Thứ Bảy, 3 tháng 2, 2024

Chuyển dịch cấu trúc xã hội mới trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư

Nhân loại đã trải qua ba cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật, làm thay đổi hoàn toàn cuộc sống của con người. Mỗi cuộc cách mạng đánh dấu một giai đoạn phát triển sâu sắc toàn diện về kinh tế, văn hoá và xã hội theo những hình thức rất khác nhau. Điều đáng quan tâm là về mặt xã hội, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư không chỉ thay đổi mạnh mẽ về phương thức sản xuất, mà còn đang tạo ra sự thay đổi diện mạo của cấu trúc xã hội mới.

Một số chiều cạnh về chuyển dịch cấu trúc xã hội trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư

Một là, hình thành cơ cấu việc làm và nhóm nhân lực mới.

Về mặt xã hội, Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang làm chuyển đổi cơ cấu việc làm và nguồn nhân lực trong các tổ chức, cơ quan, doanh nghiệp và nhóm xã hội. Chẳng hạn, đối với dịch vụ giao thông, thế hệ xe không người lái ra đời, hay dịch vụ Grab, Uber; trong lĩnh vực y tế, việc quản lý bệnh án điện tử được thực hiện một cách hiệu quả nhờ khả năng lưu trữ và tổng hợp dữ liệu khổng lồ, cùng tốc độ xử lý mạnh mẽ đường truyền thông tin. Thực tế, nhiều ý tưởng ứng dụng công nghệ thông minh vào đời sống đang tác động đến cơ cấu việc làm, nguồn nhân lực và chất lượng cuộc sống ở khắp mọi nơi trên thế giới. Sự hiện diện của công nghệ dẫn đến những thay đổi trong cấu trúc xã hội. Không ít chuyên gia khẳng định, một bộ phận không nhỏ nhân lực trong các doanh nghiệp sẽ bị thay thế bởi tự động hoá, các máy móc và thiết bị hiện đại. Trong hai thập kỷ tới, với sự tự động hoá, tất yếu dẫn tới không ít ngành nghề truyền thống sẽ biến mất khi xã hội phổ dụng công nghệ mới. Chẳng hạn, nếu như năm 1998, hãng máy ảnh Kodak tuyển dụng 170.000 người lao động, chiếm 85% thị trường giấy ảnh trên thế giới, thì gần đây, lĩnh vực kinh doanh này đã không còn hoạt động...

Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư không chỉ thay đổi mạnh mẽ về phương thức sản xuất, mà còn đang tạo ra sự thay đổi diện mạo của cấu trúc xã hội mới_Ảnh: S.T

Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang tạo ra những ngành nghề, các loại hình kinh doanh mới như các việc làm kỹ thuật số và số hóa... Tuy nhiên, Cách mạng công nghiệp lần thứ tư được đánh giá là tạo ra ít việc làm hơn trong các ngành công nghiệp mới so với các cuộc cách mạng trước đó. Theo ước tính của Chương trình Công nghệ và Việc làm Oxford Martin, Cách mạng công nghiệp lần thứ tư chỉ tạo ra khoảng 0,5% việc làm mới, thấp hơn nhiều so với cách mạng tự động hoá trước đây (12,5% việc làm mới đã được tạo ra trong giai đoạn 1980 -1990). Nhiều việc làm mất đi đồng nghĩa với việc một bộ phận người lao động sẽ rơi vào tình trạng thất nghiệp do không tìm được việc làm trong khu vực đòi hỏi trình độ và công nghệ cao, dẫn đến sự xuất hiện của “những người lao động bấp bênh” - là những người làm việc bán thời gian, người nhận lương tối thiểu, lao động phổ thông, người cao niên... Một tầng lớp những người lao động chuyển từ việc này sang việc khác để kiếm sống trong khi không có quyền thương lượng và an toàn nghề nghiệp. Hệ quả là sự chia tách, cô lập và loại trừ trong xã hội giữa những người bắt nhịp được với dòng chảy công nghệ và những người yếu thế hơn. Cách mạng công nghiệp lần thứ tư có thể sẽ dẫn đến nhiều “mặt tối” trong lĩnh vực việc làm ở tương lai.

Do tốc độ thay đổi công nghệ chóng mặt, đòi hỏi người lao động phải có năng lực, kỹ năng, tay nghề để thích ứng nhanh với sự phát triển của các công nghệ đó. Những kỹ năng giải quyết các vấn đề phức tạp, kỹ năng xã hội và kỹ năng hệ thống sẽ được yêu cầu nhiều hơn so với các kỹ năng liên quan đến thể chất và kỹ thuật. Nói cách khác, xu hướng việc làm trong kỷ nguyên số là sự đề cao lợi suất của kỹ năng, đặc biệt là các kỹ năng thúc đẩy và bổ trợ cho tự động hoá và số hoá. Các kỹ năng truyền thống như thể chất, quản lý nguồn lực từng đóng vai trò quan trọng trong giai đoạn trước đây đang bị máy móc thay thế nên lợi suất sẽ giảm mạnh.

Đối với Việt Nam, thách thức lớn nhất là khoảng cách phát triển không đồng đều giữa các lĩnh vực và còn cách khá xa so với mặt bằng ở các quốc gia phát triển, khi chúng ta vẫn là một quốc gia đang phát triển, kết cấu hạ tầng kỹ thuật và nền sản xuất chưa phát triển, khi hình thức sản xuất người điều khiển máy đơn giản là phổ biến, việc áp dụng trí tuệ nhân tạo hạn chế. Làn sóng Cách mạng công nghiệp lần thứ tư ở Việt Nam sẽ tiếp tục tạo ra sự phát triển không đồng đều, một số lĩnh vực như nông nghiệp, công nghiệp chế tạo có thể sẽ bị tụt lại xa hơn so với các ngành như công nghệ thông tin hay viễn thông. Trong bối cảnh đó, yêu cầu về nâng cao kỹ năng lao động trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư là hết sức gay gắt. Những kỹ năng giúp người lao động làm việc được trong các dây chuyền tự động hoá, các nhà máy thông minh là yêu cầu bắt buộc, trong khi đây lại là điểm hạn chế của lực lượng lao động Việt Nam.

Cách mạng công nghiệp lần thứ tư có thể lấy đi nhiều việc làm, nhưng cũng sẽ tạo thêm nhiều việc làm và đội ngũ nhân lực mới tham gia vao thị trường lao động toàn cầu. Theo phân tích của một số chuyên gia, việc làm trong các nhóm ngành năng lượng, công nghiệp chế tạo, dịch vụ và nông nghiệp sẽ chứng kiến nhiều biến động mạnh(3). Thực tế hiện nay, nhiều lĩnh vực, ngành nghề đang ứng dụng mạnh công nghệ như giáo dục, y tế, dịch vụ kinh doanh…, tạo ra nguồn nhân lực mới thích ứng với bối cảnh công nghệ số. Những ngành nghề công nghiệp điện tử, dệt may vốn là thế mạnh của Việt Nam và tạo ra nhiều việc làm trong vài thập kỷ qua có thể đứng trước nguy cơ phải cắt giảm nhân lực và việc làm trong quy trình sản xuất. Những tiến bộ về tự động hoá, số hoá giúp giảm chi phí sản xuất cộng với nền tảng công nghiệp phát triển có thể tăng khả năng các nhà máy điện tử và dệt may quay trở lại các nước phát triển để gần hơn với thị trường tiêu thụ lớn. Viễn cảnh cắt giảm việc làm trong lĩnh vực nông nghiệp cũng có thể xảy ra do đại bộ phận người làm nông nghiệp ở nước ta hiện nay vẫn ở trong tình trạng chưa cơ giới hoá sản xuất và ứng dụng công nghệ tiên tiến, nhất là công nghệ số trong một nền sản xuất nông nghiệp hiện đại.

Mô hình nông nghiệp công nghệ cao tại Hà Nam Hightech ứng dụng hệ thống công nghệ nhà màng, điều khiển lưu lượng tưới, dinh dưỡng qua smartphone_Ảnh: TTXVN

Hai là, gia tăng bất bình đẳng và khác biệt giữa các nhóm xã hội.

Cách mạng công nghiệp lần thứ tư sẽ mở ra nhiều cơ hội làm giàu hơn cho nhóm nhân lực sở hữu và khai thác tốt được công nghệ mới. Trong đó, nhóm nhân lực trẻ, có trình độ chuyên môn cao sẽ có nhiều lợi thế hơn các nhóm nhân lực trung và cao niên, học vấn thấp, ít có cơ hội tiếp cận với công nghệ mới, công nghệ số hóa. Điều này vô hình trung làm cho khoảng cách thu nhập và tích lũy tài sản giữa các nhóm xã hội ngày càng doãng ra mạnh hơn, giữa một bên là nhóm nhân lực thất thế do ít kỹ năng, chậm thích ứng với công nghệ, dễ bị người máy và tự động hoá thay thế và một bên là những người kiếm được tiền nhờ các ý tưởng và sử dụng thành thạo công nghệ mới. Diễn biến trên tất yếu khiến cho khoảng cách bất bình đẳng giữa các nhóm xã hội, thậm chí giữa các quốc gia có xu hướng tăng. Hơn nữa, bất bình đẳng về thu nhập trong hầu hết các nước đang tăng lên, thậm chí ở cả các quốc gia đạt nhiều thành tựu lớn về giảm nghèo. Điều này đặt ra bài toán đối với các quốc gia trong quản lý phát triển, hướng đến khai thác hiệu quả các cơ hội mới về thành tựu khoa học - kỹ thuật, giảm thiểu khoảng cách giàu nghèo giữa các nhóm xã hội trong quá trình phát triển.

Trong những năm qua, Việt Nam đã có nhiều chính sách, chương trình hỗ trợ nhằm làm thay đổi cơ cấu việc làm và giảm nghèo cho các cộng đồng, hộ gia đình nghèo. Tuy nhiên, khoảng cách phát triển giữa nông thôn - đô thị, nhất là vùng sâu, vùng xa về việc tiếp cận các dịch vụ xã hội vẫn tiếp tục tăng trong thời gian qua. Cách mạng công nghiệp lần thứ tư có thể tăng cơ hội cho mọi người nhưng không phải ai cũng có kỹ năng và năng lực cần thiết để khai thác triệt để cơ hội này. Những người nghèo ở khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa thường thiệt thòi trong tiếp cận thông tin, kỹ năng và công nghệ mới, vì vậy sẽ có nguy cơ tụt hậu xa hơn so với người dân ở khu vực thành thị.

Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư cũng có thể dẫn đến việc nữ giới thua thiệt hơn nam giới về cơ hội phát triển trên phạm vi toàn cầu. Trong thực tế, nam giới ngày càng có ưu thế hơn so với nữ giới ở các nghề liên quan đến khoa học máy tính, toán học, kỹ thuật sản xuất và tự động hoá. Nam giới có khả năng tìm được việc làm cao hơn nữ giới trong thời đại Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và điều này có thể tiếp tục đẩy một bộ phận nhân lực nữ rơi vào tình trạng thiếu việc làm hoặc thất nghiệp, nhất là nhóm nữ đang sinh sống ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa. Hệ quả là các hộ gia đình có nguồn thu nhập duy nhất từ nhân lực phụ nữ sẽ gặp khó khăn và có thể ngày càng nới rộng khoảng cách bất bình đẳng về giới trong gia đình và bên ngoài xã hội. Điều đáng quan tâm là thực tế này có thế dẫn đến phụ nữ khó cải thiện các cơ hội tham gia chính trị, tiếp cận các nguồn lực kinh tế, xã hội, đặc biệt là giảm tiềm năng đóng góp của phụ nữ vào tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội ở mỗi địa phương, quốc gia.   

Thực tiễn ở Việt Nam, bất bình đẳng giới vẫn đang là vấn đề đặt ra trong quá trình phát triển xã hội. Người phụ nữ vẫn bị quy chiếu bởi hệ chuẩn mực xã hội truyền thống và trong định hướng lựa chọn việc làm, phụ nữ thường được hướng vào các công việc truyền thống trả lương thấp để dành thời gian cho hoạt động chăm sóc gia đình. Thực trạng này có thể dẫn đến mất đi các cơ hội về việc làm, thăng tiến của phụ nữ, rơi vào nguy cơ thất nghiệp cao, đặt ra nhiều thách thức mới về bình đẳng giới, đòi hỏi các chính sách liên quan đến Cách mạng công nghiệp 4.0 phải hướng đến thu hẹp khoảng cách phát triển giữa nam giới và nữ giới trong quá trình phát triển.

Ba là, hình thành mạng lưới và chuẩn mực xã hội mới.

Trong cuộc sống thường ngày, các cá nhân tham gia vào các nhóm mạng lưới xã hội như gia đình, trường học, cơ quan, phường, hội cùng các nhóm sở thích, nhóm bạn bè… Hình thức tương tác truyền thống này thường bị giới hạn trong một không gian xã hội nhất định do khó khăn về khoảng cách địa lý, khả năng di chuyển và các chuẩn mực nhóm.

Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, ứng dụng kỹ thuật, công nghệ thông minh ngày càng phổ biến; các phương tiện truyền thông kỹ thuật số đang kết nối con người với nhau theo những cách hoàn toàn mới, các tương tác gián tiếp qua phương tiện, công nghệ và không gian mạng. Trong một thời điểm, dù ở không gian và vùng địa lý rất xa, nhưng con người có thể gia nhập các nhóm mạng lưới để tương tác và không cần phải gặp gỡ trực tiếp. Các thiết bị như điện thoại di động thông minh, máy tính có kết nối internet cho phép con người xây dựng và tham gia vào mạng lưới, thực hiện các tương tác xã hội mà ít phụ thuộc hơn vào khoảng cách không gian, chênh lệch thời gian. Có thể nói, các công nghệ hiện đại đã và đang tạo điều kiện cho con người thay đổi hình thức, cách thức tương tác và mở rộng các mạng lưới xã hội với quy mô vô cùng lớn, vượt qua các rào cản văn hóa, xã hội, kinh tế, tôn giáo...

Từ khi các phương tiện truyền thông xã hội trực tuyến xuất hiện cho đến nay, kênh tương tác này đã nhanh chóng trở thành một phương tiện giao tiếp chính của con người, mang lại nhiều lợi ích, mở ra cơ hội học tập, tương tác, phát triển không giới hạn. Tuy nhiên, mặt trái là không ít người, nhất là giới trẻ, đắm chìm vào thế giới ảo, “cô lập với xã hội thực tại”, sao lãng các quan hệ trong đời sống hiện thực vô cùng quan trọng như các quan hệ trong gia đình, trường học và cộng đồng. Điều này ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe thể chất và tinh thần của mỗi cá nhân, người thân trong gia đình và cộng đồng. Thực tế xã hội thời gian qua cho thấy không ít thanh, thiếu niên có hành vi lệch chuẩn xã hội, vi phạm pháp luật nghiêm trọng. Tình trạng này nếu không có sự điều chỉnh phù hợp sẽ khiến sự cố kết xã hội ngày càng bị rạn nứt sâu sắc, đặt ra nhiều khó khăn và thách thức trong hoạt động quản lý các phương tiện truyền thông xã hội và việc xây dựng văn hóa ứng xử trên không gian mạng.

Tóm lại, Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang lan rộng trên phạm vi toàn cầu và có ảnh hưởng đến mọi mặt của đời sống xã hội. Sự hiện diện của công nghệ hiện đại như tự động hoá, điện toán, số hoá đang dần chiếm ưu thế trong cuộc sống tác động đến hoạt động sản xuất, kinh doanh và các dịch vụ của đời sống xã hội. Cuộc cách mạng này mang đến nhiều cơ hội cho sự đột phá trong phát triển của mỗi quốc gia, nâng cao chất lượng tăng trưởng, thu nhập quốc dân và đời sống người lao động, nhưng cũng tác động tiêu cực đến nhiều lĩnh vực, ngành nghề sản xuất, kinh doanh được xem là thế mạnh của quốc gia đó, dẫn đến hiện tượng thất nghiệp và khủng hoảng kinh tế.

Cách mạng công nghiệp lần thứ tư sẽ tác động mạnh đến cấu trúc xã hội, quá trình tái cơ cấu ngành nghề, việc làm và hình thành nhóm nhân lực mới ở mỗi quốc gia và địa phương. Song hệ quả của quá trình này có khả năng nối dài sự gia tăng khoảng cách thu nhập, khác biệt và bất bình đẳng giữa các nhóm trong xã hội. Nhóm nhân lực trẻ, có học vấn, chuyên môn cao, nhóm người giàu, nhân lực sống ở các thành phố, nam giới có thể hưởng lợi nhiều hơn từ thành quả của công nghệ số khi tham gia thị trường lao động. Trong khi đó nhóm người nghèo, phụ nữ, người dân sống ở vùng sâu, xa sẽ gặp nhiều bất lợi và nhân lên gấp bội những khó khăn trong việc thích ứng với công nghệ số.

Cuộc cách mạng cộng nghiệp lần thứ tư cũng đang tác động đến sự tương tác, tham gia của các cá nhân vào mạng lưới xã hội và sự chia sẻ các giá trị xã hội. Thực tế cho thấy, nhiều mạng lưới xã hội trực tuyến và hệ giá trị, chuẩn mực đang được cá nhân tiếp nhận và thực hành đóng vai trò phù hợp với mong đợi xã hội trong bối cảnh mới. Tuy nhiên, không ít hiện tượng cá nhân tham gia mạng lưới ảo, thể hiện hành vi sai lệnh ảnh hưởng đến sức khỏe thể, tâm, trí lực của cá nhân, hơn thế làm phương hại đến sự lành mạnh của môi trường văn hóa nói chung và tính cố kết xã hội.

Phiên chợ 0 đồng phục vụ công nhân có hoàn cảnh khó khăn bị ảnh hưởng bởi dịch COVID-19 tại quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh_Ảnh: TTXVN  

Có thể nói, bên cạnh những tác động tích cực thì Cách mạng công nghiệp lần thứ tư cũng đang làm ảnh hưởng không nhỏ đến cuộc sống cá nhân và các cộng đồng, từ cộng đồng nhỏ nhất là gia đình cho đến cộng đồng lớn là thôn, bản và cả mỗi quốc gia. Điều đáng quan tâm là chính cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang tạo ra những động năng mới phá vỡ các định chế kinh tế, chính trị và hệ giá trị, chuẩn mực xã hội truyền thống, đòi hỏi mỗi quốc gia phải sớm định hình lại những định chế và thông lệ mới thích ứng với thời đại mới.

Việt Nam đang hướng đến mục tiêu là quốc gia đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, đạt thu nhập trung bình cao vào năm 2030. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang tạo nhiều cơ hội để Việt Nam hiện thực hóa các mục tiêu này, đồng thời thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng miền, nhóm xã hội và giải quyết các vấn đề nan giải như thiếu việc làm và nghèo đói, phát triển con người, hướng đến một quốc gia phồn vinh, hạnh phúc. Để hiện thực hóa các mục tiêu và khát vọng này, Việt Nam cần có một lộ trình chính sách phù hợp để tiếp tục giải quyết các vấn đề xã hội đang bức thiết đặt ra hiện nay, đồng thời khai thác triệt để các cơ hội và vượt lên các thách thức của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0. Chú trọng xây dựng xã hội học tập để mỗi cá nhân, thành viên trong gia đình, cộng đồng không ngừng học tập tiếp thu công nghệ mới; có những hình thức học tập phù hợp để các nhóm yếu thế trong xã hội tham gia học tập và thích ứng với xã hội để không ai bị bỏ lại phía sau trong quá trình phát triển./.

ST.

Đấu tranh phòng, chống lợi dụng quyền tự do ngôn luận trên không gian mạng

Tự do ngôn luận là một trong những quyền cơ bản của con người cần được tôn trọng và bảo đảm. Tuy nhiên ở bất kỳ quốc gia nào, tự do ngôn luận cũng phải nằm trong khuôn khổ pháp luật nhằm tránh hiện tượng bị lợi dụng, gây phương hại đến quyền, lợi ích của cá nhân khác, đến đạo đức xã hội, trật tự công cộng và an ninh quốc gia. Với sự phát triển của công nghệ thông tin, internet và mạng xã hội đã trở thành công cụ thể hiện quyền tự do ngôn luận của đông đảo người dân, điều này đặt ra nhiều vấn đề về xã hội và pháp lý, trong đó có việc quản lý thông tin trên không gian mạng hiện nay.

Một số vấn đề về quyền tự do ngôn luận trên không gian mạng

Tự do ngôn luận - một trong những quyền cơ bản của con người

Các nhà báo trong và ngoài nước đang tác nghiệp tại Đại hội XIII của Đảng_Ảnh: TTXVN

Quyền tự do ngôn luận là một trong những quyền cơ bản của con người được ghi nhận trong Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền năm 1948 và Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966. Điều 19, Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền (UDHR) năm 1948 nêu rõ: “Mọi người đều có quyền tự do ngôn luận và bày tỏ ý kiến; kể cả tự do bảo lưu quan điểm mà không bị can thiệp; cũng như tự do tìm kiếm, tiếp nhận và truyền bá các ý tưởng và thông tin bằng bất kỳ phương tiện truyền thông nào, và không có giới hạn về biên giới”. Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR) năm 1966 cũng quy định: “Mọi người có quyền tự do ngôn luận. Quyền này bao gồm tự do tìm kiếm, tiếp nhận và truyền đạt thông tin, ý kiến, không phân biệt lĩnh vực, hình thức tuyên truyền bằng miệng, bằng bản viết, in, hoặc dưới hình thức nghệ thuật, thông qua bất kỳ phương tiện thông tin đại chúng nào tùy theo sự lựa chọn của họ”. Có thể nói, tự do ngôn luận là cơ sở quan trọng để thực hiện đầy đủ các quyền con người khác và gắn liền với quyền tự do biểu đạt, tự do hội họp, lập hội, tự do tư tưởng, tín ngưỡng, tôn giáo, cũng như quyền tham gia quản lý các công việc của nhà nước và xã hội.

Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin trong thời đại ngày nay, hình thức thể hiện của tự do ngôn luận đã có sự biến đổi lớn. Internet và mạng xã hội trở thành công cụ phổ biến để mọi cá nhân, tổ chức bày tỏ quan điểm, tư tưởng, truyền bá thông tin, thể hiện quyền tự do ngôn luận. Sức lan tỏa và ảnh hưởng của nó đôi khi còn mạnh mẽ và nhanh chóng hơn cả báo chí truyền thống và các hình thức biểu đạt khác. Thực tế này đã đặt ra nhiều vấn đề về xã hội và pháp lý, trong đó có việc quản lý thông tin trên không gian mạng.

Giới hạn của quyền tự do ngôn luận trên không gian mạng

Tự do ngôn luận là quyền con người cơ bản, nhưng luôn phải có giới hạn trong khuôn khổ của pháp luật. Điều 19 Công ước về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 khẳng định: “Việc thực hiện quyền tự do ngôn luận có thể phải chịu một số hạn chế nhất định và những hạn chế này cần được quy định bởi pháp luật, nhằm: a) Tôn trọng các quyền hoặc uy tín của người khác; b) Bảo vệ an ninh quốc gia hoặc trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức của xã hội”. Như vậy, quyền tự do ngôn luận không phải là tự do tuyệt đối. Trong một số trường hợp nhất định, tự do ngôn luận có thể xung đột với các giá trị hay quyền chính đáng khác.

Đặc biệt, trong bối cảnh bùng nổ của internet và mạng xã hội, thông tin càng trở nên phức tạp và khó kiểm soát. Thông qua các trang thông tin điện tử và mạng xã hội, người dùng có thể tự do bày tỏ ý kiến, quan điểm, đăng tải hay lan truyền bất cứ thông tin gì thông qua tài khoản cá nhân của mình mà không chịu bất kỳ giới hạn nào. Việc thể hiện quyền tự do ngôn luận của mỗi người chưa bao giờ trở nên dễ dàng và có sức lan truyền nhanh chóng đến thế. Nhưng chính điều này cũng mang đến những nguy cơ khi quyền này bị lạm dụng, nhất là khi những người đăng tải thông tin trên không gian mạng có quan điểm sai trái, thái độ cực đoan, nhận thức pháp luật chưa đầy đủ…

Nhìn vào thực tiễn thực thi pháp luật của nhiều nước trên thế giới, có thể thấy không hề tồn tại cái được gọi là quyền tự do ngôn luận tuyệt đối. Mỗi quốc gia, tùy thuộc vào điều kiện và bối cảnh cụ thể mà đưa ra những giới hạn nhất định đối với việc thực hiện tự do ngôn luận của công dân. Ở Mỹ, giới hạn của tự do ngôn luận được thể hiện chủ yếu qua án lệ của các tòa án, đặc biệt là Tòa án Tối cao Hoa Kỳ, cho phép chính quyền ngăn chặn và trừng phạt các phát ngôn có tính chất khiêu dâm, tục tĩu, phỉ báng, xúc phạm và gây hấn, mà không bị xem là vi hiến.

Ở Pháp, pháp luật về tự do ngôn luận đưa ra các giới hạn, chế tài nghiêm khắc trừng trị hành vi lạm dụng quyền tự do ngôn luận làm ảnh hưởng tới quyền, lợi ích hợp pháp của người khác, bao gồm việc bảo vệ nhân phẩm con người, chống lại việc vu khống, bôi nhọ; chống phân biệt chủng tộc, tôn giáo; chống kích động bạo lực, gây hận thù (Luật Tự do báo chí, năm 1881); chống lại việc xâm phạm đời tư (Bộ luật Dân sự); cấm xuất bản một số tài liệu liên quan đến an ninh quốc gia (Luật Hình sự). Việc bày tỏ quan điểm cá nhân trên mạng internet cũng chịu sự điều chỉnh của Luật Tự do báo chí.

Ngoài Pháp, nhiều nước châu Âu khác cũng rất nghiêm khắc trong vấn đề này nhằm chống lại mọi hình thức tuyên truyền kích động, tiến hành xử lý hình sự đối với những phát ngôn thù ghét và kích động. Italia, Tây Ban Nha, Thổ Nhĩ Kỳ cũng hình sự hóa các hành vi phỉ báng, xúc phạm danh dự của tổng thống hay các thành viên hoàng gia. Bên cạnh đó, trong nỗ lực chung nhằm ngăn chặn tình trạng lợi dụng tự do ngôn luận để phát ngôn thù địch, tiêu cực trên internet, Liên minh châu Âu (EU) đã ban hành Bộ Quy tắc ứng xử trên internet với sự cam kết hành động của bốn doanh nghiệp mạng lớn nhất thế giới bao gồm Facebook, Twitter, Youtube và Microsoft. Những động thái này nhằm “bảo đảm quyền tự do ngôn luận đúng nghĩa của người dân và tạo cơ sở để xây dựng một xã hội thực sự dân chủ, văn minh”.

Mới đây nhất, giữa “bão” tin giả về tình hình dịch bệnh COVID-19, một loạt các quốc gia trên thế giới đã tiến hành nhiều biện pháp xử phạt từ cảnh cáo, phạt tiền đến bỏ tù những kẻ tung tin đồn thất thiệt. Ở Trung Quốc, hành vi tung tin sai sự thật về dịch bệnh bị phạt tiền, giám sát công cộng hoặc phạt tù từ 3 năm đến 7 năm nếu gây hậu quả nghiêm trọng. Ở Hàn Quốc, Tổng thống Moon Jae-in tuyên bố việc lan truyền thông tin bịa đặt về dịch bệnh là “hành vi phạm tội nghiêm trọng”. Trong khi đó, ở Malaysia, Chính phủ đã bắt giữ 6 người vì đăng tải thông tin sai lệch về virus Corona. Cảnh sát Iran cũng bắt giữ một người vì đăng tải video giả mạo, loan tin một bệnh nhân COVID-19 nhập viện lên mạng xã hội. Tại Anh, một “đơn vị kiểm soát thông tin sai lệch” đã được thành lập nhằm tiến hành xác định tin giả về COVID-19 và liên lạc với các doanh nghiệp truyền thông để loại bỏ nó.

Đấu tranh phòng, chống lợi dụng quyền tự do ngôn luận trên không gian mạng ở Việt Nam hiện nay

Người dùng internet và mạng xã hội, nhất là giới trẻ, cần nâng cao nhận thức và năng lực tự sàng lọc thông tin_Ảnh: Tư liệu

Tự do nói chung, tự do ngôn luận nói riêng đều cần được hiểu là tự do trong khuôn khổ pháp luật. Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền năm 1948, Công ước nhân quyền châu Âu năm 1953, Công ước về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 đều khẳng định quyền tự do ngôn luận, nhưng cũng nhấn mạnh tự do ngôn luận là tự do trong những giới hạn của đạo đức và pháp luật, chủ yếu là nhằm bảo vệ nhân phẩm, danh dự (đời tư) của người khác, bảo vệ bí mật kinh doanh, chống kỳ thị, phân biệt đối xử, chống kích động bạo lực, chiến tranh, chống chỉ trích, phê phán chính quyền, đặc biệt nếu đó là những kêu gọi bạo loạn, đe dọa đến trật tự công cộng và an ninh quốc gia. Bởi vậy, mỗi quốc gia có thể cân nhắc tình hình thực tế của mình để cụ thể hóa việc thực hiện quyền tự do ngôn luận của công dân.

Rõ ràng, trong bất cứ chế độ chính trị nào cũng không thể có tự do ngôn luận tuyệt đối, các quốc gia đều xử lý nghiêm khắc hành vi lợi dụng tự do ngôn luận; đề cao tự do ngôn luận phải vì lợi ích chung, không phải là sự tuyệt đối hóa tự do cá nhân, không thể lợi dụng tự do ngôn luận để viết, nói, xuyên tạc với ý đồ xấu, bất chấp luân lý và luật pháp.

Ở Việt Nam, Đảng và Nhà nước luôn tôn trọng và bảo đảm các quyền con người, trong đó có quyền tự do ngôn luận của công dân. Tự do ngôn luận được xem là quyền hiến định ngay trong bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1946: “Công dân Việt Nam có quyền: tự do ngôn luận, tự do xuất bản, tự do tổ chức và hội họp, tự do tín ngưỡng, tự do cư trú, đi lại trong nước và ra nước ngoài” (Điều 10). Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 tiếp tục khẳng định: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định” (Điều 25). Bên cạnh đó, chúng ta còn có Luật Báo chí năm 2016, Luật Tiếp cận thông tin năm 2016. Khung pháp lý của nước ta về quyền tự do ngôn luận cơ bản đầy đủ, đồng bộ, tương thích với luật pháp quốc tế về quyền con người. Cũng giống như các quốc gia khác trên thế giới, Việt Nam có những quy định để hạn chế và ngăn chặn những hành vi lợi dụng tự do ngôn luận, xâm hại tới lợi ích quốc gia, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân.

Nhận thức rõ tầm quan trọng, lợi ích cũng như những hiểm họa từ mặt trái của internet và mạng xã hội, Đảng và Nhà nước ta đã có những chủ trương, chính sách phù hợp nhằm phát triển internet và mạng xã hội; đồng thời bảo vệ an ninh mạng và phòng, chống lợi dụng internet, mạng xã hội để xuyên tạc, chống phá chính quyền, xâm hại quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Trong đó phải kể đến Chỉ thị số 28-CT/TW, ngày 16-9-2013, của Ban Bí thư khóa XI, về “Tăng cường công tác bảo đảm an toàn thông tin mạng”; Nghị định số 72/2013/NĐ-CP, ngày 15-7-2013, của Chính phủ, về “Quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ internet và thông tin trên mạng”Chỉ thị số 15/CT-TTg, ngày 17-6-2014, của Thủ tướng Chính phủ, về “Tăng cường công tác bảo đảm an ninh và an toàn thông tin mạng trong tình hình mới”Văn kiện Đại hội XII của Đảng nêu rõ: “Chú trọng công tác quản lý các loại hình thông tin trên internet để định hướng tư tưởng và thẩm mỹ cho nhân dân, nhất là cho thanh niên, thiếu niên”. Ngoài ra, trong quá trình thực hiện Nghị quyết số 35-NQ/TW, ngày 22-1-2018, của Bộ Chính trị, về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”, Ban Tuyên giáo Trung ương đã tăng cường chỉ đạo công tác đấu tranh, phản bác các thông tin và luận điệu sai trái, âm mưu, hoạt động lợi dụng internet, mạng xã hội để chống phá Đảng, Nhà nước. Bộ Quốc phòng, Bộ Công an chủ động triển khai công tác phát hiện, đấu tranh, ngăn chặn, xử lý nghiêm các đối tượng lợi dụng internet, mạng xã hội để vi phạm pháp luật. Bộ Tư lệnh Tác chiến không gian mạng (Bộ Quốc phòng) được thành lập theo Quyết định số 1198/QĐ-TTg, ngày 15-8-2017, của Thủ tướng Chính phủ, đóng vai trò nòng cốt trong việc bảo đảm an ninh, an toàn không gian mạng quốc gia, đấu tranh phòng, chống tội phạm công nghệ cao và “diễn biến hòa bình” trên không gian mạng. Luật Báo chí năm 2016, Luật Tiếp cận thông tin năm 2016 và Luật An ninh mạng năm 2018, đều quy định rõ những hành vi như đăng tải, phát tán thông tin sai lệch, xuyên tạc, phỉ báng, phủ nhận chính quyền; bịa đặt, gây hoang mang trong nhân dân; xuyên tạc lịch sử; phủ nhận thành tựu cách mạng; xúc phạm dân tộc, anh hùng dân tộc; thông tin sai sự thật, vu khống, xúc phạm uy tín của cơ quan, tổ chức, danh dự, nhân phẩm của cá nhân... đều bị pháp luật xử lý.

Các thế lực phản động, thù địch trong và ngoài nước đã và đang lợi dụng tự do ngôn luận để xuyên tạc, chống phá Đảng và Nhà nước ta, bôi nhọ, nói xấu chính quyền, gây kích động, hoang mang trong nhân dân, đe dọa an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội. Chẳng hạn, liên quan đến việc thông qua Luật An ninh mạng, nhiều trang điện tử và các phần tử phản động đã đưa tin bóp méo, xuyên tạc, cho rằng luật này “đặc biệt xâm phạm không gian riêng tư”, “vi phạm tự do ngôn luận, báo chí, internet”. Một số người không đủ thông tin, thiếu hiểu biết nên dễ dàng tin theo và có những phát ngôn chống đối, cản trở việc thi hành Luật. Vụ việc Đồng Tâm ngày 9-1-2020 gây chấn động và chia rẽ trong cộng đồng bởi quá nhiều luồng tin trái chiều trên mạng xã hội. Các thế lực thù địch cũng nhân cơ hội này mà tuyên truyền nhằm chống phá chế độ…

Hiện tượng tung tin giả mạo, sai sự thật trên mạng cũng gây ra nhiều hệ lụy. Đơn cử, trong khi Nhà nước nỗ lực ngăn chặn, kiểm soát và đẩy lùi dịch bệnh COVID-19, có những kẻ lợi dụng tình hình dịch bệnh để tuyên truyền thông tin sai trái, xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước gây hoang mang dư luận xã hội. Chúng ngụy tạo bức tranh sai lệch về tình hình dịch bệnh tại Việt Nam, phát tán tin giả, dựng chuyện về số người mắc bệnh, số ca tử vong và loan tin tốc độ lây lan dịch bệnh lớn hơn nhiều lần con số do Chính phủ công bố, tạo tâm lý sợ hãi cho cộng đồng, làm xáo trộn đời sống xã hội, gây nghi ngờ, mâu thuẫn giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước. Qua các thông tin vô căn cứ, các thế lực thù địch cố tình lờ đi những kết quả quan trọng chúng ta đã đạt được, hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng, năng lực quản lý của Nhà nước trong xử lý dịch bệnh, vu khống Nhà nước che giấu thông tin, không ngăn chặn dịch bệnh ngay từ đầu… Không những vậy, rất nhiều đối tượng còn cố tình tung tin sai sự thật về tình hình dịch bệnh nhằm trục lợi bất chính. Đó là những thông tin tiêu cực khiến người dân lo sợ, đổ xô đi mua khẩu trang, lương thực tích trữ, dẫn đến tình trạng “găm” hàng, “thổi” giá… Những hành vi như thế không thể dùng “tự do ngôn luận” để biện hộ.

Khi chúng ta ngăn chặn những thông tin xuyên tạc, sai trái trên, các thế lực thù địch rêu rao rằng, đây là “một hình thức kiểm duyệt thông tin”, “vi phạm quyền tự do ngôn luận”. Sự thật là, việc ngăn chặn trên là cần thiết, phù hợp với quy định của pháp luật, các quốc gia trên thế giới đều phải thực hiện. Sau khi Bộ Thông tin và Truyền thông đẩy mạnh các hoạt động trao đổi, làm việc với đại diện của Facebook, Google đề nghị ngăn chặn, xử lý, gỡ bỏ thông tin vi phạm pháp luật Việt Nam trên mạng xã hội thì hàng nghìn video, trong đó có những video có nội dung kích động chống phá Đảng, Nhà nước đã được gỡ bỏ khỏi Youtube; hàng nghìn đường link có nội dung vi phạm pháp luật, hàng trăm tài khoản giả mạo, tuyên truyền chống phá Đảng, Nhà nước cũng đã được Facebook ngăn chặn…

Để đấu tranh phòng, chống lợi dụng quyền tự do ngôn luận trên không gian mạng, cần phải triển khai đồng bộ các giải pháp:

Thứ nhất, giáo dục, tuyên truyền nhằm nâng cao trách nhiệm của người sử dụng mạng và tinh thần cảnh giác trước tin đồn. Nâng cao nhận thức và năng lực tự sàng lọc thông tin của người dân và cộng đồng, hình thành thói quen hành xử tích cực trên môi trường mạng. Đây là giải pháp có ý nghĩa then chốt và lâu dài để mỗi người dân trở thành bộ lọc thông tin hiệu quả cho chính mình và cộng đồng.

Thứ hai, thường xuyên theo dõi, khảo sát, đánh giá, kịp thời điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách giúp quản lý hiệu quả, vừa phù hợp với các quy tắc điều chỉnh hành vi văn hóa trong sinh hoạt xã hội và cộng đồng, vừa theo kịp sự phát triển của mạng xã hội.

Thứ ba, cần tăng cường các biện pháp kỹ thuật. Cụ thể là, đầu tư thỏa đáng cho các cơ quan có trách nhiệm bảo đảm an ninh, an toàn không gian mạng quốc gia. Tuyển dụng, đào tạo đội ngũ chuyên gia giỏi về công nghệ thông tin, có khả năng thực hiện hiệu quả các biện pháp nghiệp vụ kỹ thuật. Đồng thời, khuyến khích phát triển mạng xã hội của Việt Nam; phối hợp với các nhà cung cấp dịch vụ mạng xã hội lớn từ nước ngoài, như Facebook, Google, Twitter, Youtube để kịp thời ngăn chặn, xử lý, loại trừ những nguy cơ ảnh hưởng đến an toàn xã hội, an ninh quốc gia./.

ST.

Đấu tranh, phòng ngừa các hoạt động lợi dụng vấn đề dân tộc xâm phạm an ninh quốc gia

Lợi dụng vấn đề dân tộc để xâm phạm đến an ninh quốc gia của Việt Nam là âm mưu thâm độc của các thế lực thù địch, với nhiều thủ đoạn, nhất là xuyên tạc chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về vấn đề dân tộc, kích động đồng bào các dân tộc tham gia các cuộc biểu tình, bạo loạn gây thiệt hại về kinh tế, mất ổn định về chính trị - xã hội... Để vô hiệu hóa những âm mưu, thủ đoạn đó, cần thực hiện tốt chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về vấn đề dân tộc; quan tâm phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số; tăng cường tuyên truyền, giáo dục tư tưởng chính trị, pháp luật; chủ động đấu tranh, phòng ngừa, xử lý kịp thời khi xuất hiện các điểm nóng...

Trong xu thế phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ và xu thế toàn cầu hóa hiện nay, vấn đề dân tộc vẫn đang là điểm nóng ở nhiều quốc gia, vùng lãnh thổ, ảnh hưởng không nhỏ trên nhiều phương diện của đời sống xã hội, tiềm ẩn nhiều nguy cơ đe dọa an ninh khu vực và thế giới.

Ở Việt Nam, các thế lực thù địch tìm mọi cách lợi dụng vấn đề dân tộc nhằm chống phá Đảng và chế độ ta. Mục đích của chúng là lợi dụng hạn chế, thiếu sót của ta trong việc thực thi chính sách dân tộc, sự chênh lệch về mức sống và thu nhập giữa các vùng dân tộc, trình độ dân trí của một số vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn thấp... để tuyên truyền, xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước, kích động đồng bào tham gia các cuộc biểu tình, bạo loạn chống đối chính quyền, gây thiệt hại về kinh tế, mất ổn định về chính trị - xã hội, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Việt Nam là quốc gia đa dân tộc, với 54 dân tộc anh em cùng sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam. Theo kết quả tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019 của Tổng cục Thống kê, tổng dân số của Việt Nam là 96,2 triệu người, trong đó dân tộc Kinh hơn 82 triệu người, chiếm 85,3% dân số, 14,7% dân số còn lại thuộc về 53 dân tộc thiểu số, có những dân tộc thiểu số có dân số trên 1 triệu người, như: Tày, Thái, Mông, Khmer, Nùng...; có những dân tộc dân số chưa đến 5.000 người, sống phân bố và xen kẽ trên các địa bàn rộng lớn, tập trung chủ yếu là ở các vùng trung du miền núi phía Bắc và Tây Nguyên. Quá trình hình thành và phát triển của mỗi dân tộc không giống nhau, song nhìn chung, các dân tộc luôn có tinh thần đoàn kết, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Đồng bào các dân tộc luôn đồng hành cùng tiến trình lịch sử phát triển dân tộc, góp phần làm phong phú thêm bản sắc văn hóa Việt Nam, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số (Trong ảnh: Đồng bào dân tộc Dao ở Hồng Thái, huyện Na Hang, tỉnh Tuyên Quang thu hoạch lê - cây trồng chủ lực giúp người dân xóa đói, giảm nghèo)_Ảnh: TTXVN

Đảng và Nhà nước ta luôn có quan điểm nhất quán đối với vấn đề dân tộc, đó là bảo đảm các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp đỡ nhau cùng phát triển. Trên cơ sở đó, ban hành nhiều chủ trương, chính sách, tập trung làm giảm dần khoảng cách về trình độ dân trí, mức sống giữa các dân tộc trong lãnh thổ Việt Nam, đặc biệt là nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho đồng bào dân tộc thiểu số; gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa riêng của các dân tộc, kiên quyết đấu tranh loại bỏ tư tưởng kỳ thị, chia rẽ đoàn kết dân tộc hoặc lợi dụng vấn đề dân tộc để gây bất ổn về chính trị - xã hội, đi ngược lại lợi ích quốc gia, dân tộc; thực hiện bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp đỡ nhau giữa các dân tộc cùng tiến bộ, góp phần xây dựng đất nước, hướng đến tương lai các dân tộc sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam đều phát triển, ấm no, bình yên và hạnh phúc.

Đảng và Nhà nước ta luôn xác định vấn đề dân tộc, đặc biệt vùng đồng bào dân tộc thiểu số, là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Trong những năm qua, nhiều chủ trương, chính sách, pháp luật về công tác dân tộc đã không ngừng được hoàn thiện. Đại hội lần thứ VIII của Đảng xác định: “Vấn đề dân tộc có vị trí chiến lược”, đến Đại hội lần thứ IX của Đảng khẳng định: “Vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc luôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách mạng”. Hội nghị Trung ương 7 (khóa IX) đã ban hành nghị quyết riêng về công tác dân tộc trong đó nhấn mạnh: “Vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu dài, đồng thời cũng là vấn đề cấp bách hiện nay của cách mạng Việt Nam”. Đại hội lần thứ X của Đảng tiếp tục khẳng định thêm: “Vấn đề dân tộc và đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược lâu dài trong sự nghiệp cách mạng nước ta”.

Tại Đại hội lần thứ XI, Đảng ta đã kế thừa các chủ trương, đường lối của các đại hội trước đó với quan điểm: “Đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách mạng của nước ta. Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, thương yêu, tôn trọng và giúp nhau cùng tiến bộ, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Nghiên cứu xây dựng các cơ chế, chính sách, tạo chuyển biến rõ rệt trong phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội vùng dân tộc thiểu số. Tăng cường kiểm tra, giám sát, đánh giá kết quả thực hiện các chủ trương, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ở các cấp. Chống kỳ thị dân tộc; nghiêm trị những âm mưu, hành động chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc”.

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng tiếp tục bổ sung, phát triển chủ trương, đường lối về công tác dân tộc: “Đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách mạng của nước ta. Tiếp tục hoàn thiện các cơ chế, chính sách, bảo đảm các dân tộc bình đẳng, tôn trọng, đoàn kết, giải quyết hài hòa quan hệ giữa các dân tộc, giúp nhau cùng phát triển, tạo chuyển biến rõ rệt trong phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là các vùng Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ và tây duyên hải miền Trung. Nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo, chất lượng nguồn nhân lực và chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số, người tiêu biểu có uy tín trong cộng đồng các dân tộc”.

Nhận thức đúng đắn tầm quan trọng của chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc, Đại hội XIII tiếp tục khẳng định quan điểm: “Bảo đảm các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng phát triển”. Chú trọng tính đặc thù của từng đồng bào dân tộc thiểu số trong hoạch định và tổ chức thực hiện chính sách dân tộc. Đặc biệt là, “có cơ chế thúc đẩy tính tích cực, ý chí tự lực, tự cường của đồng bào các dân tộc thiểu số phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện giảm nghèo đa chiều, bền vững”.

Trên thực tế, nhiều chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta đang đi vào cuộc sống, mang lại sự bình đẳng, quyền và lợi ích hợp pháp trong việc thực hiện chính sách đại đoàn kết các dân tộc, tương trợ, tương thân, tương ái, cùng nhau tiến bộ, phát triển giữa các dân tộc cùng sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam. Đồng thời, từng bước khắc phục tình trạng chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế - xã hội giữa các dân tộc, nâng cao đời sống về vật chất và tinh thần cho người dân; phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc; phòng, chống tư tưởng dân tộc hẹp hòi, kỳ thị, chia rẽ các dân tộc; nghiêm khắc xử lý các cá nhân, tổ chức lợi dụng vấn đề dân tộc gây mất đoàn kết, chống phá Đảng, Nhà nước.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, những chủ trương, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước, khi áp dụng vào đời sống vẫn còn những bất cập, hạn chế như, một số hệ thống chính sách còn dàn trải, chồng chéo, nhiều nội dung chưa rõ ràng, chưa có trọng tâm, trọng điểm; khả năng hiện thực hóa một số chính sách gặp nhiều khó khăn do thiếu nguồn lực, chưa phát huy tối đa thế mạnh của từng địa phương; công tác kiểm tra, đánh giá, tổng kết ở một số nơi chưa được thực hiện thường xuyên; việc rà soát, hoàn thiện nhiều chương trình, đề án còn chậm trễ... Thực tiễn cho thấy, công tác quản lý ở cấp cơ sở một số địa phương còn lỏng lẻo, chưa sâu sát, không nắm bắt kịp thời tâm tư, nguyện vọng của đồng bào, nhất là đồng bào vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới. Một trong những nguyên nhân dẫn đến thực trạng đó là do trình độ của đội ngũ cán bộ cơ sở còn thấp, việc triển khai chính sách chưa chuyên nghiệp, lúng túng trong khâu hướng dẫn thực hiện. 

Những hạn chế, yếu kèm trên đã tạo cớ để các thế lực thù địch khoét sâu, lợi dụng vấn đề dân tộc để xâm phạm an ninh quốc gia, bằng cách xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà nước ta về vấn đề dân tộc nhằm bôi nhọ, bóp méo sự thật, chia rẽ đoàn kết dân tộc. Chúng lợi dụng những thiếu sót của ta trong việc thi hành các chính sách dân tộc để gây xung đột, mâu thuẫn trong nội bộ đồng bào các dân tộc, từ đó đẩy lên cao trào, tạo cớ can thiệp vào những vấn đề nội bộ về chính trị - xã hội ở nước ta. Lợi dụng các ngày lễ, ngày kỷ niệm lớn, các sự kiện chính trị - xã hội có liên quan đến chính sách dân tộc để kích động, lôi kéo đồng bào các dân tộc tham gia biểu tình, gây rối trật tự công cộng. Chúng gieo rắc tư tưởng ly khai, tự trị, “tôn giáo hóa vùng dân tộc”… Xây dựng, nuôi dưỡng nhiều tổ chức phản động dùng làm công cụ chống phá. Tạo mâu thuẫn, gây xung đột giữa dân tộc đa số với dân tộc thiểu số hay giữa các dân tộc khác nhau cùng sinh sống trên lãnh thổ, giữa những người theo tôn giáo và không theo tôn giáo...

Thời gian tới, để ngăn chặn và đẩy lùi các hoạt động chống phá của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc, cần tiến hành đồng bộ một số giải pháp:

Trước hết, tiếp tục quán triệt, tuyên truyền sâu rộng quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về vấn đề dân tộc và xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc cho tất cả các cơ quan, ban, ngành từ Trung ương đến địa phương, nhất là ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số. Cần lựa chọn nội dung tuyên truyền phù hợp với trình độ, văn hóa, tâm lý của đồng bào từng khu vực. Cần có sự thống nhất trong công tác phối hợp, để bảo đảm những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đến với đồng bào có ý nghĩa và thiết thực nhất, kịp thời giải quyết khó khăn, vướng mắc, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của đồng bào. Củng cố thường xuyên khối đại đoàn kết các dân tộc.

Bộ đội Biên phòng Đồn Biên phòng A Xan tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước cho đồng bào ở huyện biên giới miền núi Tây Giang, tỉnh Quảng Nam_Ảnh: TTXVN

Thứ hai, tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho đồng bào các dân tộc, nhất là đồng bào vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, là đối tượng dễ bị các thế lực thù địch hướng đến lôi kéo, lợi dụng, kích động, giúp đồng bào có khả năng nhận biết được những âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch. Đồng thời, cấp ủy, chính quyền cơ sở, các lực lượng chức năng làm nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật tự cần thường xuyên thăm hỏi, nắm bắt tình hình, tâm tư của bà con, kịp thời giải quyết những bức xúc, những vấn đề nổi cộm, không để xảy ra các điểm nóng về chính trị - xã hội.

Thứ ba, chú trọng phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào các dân tộc thiểu số. Triển khai có hiệu quả các dự án, chương trình xóa đói, giảm nghèo, phát triển kinh tế - xã hội vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo. Tạo mọi điều kiện giúp đỡ đồng bào biết tự lực cánh sinh tạo sinh kế. Từ đó thu hẹp khoảng cách về mức sống cũng như thu nhập của đồng bào các dân tộc thiểu số so với mức bình quân của cả nước. Khi đời sống vật chất và tinh thần được nâng lên, đồng bào các dân tộc sẽ tin tưởng vào các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, không nghe theo lời kẻ xấu.

Thứ tư, cần làm tốt công tác nắm bắt tình hình, chủ động phòng ngừa, đấu tranh phát hiện, đi trước đón đầu và kịp thời xử lý những âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc xâm phạm an ninh quốc gia. Khi phát hiện, cần tìm hiểu nguyên nhân, có biện pháp giải quyết kịp thời, triệt để, tránh để tạo cớ can thiệp, đồng thời kiên quyết xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm. Có những chính sách khoan hồng, giúp đồng bào trót nghe theo lời kẻ xấu quay trở về, tái hòa nhập cộng đồng./.

ST.

Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong tình hình mới

Hiện nay, các thế lực thù địch đang ra sức phá hoại, xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, công kích nền tảng tư tưởng của Đảng ta hòng làm giảm niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước. Trước tình hình đó, việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng và đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch là nhiệm vụ quan trọng, có ý nghĩa sống còn trong bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa.

Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh mãi là kim chỉ nam của cách mạng Việt Nam

Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khẳng định: “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong Đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam. Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lê-nin”. Thấm nhuần sâu sắc quan điểm của Người, từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng, năm 1991, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã khẳng định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”. Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, năm 2016, Đảng ta xác định: “Kiên định chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo và phát triển phù hợp với thực tiễn Việt Nam”. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh”.

Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh mãi là kim chỉ nam của cách mạng Việt Nam_Đồ họa: Cục Văn hóa cơ sở

Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân tiến hành đấu tranh giành chính quyền, đập tan xiềng xích đô hộ hơn 80 năm của thực dân Pháp, khai sinh ra Nhà nước dân chủ công nông đầu tiên ở Đông Nam châu Á, tiếp đến là hai cuộc kháng chiến trường kỳ để giành lại độc lập, tự do cho dân tộc, đưa đất nước đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Sau 35 năm đổi mới, nước ta luôn giữ vững ổn định chính trị, xã hội; đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế, uy tín quốc tế như ngày nay… Từ điều kiện thực tiễn của cách mạng, Đảng ta đã vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh để đưa cách mạng Việt Nam giành được những thắng lợi to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đó là minh chứng sống động và thuyết phục, khẳng định tính đúng đắn của cách mạng Việt Nam trong việc lựa chọn con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kiên định chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

Tuy nhiên hiện nay, các thế lực thù địch và phản động đang ra sức đẩy mạnh chống phá Đảng ta, đặc biệt là trên mặt trận tư tưởng, chính trị; một bộ phận cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, nhận thức không đúng về chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh càng khiến cho việc đấu tranh chống lại các quan điểm sai trái, thù địch gặp nhiều khó khăn, như Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã chỉ rõ: “Một bộ phận cán bộ, đảng viên bản lĩnh chính trị không vững vàng, suy thoái về tư tưởng chính trị, còn hoài nghi, mơ hồ về mục tiêu, lý tưởng của Đảng và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; một số ít hoang mang, dao động, mất lòng tin; cá biệt còn phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối đổi mới của Đảng”.

Nhận diện rõ âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, hòng chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng

Các thế lực thù địch ra sức tuyên truyền, xuyên tạc, bóp méo, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, với âm mưu hòng xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng Việt Nam, bằng các thủ đoạn, như: (i) Xuyên tạc, hạ thấp, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác - Lê-nin; (ii) Tập trung công kích, xuyên tạc quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; (iii) Bóp méo, hạ thấp, phủ nhận thành quả đổi mới của đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng...

Về kinh tế, chúng xuyên tạc, chống phá đường lối phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của nước ta. Các thế lực thù địch âm mưu làm cho nền kinh tế nước ta phát triển chệch định hướng xã hội chủ nghĩa. Chúng bóp méo các nguyên lý kinh tế cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, đối lập định hướng xã hội chủ nghĩa với phát triển kinh tế thị trường…, tạo ra nền tảng vật chất, xã hội hình thành nền “chính trị dân chủ” và “xã hôi dân sự” kiểu tư bản chủ nghĩa.

Về văn hóa, chúng lợi dụng các vấn đề dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền để chống phá cách mạng Việt Nam; gieo rắc tư tưởng sùng bái lối sống, văn hóa phương Tây; o bế các cây viết, khuynh hướng, xu hướng văn hóa - văn nghệ cực đoan, phản động; phát tán những tác phẩm cổ vũ sự chống đối, xúc phạm những giá trị văn hóa truyền thống, đòi “giải thiêng thần tượng”, “hạ bệ thần tượng”. Các thế lực thù địch lợi dụng các vấn đề dân chủ, nhân quyền để lôi kéo, dụ dỗ một bộ phận quần chúng thực hiện các hành vi chống đối chính quyền; tìm cách khoét sâu vào những yếu kém, sơ hở, mất cảnh giác của ta để bóp méo, xuyên tạc, tạo ra sự hoài nghi, lung lay trong tư tưởng của đảng viên và nhân dân ta.

Về ngoại giao, tìm cách cản trở Việt Nam mở rộng quan hệ quốc tế, mặt khác, lôi kéo, mua chuộc các đối tác từ bên ngoài để gây sức ép, tác động vào bên trong đất nước; quốc tế hóa những vấn đề nội bộ của Việt Nam; xuyên tạc đường lối đối ngoại, độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển đa dạng hóa, đa phương hóa của Việt Nam…

Tiếp tục đẩy mạnh, có hiệu quả nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong tình hình mới

Thời gian qua, công tác đấu tranh phản bác các luận điệu xuyên tạc, sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng đã đạt được những kết quả tích cực. Ban chỉ đạo 35 các cấp được thành lập, cùng với cơ quan thường trực, lực lượng nòng cốt, lực lượng chuyên sâu, lực lượng tham gia đấu tranh ở từng cấp đã hoạt động hiệu quả, góp phần làm thất bại âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch.

Tuy nhiên, trước âm mưu, thủ đoạn, phương thức chống phá của các thế lực thù địch ngày càng tinh vi, nham hiểm, cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác có hiệu quả các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới.

Một là, chủ động nắm tình hình, phát hiện sớm hoạt động chống phá của các đối tượng để đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, cơ hội chính trị. Đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch ở Việt Nam hiện nay cần có những nội dung, phương thức phù hợp với từng thời điểm, giai đoạn nhất định. Trong giai đoạn hiện nay, các thế lực thù địch đang ra sức lợi dụng internet, mạng xã hội để chống phá, xuyên tạc nền tảng tư tưởng của Đảng, bởi vậy, ngoài hình thức đấu tranh truyền thống, cần bổ sung những hình thức đấu tranh mới, như: đấu tranh trực tiếp, trực diện trên không gian mạng, thông qua các phương tiện truyền thông xã hội; xây dựng đội ngũ thông tin viên rộng rãi, nhất là hội viên các đoàn thể nhân dân…

Hai là, tiếp tục tuyên truyền, làm cho chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần ở nước ta. Thực hiện nghiêm, có hiệu quả Chỉ thị số 23-CT/TW, ngày 9-2-2018, của Ban Bí thư khóa XII “Về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả học tập, nghiên cứu, vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong tình hình mới”, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Tăng cường công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, kịp thời luận giải những vấn đề lý luận mới, khó, còn nhiều ý kiến khác nhau, tạo sự đồng thuận trong nhận thức xã hội. Bằng các hình thức tuyên truyền phù hợp, giúp cán bộ, đảng viên, nhân dân hiểu rõ và nắm vững bản chất khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; thấy rõ bản chất phản động của những luận điệu xuyên tạc, sai trái, thù địch…

Đẩy mạnh tuyên truyền, làm cho chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần ở nước ta_Ảnh: TTXVN

Ba là, kiên định, vận dụng đúng đắn và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. V.I. Lê-nin đã từng chỉ rõ: “Chúng ta không hề coi lý luận của Mác như là một cái gì đã xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm; trái lại, chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa cần phải phát triển hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc hậu đối với cuộc sống”. Kiên định chủ nghĩa Mác - Lê-nin nghĩa là phải nắm vững bản chất khoa học và cách mạng, vận dụng và phát triển sáng tạo, phù hợp với thực tiễn cách mạng nước ta, để những nội dung, quan điểm của học thuyết Mác - Lê-nin có thêm sức sống mới, được hiện thực hóa, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay./.

ST.

Sử dụng các phương tiện truyền thông xã hội để chủ động nắm bắt, định hướng dư luận xã hội góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng

Hiện nay, các thế lực thù địch thường lợi dụng sự phát triển của công nghệ truyền thông để tung tin phản động, tạo ra những dư luận xã hội sai lệch về chủ trương, đường lối của Đảng. Vì vậy, thông qua các phương tiện truyền thông xã hội, cần nhận diện sớm những vấn đề xã hội có thể nảy sinh, chủ động nắm bắt dư luận xã hội đấu tranh với những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.

1. Dư luận xã hội là tập hợp những thái độ, suy nghĩ, đánh giá, niềm tin, mong muốn, khát vọng của nhiều cá nhân trong xã hội trước các vấn đề, sự kiện, hiện tượng có tính thời sự, được công chúng quan tâm, đặc biệt có liên quan đến lợi ích của công chúng. Trước các hiện tượng xã hội nảy sinh, dư luận thường có những phản ứng khác nhau. Sự phản ứng đó có thể mang tính tích cực, song cũng có thể mang tính tiêu cực đối với sự phát triển xã hội. Do đó, nắm bắt, định hướng dư luận là yếu tố quan trọng để đánh giá đúng thái độ của công chúng đối với các vấn đề xã hội.

Trong bối cảnh hiện nay, các thế lực thù địch, cơ hội chính trị đang đẩy mạnh hoạt động chống phá cách mạng Việt Nam, xuyên tạc nền tảng tư tưởng của Đảng, vì vậy, đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng. Công việc này có thể thực hiện bằng nhiều biện pháp khác nhau, trong đó, chủ động nắm bắt, định hướng dư luận xã hội là nhiệm vụ cần được quan tâm.

Các phương tiện truyền thông xã hội chính là một công cụ, phương tiện để nắm bắt dư luận xã hội_Nguồn: shutterstock.com

Để nắm bắt, định hướng dư luận, có thể sử dụng nhiều hình thức, biện pháp khác nhau, trong đó các phương tiện truyền thông xã hội (social media) là một kênh quan trọng, nhất là trong kỷ nguyên số như hiện nay. Các phương tiện truyền thông xã hội là các công cụ, ứng dụng giao tiếp đại chúng dựa vào không gian trực tuyến (online spaces) trên nền tảng internet và các công nghệ truyền thông hiện đại khác nhằm truyền tải thông tin, kết nối xã hội… với tốc độ truyền dẫn, lan tỏa nhanh chóng, cùng tính tương tác đa chiều, cho phép người dùng chia sẻ ý kiến, thông tin, dữ liệu, hình ảnh một cách rộng rãi. Với những đặc tính có ưu thế nổi trội so với các phương tiện truyền thông đại chúng truyền thống, các phương tiện truyền thông xã hội là nền tảng lôi cuốn sự quan tâm, tham gia của đông đảo công chúng, hình thành nên các cộng đồng tương tác (interactive community) xã hội đa dạng. Các phương tiện truyền thông xã hội có vai trò quan trọng đối với mỗi cá nhân và toàn xã hội trong đời sống hằng ngày nói chung và trong việc hình thành, thể hiện thái độ, suy nghĩ, đánh giá, niềm tin, mong muốn, khát vọng nói riêng. Dư luận xã hội được hình thành qua các giai đoạn: tiếp cận thông tin, hình thành ý kiến cá nhân, trao đổi ý kiến cá nhân, tổng hợp ý kiến cá nhân thành các luồng ý kiến, thể hiện những luồng ý kiến nhất định và các phương tiện truyền thông xã hội chính là nền tảng quan trọng đối với việc tiếp cận thông tin, hình thành ý kiến cá nhân, là công cụ, phương tiện để trao đổi ý kiến cá nhân, tổng hợp ý kiến cá nhân thành các luồng ý kiến. Điều đó có nghĩa rằng, phương tiện truyền thông xã hội có vai trò to lớn đối với việc hình thành và thể hiện dư luận xã hội, nhất là trong xã hội hiện đại, khi công chúng ngày càng sử dụng thường xuyên, liên tục các phương tiện truyền thông xã hội. Vì vậy, việc sử dụng phương tiện truyền thông xã hội hiệu quả để chủ động nắm bắt, định hướng dư luận xã hội, góp phần đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch là tất yếu.

Ở Việt Nam, trong những năm qua, các phương tiện truyền thông xã hội đã góp phần quan trọng thông tin các quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; những giá trị lịch sử hào hùng của dân tộc trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, những thành tựu trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội trong công cuộc đổi mới đất nước, cung cấp cho công chúng những tri thức về khoa học, kỹ thuật, văn hóa, xã hội. Các tổ chức, cá nhân của ta sử dụng các phương tiện truyền thông xã hội góp phần quan trọng trong đấu tranh chống lại các quan điểm sai trái, thù địch của các phần tử cơ hội, bất mãn chính trị, các thế lực thù địch; qua đó, góp phần định hướng dư luận xã hội theo hướng tích cực, khẳng định những thành tựu tự hào của Việt Nam trong lịch sử cũng như hiện tại, khẳng định sự đúng đắn của đường lối lãnh đạo của Đảng, tính khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, góp phần giúp dư luận thấy rõ được bản chất các luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch.

Tuy nhiên, bên cạnh những điểm tích cực, các phương tiện truyền thông xã hội cũng còn những hạn chế nhất định. Các thế lực thù địch đã tận dụng triệt để một số phương tiện truyền thông xã hội để reo rắc những thông tin bịa đặt hòng hướng lái dư luận theo chiều hướng tiêu cực, nhất là nhằm vào tầng lớp thanh, thiếu niên, gây hoài nghi, hoang mang dư luận. Nguyên nhân của tình trạng trên một phần do nhận thức của người sử dụng phương tiện truyền thông xã hội còn hạn chế, mặt khác là do việc cung cấp thông tin, định hướng dư luận xã hội đôi lúc còn chưa được kịp thời, việc quản lý thông tin trên không gian mạng có lúc, có nơi còn chưa chủ động, thiếu hiệu quả…

2. Qua 35 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh,... Việt Nam đã trở thành nước có thu nhập trung bình với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hội nhập sâu rộng vào hệ thống kinh tế toàn cầu, hướng tới thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh(3). Tuy nhiên, “sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta vẫn đứng trước nhiều khó khăn, thách thức: Bốn nguy cơ mà Đảng đã chỉ ra vẫn còn tồn tại, có mặt gay gắt hơn; các mối đe dọa độc lập, chủ quyền, lợi ích chiến lược của đất nước, nhất là trên Biển Đông; các vấn đề an ninh phi truyền thống, biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường, dịch bệnh, cạn kiệt tài nguyên, xu hướng già hóa dân số; tình trạng suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch, các tổ chức phản động…". Do đó, để hạn chế những tác động của thông tin tiêu cực gây cản trở sự phát triển, cần nâng cao hiệu quả việc nắm bắt, định hướng dư luận xã hội theo chiều hướng tích cực, tạo sự đồng thuận, ủng hộ rộng rãi đối với các quyết sách phát triển quan trọng của đất nước, trong đó có việc sử dụng các phương tiện truyền thông xã hội.

Thứ nhất, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước trong nắm bắt, định hướng dư luận xã hội trên các phương tiện truyền thông xã hội. Theo đó, “Tăng cường quản lý và phát triển các loại hình truyền thông, thông tin trên internet. Kiên quyết đấu tranh, loại bỏ các sản phẩm, thông tin độc hại, xuyên tạc, phản động, ảnh hưởng xấu đến ổn định chính trị - xã hội, thuần phong mỹ tục”. Các ngành chức năng cần tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền, thực hiện nghiêm Luật An ninh mạng; đẩy mạnh công tác bảo vệ an ninh quốc gia, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trên không gian mạng; nâng cao nhận thức của người dân trong việc tham gia các phương tiện truyền thông xã hội; tăng cường rà soát, kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm minh những hành vi vi phạm pháp luật trên các phương tiện truyền thông xã hội, nhất là mạng xã hội.

Công an tỉnh Đắk Lắk xử lý nghiêm các trường hợp đăng tin sai sự thật về dịch COVID-19 trên mạng xã hội_Ảnh: TTXVN

Thứ hai, các cấp ủy, người đứng đầu các đơn vị, cán bộ phụ trách các lĩnh vực, đặc biệt là các lĩnh vực an ninh, tuyên giáo, thông tin, truyền thông, văn hóa,… cần nhận diện sớm các vấn đề xã hội có thể phát sinh, đặc biệt là những vấn đề liên quan đến lợi ích của nhiều người, dễ tạo nên sự quan tâm, chú ý của dư luận. Việc nhận diện sớm, dự báo các vấn đề xã hội có thể phát sinh cần dựa vào: 1- Đặc điểm, điều kiện địa lý tự nhiên, dân cư, tình hình kinh tế, xã hội, văn hóa; 2- Tài liệu, báo cáo của các cơ quan, tổ chức về quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ, nhất là những hạn chế, mặt trái có thể gây ra các vấn đề xã hội; 3- Kết quả nghiên cứu về các vấn đề xã hội, giúp mở rộng sự hiểu biết về bản chất, xu hướng biến đổi của các vấn đề xã hội; 4- Điều tra dư luận xã hội qua các phương tiện truyền thông xã hội. Điều tra dư luận xã hội được tiến hành qua nhiều cách thức khác nhau, trong đó việc thực hiện điều tra trên các phương tiện truyền thông xã hội có nhiều lợi thế, chẳng hạn như thời gian thực hiện nhanh, phạm vi thu thập ý kiến rộng... Tuy nhiên, cần lựa chọn vấn đề xác đáng, cần có biện pháp triển khai phù hợp, tránh thu nhận kết quả điều tra thiếu tin cậy, có sai số lớn do đặc điểm các phương tiện truyền thông xã hội có nhiều người dùng nặc danh, thông tin thiếu chính xác… Trên cơ sở dự báo các vấn đề phát sinh, cần chủ động giải quyết sớm để chúng không trở thành những “điểm nóng”, hình thành dư luận xã hội theo chiều hướng tiêu cực; không tạo cớ để cho các thế lực thù địch, phản động lợi dụng tung tin xuyên tạc, chống phá Đảng, Nhà nước ta.

Thứ ba, cần chủ động nắm bắt dư luận xã hội trên các phương tiện truyền thông xã hội. Việc chủ động nắm bắt dư luận xã hội cần bắt đầu từ giai đoạn các cá nhân tiếp cận thông tin về vấn đề xã hội cụ thể. Điểm đáng lưu ý là cần chú trọng đối với những vấn đề liên quan đến lợi ích, mối quan tâm của nhiều người mà các thế lực thù địch, cơ hội chính trị có thể lợi dụng, xuyên tạc. Việc chủ động nắm bắt dư luận xã hội không chỉ cần bắt đầu từ giai đoạn các cá nhân tiếp cận thông tin về vấn đề xã hội cụ thể, mà còn phải chú ý trong cả quá trình hình thành ý kiến cá nhân, trao đổi ý kiến cá nhân, tổng hợp ý kiến cá nhân thành các luồng ý kiến và thể hiện những luồng ý kiến. Đây là cơ sở quan trọng để chủ động định hướng dư luận xã hội theo chiều hướng tích cực nhằm bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Thiết lập và sử dụng hệ thống phần mềm lắng nghe và phân tích truyền thông xã hội (social listening) để tự động dò quét, theo dõi, tổng hợp, phân tích các dòng thông tin chủ lưu, dư luận hằng ngày trên các phương tiện truyền thông xã hội, là cơ sở để các cơ quan chức năng của ta chủ động, kịp thời xử lý các tình huống thông tin, nhất là những khủng hoảng thông tin khi xảy ra.

Thứ tư, chủ động cung cấp thông tin chính thống, chính xác, đầy đủ, kịp thời  về bản chất của vấn đề xã hội trên các phương tiện truyền thông xã hội, nhất là các vấn đề liên quan đến lợi ích, mối quan tâm của đông đảo công chúng, góp phần hình thành dư luận xã hội theo chiều hướng đúng đắn. Việc cung cấp thông tin cần chú ý hai điểm. Một là, các cơ quan, tổ chức có trách nhiệm đối với vấn đề xã hội được đề cập trên các phương tiện truyền thông xã hội cần chủ động cung cấp thông tin kịp thời. Hai là, thông tin được cung cấp cần dựa vào nguồn tin đáng tin cậy, đã được kiểm chứng. Việc chủ thể cung cấp thông tin chính thống, nguồn thông tin đáng tin cậy, nội dung thông tin chính xác, đầy đủ, kịp thời sẽ góp phần việc hình thành dư luận xã hội theo chiều hướng đúng đắn, tích cực.

Các em thiếu nhi tại Thành phố Hồ Chí Minh thảo luận về việc "sử dụng mạng xã hội hiệu quả và văn minh"_Nguồn: thanhdoan.hochiminhcity.gov.vn 

Thứ năm, chủ động tranh luận, thảo luận, phản biện các vấn đề xã hội trên phương tiện truyền thông xã hội. Đây là yếu tố quan trọng để nắm bắt, định hướng dư luận xã hội. Trong quá trình tranh luận, thảo luận, phản biện, cần cung cấp cơ sở khoa học với các luận điểm có sức thuyết phục dựa vào kết quả của các nghiên cứu khoa học cụ thể, có như vậy mới định hướng các ý kiến theo chiều hướng tích cực. Bên cạnh đó, chú trọng những căn cứ từ thực tiễn cuộc sống, các mô hình hay và việc làm tốt liên quan đến vấn đề xã hội để nhấn mạnh. Trên thực tế, các thế lực thù địch, cơ hội chính trị thường khoét sâu vào những mặt tiêu cực để hình thành dư luận xã hội trái chiều, tấn công vào nền tảng tư tưởng của Đảng, làm giảm lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng. Vì vậy, cần “lấy cái đẹp dẹp cái xấu”, tăng cường thông tin tích cực, thông tin về những thành tựu trong quá trình đổi mới về các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội; về đời sống vật chất và tinh thần không ngừng được nâng cao của người dân Việt Nam; về dân chủ và thực hành dân chủ, các quyền của người dân ngày càng được tôn trọng… làm cơ sở vững chắc, thuyết phục cho việc định hướng, hình thành dư luận xã hội tích cực trên các phương tiện truyền thông xã hội, góp phần phản bác lại các luận điệu sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng./.

ST.

Một số biện pháp xây dựng đội ngũ trí thức Việt Nam trong giai đoạn hiện nay

Tư tưởng Hồ Chí Minh về trí thức đã bổ sung những giá trị to lớn vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Những quan điểm của Người về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của người trí thức, đặc biệt là tư tưởng về tổ chức xây dựng một đội ngũ trí thức lớn mạnh tham gia khối liên minh công nhân - nông dân - trí thức là sự đóng góp lớn vào lý luận về cách mạng vô sản.

Trong bối cảnh toàn cầu hóa đang diễn ra sâu rộng, đặc biệt là sự phát triển của công nghệ thông tin và internet, đòi hỏi đội ngũ trí thức phải vừa có đức, vừa có tài, đáp ứng được yêu cầu xây dựng và phát triển đất nước. Thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta ngày càng quan tâm đến xây dựng đội ngũ trí thức, cũng như đánh giá cao vai trò của đội ngũ trí thức trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Nghị quyết số 27-NQ/TW, ngày 6-8-2008, của Hội nghị Trung ương 7 khóa X, “Về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, đã đưa ra năm nhiệm vụ và giải pháp xây dựng đội ngũ trí thức trong giai đoạn hiện nay, cụ thể là: Hoàn thiện môi trường và điều kiện thuận lợi cho hoạt động của trí thức; thực hiện chính sách trọng dụng, đãi ngộ và tôn vinh trí thức; tạo chuyển biến căn bản trong đào tạo, bồi dưỡng trí thức; đề cao trách nhiệm của trí thức, củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động các hội của trí thức; nâng cao chất lượng công tác lãnh đạo của Ðảng đối với đội ngũ trí thức.

Đại hội XII của Đảng cũng đã khẳng định: “Xây dựng đội ngũ trí thức ngày càng lớn mạnh, có chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước. Tôn trọng và phát huy tự do tư tưởng trong hoạt động nghiên cứu, sáng tạo. Trọng dụng trí thức trên cơ sở đánh giá đúng phẩm chất, năng lực và kết quả cống hiến. Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, đãi ngộ và tôn vinh xứng đáng những cống hiến của trí thức. Có cơ chế, chính sách đặc biệt để thu hút nhân tài của đất nước. Coi trọng vai trò tư vấn, phản biện, giám định xã hội của các cơ quan nghiên cứu khoa học trong việc hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và các dự án phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội”.

Đại hội XIII của Đảng đặc biệt quan tâm đến xây dựng đội ngũ trí thức và thu hút nhân tài. Văn kiện Đại hội XIII chỉ rõ: “Xây dựng đội ngũ trí thức ngày càng lớn mạnh, có chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong tình hình mới. Có cơ chế phát huy dân chủ, tự do sáng tạo và đề cao đạo đức, trách nhiệm trong nghiên cứu khoa học. Ưu tiên đầu tư phát triển hạ tầng, môi trường làm việc, nghiên cứu, đổi mới sáng tạo của trí thức. Trọng dụng, đãi ngộ thỏa đáng đối với nhân tài, các nhà khoa học và công nghệ Việt Nam có trình độ chuyên môn cao ở trong nước và nước ngoài, nhất là các nhà khoa học đầu ngành, nhà khoa học có khả năng chủ trì các nhiệm vụ khoa học và công nghệ đặc biệt quan trọng. Thật sự tôn trọng, tạo điều kiện nâng cao hiệu quả hoạt động tư vấn, phản biện của chuyên gia, đội ngũ trí thức”.

Cùng với sự phát triển của đất nước, đội ngũ trí thức Việt Nam hiện nay đã tăng nhanh về số lượng, nâng lên về chất lượng, đóng góp tích cực vào việc hoạch định chủ trương, đường lối của Ðảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, góp phần quan trọng đưa đất nước đạt được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong công cuộc đổi mới; đồng thời, tiếp tục có những đóng góp quan trọng trong đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, xây dựng đất nước phát triển nhanh và bền vững.  

Các chuyên gia và nhà khoa học nghiên cứu công nghệ tại phòng sạch Trung tâm Nghiên cứu triển khai Khu Công nghệ cao Thành phố Hồ Chí Minh_Ảnh: TTXVN

Bên cạnh những kết quả đạt được, đội ngũ trí thức Việt Nam còn bộc lộ nhiều hạn chế và yếu kém. Số lượng và chất lượng đội ngũ trí thức chưa đáp ứng được yêu cầu đối với sự phát triển đất nước, đặc biệt là trong giai đoạn toàn cầu hóa đang diễn ra hết sức sâu rộng hiện nay. Cơ cấu đội ngũ trí thức không đồng đều, còn tập trung vào một số ngành, nghề và độ tuổi nhất định. Trí thức tinh hoa và người tài còn ít và chậm được phát hiện. Đánh giá trí thức còn thiên về trình độ bằng cấp, mà thiếu cơ sở đánh giá dựa trên năng lực thực sự; đặc biệt, năng lực sáng tạo, khả năng ứng dụng vào công việc, khả năng sử dụng ngoại ngữ và công nghệ thông tin còn là điểm yếu của một bộ phận đội ngũ trí thức. Một bộ phận đội ngũ trí thức còn ngại va chạm, không mạnh dạn bày tỏ quan điểm khi cần thiết. Một số trí thức không thường xuyên tự rèn luyện, nâng cao năng lực chuyên môn, mải chạy theo lợi ích vật chất, thiếu ý chí phấn đấu và hoài bão vươn lên trong khoa học.

Để tiếp tục xây dựng và phát triển đội ngũ trí thức trong thời gian tới, cần thực hiện một số giải pháp:

Một là, tạo mọi cơ chế và điều kiện thuận lợi để đội ngũ trí thức phát huy năng lực, trình độ chuyên môn của mình.

Bổ sung, hoàn thiện các cơ chế, chính sách, tạo điều kiện để trí thức tự khẳng định, phát triển, cống hiến và được xã hội tôn vinh; tăng đầu tư từ nhiều nguồn khác nhau, đặc biệt khuyến khích các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đầu tư nghiên cứu và ứng dụng khoa học - công nghệ trên mọi lĩnh vực; hoàn thiện hệ thống pháp luật và tăng cường thực thi việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, quyền tác giả đối với các sản phẩm sáng tạo, nhằm bảo đảm lợi ích của trí thức khi chuyển giao phát minh, sáng chế, sáng kiến và khuyến khích đội ngũ trí thức gia tăng sự cống hiến đối với Nhà nước và xã hội; xây dựng các khu đô thị khoa học, khu công nghệ cao, tổ hợp khoa học - sản xuất, các trung tâm văn hóa hiện đại để thúc đẩy hoạt động sáng tạo của trí thức trong nước và trí thức người Việt Nam ở nước ngoài.

Hai là, phát hiện, sử dụng và có chính sách đãi ngộ thỏa đáng đối với đội ngũ trí thức.

Ðảng và Nhà nước cần đổi mới công tác tổ chức cán bộ, tạo cơ chế để thu hút, tập hợp nhân tài người Việt Nam ở trong nước và ở nước ngoài, tích cực hiến kế và trực tiếp tham gia xây dựng và phát triển đất nước. Trọng dụng, tôn vinh những trí thức có đóng góp hiệu quả vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế. Xây dựng môi trường thuận lợi để đội ngũ trí thức phát huy khả năng của mình. Có chế độ đãi ngộ, cơ chế khen thưởng xứng đáng với cống hiến của đội ngũ trí thức. Công khai, minh bạch trong công tác tuyển dụng, bố trí, đánh giá và bổ nhiệm cán bộ, đặc biệt là đội ngũ lãnh đạo, quản lý cấp cao, tạo động lực và cơ hội để đội ngũ trí thức phát triển.

Ba là, có chính sách giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng phù hợp để nâng cao chất lượng và số lượng đội ngũ trí thức.

Đẩy mạnh cải cách toàn diện giáo dục, từ cấp mầm non đến đại học và sau đại học, từ sách giáo khoa, chương trình, nội dung đào tạo đến phương pháp dạy và học. Đặc biệt, phải gắn lý luận với thực tiễn, lý thuyết với thực hành và gắn đào tạo với nhu cầu của xã hội. Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định: “Tạo đột phá trong đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, thu hút và trọng dụng nhân tài”. Tăng cường các hoạt động kiểm định chất lượng đào tạo theo tiêu chuẩn quốc tế. Có chính sách thu hút đầu tư và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn để phát triển giáo dục và đào tạo. Đa dạng hóa các loại hình đào tạo, tăng cường hợp tác và liên thông với các cơ sở đào tạo có uy tín trên thế giới, tích cực học hỏi kinh nghiệm, từng bước xây dựng các cơ sở đào tạo trong nước ngang tầm các nước tiên tiến trong khu vực và thế giới. Có chính sách thu hút các trường đại học, viện nghiên cứu có uy tín trên thế giới đầu tư, liên kết và mở các cơ sở đào tạo, nghiên cứu tại Việt Nam; đồng thời, khuyến khích đội ngũ trí thức trong nước đi đào tạo ở nước ngoài, đặc biệt là các ngành mà đất nước đang cần. Đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ, gắn đào tạo với nghiên cứu khoa học và ứng dụng vào sản xuất, kinh doanh.

Bốn là, phát huy trách nhiệm của trí thức trong truyền bá tri thức, nâng cao dân trí, phục vụ cộng đồng.

Có cơ chế để đội ngũ trí thức dễ dàng tiếp cận thông tin phục vụ công tác nghiên cứu, nắm vững các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và tình hình của đất nước; từ đó, nâng cao ý thức, trách nhiệm của đội ngũ trí thức trong truyền bá những tri thức tiến bộ cho nhân dân, áp dụng có hiệu quả vào sản xuất và đời sống xã hội, góp phần quan trọng nâng cao dân trí, từng bước xây dựng đất nước ngày một phát triển. Củng cố, phát triển, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, nơi đội ngũ trí thức sinh hoạt; đồng thời, tạo môi trường lành mạnh để phát huy năng lực sáng tạo và nâng cao phẩm chất đạo đức của đội ngũ trí thức. Có cơ chế để các hội mà trí thức tham gia thực hiện giám sát các hoạt động nghề nghiệp, cũng như thực hiện một số dịch vụ công để “giảm tải” công việc cho các cơ quan nhà nước; đồng thời, phát huy được tài năng, lợi thế của đội ngũ trí thức.

Năm là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước với đội ngũ trí thức.

Tích cực tuyên truyền, nâng cao nhận thức của cấp ủy, chính quyền, cán bộ, đảng viên và toàn xã hội về vị trí, vai trò của trí thức đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, tạo động lực để đội ngũ trí thức đoàn kết, sáng tạo, nâng cao trách nhiệm, cống hiến hết mình cho Tổ quốc; hoàn thành tốt mọi trọng trách được giao. Cần xác định, xây dựng và phát triển đội ngũ trí thức là một nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên của các tổ chức đảng và chính quyền các cấp. Tiếp tục phát huy truyền thống “tôn sư trọng đạo” và tôn vinh đội ngũ trí thức. Trọng dụng những trí thức có phẩm chất đạo đức, năng lực chuyên môn, năng lực quản lý tốt, kể cả những trí thức ngoài Đảng. Các cấp ủy và chính quyền thường xuyên nghiên cứu, thực hiện những phương thức để quản lý và sử dụng hiệu quả đội ngũ trí thức, tránh áp dụng các biện pháp quản lý hành chính một cách máy móc, nhằm phát huy cao nhất năng lực cống hiến của trí thức. Bên cạnh đó, những người đứng đầu các cơ quan, tổ chức cũng cần thường xuyên tiếp xúc, đối thoại, lắng nghe ý kiến góp ý của trí thức về những vấn đề kinh tế - xã hội quan trọng của đất nước, cũng như các vấn đề của cơ quan, tổ chức, địa phương, đơn vị./.

ST.