Thứ Bảy, 3 tháng 2, 2024

Bồi dưỡng đạo đức cách mạng cho đội ngũ đảng viên trong quân đội theo tư tưởng Hồ Chí Minh

Bồi dưỡng đạo đức cách mạng cho đội ngũ đảng viên trong quân đội theo tư tưởng Hồ Chí Minh có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, nhằm xây dựng đội ngũ đảng viên trong quân đội thật sự mẫu mực, tiêu biểu về phẩm chất đạo đức, năng lực; góp phần xây dựng Đảng bộ Quân đội vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm và nói chuyện với một đơn vị bộ đội tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954 _ Ảnh: TTXVN

Nội dung và biện pháp rèn luyện đạo đức cách mạng của người đảng viên quân đội theo tư tưởng Hồ Chí Minh

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng vấn đề giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên. Vấn đề này được Người đề cập tới trong nhiều tác phẩm quan trọng như: Đường cách mệnh (năm 1927), Sửa đổi lối làm việc (năm 1947), Đời sống mới (năm 1947), Cần kiệm liêm chính (năm 1949), Đạo đức cách mạng (năm 1958), Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân (năm 1969) và bản Di chúc hoàn chỉnh lần cuối cùng (tháng 5-1969). Trong các tác phẩm ấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi đạo đức là “gốc của người cách mạng”. Người chỉ rõ: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”. Bên cạnh đó, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, phẩm chất đạo đức của người cán bộ, đảng viên được biểu hiện cụ thể ở các nội dung, như trung với nước, trung với Đảng, hiếu với dân; yêu thương con người; cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; tinh thần quốc tế trong sáng. Những nội dung của đạo đức cách mạng có mối quan hệ biện chứng với nhau, chỉ cần thiếu một nội dung thì người cán bộ, đảng viên không thể làm tròn nhiệm vụ do Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó.

Đối với đội ngũ đảng viên trong quân đội, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh, đạo đức cách mạng được biểu hiện cụ thể ở những điểm như sau:

Trung với nước, trung với Đảng, hiếu với dân. Đây là biểu hiện cao nhất ý thức đạo đức của người đảng viên nói chung, đặc biệt với những đảng viên là cán bộ, sĩ quan, công nhân viên, chiến sĩ trong Quân đội nhân dân Việt Nam nói riêng. Đó còn là biểu hiện cao nhất của lòng trung thành đối với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân, là cơ sở để định hướng nhận thức và hành động, tạo thành niềm tin vững chắc và sức mạnh to lớn để mỗi đảng viên luôn hoàn thành chức trách, nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước giao phó. Người chỉ rõ: “Nước ta là nước dân chủ, nghĩa là nước nhà do nhân dân làm chủ” và “Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời cũng là đội tiên phong của dân tộc” lãnh đạo sự nghiệp cách mạng; đảng viên cũng là con, em của nhân dân và cũng chính “nhân dân là nền tảng, là cha mẹ của bộ đội”; do đó, đối với mỗi đảng viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam, trung với nước phải luôn gắn liền với trung với Đảng, hiếu với dân.

Đoàn kết, yêu thương đồng chí, đồng đội, gắn bó mật thiết với nhân dân. Đoàn kết, nhân ái luôn là truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam. Ở thời đại Hồ Chí Minh, truyền thống đó được hun đúc và phát triển lên một tầm cao mới, là cơ sở để tạo thành sức mạnh vô địch của dân tộc, giúp Quân đội nhân dân Việt Nam đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược. Đối với cán bộ, chiến sĩ quân đội, Người căn dặn: “...cần phải đoàn kết hơn nữa, đoàn kết chặt chẽ giữa chiến sĩ với nhau, giữa cán bộ với nhau, giữa chiến sĩ và cán bộ, giữa quân và dân. Đoàn kết là một lực lượng vô địch của chúng ta để khắc phục khó khăn, giành lấy thắng lợi. Người còn căn dặn: “Người đội trưởng, người chính trị viên phải là người anh, người chị, người bạn của đội viên”, bởi trong quân đội, người đội trưởng, người chính trị viên là những người đảng viên trực tiếp, hằng ngày tiến hành công tác giáo dục, rèn luyện và quản lý bộ đội; vì thế, có tình cảm gắn bó đó mới lan tỏa tinh thần đoàn kết, xây dựng được sự tin tưởng, thương yêu của đồng chí, đồng đội, mới sẵn sàng sẻ chia và giúp đỡ nhau trong quá trình thực hiện nhiệm vụ.

Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đây là một phẩm chất quan trọng, là nền tảng đạo đức của người quân nhân cách mạng nói chung, của người đảng viên trong quân đội nói riêng. Người chỉ rõ: “Cần, Kiệm, Liêm, Chính của ta là đạo đức của người quân nhân cách mạng. Các chú phải thực hiện đạo đức đó”; đồng thời, phải “Tu sửa mình cho kỳ giữ được chí công vô tư, đối với việc phải sáng suốt, đối vật không tham lam, gắng làm kiểu mẫu, làm kiểu mẫu cho bộ đội, cho nhân dân”. Người luôn đặt niềm tin và yêu cầu đội ngũ đảng viên trong quân đội phải rèn luyện toàn diện các phẩm chất đạo đức của người quân nhân cách mạng: “Phải làm sao cho trong quân đội ta không có tham ô lãng phí”.

Tinh thần quốc tế trong sáng là một nội dung không thể thiếu của đạo đức cách mạng. Trong Thư gửi các đơn vị bộ đội ta có nhiệm vụ tác chiến ở Thượng LàoNgười chỉ rõ “giúp nhân dân nước bạn tức là mình tự giúp mình”. Đồng thời, Người nhắc nhở mỗi cán bộ, chiến sĩ, trong đó có đội ngũ đảng viên trong quân đội, phải luôn biết ơn sự giúp đỡ to lớn của nhân dân, chính phủ và quân đội các nước anh em trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Thấm nhuần tư tưởng đó, nhiều thế hệ cán bộ, chiến sĩ tình nguyện Việt Nam đã không quản ngại hy sinh, gian khổ, vượt qua mọi khó khăn, tham gia chiến đấu, công tác trên các chiến trường Lào và Campuchia, viết nên những trang sử sáng ngời về đạo đức cách mạng của người cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam.

Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm tới việc giáo dục, rèn luyện, tu dưỡng đạo đức cho đội ngũ đảng viên trong quân đội, trước hết là lý tưởng cách mạng, lòng trung thành tuyệt đối với Đảng, Nhà nước và nhân dân, giữ vững bản chất giai cấp công nhân, kiên định mục tiêu, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Chỉ có giác ngộ sâu sắc lý tưởng đó, người đảng viên trong quân đội mới đủ khả năng hoàn thành nhiệm vụ nặng nề, dám hy sinh quyền lợi của bản thân và gia đình, đặt lợi ích của Tổ quốc, của dân tộc lên trên hết, trước hết. Để rèn luyện, tu dưỡng đạo đức, Người yêu cầu cán bộ, đảng viên: “Thấy khuyết điểm có gan sửa chữa. Cực khổ khó khăn, có gan chịu đựng. Có gan chống lại những sự vinh hoa, phú quý, không chính đáng. Nếu cần, thì có gan hy sinh cả tính mệnh cho Đảng, cho Tổ quốc, không bao giờ rụt rè, nhút nhát”. Đồng thời, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đội ngũ đảng viên trong quân đội ở bất kỳ hoàn cảnh nào cũng phải nâng cao kiến thức toàn diện. Người căn dặn: “Phải cố gắng học tập về mọi mặt chính trị, quân sự. Phải học tập chính trị: Quân sự mà không có chính trị như cây không có gốc, vô dụng lại có hại”; và muốn hoàn thành tốt nhiệm vụ trên cương vị, chức trách đảm nhiệm, đòi hỏi người đảng viên trong quân đội “Phải đoàn kết nội bộ, giữa cán bộ và chiến sĩ, đoàn kết quân dân, đoàn kết với các nước anh em”.

Từ những nội dung trên, có thể thấy, để rèn luyện, tu dưỡng đạo đức cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh, người đảng viên quân đội cần phải thấm nhuần, thực hiện nghiêm túc những yêu cầu, nhiệm vụ sau:

Thứ nhất, nói đi đôi với làm.

Đây là hành động cơ bản nhất thể hiện uy tín và để rèn luyện, tu dưỡng phẩm chất đạo đức của người đảng viên. Tuy nhiên, đối với người đảng viên trong quân đội, hành động đó phải được biểu hiện ở mức độ cao hơn, phải “Triệt để thi hành mệnh lệnh cấp trên. Mệnh lệnh cấp trên đưa xuống thì phải tuyệt đối phục tùng và triệt để thi hành”. Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu, đội ngũ đảng viên trong quân đội phải nói ít làm nhiều, thân ái, đoàn kết đồng chí, đồng đội, phải là tấm gương trong rèn luyện ý chí chiến đấu kiên quyết và bền bỉ, thắng không kiêu, bại không nản, dù gian lao khổ hạnh cũng không sờn lòng, vào sống ra chết cũng không nản chí. Người cũng dành mối quan tâm đặc biệt đến việc giáo dục, rèn luyện phẩm chất, nhân cách của các tướng lĩnh trong quân đội. Người nhắc nhở: “Trong quân đội, nhiệm vụ của người tướng là phải: trí, dũng, nhân, tín, liêm, trung”, đây vừa là mục tiêu để rèn luyện, tu dưỡng, vừa là phẩm chất đặc trưng nhất của người đảng viên là lãnh đạo trong quân đội.

Thứ hai, rèn luyện, tu dưỡng đạo đức suốt đời.

Đây là yêu cầu cốt lõi trong rèn luyện, tu dưỡng đạo đức của người cách mạng, bởi theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”. Việc giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng phải được tiến hành thường xuyên, liên tục, mọi lúc, mọi nơi. Đảng viên giữ cương vị càng cao thì càng phải tích cực, liên tục học tập, rèn luyện, trau dồi đạo đức cách mạng. Khi gặp việc thuận lợi không tự cao, tự đại, thỏa mãn dừng lại, khi gặp việc khổ, việc khó thì không chùn bước, nản chí; phải dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm để hoàn thành nhiệm vụ. Thực tiễn cho thấy, có những cán bộ, đảng viên giữ cương vị lãnh đạo, quản lý cấp cao, là tướng lĩnh, trong lúc gian khổ thì không sợ nguy hiểm, cực khổ, có công với cách mạng, song đến khi có quyền hạn trong tay thì nảy sinh kiêu ngạo, tự mãn, xa xỉ, phạm vào tham ô, lãng phí, quan liêu, phải xử lý kỷ luật.

Thứ ba, “xây” đi đôi với “chống”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu người đảng viên trong quân đội phải luôn rèn luyện, tu dưỡng lối sống trong sạch, lành mạnh; thực sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; luôn gương mẫu trong việc giữ gìn vũ khí, trang bị, tài sản của quân đội; trong quan hệ với nhân dân, không được lấy dù là cái kim, sợi chỉ của nhân dân; mua bán với nhân dân phải công bằng, sòng phẳng; mượn cái gì của dân phải hỏi, dùng xong phải trả, làm hỏng, làm mất phải đền. Đồng thời, Người khẳng định phải kiên quyết chống lại những tệ nạn tham ô, tham nhũng, lãng phí, quan liêu, xa rời quần chúng. Theo đó, việc rèn luyện, tu dưỡng đạo đức cho đội ngũ đảng viên trong quân đội phải được tiến hành thường xuyên, liên tục, kết hợp chặt chẽ giữa tuyên truyền, giáo dục những phẩm chất, tấm gương tốt để lan tỏa, nhân rộng, với xử lý nghiêm minh những hành vi vi phạm để ngăn chặn sự lây lan của chúng./.

ST.

Chiến sĩ Ðồn Biên phòng Sóc Giang (huyện Pắc Bó, tỉnh Cao Bằng) tuần tra biên giới với đồng bào các dân tộc tỉnh Cao Bằng_Ảnh: TTXVN

Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về nhận diện, phê phán và đấu tranh chống “bệnh hình thức” trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay

Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần nhắc nhở đội ngũ cán bộ, đảng viên về “bệnh hình thức” - một trong những “căn bệnh” nguy hiểm có tác động tiêu cực đến uy tín và danh dự, thậm chí là phá hỏng cả sự nghiệp cách mạng của Đảng ta. Trong giai đoạn hiện nay, các tổ chức đảng, cấp ủy, đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng cần nhận diện sâu sắc những tác hại do “bệnh hình thức” gây ra, để không ngừng xây dựng, chỉnh đốn Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh.

Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về “bệnh hình thức”

Thứ nhất, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, nguồn gốc sâu xa của “bệnh hình thức” xuất phát từ “căn bệnh mẹ”, “bệnh gốc” là chủ nghĩa cá nhân.

Người cho rằng: “Chủ nghĩa cá nhân là như một thứ vi trùng rất độc, do nó mà sinh ra các thứ bệnh rất nguy hiểm”, trong đó có “bệnh hình thức”. Về bản chất, chủ nghĩa cá nhân là lối sống tuyệt đối hóa lợi ích cá nhân, đề cao sự tự do cá nhân một cách cực đoan, nhằm hướng tới thỏa mãn những nhu cầu, mục đích, hành vi vụ lợi, hưởng lạc theo chủ nghĩa vị kỷ, nuôi dưỡng tính hám lợi, hiếu danh, ích kỷ; “việc gì cũng chỉ lo cho lợi ích riêng của mình, không quan tâm đến lợi ích chung của tập thể”. Do đó, những người mắc “bệnh hình thức” - “căn bệnh” phát sinh từ chủ nghĩa cá nhân - luôn tìm mọi cách mưu lợi cho bản thân, bất chấp việc làm tổn hại đến lợi ích của người khác, của cộng đồng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần chỉ rõ những tác hại khôn lường nếu đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng chưa thực hiện được “chí công vô tư” mà sa vào chủ nghĩa cá nhân. Người nhắc nhở: “Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân".

Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ tọa phiên họp Hội nghị Trung ương lần thứ 16 (tháng 4-1959)_nguồn: hochiminh.vn

Bên cạnh nguyên nhân chủ quan do sự thiếu tu dưỡng, rèn luyện của mỗi cá nhân nói trên, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ nguyên nhân khách quan, do hủ tục và những tàn dư đáng phê phán của xã hội cũ để lại: Vì Đảng ta là một Đảng rất to lớn, bao gồm đủ các tầng lớp trong xã hội. Do đó, không tránh khỏi “những tập tục, những tính nết, những khuyết điểm của xã hội bên ngoài, nó lây, ngấm vào trong Đảng”. Người cũng cho rằng: “Đảng ta không phải trên trời sa xuống. Nó ở trong xã hội mà ra. Vì vậy, tuy nói chung, thì đảng viên phần nhiều là những phần tử tốt, nhưng vẫn có một số chưa bỏ hết những thói xấu tự tư tự lợi, kiêu ngạo, xa hoa, v.v.. Những thói xấu đó có đã lâu, nhất là trong 80 năm nô lệ. Những thói xấu đó, họ mang từ xã hội vào Đảng”.

Thứ hai, “bệnh hình thức” biểu hiện đa dạng dưới nhiều dạng “bệnh” khác, như “bệnh hữu danh vô thực”, “bệnh khai hội”, “thói ba hoa”...

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, bệnh “hữu danh vô thực” là: “Làm việc không thiết thực, không từ chỗ gốc, chỗ chính, không từ dưới làm lên. Làm cho có chuyện, làm lấy rồi. Làm được ít suýt ra nhiều, để làm một bản báo cáo cho oai, nhưng xét kỹ lại thì rỗng tuếch” hay “báo cáo lông bông… Thành công ít, thì suýt ra nhiều. Còn khuyết điểm thì giấu đi, không nói đến. Thành thử cấp trên không hiểu rõ tình hình mà đặt chính sách cho đúng”.

Trong “Thư gửi các đồng chí Bắc Bộ” (1-3-1947), Người nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải tẩy sạch khuyết điểm, trong đó có tật “ham chuộng hình thức”: “Việc gì cũng không xét đến kết quả thiết thực, cần kíp, chỉ nhằm về hình thức bề ngoài, chỉ muốn phô trương cho oai”(8).

Một biểu hiện khá rõ ràng của căn bệnh hình thức mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra, đó là “bệnh khai hội”: “Khai hội không có kế hoạch, không sắp sửa kỹ lưỡng, không thiết thực. Khai hội lâu, khai hội nhiều quá”. Theo Người, chính vì cán bộ xa rời quần chúng, không xuất phát từ lợi ích của quần chúng, nên mới dẫn đến tình trạng trên.

“Thói ba hoa” trong cách nói và cách viết cũng là biểu hiện của “bệnh hình thức”. Thói ba hoa thể hiện ở: Dài dòng, rỗng tuếch; cầu kỳ; khô khan, lúng túng; báo cáo lông bông; lụp chụp, cẩu thả; bệnh theo “sáo cũ”; nói không ai hiểu; bệnh hay nói chữ. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh, mỗi đảng viên, mỗi cán bộ đều phải ra sức sửa chữa bệnh đó; nếu không, sẽ có hại to cho công việc của Đảng.

Từ những chỉ dẫn nêu trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh, có thể thấy biểu hiện của “bệnh hình thức” trong đội ngũ cán bộ, đảng viên là: Thói làm việc qua loa, cẩu thả, không thiết thực, không đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ đã đề ra..., làm lãng phí thời gian, công sức và tài sản công. Nguyên nhân của “căn bệnh” này cũng không ngoài hai nguyên nhân căn bản: Khách quan, là do tàn dư và hủ tục của xã hội cũ níu kéo, ảnh hưởng tới suy nghĩ và hành động của mỗi cá nhân, tập thể. Chủ quan, là do kém tu dưỡng, rèn luyện tư cách đảng viên... của mỗi cá nhân trong công việc cũng như trong cuộc sống thường ngày.

Thứ ba, “bệnh hình thức” có nhiều tác hại khôn lường.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, những căn bệnh sinh ra từ chủ nghĩa cá nhân, trong đó có “bệnh hình thức”, gây ra nhiều tác hại. Người coi chủ nghĩa cá nhân là “kẻ thù hung ác của đạo đức cách mạng, của chủ nghĩa xã hội”. Hệ lụy của chủ nghĩa cá nhân là vô cùng nguy hại, bởi đó là nguồn gốc sâu xa dẫn tới sự suy thoái, biến chất, làm giảm năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, bởi vì “do cá nhân chủ nghĩa mà mất đoàn kết, thiếu tính tổ chức, tính kỷ luật, kém tinh thần trách nhiệm, không chấp hành đúng đường lối, chính sách của Đảng và của Nhà nước, làm hại đến lợi ích của cách mạng, của nhân dân”; và “do cá nhân chủ nghĩa mà ngại gian khổ, khó khăn, sa vào tham ô, hủ hóa, lãng phí, xa hoa. Họ tham danh trục lợi, thích địa vị quyền hành. Họ tự cao tự đại, coi thường tập thể, xem khinh quần chúng, độc đoán, chuyên quyền. Họ xa rời quần chúng, xa rời thực tế, mắc bệnh quan liêu, mệnh lệnh. Họ không có tinh thần cố gắng vươn lên, không chịu học tập để tiến bộ”. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, người mắc căn bệnh này thì “không làm tròn nhiệm vụ của mình. Thế là dối trá với Đảng, có tội với Đảng. Làm việc không thiết thực, báo cáo không thật thà, cũng là một bệnh rất nguy hiểm”. “Bệnh hình thức” cũng như các căn bệnh khác, chính là “địch nội xâm”, luôn ngăn cản người cán bộ, đảng viên phấn đấu vì mục tiêu, lý tưởng của Đảng, của dân tộc; là nguy cơ đe dọa đến sự tồn vong của Đảng.

Thứ tư, biện pháp để khắc phục, loại trừ “bệnh hình thức”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ, “thang thuốc” tốt nhất để chữa các bệnh tật đó là thông qua tự phê bình và phê bình để giúp nhau sửa chữa hết các khuyết điểm; có như thế, Đảng mới chóng phát triển, sự nghiệp cách mạng mới chóng thành công.

Theo Người, để chống “bệnh hình thức” thì “việc gì cũng phải từ việc dễ đến việc khó, từ việc gấp đến việc hoãn, từ việc ít tốn tiền đến việc tốn nhiều tiền. Nói tóm lại: Kế hoạch phải thiết thực, phải làm được. Chớ làm kế hoạch đẹp mặt, to tát, kể hàng triệu người nhưng không thực hiện được”.

Không chỉ thông qua các bài nói, bài viết mà thông qua hành động, việc làm, bằng cả cuộc đời giản dị của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trở thành một tấm gương mẫu mực cho đội ngũ cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân noi theo, với rất nhiều những việc làm thiết thực để chống lại “căn bệnh hình thức”. Người luôn nhấn mạnh: “Phải lấy kết quả thiết thực đã góp sức bao nhiêu cho sản xuất và lãnh đạo sản xuất mà đo ý chí cách mạng của mình. Hãy kiên quyết chống bệnh nói suông, thói phô trương hình thức, lối làm việc không nhằm mục đích nâng cao sản xuất”.

Trong công tác thi đua - khen thưởng, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc nhở, để chống “bệnh hình thức”, phải có kế hoạch tỉ mỉ, cụ thể, nội dung của kế hoạch phải thiết thực, rõ ràng, đúng mực. Khi đặt kế hoạch phải tránh đại khái, quá cao, gây phiền phức, miễn cưỡng khi thực hiện. Thi đua phải gắn liền với khen thưởng. Khen thưởng chính xác, kịp thời sẽ có tác dụng động viên, giáo dục, đồng thời, cổ vũ thi đua phát triển lên tầm cao mới. Ngược lại, nếu khen thưởng không đúng, không kịp thời sẽ triệt tiêu động lực, thậm chí còn gây hậu quả xấu đối với công tác thi đua. Khen thưởng phải đúng người, đúng việc, đúng với thành tích thì mới có tác dụng tốt với phong trào thi đua. Suốt cả cuộc đời hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gương mẫu không nhận bất cứ danh hiệu hay tấm huân chương, huy chương nào.

Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào cuộc đấu tranh chống “bệnh hình thức” trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay

Thấm nhuần những quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đấu tranh chống “bệnh hình thức”, trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta không ngừng xây dựng, chỉnh đốn Đảng, làm cho Đảng ta ngày càng trong sạch, vững mạnh.

Tuy nhiên, “căn bệnh hình thức” đã và đang len lỏi vào tất cả các lĩnh vực, từ đời sống xã hội đến mỗi gia đình và từng cá nhân. Trong hoạt động của hệ thống chính trị cũng như xã hội, “bệnh hình thức” vẫn biểu hiện trên nhiều mặt, ở nhiều nơi. Một số địa phương, đơn vị xây dựng những công trình quá tốn kém, không thiết thực, trong khi đời sống nhân dân còn khó khăn; những hội nghị, lễ tổng kết, khánh thành, khởi công,... rình rang, lãng phí. “Bệnh hình thức” trong công tác chính trị, tư tưởng thể hiện ở việc học tập, phổ biến các nghị quyết, chỉ thị của Đảng được tiến hành một cách đại khái, qua loa; hoặc ngược lại, lại quá rườm rà, nhiêu khê về thủ tục, giấy tờ, mà không đi sâu vào nội dung cần quán triệt. Đại hội XIII của Đảng đánh giá: “Việc lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức quán triệt và thực hiện một số nghị quyết còn chậm, chưa quyết liệt, hiệu quả”; “Công tác tư tưởng có nơi, có lúc chưa thực sự được cấp ủy coi trọng, chưa kịp thời, tính thuyết phục chưa cao. Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận chưa được quan tâm đúng mức, thiếu đồng bộ, chưa đáp ứng yêu cầu; một số vấn đề mới, khó, phức tạp chưa được làm sáng tỏ”.

“Bệnh hình thức” trong công tác tổ chức, cán bộ và trong công tác quản lý cán bộ, đảng viên biểu hiện ở việc thực hiện một số nội dung trong các khâu của công tác cán bộ còn hình thức. Công tác rèn luyện, quản lý đảng viên ở một số nơi chưa được quan tâm đúng mức, còn thiếu chặt chẽ; có nơi còn buông lỏng sinh hoạt đảng, chất lượng sinh hoạt chưa cao, sinh hoạt chi bộ không đúng định kỳ, thiếu nghiêm túc. Việc đánh giá, xếp loại tổ chức đảng và đảng viên ở một số nơi còn chưa thực chất. Công tác phòng ngừa tham nhũng ở một số nơi còn hình thức. Trong giai đoạn hiện nay, Đảng ta nhận định: “Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi, có mặt, có bộ phận còn diễn biến tinh vi, phức tạp hơn; tham nhũng, lãng phí, tiêu cực vẫn còn nghiêm trọng, tập trung vào số đảng viên có chức vụ trong bộ máy nhà nước”; “Một bộ phận cán bộ, đảng viên phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, ngại khó, ngại khổ, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa””. Để góp phần xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh, phòng, chống sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống…, trong đó có “bệnh hình thức”, thời gian tới cần tập trung thực hiện tốt một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm:

Một là, tăng cường tuyên truyền, giáo dục, chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, về trách nhiệm và đạo đức của người đảng viên.

Coi trọng việc giáo dục, nâng cao bản lĩnh, phẩm chất chính trị cho mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là với cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp. Mỗi cán bộ, đảng viên kiên quyết đấu tranh chống suy thoái về tư tưởng chính trị, chủ nghĩa cơ hội, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”,... Các cấp ủy đảng cần có các biện pháp tăng cường giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức nêu cao đức tính “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”, gương mẫu đi đầu, kiên quyết đấu tranh với chủ nghĩa cá nhân, cơ hội thực dụng, “nhóm lợi ích”, địa phương, cục bộ; từ đó, góp phần đấu tranh ngăn chặn, khắc phục “bệnh hình thức” gắn với đấu tranh phòng, chống “lợi ích nhóm”, tham nhũng, tiêu cực. Mỗi cán bộ, đảng viên cần tích cực thực hiện Kết luận số 01-KL/TW, ngày 18-5-2021, của Bộ Chính trị, “Về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị, “Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”” gắn với thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI, XII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, Kết luận số 21-KL/TW, ngày 25-10-2021, của Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII, “Về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”” và Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng.

Hai là, nêu cao tính tiền phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu.

Chủ tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn: “Cán bộ lãnh đạo phải luôn luôn gương mẫu về mọi mặt, phải nêu gương sáng về đạo đức cách mạng: cần kiệm liêm chính, chí công vô tư”. Bên cạnh đó, đội ngũ cán bộ, người đứng đầu cần “có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức trong sáng, năng lực nổi bật, dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách, dám hành động vì lợi ích chung, có uy tín cao và thực sự tiên phong, gương mẫu, là hạt nhân đoàn kết”; gương mẫu đi đầu trong đấu tranh phòng, chống “bệnh hình thức”, gắn với chống “lợi ích nhóm”, quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực ở địa phương, đơn vị, tổ chức, cơ quan mình trực tiếp lãnh đạo, phụ trách; không bao che, tiếp tay, dung dưỡng cán bộ cấp dưới có biểu hiện của “bệnh hình thức”, quan liêu, tham nhũng, lãng phí. Người đứng đầu phải nêu cao ý thức phục vụ nhân dân; làm việc với tư duy khoa học, khách quan, công tâm, tận tụy trong công việc, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; bảo đảm các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng, kỷ cương, kỷ luật; không chạy theo thành tích bằng mọi giá.

Ba là, các cấp ủy phải thường xuyên tự phê bình và phê bình một cách nghiêm túc.

Lý giải vì sao trong Đảng lại phải thực hành tự phê bình và phê bình, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Mỗi đảng viên, mỗi cán bộ, cần phải thật thà tự xét và xét đồng chí mình, ai có khuyết điểm nào, thì phải thật thà cố gắng tự sửa chữa và giúp sửa chữa lẫn nhau. Thang thuốc hay nhất là thiết thực phê bình và tự phê bình”. Theo Người, “một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế mới là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính”.

Để tự phê bình và phê bình thực sự phát huy tác dụng và đạt hiệu quả cao trong phòng, chống “bệnh hình thức”, mỗi cán bộ và tổ chức đảng phải thực hành thường xuyên, nghiêm túc tự phê bình và phê bình một cách “triệt để, thật thà, không nể nang, không thêm bớt. Phải vạch rõ cả ưu điểm và khuyết điểm. Đồng thời, chớ dùng những lời mỉa mai, chua cay, đâm thọc. Phê bình việc làm chứ không phải phê bình người”.

Cách thức, phương pháp tự phê bình và phê bình: Phải rõ ràng, thiết thực, ngay thẳng, thành thật, mục đích là cốt để sửa chữa hạn chế, khuyết điểm, giúp nhau tiến bộ; phải trên tình đồng chí thương yêu lẫn nhau; thực hiện dân chủ từ trên xuống dưới, cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ chủ chốt, người đứng đầu phải gương mẫu trong thực hành tự phê bình và phê bình. Đồng thời, phải kiên quyết chống những biểu hiện lệch lạc trong đấu tranh tự phê bình và phê bình; “phải kiên quyết chống cái thói “cả vú lấp miệng em” ngǎn cản quần chúng phê bình”. Trước nhiều ý kiến e sợ tự phê bình và phê bình là “vạch áo cho người xem lưng”, lo sợ kẻ địch lợi dụng phá hoại,… Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, đối với những người cộng sản, người cán bộ cách mạng, “chúng ta không sợ sai lầm, chỉ sợ phạm sai lầm mà không quyết tâm sửa chữa. Muốn sửa chữa cho tốt thì phải sẵn sàng nghe quần chúng phê bình và thật thà tự phê bình. Không chịu nghe phê bình và không tự phê bình thì nhất định lạc hậu, thoái bộ. Lạc hậu và thoái bộ thì sẽ bị quần chúng bỏ rơi”. Ở đâu văn hóa tự phê bình và phê bình bị “lép vế” hoặc tiến hành một cách “hình thức”, chiếu lệ thì ở đó chủ nghĩa cá nhân có điều kiện nảy nở, phát triển; do đó, “mỗi cán bộ, mỗi đảng viên, mỗi ngày phải tự kiểm điểm, tự phê bình, tự sửa chữa như mỗi ngày phải rửa mặt. Được như thế thì trong Đảng sẽ không có bệnh mà Đảng sẽ khỏe mạnh vô cùng”.

Bốn là, tiếp tục đổi mới, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng; xây dựng các chế tài để phòng, chống “bệnh hình thức”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Kiểm soát khéo, bao nhiêu khuyết điểm lòi ra hết, hơn nữa kiểm tra khéo về sau khuyết điểm nhất định bớt đi”. Vì thế, các cấp ủy đảng cần tập trung đổi mới, tăng cường kiểm tra, giám sát; kiên quyết khắc phục tình trạng buông lỏng vai trò lãnh đạo, quản lý trong quá trình xây dựng, ban hành, tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng; khắc phục những biểu hiện của “bệnh hình thức”, như ham thành tích, không bám sát nhiệm vụ thực tế, đề ra nhiệm vụ nhưng không quyết tâm thực hiện. Thực hiện tốt điều đó sẽ góp phần hạn chế và đẩy lùi “bệnh hình thức” trong hoạt động của hệ thống chính trị.

Đổi mới và nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát trong Đảng và trong cả hệ thống chính trị ngay từ khâu xây dựng chương trình hành động của cấp ủy các cấp, sao cho nội dung chương trình hành động phải bám sát nhiệm vụ chính trị của đại hội đảng bộ các cấp, căn cứ vào các nguồn lực của địa phương, cơ quan, đơn vị để xây dựng chương trình phù hợp. Cần tập trung vào những khâu, những nội dung mấu chốt, dễ bị lợi dụng, những người có trách nhiệm và thẩm quyền quyết định để ngăn ngừa biểu hiện “bệnh hình thức”, đặc biệt là các lĩnh vực: tư tưởng chính trị, quản lý báo chí; kinh tế - tài chính; hành chính, tư pháp; việc chấp hành nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng trong công tác tổ chức, cán bộ; việc lãnh đạo, chỉ đạo và giải quyết khiếu nại, tố cáo của đảng viên và công dân...

Bên cạnh đó, các cấp ủy cần có quy định cụ thể trong việc biểu dương, khen thưởng những nơi thực hiện tốt, có nhiều đổi mới, năng động, sáng tạo, khuyến khích nhân rộng những điển hình tiên tiến, phê phán, xử lý nghiêm minh những nơi thực hiện không tốt, có biểu hiện lệch lạc của “bệnh hình thức”; đồng thời, cần nghiên cứu hoàn chỉnh các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước về xử lý trách nhiệm đối với những tập thể, cá nhân, cán bộ, đảng viên có vi phạm về “bệnh hình thức”, gây hậu quả nghiêm trọng./.

ST.

RẤT MONG NGƯỜI DÂN THAM GIA HIẾN MÁU TỪ NAY ĐẾN TẾT NGUYÊN ĐÁN; CHÚNG TA ĐANG THIẾU 10.000 ĐƠN VỊ MÁU DỰ TRỮ CHO TẾT

Để bảo đảm nhu cầu máu cho cấp cứu và điều trị dịp Tết, Viện Huyết học – Truyền máu Trung ương rất mong người dân đến tham gia hiến máu từ nay đến hết Tết Nguyên đán; đặc biệt là những người có nhóm máu O và nhóm máu A.

Mỗi tháng Trung tâm Máu quốc gia (Viện Huyết học – Truyền máu Trung ương) cần tiếp nhận được khoảng 40.000 – 42.000 đơn vị máu và 5.000 đơn vị tiểu cầu gạn tách.

Như vậy, riêng 2 tháng đầu năm 2024, Viện đã cần tối thiểu 80.000 đơn vị máu để cung cấp cho hơn 180 cơ sở y tế tại 31 tỉnh/thành phố; trong đó nhóm O cần khoảng 40.000 đơn vị.

Mặc dù đã có sự chuẩn bị, lên kế hoạch tiếp nhận máu từ trước nhưng kết quả hiện tại đều đạt thấp hơn so với nhu cầu.

TS. Trần Ngọc Quế, Giám đốc Trung tâm Máu quốc gia, Viện Huyết học – Truyền máu Trung ương cho biết: “Càng đến gần Tết, nhu cầu sử dụng máu luôn cao hơn vì người bệnh nhập viện điều trị và được truyền máu để có đủ sức khỏe về ăn Tết với gia đình, nhu cầu ngay sau Tết cũng vậy. Để đáp ứng nhu cầu này trước Tết và dự trữ trong Tết thì hiện Viện vẫn còn thiếu khoảng 10.000 đơn vị máu.”

Nguyên nhân của tình hình trên là những ngày gần đây thời tiết khắc nghiệt, rét đậm xảy ra ở nhiều nơi khiến nhiều điểm hiến máu không đạt được kết quả như dự kiến. Trong khi đó Viện Huyết học – Truyền máu Trung ương vẫn đang phải tiếp tục “chi viện” 1.000 đơn vị máu mỗi tuần cho Cần Thơ và các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. Một số khu vực khác (như Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh) cũng không đạt kết quả tiếp nhận máu theo kế hoạch và xin hỗ trợ từ Trung tâm Máu quốc gia.

Viện Huyết học – Truyền máu Trung ương đã và đang nỗ lực tích cực để có thêm các lịch hiến máu trước Tết. Đồng thời chuyển vật tư để tiếp nhận máu tại các tỉnh Đắk Lắk, Đắk Nông và khu vực Tây Nam Bộ; sau đó chuyển máu ra Hà Nội để thực hiện xét nghiệm sàng lọc, điều chế máu và cung cấp ngược trở lại chế phẩm máu cho Tây Nam Bộ. Dự kiến từ 30/1 đến 5/2, Viện sẽ phối hợp tiếp nhận hơn 2.200 đơn vị máu tại TP Cần Thơ và các tỉnh: Hậu Giang, An Giang, Đồng Tháp.

Thực trạng thiếu máu do số người hiến máu giảm những ngày gần đây cũng xảy ra tại Bệnh viện Truyền máu – Huyết học TP. Hồ Chí Minh – nơi đang cung cấp chế phẩm máu cho hơn 150 bệnh viện tại TP. Hồ Chí Minh và hỗ trợ cho các tỉnh Tây Nam Bộ.

https://goo.gl/maps/E6kEu4Gz9nKYCvww7)

– Số 10, Ngõ 122 Đường Láng, Đống Đa (Bản đồ: https://goo.gl/maps/SJGJk7FTLvam7DGX6)

– 78 Nguyễn Trường Tộ, Ba Đình (Bản đồ: https://goo.gl/maps/kWB1KszzJVvnVDzm9)

– Bệnh viện Đa khoa Nông nghiệp, Km13+500, Quốc lộ 1A, Ngọc Hồi, Thanh Trì.

NHIỆT LIỆT CHÀO MỪNG KỶ NIỆM 94 NĂM NGÀY THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM: ĐẢNG TA LÀ ĐẠO ĐỨC LÀ VĂN MINH ĐẢNG TA THẬT LÀ VĨ ĐẠI!

     Kỷ niệm 94 năm ngày thành lập Đảng (3/2/1930-3/2/2024) cũng là lúc đất nước đón Xuân Giáp Thìn. “Mừng Đảng, mừng Xuân, mừng Đất nước”, trong thời điểm rất ý nghĩa này, lòng ta lắng đọng, trở về lịch sử hào hùng để kỳ vọng, vươn tới tương lai!

Trong đêm trường của thực dân, phong kiến, con đường cách mạng vô sản được Nguyễn Ái Quốc truyền bá về Việt Nam như “Mặt trời chân lý chói qua tim”, thúc hạt giống tốt nảy mầm, hình thành 3 tổ chức cộng sản đầu tiên. Trong hoàn cảnh “không quê hương, sương gió tơi bời”, hội nghị thành lập Đảng, thông qua Chánh cương vắn tắt diễn ra trên “đất khách quê người”.

Chưa đầy một tuổi, Đảng lãnh đạo cao trào cách mạng Xô viết Nghệ Tĩnh (1930-1931). Tiếp đó là thử thách, vươn mình qua cao trào cách mạng 1936-1939 và 1939-1945. Để rồi, 15 tuổi, với gần 5.000 đảng viên, lãnh đạo toàn dân tộc tiến hành thắng lợi cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945 “long trời, lở đất”, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (2/9/1945), đưa Việt Nam đứng vào hàng ngũ các dân tộc tiên phong trên thế giới đấu tranh xóa bỏ chủ nghĩa thực dân, vì hòa bình, độc lập, dân chủ và tiến bộ xã hội.

Chưa kịp hưởng thái bình, Đảng đã gánh vác sứ mệnh lãnh đạo toàn dân tiến hành hai cuộc kháng chiến trường kỳ 30 năm, đánh bại “hai đế quốc to”. Giải phóng miền Nam, non sông thu về một mối, “mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc như một trang chói lọi nhất… đi vào thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc”.

Vừa ra khỏi cuộc kháng chiến, Việt Nam lại phải đương đầu với cuộc chiến tranh mới. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, toàn quân, toàn dân ta vừa khôi phục kinh tế - xã hội, vừa chiến đấu bảo vệ biên giới, bảo vệ độc lập, chủ quyền; mặc cho bao vây, cấm vận vẫn một mình đảm đương nghĩa vụ quốc tế, giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng, hồi sinh đất nước.

Khủng hoảng kinh tế - xã hội những năm sau chiến tranh và bão tố, sóng ngầm từ sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô, Đông Âu ập đến, có thể quét sạch mọi thứ chúng ta giành được. Trong hoàn cảnh ấy, đường lối đổi mới khởi xướng ở Đại hội VI (12/1986), liên tục bổ sung, phát triển từ Đại hội VII (6/1991) đến Đại hội XIII (1/2021), đưa đất nước vượt qua thử thách sống còn. Chúng ta vẫn kiên định, vững bước, tiếp tục sáng tạo, đổi mới, không ngừng phát triển trên con đường mà Đảng, Bác Hồ, dân tộc và nhân dân Việt Nam lựa chọn.

Từ sau Đại hội XIII đến nay, thế giới có nhiều diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường, xuất hiện thách thức mới, những “làn gió ngược”. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước vẫn vững vàng, đạt được những kết quả to lớn, khá toàn diện trên nhiều lĩnh vực.

Kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát, nợ công được kiểm soát, các cân đối lớn của nền kinh tế được bảo đảm, tăng trưởng GDP thuộc top đầu của khu vực và thế giới, thu hút đầu tư nước ngoài (FDI) đạt mức cao, là điểm sáng của nền kinh tế thế giới. Văn hóa tiếp tục được quan tâm xây dựng, đạt nhiều kết quả quan trọng, phát huy vai trò là “nền tảng tinh thần của xã hội, sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc”. Công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực được thực hiện bài bản, đồng bộ, quyết liệt, đạt hiệu quả rõ rệt, theo tinh thần “…cắt bỏ cành sâu mọt để cứu cả cây”, “…kỷ luật một vài người để cứu muôn người”.

Quốc phòng, an ninh được củng cố, tăng cường, giữ vững độc lập, chủ quyền, ngăn ngừa nguy cơ xung đột, chiến tranh từ sớm, từ xa. Đường lối đối ngoại của Đại hội XIII được quán triệt sâu rộng, nghiêm túc, triển khai thực hiện đồng bộ, đạt nhiều kết quả quan trọng, có ý nghĩa lịch sử, trở thành điểm sáng đầy ấn tượng trong tổng thể thành tựu chung của đất nước, góp phần quan trọng giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, tạo thuận lợi cho công cuộc phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của đất nước.

Thành tựu đó là minh chứng sinh động cho đánh giá của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, uy tín và vị thế quốc tế như ngày nay”. Nhiều tổ chức quốc tế, chính khách, học giả ghi nhận Việt Nam là một ngôi sao trong khu vực và đang vươn lên thành quốc gia có ảnh hưởng kinh tế toàn cầu; hình mẫu trong nhiều mặt; một trong những điểm đến hấp dẫn nhất, một trong những quốc gia tiên phong về phát triển nền kinh tế xanh và thông minh.

Trong 94 năm, Đảng lãnh đạo đất nước, dân tộc vượt qua muôn vàn thử thách, mở ra thời đại Hồ Chí Minh, đưa Việt Nam vào kỷ nguyên mới: Kỷ nguyên độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội. Trong giờ phút thiêng liêng này, càng nhớ lời Bác tại Lễ kỷ niệm 30 năm ngày thành lập Đảng (5/1/1960): “Đảng ta là đạo đức, là văn minh”. Tám chữ mà kết tinh, khái quát sâu sắc bản chất, bản lĩnh, sứ mệnh, trí tuệ, tầm vóc, sức mạnh và sự vĩ đại của Đảng.

“Đảng ta là đạo đức” bởi mục đích cao nhất, duy nhất của Đảng là lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, con người; làm cho nước độc lập, hòa bình, dân ấm no, tự do, hạnh phúc; đoàn kết, hữu nghị với các dân tộc trên thế giới, sánh vai với các nước tiên tiến năm châu. Đảng luôn xây dựng, chỉnh đốn, tu dưỡng, rèn luyện; nhìn thẳng vào sự thật, đấu tranh tự phê bình và phê bình, khắc phục khuyết điểm; rút ra bài học sâu sắc, giữ vững cái gốc, nền tảng đạo đức, để luôn trong sạch vững mạnh. Đảng tồn tại trong dân, gắn bó mật thiết với dân.

Đảng văn minh bởi Đảng tiêu biểu cho lương tâm, trí tuệ, tư duy khoa học, cách mạng, phát triển; đánh giá đúng tình hình, nắm bắt quy luật thời đại. Đảng luôn bám sát thực tiễn, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, đề ra đường lối, chiến lược phù hợp. Đảng lãnh đạo, cầm quyền, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp, pháp luật, không đứng ngoài, đứng trên dân tộc. Đảng có quan hệ quốc tế trong sáng, hài hòa lợi ích quốc gia, dân tộc với lợi ích của cộng đồng quốc tế, giữa quyền lợi và trách nhiệm, đóng góp cho hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển của thế giới, khu vực.

Đạo đức, văn minh của Đảng không tự nhiên mà thành, là kết quả của quá trình giáo dục, tôi luyện, thử thách của nhiều thế hệ. Đảng với những đảng viên ưu tú, tiên phong, sẵn sàng xả thân trong thời bình, thời chiến, lãnh đạo dân tộc, nhân dân lập nên những kỳ tích, viết nên “pho lịch sử bằng vàng”. Lịch sử Đảng, lịch sử dân tộc, đất nước minh chứng lời khẳng định đầy tự hào của Bác: “Với tất cả tinh thần khiêm tốn của người cách mạng, chúng ta vẫn có quyền nói rằng: Đảng ta thật là vĩ đại”.

Lịch sử Đảng, lịch sử dân tộc, đất nước minh chứng lời khẳng định đầy tự hào của Bác: “Với tất cả tinh thần khiêm tốn của người cách mạng, chúng ta vẫn có quyền nói rằng: Đảng ta thật là vĩ đại”.

Càng tự hào, càng ghi tạc lời cảnh báo của Người: “Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”. Một bộ phận cán bộ, đảng viên “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, suy thoái đạo đức, lối sống, chạy theo lợi ích nhóm, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; tụt hậu, lạc bước, né tránh, đùn đẩy. Họ đánh mất vai trò tiên phong, phai nhạt giá trị đạo đức, văn minh, loại mình khỏi đội ngũ, khiến một bộ phận nhân dân suy giảm lòng tin với Đảng.

Nghị quyết Đại hội XIII thể hiện khát vọng của dân tộc, phấn đấu đến năm 2045, Việt Nam trở thành nước phát triển, thu nhập cao. Đó là sự nghiệp cách mạng vô cùng to lớn, “một cuộc chiến đấu khổng lồ”, như lời dạy của Bác. Đòi hỏi toàn đảng, mọi tổ chức đảng, đảng viên phải nỗ lực cao hơn, bản lĩnh hơn, trí tuệ hơn. Tiếp tục xây dựng Đảng thực sự tiêu biểu về đạo đức, văn minh, thực sự trong sạch vững mạnh trong điều kiện mới. Đó là nhiệm vụ then chốt, gắn với sự sống còn của Đảng, sự hưng vong của đất nước.

Quán triệt sâu sắc và triển khai tích cực công tác xây dựng Đảng theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII: “… đặc biệt coi trọng và đẩy mạnh hơn nữa xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện về chính trị, tư tưởng, tổ chức và cán bộ”. Trong đó, xây dựng Đảng về đạo đức là “nền tảng”, là “cái gốc” để Đảng trong sạch, vững mạnh. Tăng cường sự gắn bó mật thiết với nhân dân, phát huy vai trò giám sát của nhân dân với cán bộ, đảng viên. Luôn “giữ gìn sự đoàn kết trong Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”.

Trên cơ sở đó mà học tập, rèn luyện nâng cao bản lĩnh chính trị, trí tuệ, sức chiến đấu, năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, xây dựng văn hóa Đảng. Thực hiện tốt phương châm chỉ đạo “6 dám”: “Dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám nói, dám đột phá, sáng tạo và dám đương đầu với khó khăn, thử thách”.

Kỷ niệm ngày thành lập Đảng, lòng ta trong sáng hơn, tự hào hơn. Cho ta thêm sức mạnh, nguyện giữ gìn, phát huy bản sắc giá trị đạo đức, văn minh của Đảng; phấn đấu thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII, để mãi mãi tự hào: “Đảng ta thật là vĩ đại”./.


Yêu nước ST.

TẢN MẠN ĐẦU XUÂN: CHỨNG HỐI LỘ THẦN THÁNH CỦA NGƯỜI VIỆT NGÀY CÀNG NẶNG!

     Chùa vốn là nơi trang nghiêm, yên tĩnh để con người nơi nơi tìm đến mong gột rửa tâm can, bụi trần dương gian. Thế mà nơi thiêng liêng ấy đang bị bao người biến thành nơi lộn xộn với cảnh nghẹt cứng ô tô xe máy - nơi để người ta giành giật, kéo khách như tại những phiên chợ. 

Người người dẫm chân lên nhau, lễ chồng lên lễ. Họ chen chân xô đẩy tranh nhau gặp các sư thầy mong viết được cái tên mình để dâng lên cúng lễ giải hạn hằng năm. Vàng mã cháy đêm cháy ngày, khói hương nghi ngút mịt mù, tiền lẻ rải tràn khắp nơi. 

Lại có người sợ Phật Trời không chứng giám được tấm lòng mình dâng lên khi bao nhiêu đồng tiền lẻ rơi tràn xuống khắp nơi từ hòm công đức nên đã nhét thẳng vào tay, vào đầu những tượng Phật và sau đó là những câu khấn nguyện nhịp nhàng dài dằng dặc từ tờ sớ mang theo. 

Đâu chỉ riêng người đến cúng lễ, một bộ phận nhà sư trong những ngôi chùa cũng mang lòng phân biệt với người viếng bái, giữa người giàu và người nghèo thái độ đón tiếp sẽ có sự chênh lệch đi.

Rồi sau những buổi viếng lễ, vấn đề rác thải đã trở thành hồi chuông cảnh báo nhức nhối cho môi trường xung quanh. Chứng kiến bao nhiêu người vừa xong nghi lễ thành tâm cúng bái liền lấy chai nước suối họ tin đã được trời Phật độ trì uống liền một mạch như nạp vào cơ thể một phép nhiệm màu và sao đó là quăng xuống trước tượng Phật thẳng tiến ra về. Thiết nghĩ, nếu trời Phật linh thiêng liệu có minh chứng cho những hành động kia?  

Không hiếm hoi khi bắt gặp hình ảnh nhốn nháo xô bồ, chặt chém từng bó nhang, nhành hoa, vật phẩm dâng lễ đến nạn mất cắp. Đến cảnh lợi dụng lòng thương của mọi người từ nhóm người chăn dắt bao trẻ em mặt lấm lem, có em còn chưa biết nói để lôi kéo cầu nèo từng đồng của người đến viếng lễ. Tất cả đã biến đền chùa, nơi vốn chứa đựng nét đẹp kiêu hãnh, nét văn hóa đặc trưng của cả một dân tộc đang trở nên xô bồ đầy nỗi trăn trở. 

Mới nhất ngày 30/1, Thủ tướng Chính phủ ban hành Công điện về việc bảo đảm nếp sống văn minh, an toàn, tiết kiệm trong các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo dịp Tết Nguyên đán Giáp Thìn và Lễ hội xuân 2024.

Chỉ đạo là thế nhưng thay đổi có lẽ khó khi con người càng khó khăn càng có xu hướng "hối lộ" thần thánh./.



Môi trường ST.

NHIỆT LIỆT CHÀO MỪNG KỶ NIỆM 94 NĂM NGÀY THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM: QUAN ĐIỂM “ĐẢNG TA LÀ ĐẠO ĐỨC, LÀ VĂN MINH” CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH VÀ SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG TA TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY!

     Trong bài phát biểu tại Lễ Kỷ niệm 30 năm Ngày thành lập Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Đảng ta là đạo đức, là văn minh”(1) - đây là luận điểm sâu sắc, nhất quán và xuyên suốt trong tư tưởng của Người về Đảng Cộng sản Việt Nam; là kết tinh những giá trị đặc sắc của danh dự, sự đoàn kết, trí tuệ, bản lĩnh và trong sáng của mỗi đảng viên và tổ chức Đảng. Chính vì lẽ đó, Đảng ta luôn kế thừa và vận dụng sáng tạo những quan điểm của Người vào việc xây dựng, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong giai đoạn hiện nay!

Để xây dựng Đảng thực sự trở thành Đảng “là đạo đức, là văn minh”, Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII khẳng định:
“Phải đặc biệt coi trọng và đưa công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng lên tầm cao mới, gắn với xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh.

Nội dung và ý nghĩa sâu sắc trong quan điểm “Đảng ta là đạo đức, là văn minh” của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Tư tưởng Hồ Chí Minh về “Đảng ta là đạo đức, là văn minh” là sự phản ánh bản chất tốt đẹp của một đảng cách mạng chân chính. Đồng thời, khẳng định vai trò, sứ mệnh của Đảng đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Với vai trò là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đại biểu trung thành cho lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc, “Đảng ta phải thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”(2). Đảng có sứ mệnh vẻ vang là lãnh đạo công cuộc cải tạo xã hội cũ, xây dựng một xã hội mới tốt đẹp, mang đến ấm no, hạnh phúc cho toàn thể dân tộc, vì vậy Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm nhắc nhở: “Đảng ta là một đảng cách mạng, ngoài lợi ích của nhân dân và giai cấp công nhân, Đảng ta không có lợi ích nào khác”(3). Vì nước, vì dân; vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trở thành lẽ sống cao cả, thiêng liêng, làm cho Đảng luôn trong sạch, vững mạnh, luôn “dĩ công vi thượng”. Đó là yếu tố quyết định để Đảng ta trở thành biểu tượng của trí tuệ, danh dự, lương tâm, trách nhiệm; là thước đo giá trị của một Đảng cầm quyền chân chính và liêm khiết.  

Sức mạnh của Đảng không chỉ biểu hiện ở lòng nhiệt tình cách mạng mà còn biểu hiện ở năng lực lãnh đạo, ở trình độ trí tuệ của Đảng. Để có tầm nhìn, trí tuệ, Đảng phải nắm vững lý luận cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, bởi vì không có lý luận cách mạng thì không nắm bắt được quy luật, không nhận thức một cách tự giác toàn bộ hoạt động của mình, dễ rơi vào chủ nghĩa kinh nghiệm, mù quáng trong hành động. Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam”(4). Người khẳng định: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”(5), là “cái cẩm nang thần kỳ”, “là mặt trời soi sáng”, là kim chỉ nam đúng đắn cho giai cấp công nhân và toàn thể Nhân dân Việt Nam đứng lên đấu tranh giành độc lập dân tộc và mang đến ấm no, hạnh phúc cho Nhân dân. 

Ngoài phương pháp tư duy khoa học biện chứng, cách mạng, Đảng còn phải tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý chí và hành động, kỷ luật nghiêm minh, lấy nguyên tắc tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, thực hiện tốt nguyên tắc này tạo thành sức mạnh đoàn kết, thống nhất của Đảng: “Đảng ta tuy nhiều người, nhưng khi tiến đánh thì chỉ như một người. Đó là nhờ kỷ luật”(6). Việc thường xuyên chỉnh đốn và đổi mới là nhằm làm cho Đảng ta trong sạch, vững mạnh, làm cho đội ngũ cán bộ, đảng viên không ngừng được bồi dưỡng, nâng cao phẩm chất đạo đức, bản lĩnh chính trị và năng lực công tác đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Người chỉ rõ: “Phải biết rằng tình hình khách quan thay đổi hàng giờ hàng phút, một chủ trương của ta hôm nay đúng, hôm sau đã không hợp thời, nếu ta không tỉnh táo kiểm điểm những tư tưởng hành vi của ta để bỏ đi những cái quá thời, sai hỏng, nhất định ta sẽ không theo kịp tình thế, ta sẽ bị bỏ rơi, bị các bạn tỉnh táo nhanh nhẹn hơn vượt đi trước”(7). 

Từ rất sớm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cảnh báo: “Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi”(8). Trong bản Di chúc Người đã căn dặn: “Việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng, làm cho mỗi đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ đảng giao phó cho mình, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân. Làm được như vậy, thì dù công việc to lớn mấy, khó khăn mấy chúng ta cũng nhất định thắng lợi”(9). Chỉ có luôn đổi mới và chỉnh đốn, Đảng ta mới loại bỏ được những yếu tố lạc hậu, bổ sung giá trị, nguồn lực mới, góp phần vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. 

“Tạo chuyển biến mạnh mẽ, thực chất trong đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị, bảo đảm hiệu quả, thiết thực, sát thực tiễn, đáp ứng yêu cầu lãnh đạo toàn diện của Đảng trong giai đoạn mới. Giữ vững nguyên tắc của Đảng, đồng thời phát huy sự chủ động, sáng tạo của các cấp ủy, tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên, của từng cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hệ thống chính trị”. Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 17/11/2022 của Hội nghị Trung ương lần thứ sáu, khóa XIII.

Sự vận dụng, bổ sung và phát triển quan điểm “Đảng ta là đạo đức, là văn minh” trong giai đoạn hiện nay
Để xây dựng Đảng thực sự trở thành Đảng “là đạo đức, là văn minh”, Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII khẳng định: “Phải đặc biệt coi trọng và đưa công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng lên tầm cao mới, gắn với xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Đây là nhiệm vụ có ý nghĩa sống còn đối với sự tồn vong của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta”. Và coi đây là sự phát triển rõ nét trong tư duy lý luận của Đảng, dựa trên nền tảng của một hệ thống lý luận khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Qua đó, tiếp tục nhấn mạnh vai trò, vị trí, tầm quan trọng của xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ.

Về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, Văn kiện Đại hội ĐBTQ lần thứ XIII đưa ra quan điểm chỉ đạo: “Phải kiên định và không ngừng vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”(10). Vai trò, tầm quan trọng của việc kiên định nguyên tắc xây dựng Đảng được Đảng ta khẳng định và nhấn mạnh: “Sự chặt chẽ về nguyên tắc là vấn đề sống còn của Đảng và bảo đảm quan trọng nhất cho sức sống, sự trong sạch và vững mạnh của Đảng”(11). Giữ vững và phát huy bản chất giai cấp công nhân của Đảng, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta được coi là vấn đề mang tính quyết định đến năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền, sức chiến đấu của Đảng, là tư tưởng nhất quán trong quá trình lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Để thực hiện được nguyên tắc đó, Đảng ta phải không ngừng nâng cao lập trường, bản lĩnh chính trị, trình độ, trí tuệ, tính chiến đấu của mỗi tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp.

Để xây dựng Đảng thực sự tiêu biểu về đạo đức, là văn minh trong điều kiện mới, Văn kiện Đại hội ĐBTQ lần thứ XIII yêu cầu: “Nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện các giá trị đạo đức cách mạng theo tinh thần Đảng ta là đạo đức, là văn minh cho phù hợp với điều kiện mới và truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc”(12). Xây dựng Đảng về đạo đức luôn là việc làm thường xuyên, quan trọng trong công tác xây dựng Đảng, trong đó, việc giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên được xem là khâu then chốt, một mục tiêu mà Đảng ta cần phấn đấu, làm cho Đảng thực sự tiêu biểu cho “trí tuệ, danh dự và lương tâm của thời đại”. Xây dựng Đảng về đạo đức thể hiện trong mối quan hệ chặt chẽ với xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức và cán bộ. Trong phương hướng, nhiệm vụ đẩy mạnh hơn nữa công tác xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, xây dựng văn hóa Đảng, Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng xác định: “Trong những năm tới phải đặc biệt coi trọng và đẩy mạnh hơn nữa xây dựng chỉnh đốn Đảng toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ”(13). Trong đó, xây dựng Đảng về đạo đức là “nền tảng”, là “cái gốc” cho Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng.

Để củng cố và tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với Nhân dân, Văn kiện Đại hội ĐBTQ lần thứ XIII đề ra các giải pháp trọng tâm là: “Tiếp tục xây dựng đội ngũ cán bộ thật sự “trọng dân, gần dân, tin dân, hiểu dân, học dân, dựa vào dân và có trách nhiệm với dân”(14); “nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin”; đồng thời, “Chăm lo, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chuyên trách công tác dân vận”(15). Trong đó, cần chú ý việc phát huy vai trò, sự tham gia của Nhân dân trong xây dựng, ban hành tổ chức thực hiện các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trên cơ sở bảo đảm hài hòa lợi ích giữa Nhà nước, doanh nghiệp và người dân, giữa các vùng, miền; quan tâm đến các đối tượng yếu thế trong xã hội. Tiếp tục hoàn thiện, cụ thể hóa, thực hiện tốt cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ” và phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Tổ chức có hiệu quả, thực chất việc người dân tham gia giám sát, đánh giá hiệu quả hoạt động của các tổ chức trong hệ thống chính trị, phẩm chất, năng lực của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Lấy kết quả công việc, sự hài lòng và tín nhiệm của người dân làm tiêu chí quan trọng để đánh giá chất lượng tổ chức bộ máy và chất lượng cán bộ, đảng viên.

Trải qua 93 năm qua, dưới ngọn cờ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo dân tộc ta, Nhân dân ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác… đó là kết quả hội tụ của nhiều nhân tố, mà trước hết và trên hết là sự đoàn kết, thống nhất của Đảng, toàn quân và toàn dân ta - qua đó tiếp tục khẳng định Đảng ta thực sự là một đảng cách mạng, chân chính “là đạo đức, là văn minh”./.
--------------------
(1),(3),(8) Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 12, Nxb CTQG-ST, H.2011, tr.403, tr.524, tr.672.
(2),(9) Sđd, tập 15, tr.612, tr.616.
(7) Sđd, tập 4, tr.28.
(4),(5) Sđd, tập 2, tr.289, tr.289.
(6) Sđd, tập 6, tr.17.
(10),(12) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb CTQG-ST, H.2021, tr.109, tr.184.
(11) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 37, Nxb CTQG-ST, H.2004, tr.772.
(13) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb CTQG-ST, H.2021, tr.190.
(14),(15) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập II, Nxb CTQG-ST, H.2021, tr.248, tr.249.


Yêu nước ST!

Thứ Sáu, 2 tháng 2, 2024

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: CHỦ TỊCH NƯỚC VÕ VĂN THƯỞNG CÙNG KIỀU BÀO DÂNG HƯƠNG, THẢ CÁ TẠI BẾN NHÀ RỒNG!

         Sáng (2/2), tại Bến Nhà Rồng - Bảo tàng Hồ Chí Minh chi nhánh TP.HCM, Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng, Phu nhân cùng đoàn đại biểu 100 kiều bào tiêu biểu đại diện cho gần 6 triệu kiều bào ta ở nước ngoài đã tới dâng hương, dâng hoa tưởng nhớ Chủ tịch Hồ Chí Minh, Chủ tịch Tôn Đức Thắng và thực hiện nghi thức thả cá nhân dịp tiễn ông Công, ông Táo về chầu trời!

Cùng tham gia đoàn có có Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành ủy Hồ Chí Minh Nguyễn Văn Nên; các Ủy viên Trung ương Đảng, Lãnh đạo Văn phòng Chủ tịch nước, lãnh đạo MTTQ Việt Nam, lãnh đạo Thành phố Hồ Chí Minh…

Tại Bến Nhà Rồng, Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng và kiều bào tiêu tiểu cùng các thành viên trong đoàn đã thành kính dâng hoa, dâng hương, dành phút mặc niệm, tưởng nhớ Chủ tịch Hồ Chí Minh, bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc trước những công lao và đức hy sinh quên mình vì dân, vì nước của Người.

Tiếp đó, Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng và đoàn đã dâng hương, dâng hoa Chủ tịch Tôn Đức Thắng, người đã sáng lập ra tổ chức Công hội Đỏ, đáp ứng yêu cầu cấp thiết của phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân Việt Nam trong những thập niên đầu thế kỷ 20.

Đây là hoạt động thường niên của các lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Chính phủ, Quốc hội trước thềm Tết Nguyên đán hàng năm, nhằm thể hiện sự tri ân sâu sắc công lao to lớn của các lãnh đạo Đảng, Nhà nước qua các thời kỳ đối với quốc gia, dân tộc.

Với kiều bào, đây cũng là dịp để tưởng nhớ, tri ân, báo cáo với Chủ tịch Hồ Chí Minh, các lãnh đạo Đảng, Nhà nước về những nỗ lực trong suốt một năm qua, vươn lên trong cuộc sống, đóng góp vào phát triển nước sở tại và đặc biệt luôn hướng về đất mẹ quê hương; mong muốn đóng góp công sức, trí tuệ để cùng người Việt Nam trong và ngoài nước xây dựng đất nước phát triển phồn vinh và hạnh phúc, trở thành nước phát triển, thu nhập cao vào năm 2045 như mục tiêu được nêu tại Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII.

Tiếp đó, theo phong tục truyền thống của dân tộc vào ngày 23 tháng Chạp, Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng, các lãnh đạo và kiều bào tiêu biểu đã cùng thả cá tại Bến Nhà Rồng, tiễn ông Công, ông Táo chầu trời, với ngụ ý "cá vượt Vũ môn", biểu tượng cho sự thăng hoa, tinh thần vượt khó, sự kiên trì và bền bỉ để đi tới thành công. Đây cũng là hoạt động để cộng đồng người Việt Nam trên khắp thế giới nhớ về nguồn cội, về văn hóa Việt.

Tại Bến Nhà Rồng, Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng vào Phu nhân cũng đã gặp gỡ, ân cần thăm hỏi động viên và chúc Tết kiều bào tiêu biểu về nước dịp này. 

Cũng trong sáng nay, Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng và đoàn đã dâng hoa và dành phút mặc niệm tưởng nhớ Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Công viên tượng đài Chủ tịch Hồ Chí Minh ở đường Nguyễn Huệ, Quận 1./.




Môi trường ST.

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: QUÂN ỦY TRUNG ƯƠNG, BỘ QUỐC PHÒNG THĂM, CHÚC TẾT CÁC ĐỒNG CHÍ NGUYÊN LÃNH ĐẠO ĐẢNG, NHÀ NƯỚC!

         Sáng 1-2, Đoàn công tác của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng do Thượng tướng Nguyễn Tân Cương, Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương, Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng làm trưởng đoàn đã đến thăm, chúc Tết các đồng chí nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước!

Đoàn đến thăm, chúc Tết các đồng chí nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước: Nguyễn Minh Triết, nguyên Chủ tịch nước; Nguyễn Tấn Dũng, nguyên Thủ tướng Chính phủ; Đại tướng Lê Hồng Anh, nguyên Thường trực Ban Bí thư Trung ương Đảng.

Trong không khí đầm ấm, gần gũi, thay mặt Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Thượng tướng Nguyễn Tân Cương vui mừng báo cáo khái quát với các đồng chí nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước về kết quả nổi bật của toàn quân trong năm 2023.

Theo đó, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng đã lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt công tác xây dựng quân đội tinh, gọn, mạnh; đẩy mạnh phát triển công nghiệp quốc phòng; thiết thực nâng cao chất lượng huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu của toàn quân.

Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng thường xuyên nắm chắc, dự báo, đánh giá đúng tình hình, kịp thời tham mưu với Đảng, Nhà nước xử lý linh hoạt, hiệu quả các tình huống, không để bị động, bất ngờ. Toàn quân luôn duy trì nghiêm chế độ trực sẵn sàng chiến đấu...

Thượng tướng Nguyễn Tân Cương mong muốn các đồng chí tiếp tục quan tâm, theo dõi, có nhiều ý kiến đóng góp, động viên để cán bộ, chiến sĩ toàn quân tiếp tục phát huy tốt truyền thống, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó, xây dựng, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong mọi tình huống.

Các đồng chí nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước bày tỏ tin tưởng, đánh giá cao kết quả thực hiện nhiệm vụ của Quân đội nhân dân Việt Nam. Quân đội luôn được Đảng bộ, chính quyền, nhân dân cả nước tuyệt đối tin tưởng. Cán bộ, chiến sĩ luôn giữ vững, phát huy tốt phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ, sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao./.


Yêu nước ST.