - 800 tấn rau xanh; 31.818 dân công (1.296.078 ngày công) vận chuyển, sửa chữa cầu đường, xây dựng kho lán(2). Trước yêu cầu to lớn và khẩn trương của chiến dịch, từng đoàn dân công Việt Bắc ngày đêm vượt núi, băng rừng, vận chuyển vũ khí và lương thực... Nhiều tổ, đội nhân dân được lập ra đầy sáng tạo, ngày đêm bám sát bảo vệ các cung đường, bảo đảm giao thông thường xuyên thông suốt.

2. Chiến thắng của tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối cách mạng của Đảng

Chiến thắng Điện Biên Phủ hội tụ sức mạnh cao nhất của dân tộc, bắt nguồn từ sức mạnh của đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, đường lối kháng chiến của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Thể hiện ở đường lối chính trị, đường lối quân sự đúng đắn, ở sự chỉ đạo chiến lược tài tình mà điều quan trọng là vai trò tiên phong gương mẫu của cán bộ, đảng viên.

Ngay từ đầu, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh sớm xác định những vấn đề căn cốt nhất để lãnh đạo, tổ chức toàn dân, toàn quân ta trong cuộc kháng chiến trường kỳ. Tư tưởng chỉ đạo và đường lối kháng chiến được thể hiện qua Chỉ thị “Kháng chiến kiến quốc” ngày 25-11-1945; văn kiện “Công việc khẩn cấp bây giờ” ngày 5-11-1946 và được hoàn chỉnh tại Hội nghị Thường vụ Trung ương (mở rộng) ngày 17 và 18-12-1946, trong Chỉ thị “Toàn dân kháng chiến” của Thường vụ Trung ương Đảng, trong “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nội dung cốt lõi của đường lối và tư tưởng chỉ đạo kháng chiến là “toàn dân, toàn diện, trường kỳ, dựa vào sức mình là chính”. Đường lối đó phù hợp với tình hình thực tế cách mạng Việt Nam thời kỳ này, và đáp ứng nguyện vọng của nhân dân, của mọi người Việt Nam yêu nước.

Xuất phát từ đường lối đúng đắn, Đảng đã động viên, tổ chức toàn dân tộc vào công cuộc kháng chiến, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân ba thứ quân làm nòng cốt của cuộc kháng chiến. Qua quá trình vừa xây dựng, vừa chiến đấu, lực lượng vũ trang nhân dân đã lớn mạnh cả về lực lượng và tổ chức, có bản lĩnh chính trị vững vàng, kinh nghiệm chỉ huy và chiến đấu phong phú, được trang bị vũ khí, khí tài ngày một tốt (trong đó một phần là lấy được của địch). Cùng với bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương là lực lượng dân quân, du kích hùng hậu, đông đảo, rộng khắp, kiên cường trụ bám bảo vệ bản làng, chiến đấu phối hợp với bộ đội và là nguồn bổ sung phát triển quân đội. Henri Nava, Tư lệnh quân viễn chinh Pháp đã thừa nhận tính hiệu quả, hợp lý của lực lượng kháng chiến: “tổ chức lực lượng vũ trang và một bộ máy quân sự hoàn toàn thích hợp (tác giả nhấn mạnh)... là một “hình chóp nón sống “bám rễ sâu trong nhân dân. Tầng tháp bên dưới là du kích... tầng trên họ là bộ đội địa phương..., đỉnh tháp là bộ đội chính quy”(3).

Ta đã sớm xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân rộng khắp vững chắc với phương châm “mỗi người dân là một chiến sĩ, mỗi chi bộ là một bộ tham mưu”. Trước thế trận chiến tranh nhân dân, quân Pháp đông mà hóa ít; muốn tập trung lực lượng lại phải phân tán đóng giữ, đối phó; muốn chủ động cơ động mở tiến công lớn hoặc ứng cứu đồng đội, lại bị lực lượng kháng chiến tại chỗ, bị chiến tranh du kích kìm chân. Sự chỉ đạo và hoạt động của quân và dân ta trên các mặt trận khắp cả nước đã khoét sâu vào tử huyệt của địch - mâu thuẫn giữa tập trung và phân tán lực lượng; phá vỡ khối quân cơ động đang được tập hợp, buộc quân địch phải phân tán đối phó trên khắp chiến trường Đông Dương.

Trong chiến cuộc Đông - Xuân 1953 - 1954, chiến tranh du kích đã tiêu diệt khoảng hai phần ba (8 vạn) số địch bị diệt trên toàn Đông Dương, “góp phần quyết định vào việc đánh bại kế hoạch Na va”(4). Hiệu quả của thế trận chiến tranh nhân dân rộng khắp, đan cài và rất hiểm của ta đã khiến bộ chỉ huy Pháp cực kỳ lúng túng, càng gỡ càng rối. Tướng tài của quân đội Pháp, từng tham gia Chiến tranh thế giới thứ I và thứ II tỏ ra bất lực, viết: Đồng bằng Bắc Bộ chính là nơi bị “ruỗng nát” lớn nhất, đại bộ phận quân tinh nhuệ Pháp (khoảng 100 nghìn quân) bị giữ chân ở đây. Trong khoảng 7 nghìn làng thì họ kiểm soát được 5 nghìn làng. Hậu quả trầm trọng nhất của tình trạng trên là 9 phần 10 lực lượng của Pháp bị giam chân vào nhiệm vụ chiếm đóng, hoặc có cơ động thì cũng rất hạn chế(5), “chúng ta đã bị dồn tới chân tường”(6).

Chủ động điều khiển chiến trường, làm xoay chuyển tình thế chiến lược đã thể hiện sinh động sự chỉ đạo chiến lược vừa cách mạng vừa khoa học của Đảng; là “cái tinh túy nhất và cũng là nét đặc sắc nhất của sự chỉ đạo chiến lược đó là luôn luôn chủ động, luôn luôn tiến công... Nắm vững quyền chủ động là biểu hiện tập trung của quyết tâm làm chủ trong chiến tranh, là biểu hiện cao nhất của tư tưởng chiến lược tiến công”(7).

Điện Biên Phủ, một trong năm nơi mà H.Nava phải điều lực lượng lớn quân cơ động chiến lược đến chiếm đóng, xây dựng thành một tập đoàn cứ điểm mạnh nhất ở Đông Dương. H.Nava cũng như Pháp và Mỹ đánh giá đây là một hệ thống phòng thủ vững chắc mà đối phương không thể công phá được.

Trên cơ sở những chiến thắng trong Đông - Xuân 1953 - 1954, với thế và lực mới, Bộ Chính trị và Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định chọn Điện Biên Phủ làm điểm quyết chiến chiến lược, kết thúc cuộc kháng chiến trường kỳ.

Ở Điện Biên Phủ, ban đầu, Ban Tham mưu chiến dịch và cố vấn bạn đề xuất phương án tác chiến đánh nhanh giải quyết nhanh, dự kiến đánh trong ba đêm hai ngày. Khi đó, địch mới đổ xuống Mường Thanh 6 tiểu đoàn, trong trạng thái lâm thời phòng ngự, công sự dã chiến, ta còn giữ được bí mật để giành bất ngờ. Nhưng đến giữa tháng 1-1954, khi ta sắp mở màn chiến dịch, thì địch đã tập trung về đây một lực lượng lớn, xây dựng Điện Biên Phủ thành một tập đoàn cứ điểm kiên cố.

Bộ đội ta, ý chí chiến đấu rất cao, đã phát triển mạnh mẽ, nhưng chưa có khả năng trong thời gian ngắn, tiêu diệt hàng chục tiểu đoàn địch phòng ngự trong một tập đoàn cứ điểm với binh lực, hoả lực mạnh, có công sự vững chắc, hệ thống vật cản dày đặc... Qua kết quả nghiên cứu chiến trường, phân tích ý kiến của nhiều chỉ huy, Đại tướng Võ Nguyên Giáp khẳng định nếu đánh nhanh thắng nhanh sẽ là mạo hiểm, thì tổn thất rất lớn, và không hoàn thành nhiệm vụ(8). Đại tướng ghi nhớ lời dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh trước khi ra trận: “Trận này rất quan trọng, phải đánh cho thắng. Phải chắc thắng mới đánh, không chắc không đánh… Tướng quân tại ngoại, giao cho chú toàn quyền. Có vấn đề gì khó khăn, bàn thống nhất trong Đảng uỷ, thống nhất với cố vấn thì cứ quyết định rồi báo cáo sau”(9).

Ngày 26-1-1954, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Chỉ huy trưởng kiêm Bí thư Đảng ủy Mặt trận Điện Biên Phủ đã triệu tập họp đột xuất Đảng ủy Mặt trận, đi đến quyết chọn phương án đánh chắc, tiến chắc(10), và ra lệnh hoãn cuộc tiến công, các đơn vị lùi về ví trí tập kết, kéo pháo ra và chuẩn bị lại theo phương án mới. Nhờ chuyển sang đánh theo phương châm đánh chắc, tiến chắc(10), quân ta đã làm hạn chế tối đa chỗ mạnh của địch và khắc phục hiệu quả điểm yếu, phát huy mạnh mẽ sở trường của ta để giành thắng lợi. Trên thực tế, việc chuyển sang phương châm đánh chắc, tiến chắc là sự quán triệt tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh, với cách đánh truyền thống Việt Nam, thể hiện sự chỉ đạo của Trung ương Đảng và Bộ Chính trị được xác định trong Hội nghị Trung ương 4 khoá II (1-1953), Hội nghị Bộ Chính trị (cuối tháng 9, đầu tháng 10-1953) ở Tỉn Keo, Hội nghị Bộ Chính trị thông qua kế hoạch tác chiến Đông - Xuân 1953 - 1 954…

Chiến thắng Đông Xuân 1953 - 1954 mà đỉnh cao là Điện Biên Phủ - là đòn quyết chiến chiến lược đập tan tập đoàn cứ điểm mạnh nhất của Pháp ở Đông Dương, diệt và bắt sống toàn bộ 16 nghìn quân địch, đại bộ phận là lính Âu Phi tinh nhuệ. Mặc dù còn hơn 44 vạn quân, nhưng Pháp không còn ý chí tiếp tục cuộc chiến tranh, buộc phải ký hiệp định đình chiến, kết thúc chiến tranh xâm lược ở Đông Dương.

3. Chiến thắng của sự cộng hưởng sức mạnh dân tộc và thời đại

Chiến thắng Điện Biên Phủ là kết tinh sức mạnh của dân tộc Việt Nam đã hòa vào sức mạnh thời đại. Cuộc đấu tranh của dân tộc Việt Nam vì độc lập, hoà bình đã nhận được sự ủng hộ của nhân dân các nước yêu chuộng hoà bình và tiến bộ, dân chủ, và Chiến thắng Điện Biên Phủ là chiến thắng của thời đại, thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH được mở đầu từ thắng lợi Cách mạng Tháng Mười.

Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân Việt Nam nhận được sự phối hợp chiến đấu của nhân dân hai nước Lào và Campuchia, sự giúp đỡ quan trọng của Trung Quốc, Liên Xô và sự đồng tình ủng hộ của bạn bè quốc tế, kể cả nhân dân Pháp. Qua cuộc kháng chiến, Việt Nam đã là nơi kiến lập mối quan hệ kiểu mới giữa các nước XHCN, với phong trào giải phóng dân tộc, mối quan hệ giữa các nước thuộc địa với nhau trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung là chủ nghĩa thực dân. Mối quan hệ đó thể hiện sự ủng hộ lẫn nhau nhằm mục tiêu của thời đại: độc lập dân tộc, hòa bình, tiến bộ xã hội. Mục tiêu đó mang ý nghĩa quốc tế rộng lớn trong ba thập niên 50-70 của thế kỷ XX, có sức hấp dẫn mạnh mẽ về tập hợp lực lượng, thúc đẩy cao trào giải phóng dân tộc trên thế giới. Các dân tộc đều phải tự mình đấu tranh để giành độc lập tự do, song sự xúc tác dây chuyền mà Điện Biên Phủ châm ngòi với sức mạnh tạo chấn động lớn, sự hỗ trợ của sức mạnh thời đại, tạo ra những yếu tố về thời cơ, về nguồn lực, sự phối hợp đấu tranh giữa các trào lưu tiến bộ, đã giúp nhiều dân tộc trên con đường đấu tranh cho độc lập, tự do giành thắng lợi.

Những sự kiện chính trị sau Điện Biên Phủ, như Hội nghị Băng Đung (Inđônêxia, năm 1955), Hội nghị đoàn kết các dân tộc Á - Phi với sự tham gia của 34 nước, ra nghị quyết chống chủ nghĩa thực dân; Liên hợp quốc thông qua Nghị quyết phi thực dân hóa (1960), 30 nước châu Phi thành lập Tổ chức thống nhất toàn châu Phi (1963). Sự ra đời của lực lượng các nước không liên kết nhằm mục tiêu số một: ủng hộ quyền tự quyết của các dân tộc và hòa bình thế giới... đều có chỗ dựa vững chắc là các nước XHCN. Sự phát triển mạnh mẽ của phong trào giải phóng dân tộc ở Á - Phi, Mỹ Latinh, trong đó có đóng góp vẻ vang của Việt Nam.

Sức mạnh dân tộc và chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam đã được kết hợp chặt chẽ với sức mạnh của thời đại trở thành một nhân tố làm nên thắng lợi. Vị thế và uy tín của Việt Nam đã được nâng lên ngang tầm với các nước, các dân tộc trên thế giới. Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Điện Biên Phủ như là một cái mốc chói lọi bằng vàng của lịch sử”(11). “Đó là thắng lợi vĩ đại của nhân dân ta mà cũng là thắng lợi chung của tất cả các dân tộc bị áp bức trên thế giới”(12). Chiến thắng Điện Biên Phủ góp phần gìn giữ hòa bình, ổn định trong khu vực và trên thế giới.

 Đường lối kháng chiến đúng đắn đã tập hợp, khơi dậy và phát huy được tiềm lực toàn dân tộc, tranh thủ được sự ủng hộ quốc tế, đã tạo ra sức mạnh đánh thắng kẻ địch và sức mạnh dân tộc và trí tuệ Việt Nam tiếp tục được phát huy mạnh mẽ hơn nữa trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước sau đó.

Cho đến nay, thế giới vẫn đặt câu hỏi vì sao một đất nước tương đối nhỏ bé và lạc hậu về công nghệ, vừa thoát ra khỏi ách thực dân gần 100 năm lại có thể đánh thắng hai cường quốc là Pháp và Mỹ, tại sao Pháp lại thua. Ph.Leclerc, một Đại tướng giỏi của quân đội Pháp, cũng đã nói một cách cô đọng và rõ ràng bài học thất bại của Pháp rằng: “Người ta không thể nào dùng sức mạnh để phá tan chủ nghĩa dân tộc Việt Nam”(13).

Mc.Namara - nguyên Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ thừa nhận: “Sức mạnh sâu thẳm nhất của một dân tộc không nằm ở mũi nhọn quân sự mà ở sự đoàn kết của dân tộc”, “Chúng ta đánh giá thấp sức mạnh của chủ nghĩa dân tộc thúc đẩy một dân tộc đấu tranh và hy sinh cho lý tưởng và các giá trị của nó…”(14).

4. Tiếp nối những giá trị của Chiến thắng Điện Biên Phủ trong xây dựng và bảo vệ đất nước

Chiến thắng Điện Biên Phủ thể hiện sức mạnh dân tộc được tổ chức và động viên cao nhất trong thời đại mới bởi một đường lối lãnh đạo đúng đắn và sáng tạo. Chiến thắng Điện Biên Phủ mãi mãi là một động lực tinh thần quan trọng trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.

Sức mạnh để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc vẫn là sức mạnh của đại đoàn kết toàn dân tộc. Trong bối cảnh quốc tế hiện nay, quan hệ của các nước có nhiều đổi khác và khó lường định. Thế giới đang diễn ra những biến động chính trị to lớn đặt mỗi quốc gia trước những cơ hội và những thách thức mới, bài học xây dựng, củng cố và phát huy đoàn kết toàn dân tộc làm cơ sở cho sự đoàn kết quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc và thời đại luôn giữ nguyên giá trị.

Kết hợp được sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh tiềm tàng của dân tộc được tăng lên gấp bội, tạo sức mạnh tổng hợp to lớn đánh thắng kẻ thù lớn mạnh hơn mình. Nội dung cơ bản, xuyên suốt là nêu cao độc lập dân tộc, phát huy độc lập tự chủ là tiền đề nền tảng để thực hiện đoàn kết quốc tế, phát huy sức mạnh của thời đại trong việc thực hiện nhiệm vụ dân tộc.

Trong thời đại ngày nay, sự phát triển như vũ bão của cách mạng khoa học-công nghệ, tính phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia không ngừng tăng lên, quá trình toàn cầu hoá đang ngày càng mạnh mẽ, những bài học trong lãnh đạo chiến tranh cách mạng vẫn mãi mãi có ý nghĩa thời sự và lâu dài đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Bất cứ dân tộc nào muốn thành công trong sự nghiệp xây dựng phát triển đất nước và bảo vệ độc lập chủ quyền Tổ quốc, cũng phải dựa vào sức mình là chính, phát huy hết sức mạnh bên trong, đồng thời phải tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ đông đảo của bạn bè quốc tế, tập hợp tối đa sức mạnh của lực lượng tiến bộ thế giới.

Chiến thắng Điện Biên Phủ là sự cộng hưởng của sức mạnh dân tộc và thời đại, sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng là nhân tố cơ bản tạo nên sức mạnh Việt Nam, bản sắc văn hóa giữ nước Việt Nam mà nền tảng là lòng yêu nước; các nhân tố đó tiếp tục là sức mạnh bảo đảm cho sự thành công của công cuộc xây dựng Tổ quốc Việt Nam XHCN vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

_____________________

Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 4-2014

(1), (2) Xem Ban Chỉ đạo Tổng kết chiến tranh - Trực thuộc Bộ Chính trị: Tổng kết cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp - Thắng lợi và bài học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.202, 202.

(3), (6) H.Nava: Thời điểm của những sự thật, Nxb Công an nhân dân và Viện Lịch sử quân sự Việt Nam xuất bản, Hà Nội, 1994, tr.54, 47.

(4) Đại tướng Hoàng Văn Thái: Bài in trong Mấy vấn đề về chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội,1985, tr.19.

(5) Xem H.Nava: Thời điểm của những sự thật,  Sđd, tr.57.

(7) Đại tướng Võ Nguyên Giáp: Điện Biên Phủ 50 năm sau nhìn lại, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2004, tr.244.

(8) Xem Võ Nguyên Giáp: “Điện Biên Phủ xưa và nay”, Tạp chí Xưa và nay, số 2, 5-1994.

(9) Hoàng Minh Phương: “Nắm ngải cứu trên đầu đồng chí Tổng Tư lệnh”, Tạp chí Xưa và Nay, số 208, 3-2004, tr.12

(10) Điện Biên Phủ: Văn kiện Đảng và Nhà nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, tr.562.

(11), (12) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.14, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.315, 320.

(13) Phillippe Devillers: Paris - Saigon - Hanoi, Edition Gallimard Juliard, 1988, p.375.

(14) Robert S.McNamara: Nhìn lại quá khứ, Tấn thảm kịch và những bài học về Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.317, 316.

 

Nguồn: PGS, TS TRỊNH THỊ HỒNG HẠNH

Viện Lịch sử Đảng

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh