Vấn đề đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong bối cảnh hội nhập quốc tế qua tác phẩm Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam hiện nay của TBT Nguyễn Phú Trọng 
Thứ Hai, 1 tháng 4, 2024
Vấn đề đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên
Tỉnh táo cảnh giác nhận diện thông tin bịa đặt trên không gian mạng
Thực tiễn hiện nay cho thấy, việc từ bỏ chức vụ đang đảm nhiệm khi không còn đủ uy tín trước Đảng, trước nhân dân là chuyện rất bình thường, nhưng đây lại là mảnh đất màu mỡ để các thế lực thù địch, những kẻ cơ hội chính trị chống phá. Trên các trang facebook của Việt Tân, RFA, Tiếng Dân News… đăng phát hàng loạt bài viết phân tích, mổ xẻ về sự việc này. Nội dung của những bài viết này là vô số thông tin bịa đặt, võ đoán, từ đó vu cáo, xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước về công tác cán bộ, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Đây là công cụ được các thế lực thù địch tạo ra một cách có hệ thống để đẩy mạnh thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”. Mưu đồ của chúng là xuyên tạc sự thật, hạ thấp uy tín, bôi nhọ lãnh tụ, các nhà lãnh đạo của Đảng, Nhà nước. Từ đó chúng âm mưu phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng; mổ xẻ, xuyên tạc một số hạn chế, khuyết điểm nảy sinh trong quá trình lãnh đạo của Đảng; gieo rắc tư tưởng hoài nghi về vai trò lãnh đạo của Đảng, về mục tiêu, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) của Việt Nam.
“Văn hóa từ chức”
“Văn hóa từ chức” là một bộ phận của văn hóa chính trị, khi những người cán bộ lãnh đạo nhận thấy bản thân không còn xứng đáng đảm nhận chức vụ và trách nhiệm được giao phó. Đây là một quyết định cá nhân, có thể được đưa ra vì nhiều lý do khác nhau, vì vậy “văn hóa từ chức” thường được xem là một biểu hiện của sự trung thực và trách nhiệm.
NHỮNG THÀNH TỰU LÝ LUẬN LỚN CỦA ĐẢNG QUA GẦN 40 NĂM ĐỔI MỚI
Những thành tựu lý luận lớn của Đảng qua gần 40
năm đổi mới thể hiện sự kiên định mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội, sự phát
triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong thực tiễn cách
mạng Việt Nam. Theo đó, một trong những yêu cầu quan trọng hiện nay là cần tăng
cường tổng kết những thành tựu lý luận của Đảng, nhằm góp phần phát triển, hoàn
thiện, nâng tầm lý luận của Đảng, nhất là những nhận thức mới về chủ nghĩa xã
hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội đặc thù, riêng có ở Việt Nam, hướng
đến thực hiện thắng lợi những mục tiêu xây dựng, phát triển đất nước đến năm
2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới, hơn
30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội (năm 1991), lý luận về đường lối đổi mới, về chủ
nghĩa xã hội (CNXH) và con đường đi lên CNXH ở nước ta ngày càng được phát
triển và hoàn thiện. Công cuộc đổi mới, xây dựng, phát triển đất nước theo con
đường xã hội chủ nghĩa (XHCN) do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng từ năm 1986
đến nay thu được những thắng lợi, thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử; đưa đất
nước ta từ một nước nghèo trên thế giới trở thành nước đang phát triển, có thu
nhập trung bình. Đất nước ta được xây dựng ngày càng đàng hoàng hơn, đời sống
của nhân dân ta ngày càng được cải thiện căn bản, toàn diện hơn, vị thế của đất
nước ta trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao. Có được những thành tựu to
lớn, đáng tự hào đó, là do nhiều nguyên nhân, nhưng một trong những nguyên nhân
quan trọng là do Đảng ta đã kiên định vận dụng sáng tạo lý luận của chủ nghĩa
Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn xây dựng CNXH ở Việt Nam;
thường xuyên tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận về CNXH và con đường đi lên
CNXH ở Việt Nam cho phù hợp với thực tiễn phát triển của từng thời kỳ, dẫn dắt
dân tộc ta vững vàng vượt qua mọi khó khăn, thách thức, không ngừng đẩy mạnh
toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, khát
vọng phát triển đất nước hùng cường, phồn vinh, hạnh phúc.
Từ thực tế xây dựng, phát triển đất nước và quá
trình nhận thức lý luận của Đảng ta qua gần 40 năm đổi mới, xây dựng và phát
triển đất nước theo con đường XHCN, có thể tổng kết những thành tựu lý luận lớn
của Đảng ta với những nội dung chính yếu sau:
Một là, xác định, bổ sung, định hình ngày càng
rõ hơn nội dung các đặc trưng của CNXH Việt Nam trên cơ sở nhận thức đúng đắn
về thời kỳ quá độ lên CNXH trong điều kiện cụ thể của Việt Nam.
Trong quá trình đổi mới, Đảng đã xác định mô
hình CNXH bao gồm 6 đặc trưng, rồi tiếp tục bổ sung, phát triển thành 8 đặc
trưng, thể hiện những bước phát triển không ngừng trong nhận thức lý luận của
Đảng về mô hình CNXH, đồng thời cũng là mục tiêu của CNXH Việt Nam.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011), được thông
qua tại Đại hội XI của Đảng, Đảng Cộng sản Việt Nam, đã khẳng định xã hội
XHCN mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: 1- Dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh; 2- Do nhân dân làm chủ; 3- Có nền kinh tế phát triển cao
dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; 4- Có
nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; 5- Con người có cuộc sống ấm no,
tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; 6- Các dân tộc trong cộng
đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng; 7- Có Nhà nước pháp quyền XHCN
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; 8- Có quan hệ
hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới.
Với tinh thần và tư duy biện chứng về phát triển
xã hội, Đảng ta quan niệm: Tiến lên CNXH là một quá trình vận động, chuyển hóa
liên tục, không ngừng phát triển từ thấp đến cao, từ chưa hoàn thiện đến hoàn
thiện hơn. Các đặc trưng của xã hội XHCN mà nhân dân ta, dưới sự lãnh đạo của
Đảng, phấn đấu xây dựng cũng sẽ luôn luôn vận động, chuyển hóa và phát triển
không ngừng. Do vậy, từ nay đến năm 2030 và năm 2045, các đặc trưng của xã hội
XHCN Việt Nam chắc chắn sẽ có những bổ sung mới về chất, để đáp ứng yêu cầu,
nhiệm vụ của sự nghiệp xây dựng CNXH ở trình độ cao hơn nhiều.
Có được việc xác lập đúng đắn các đặc trưng của
mô hình CNXH đặc thù riêng có của Việt Nam là xuất phát từ sự nhận thức sâu sắc
về thời kỳ quá độ lên CNXH trong điều kiện lịch sử cụ thể của nước ta. Vượt qua
những giáo điều, hạn chế do điều kiện khách quan ở thời kỳ bao cấp, với quan
điểm nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, Đảng ta đã trở về với căn
nguyên của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nhìn nhận đánh giá một
cách khách quan những vấn đề thực tiễn đang đặt ra để định hình những nhận thức
lý luận quan trọng về thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta. Đó chính là cơ sở để
Đảng ta có những quyết sách về đường lối thể hiện trong các đặc trưng mô hình
CNXH Việt Nam, trong đó có những vấn đề, nội dung mang tính chất đột phá, như
đặc trưng tổng quát, đặc trưng về kinh tế, đặc trưng về Nhà nước.
Hai là, Đảng ta đã tiến hành đổi mới tư duy, vận
dụng sáng tạo lý luận CNXH khoa học, tư tưởng Hồ Chí Minh vào công cuộc đổi
mới, xác lập mục tiêu phát triển trong xây dựng CNXH.
Sự phát triển nhận thức lý luận của Đảng Cộng
sản Việt Nam về thời kỳ quá độ lên CNXH là kết quả của quá trình đổi mới tư
duy, tổng kết thực tiễn và sự vận dụng sáng tạo, bổ sung, phát triển lý luận
của CNXH khoa học, những luận điểm cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều
kiện cụ thể ở Việt Nam trong mỗi thời kỳ phát triển.
Đại hội VI của Đảng là cột mốc lịch sử quan
trọng trong sự nghiệp cách mạng XHCN của nhân dân ta. Trên cơ sở những thành
tựu đổi mới từ Đại hội VI của Đảng, Đại hội VII của Đảng (tháng 6-1991) đã
thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội (năm 1991). Đây là văn kiện quan trọng mang tầm định
hướng chiến lược. Công cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng từ năm 1986 đến
nay tiếp tục nhất quán với mục tiêu và con đường ấy; vận dụng và phát triển
sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh để xây dựng,
hình thành nhận thức mới về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam phù hợp
với bối cảnh quốc gia và thời đại ngày nay. Qua mỗi kỳ đại hội, Đảng ta lại có
bước phát triển mới về vấn đề căn cốt này trên cơ sở tổng kết việc thực hiện
mục tiêu CNXH và bảo đảm định hướng XHCN, định hình từng bước mục tiêu, giá trị
CNXH trong quá trình đổi mới, phát triển đất nước. Đánh giá chung về 30 năm
thực hiện Cương lĩnh năm 1991, 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, Đại hội XIII
của Đảng nhận định: “Nhìn lại 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, 30 năm
thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội của Việt Nam ngày càng hoàn thiện và từng bước được hiện thực
hóa”(1).
Đại hội XIII của Đảng hướng tầm nhìn xa hơn đến giữa
thế kỷ XXI, phấn đấu đưa nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng
XHCN, xác định mục tiêu và nhiệm vụ cụ thể phải hoàn thành cho mỗi chặng đường.
Các mục tiêu hướng tới những dấu mốc phát triển quan trọng của đất nước ta
trong những thập niên sắp tới: Đến năm 2025, kỷ niệm 50 năm giải
phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước: Là nước đang phát triển, có công
nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp. Đến
năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng: Là nước đang phát triển, có công
nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao. Đến năm 2045, kỷ niệm 100
năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam: Trở thành nước phát triển, thu nhập cao.
Ba là, tổng kết, kế thừa, làm rõ phương hướng
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH.
Cương lĩnh năm 1991 đã đề ra 7 phương hướng cơ
bản và cũng là nội dung cần thiết của cách mạng XHCN và xây dựng CNXH trong
thời kỳ đổi mới. Cách xác định phương hướng cơ bản xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên CNXH trong Cương lĩnh năm 1991 đã đề cập, bao hàm cả phương hướng
phát triển. Sau đó, Đại hội X của Đảng (năm 2006), qua tổng kết 20 năm đổi mới,
đã cân nhắc, xác định 8 phương hướng nhưng gọn hơn(2).
Kế thừa tinh thần của Đại hội X, tại Đại hội XI
của Đảng, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) đã xác định rõ hơn mục
tiêu, con đường đi lên CNXH ở Việt Nam thông qua việc bổ sung, phát triển
các phương hướng cơ bản. Cương lĩnh năm 2011 viết: “Để thực hiện
thành công các mục tiêu trên, toàn Đảng, toàn dân ta cần nêu cao tinh thần cách
mạng tiến công, ý chí tự lực, tự cường, phát huy mọi tiềm năng và trí tuệ, tận
dụng thời cơ, vượt qua thách thức, quán triệt và thực hiện tốt các phương
hướng cơ bản sau đây: Một là, đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên,
môi trường. Hai là, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa. Ba là, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc; xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ
và công bằng xã hội. Bốn là, bảo đảm vững chắc quốc phòng và an
ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội. Năm là, thực hiện đường lối
đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; chủ động
và tích cực hội nhập quốc tế. Sáu là, xây dựng nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận
dân tộc thống nhất. Bảy là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tám là, xây dựng Đảng
trong sạch, vững mạnh”(3).
Tám phương hướng cơ bản nêu trên đã thể hiện
tính hệ thống, đồng bộ của con đường đi lên CNXH ở nước ta, vừa đúng xu thế
thời đại, vừa phù hợp với thực tiễn Việt Nam và tiếp tục được bổ sung, cụ thể
hóa trong các văn kiện Đại hội XII, XIII của Đảng.
Khái quát toàn bộ phương hướng cơ bản xây dựng
CNXH trong gần 40 năm đổi mới cho thấy, sau mỗi kỳ đại hội, trên cơ sở thực
tiễn thực hiện phương hướng xây dựng CNXH trên từng lĩnh vực cơ bản, Đảng lại
có sự bổ sung, phát triển lý luận về phương hướng rất rõ rệt và ngày càng sâu
sắc, đầy đủ, toàn diện hơn trên tất cả lĩnh vực. Đây là sự tìm tòi, đổi mới và
cống hiến lý luận của Đảng nhằm mục tiêu phụng sự Tổ quốc Việt Nam XHCN, phục
vụ nhân dân trong bối cảnh mới.
Bốn là, phát hiện và xác định các mối quan hệ
lớn cần giải quyết trong quá trình thực hiện các phương hướng xây dựng, phát
triển đất nước.
Ngoài các phương hướng xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên CNXH, Cương lĩnh năm 2011 còn bổ sung nội dung về việc nắm
vững và giải quyết tốt các mối quan hệ lớn: “quan hệ giữa đổi mới, ổn định và
phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa kinh tế thị trường
và định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng,
hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa tăng trưởng kinh
tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa xây dựng
chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và
hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”(4).
Đến Đại hội XII của Đảng (năm 2016), Đảng ta đã
bổ sung mối quan hệ lớn cần giải quyết trong quá trình xây dựng CNXH trong thời
kỳ quá độ, đó là quan hệ giữa nhà nước và thị trường; đồng thời, đã
điều chỉnh mối quan hệ giữa kinh tế thị trường và định hướng XHCN thành
quan hệ giữa tuân theo quy luật của thị trường với bảo đảm định hướng
XHCN; đến Hội nghị Trung ương 5 (khóa XII), mối quan hệ giữa nhà
nước và thị trường được bổ sung thành quan hệ giữa nhà nước,
thị trường và xã hội. Đến Đại hội XIII (năm 2021), Đảng bổ
sung mối quan hệ lớn thứ mười là: mối quan hệ giữa thực hành dân chủ
và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội.
Đến nay, Đảng ta đã xác định 10 mối quan hệ lớn
cần tiếp tục nắm vững và xử lý tốt trong quá trình xây dựng CNXH Việt Nam; cụ
thể là các quan hệ: 1- Giữa ổn định, đổi mới và phát triển; 2- Giữa đổi mới
kinh tế và đổi mới chính trị; 3- Giữa tuân theo các quy luật thị trường và bảo
đảm định hướng XHCN; 4- Giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn
thiện từng bước quan hệ sản xuất XHCN; 5- Giữa Nhà nước, thị trường và xã hội;
6- Giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội, bảo vệ môi trường; 7- Giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
XHCN; 8- Giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; 9- Giữa Đảng lãnh đạo, Nhà
nước quản lý và nhân dân làm chủ; 10- Giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp
chế, bảo đảm kỷ cương xã hội(5).
Văn kiện Đại hội XIII của Đảng cũng nhấn mạnh,
đó là các mối quan hệ lớn, phản ánh các quy luật mang tính biện chứng, những
vấn đề lý luận cốt lõi về đường lối đổi mới của Đảng ta, cần tiếp tục được bổ
sung, hoàn thiện và phát triển phù hợp với thay đổi của thực tiễn; đòi hỏi
chúng ta nhận thức đúng và đầy đủ, quán triệt sâu sắc và thực hiện thật tốt,
hiệu quả(6). Mười mối quan hệ lớn là sự khái quát cao nhận thức lý
luận của Đảng về thời kỳ quá độ lên CNXH, góp phần làm sáng rõ thêm các quy
luật xây dựng CNXH Việt Nam nói chung, quy luật cầm quyền khoa học của Đảng
Cộng sản Việt Nam nói riêng.
Năm là, hình thành khái niệm “kinh tế thị trường
định hướng XHCN” là sự đổi mới căn bản nhận thức, sự đột phá trong tư duy lý
luận và thực tiễn lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, xây dựng CNXH ở nước ta.
Tinh thần đổi mới đã được thể hiện trong Cương
lĩnh năm 1991 và Văn kiện Đại hội VII của Đảng, khi Đảng chỉ rõ: xây dựng nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN, vận hành theo cơ chế
thị trường có sự quản lý của Nhà nước; đồng thời, cũng cụ thể hóa khái niệm chế
độ công hữu, xác định rõ, đó chỉ là công hữu “về các tư liệu sản xuất chủ yếu”.
Đến Đại hội IX của Đảng, khái niệm “nền kinh tế thị trường định hướng XHCN”
được khẳng định dứt khoát với quan niệm rằng, “nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa; đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa”(7).
Trong thời kỳ quá độ lên CNXH, Việt Nam thực
hiện nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, có nhiều hình thức sở
hữu, nhiều thành phần kinh tế; trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo,
kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững
chắc của nền kinh tế quốc dân.
Đất nước ta sau gần 40 năm đổi mới đang chuyển
sang giai đoạn phát triển mới, từng bước hoàn thiện nền kinh tế thị trường hiện
đại, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo định hướng XHCN, xây dựng nền dân chủ XHCN,
xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân và hội
nhập quốc tế ngày càng sâu rộng; nhờ đó, mức sống và chất lượng sống của nhân
dân được nâng cao hơn nhiều lần so với vài thập niên trước đây.
Sáu là, nhận thức ngày càng toàn diện hơn, sâu
sắc hơn về động lực và nguồn lực xây dựng CNXH mang bản sắc Việt Nam, đặc biệt
là đề cao vai trò của văn hóa với tư cách là sức mạnh nội sinh, xung lực quan
trọng của quá trình phát triển đất nước.
Trên nền tảng quan điểm của chủ nghĩa Mác -
Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, trong gần 40 năm đổi mới, Đảng ta đã xác định
và chỉ rõ những động lực chủ yếu để xây dựng CNXH Việt Nam, bao gồm phát huy
dân chủ XHCN; đại đoàn kết toàn dân tộc; văn hóa (mà cốt lõi là phát huy nhân
tố con người); kết hợp hài hòa lợi ích xã hội, tập thể và cá nhân, quan tâm lợi
ích thiết thân của con người; giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ; công
bằng xã hội, đổi mới sáng tạo. Đó là kết quả của quá trình tìm tòi, nghiên cứu
lý luận, gắn với tổng kết thực tiễn xây dựng CNXH để điều chỉnh nhận thức, bổ
sung và phát triển lý luận cho phù hợp với giai đoạn phát triển mới.
Tinh thần ấy tiếp tục được kế thừa, khẳng định
và hiện thực hóa qua các kỳ Đại hội lần thứ XI, XII của Đảng. Đến Đại hội XIII
của Đảng, quan điểm về 3 động lực phát triển được coi là một trong những điểm
mới nổi bật. Theo đó, Đảng ta nhấn mạnh tới “khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu
nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng
phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”(8); phát huy dân chủ XHCN,
sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và của nền văn hóa, con người Việt
Nam, bồi dưỡng sức dân, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, có cơ chế thu hút,
trọng dụng nhân tài, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, ứng dụng mạnh mẽ khoa học và
công nghệ, nhất là thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; kết hợp
sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; phát huy tối đa nội lực, tranh thủ
ngoại lực, trong đó có nguồn lực nội sinh, tạo động lực mới cho quá trình phát
triển đất nước nhanh và bền vững.
Từ khi tiến hành công cuộc đổi mới (năm 1986)
đến nay, tư duy lý luận của Đảng về nguồn lực nội sinh được phát triển theo
hướng nhấn mạnh đến vai trò ngày càng lớn của văn hóa trong
bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước. Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã
hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển bền vững của đất
nước. Lần đầu tiên, tại Đại hội XIII của Đảng, giá trị văn hóa trở
thành một nội dung quan trọng trong ba “đột phá chiến lược”,
là điểm khác so với trước đây khi chỉ đề cập đến đột phá về kinh tế là chính.
Đặc biệt, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã chỉ ra nhiệm vụ mới cần thực hiện,
mà trước đó mới chỉ dừng lại như một sự gợi mở, định hướng, đó là “Tập trung
nghiên cứu, xác định và triển khai xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn
hóa và chuẩn mực con người gắn với giữ gìn, phát triển hệ giá trị gia đình Việt
Nam trong thời kỳ mới”(9).
Bảy là, tập trung xác lập mục tiêu, hệ giá trị
nhân văn của CNXH Việt Nam trong bối cảnh mới; xử lý hài hòa, hợp lý mối quan
hệ giữa tăng trưởng kinh tế gắn với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo
vệ môi trường trong từng bước phát triển.
Trong bài viết rất quan trọng “Một số vấn đề lý
luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam”, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ rõ một cách đầy thuyết phục về mục tiêu
và đồng thời cũng là những giá trị nhân văn, đích thực của
CNXH Việt Nam: “Chúng ta cần một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì
con người, chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con
người. Chúng ta cần sự phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã
hội, chứ không phải gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội.
Chúng ta cần một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các
giá trị tiến bộ, nhân văn, chứ không phải cạnh tranh bất công, “cá lớn nuốt cá
bé” vì lợi ích vị kỷ của một số ít cá nhân và các phe nhóm. Chúng ta cần sự
phát triển bền vững, hài hòa với thiên nhiên để bảo đảm môi trường sống trong
lành cho các thế hệ hiện tại và tương lai, chứ không phải để khai thác, chiếm đoạt
tài nguyên, tiêu dùng vật chất vô hạn độ và huỷ hoại môi trường”(10).
Đảng chủ trương “thực hiện tiến bộ và công bằng
xã hội trong từng bước phát triển và từng chính sách” trong quá trình xây dựng
và phát triển đất nước. Yêu cầu “tiến bộ và công bằng” được triển khai bao quát
toàn diện các lĩnh vực xã hội, từ giáo dục, y tế, gia đình, môi trường, xóa
đói, giảm nghèo, đến an sinh, phúc lợi xã hội, thể dục - thể thao, văn hóa giải
trí, trật tự, an toàn xã hội, bảo đảm quyền con người, phòng, chống tội phạm,
tệ nạn xã hội. Nhà nước giữ vai trò trung tâm, đồng thời huy động mọi nguồn lực
xã hội cùng tham gia việc giải quyết các vấn đề xã hội, bảo đảm cho mọi người
dân được thụ hưởng xứng đáng, công bằng thành tựu của phát triển và đổi mới,
tạo lập một xã hội văn minh, hài hòa, phấn đấu mang lại hạnh phúc ngày càng
nhiều hơn, cuộc sống ngày càng ấm no hơn cho nhân dân.
Tám là, phát triển lý luận về quốc gia - dân tộc
hiện đại và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ ngày càng
nặng nề, phức tạp hơn trong giai đoạn phát triển mới.
Những thành tựu phát triển lý luận của Đảng về
phương hướng cơ bản đi lên CNXH ở Việt Nam và các mối quan hệ lớn cần nhận thức
và giải quyết tốt trong công cuộc đổi mới, thời kỳ quá độ lên CNXH đã được cụ
thể hóa và vận dụng vào hoạch định và thực thi đường lối, chính sách của Đảng
và Nhà nước qua từng giai đoạn cụ thể trong suốt thời kỳ đổi mới và đã mang lại
những thành tựu vô cùng to lớn trong xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam XHCN.
Yêu cầu đặt ra ở tầm lý luận là cần bổ sung
những nhận thức mới về quốc gia - dân tộc hiện đại, như chủ quyền số quốc gia
trên không gian mạng, lợi ích cơ bản của quốc gia - dân tộc; chủ quyền, quyền
chủ quyền, quyền tài phán phù hợp với luật pháp quốc tế trong lợi ích chiến
lược; hòa bình, hợp tác, tự do, an toàn hàng hải, hàng không trong lợi ích phát
triển; hình thái đa quốc tịch của dân cư thời kỳ toàn cầu hóa; trách nhiệm quản
trị toàn cầu, tự quản xã hội trong tương quan với quản trị của Nhà nước.
Một trong những thành tựu nhận thức lý luận nổi
bật của Đảng trên lĩnh vực này là về “đối tượng” và “đối tác”. Đối tượng và đối
tác trong tình hình mới phải theo diễn biến tình hình, trong đối tác có mặt có
thể đấu tranh, trong đối tượng có mặt có thể hợp tác. Đấu tranh để thúc đẩy hợp
tác, giảm thiểu mặt khác biệt, xung đột; hợp tác bằng thái độ chân thành, tôn
trọng lợi ích chính đáng, tuân thủ luật pháp quốc tế, nhưng cảnh giác với mọi
thỏa hiệp giữa các nước lớn gây tổn hại lợi ích của Việt Nam. Đấu tranh phải
kiên trì, kiên quyết, nhưng mềm dẻo, linh hoạt, bằng nhiều phương pháp khác nhau,
mục đích là để giữ vững hòa bình, thúc đẩy hợp tác, bảo đảm lợi ích tối cao của
quốc gia - dân tộc.
Tổng kết thực tiễn, Đảng đã đúc kết thành chiến
lược: Bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, từ khi nước chưa nguy, dựa vào sức mạnh
tổng hợp. Sức mạnh tổng hợp là sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc; sức
mạnh của quân đội nhân dân và công an nhân dân làm nòng cốt, ngày càng được xây
dựng chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, tạo ra khả năng răn đe cần
thiết, bảo đảm triệt tiêu các nguy cơ từ sớm, từ xa, từ gốc, bảo vệ hòa bình,
ngăn ngừa chiến tranh; sức mạnh của nền văn hóa Việt Nam; sức mạnh của nền kinh
tế liên tục tăng trưởng; sức mạnh của chính nghĩa, tận dụng, tranh thủ các lực
lượng tiến bộ, yêu chuộng hòa bình, bảo vệ công lý, bảo vệ luật pháp quốc tế
trên thế giới.
Chín là, lý luận về xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân ngày càng được củng cố, phát
triển nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước, tăng cường thực
hành dân chủ, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của thực tiễn đổi mới, phát triển đất
nước theo định hướng XHCN.
Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam được xác định
bởi thuộc tính bản chất, trở thành nguyên tắc trong thiết kế mô hình nhà nước
ta, đó là: Tất cả quyền lực là của nhân dân, thuộc về nhân dân.
Quyền lực nhà nước tập trung thống nhất bởi nhân dân, không phân chia quyền
lực, càng không phải “dùng quyền lực để đối trọng quyền lực”. Quyền lực tập
trung thống nhất, không phân chia, nhưng trong cơ cấu quyền lực nhà nước phải
có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa
các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư
pháp để bảo đảm sự thống nhất, đồng quy về một mục tiêu “thực hiện và bảo vệ
quyền lực của nhân dân”. Mục tiêu căn bản của công cuộc đổi mới nói chung, của
đổi mới chính trị và đổi mới hệ thống chính trị nói riêng ở nước ta chính là
xây dựng nền dân chủ XHCN, phát huy quyền làm chủ của
nhân dân. Theo đó, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân
và vì nhân dân là một trong những điều kiện tiên quyết để thực hiện và phát huy
quyền làm chủ của nhân dân.
Khái niệm “Nhà nước pháp quyền” lần đầu tiên
được sử dụng trong Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII
(năm 1994). Tuy nhiên, đến Đại hội IX của Đảng (năm 2001), “xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa” mới được coi là một trong những nhiệm vụ có tính
chất chiến lược và xuyên suốt của thời kỳ quá độ lên CNXH. Tinh thần này được
khẳng định trong Văn kiện Đại hội X, XI, XII của Đảng, khi Đảng ta coi “Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, do
Đảng Cộng sản lãnh đạo” là một trong 8 đặc trưng của xã hội XHCN mà nhân dân
Việt Nam đang xây dựng. Những nội dung về xây dựng Nhà nước được hiến định
trong Hiến pháp năm 2013 đã thể hiện những bước tiến quan trọng của Đảng về
quan điểm, nhận thức lý luận về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN. Đại hội XIII
của Đảng khẳng định, “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân do Đảng lãnh
đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị”(11). Hội
nghị Trung ương 6 khóa XIII đánh giá: “Mô hình Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam không ngừng được hoàn thiện, vận hành theo cơ chế “Đảng lãnh
đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ”, góp phần quan trọng vào những thành
tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc”(12).
Mười là, phát triển hơn nữa lý luận về vai trò,
sứ mệnh của Đảng, đặc biệt là về xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị
trong sạch, vững mạnh, nhằm bảo đảm sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng
đối với sự nghiệp đổi mới đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Qua gần 40 năm đổi mới, hệ thống lý luận của
Đảng xác định ngày càng rõ hơn vị trí, vai trò của từng lĩnh vực trong tổng thể
đường lối xây dựng và bảo vệ Tổ quốc: phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm;
văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội; bảo đảm quốc phòng, an ninh là nhiệm
vụ trọng yếu thường xuyên; xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt. Sở dĩ xây dựng
Đảng là nhiệm vụ then chốt, bởi có xây dựng Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh,
có năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu cao, Đảng mới đưa ra và tổ chức thực hiện
thành công đường lối chính trị đúng đắn, xử lý thỏa đáng và kịp thời những vấn
đề do công cuộc đổi mới đất nước đặt ra, xứng đáng với vai trò của một đảng duy
nhất cầm quyền, giữ vững niềm tin của nhân dân đối với Đảng.
Đóng vai trò then chốt, do đó công tác xây dựng
Đảng thành công sẽ quyết định đến toàn bộ sức mạnh của hệ thống chính trị, đến
toàn bộ sự nghiệp đổi mới và giữ vững định hướng XHCN. Xây dựng Đảng, vì thế
trở thành khâu đột phá, mở đường cho mọi đổi mới trên các lĩnh vực khác. Các
nghị quyết, kết luận của Ban Chấp hành Trung ương cùng các chỉ thị, quy chế,
quy định do Bộ Chính trị, Ban Bí thư ban hành liên quan đến công tác xây dựng
Đảng thể hiện rõ sự chú trọng đặc biệt của Đảng ta đối với công tác xây dựng,
chỉnh đốn Đảng trong thời kỳ đổi mới. Đặc biệt, từ Đại hội XI của Đảng đến nay,
công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng thật sự được đặt ở vị trí then chốt, có vai
trò quan trọng đối với những thành công to lớn, có ý nghĩa lịch sử của sự
nghiệp đổi mới.
Lý luận về Đảng lãnh đạo, cầm quyền được làm
sáng rõ, cụ thể hơn qua các nội dung, khía cạnh chủ yếu:
1- Đảng lãnh đạo là xuyên suốt mọi thời kỳ cách mạng, còn Đảng cầm quyền chỉ
trong giai đoạn Đảng đã giành được chính quyền, nắm lấy chính quyền nhà nước,
sử dụng chính quyền phục vụ cho mục đích, lý tưởng của mình; 2- Đảng lãnh đạo
chủ yếu và trước hết ở vai trò, sứ mệnh tiền phong, dẫn đường, chỉ lối dựa trên
trí tuệ sáng suốt, đạo đức trong sáng, đường lối khoa học, tổ chức chặt chẽ;
còn Đảng cầm quyền là hoạt động mà thông qua đó, Đảng nắm giữ, thực thi, kiểm
soát quyền lực, trước hết là quyền lực nhà nước, để hiện thực hóa mục tiêu, lý
tưởng; 3- Phân tách, phân định rõ hơn chức năng lãnh đạo, cầm quyền của Đảng
với chức năng quản lý, điều hành của Nhà nước, chức năng đại diện và bảo vệ
quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của các tổ chức chính trị - xã hội đối
với mỗi giai tầng xã hội.
Lý luận về cấu trúc công tác xây dựng Đảng ngày
càng được phát triển, cụ thể hóa. Từ chỗ xác định công tác xây dựng Đảng bao
gồm 3 mặt chính trị, tư tưởng, tổ chức đã phân khai, phát triển thành 5 mặt
công tác: chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ. Việc Đại hội XII của
Đảng đặt xây dựng Đảng về đạo đức thành một nội dung trong cấu trúc công tác
xây dựng Đảng là dựa trên nền tảng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức, lý luận về
đạo đức cầm quyền và văn hóa chính trị của Đảng; góp phần bổ sung, làm sáng rõ
hơn vai trò, tầm vóc, tính tiên phong của Đảng. Đại hội XIII của Đảng còn tách
công tác xây dựng Đảng về cán bộ khỏi công tác xây dựng Đảng về tổ chức; đồng
thời, đã tổng kết 5 bài học lớn, mà trong đó, bài học hàng đầu chính là về xây
dựng, chỉnh đốn Đảng. Đặc biệt, Đại hội XIII của Đảng
đã tiếp tục bổ sung những nhận thức mới quan trọng về công tác xây dựng, chỉnh
đốn Đảng; nhấn mạnh tới việc phải gắn xây dựng, chỉnh đốn Đảng với xây dựng hệ
thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Đây cũng là nhiệm vụ, phương hướng trọng
tâm của cả nhiệm kỳ Đại hội XIII của Đảng và những năm tiếp theo.
***
Những thành tựu phát triển lý luận lớn của Đảng
trong gần 40 năm đổi mới thể hiện sự kiên định mục tiêu xây dựng CNXH, sự phát
triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện
lịch sử cụ thể của Việt Nam, có vai trò, ý nghĩa quyết định đối với những thành
tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của công cuộc xây dựng, phát triển đất nước ta
trong gần 40 năm qua. Đây cũng sẽ là cơ sở khoa học, thực tiễn quan trọng giúp
cho Đảng ta hoạch định đường lối, chủ trương xây dựng, phát triển đất nước
trong thời kỳ mới, hướng tới thực hiện thắng lợi mục tiêu đến giữa thế kỷ XXI,
nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng XHCN./.
(Nguồn: Tạp chí Cộng
sản)
NÂNG CAO NHẬN THỨC, TRÁCH NHIỆM VÀ PHÁT HUY SỨC MẠNH TỔNG HỢP CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ TRONG CÔNG TÁC THANH NIÊN
Đảng ta xác định, thanh niên Việt Nam là lực
lượng quan trọng trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc, là chủ nhân tương lai
của đất nước. Việc nâng cao nhận thức, trách nhiệm và phát huy sức mạnh tổng
hợp của hệ thống chính trị, thực hiện có hiệu quả các giải pháp trên các lĩnh
vực là cơ sở quan trọng để thanh niên Việt Nam - nòng cốt là các tổ chức đoàn,
hội - phát huy mạnh mẽ, hiệu quả hơn nữa vai trò của mình trong sự nghiệp cách
mạng của Đảng và của dân tộc.
Quan điểm, chủ trương của Đảng về công tác
thanh niên và tổ chức đoàn
Trong các thời kỳ cách mạng, Đảng Cộng sản
Việt Nam luôn quan tâm lãnh đạo công tác thanh niên và Đoàn Thanh niên Cộng sản
Hồ Chí Minh. Đảng thống nhất lãnh đạo công tác thanh niên và coi đó là nhiệm vụ
chiến lược quan trọng nhằm vận động, tập hợp, đoàn kết thanh niên và chăm lo
bồi dưỡng, đào tạo, phát huy thanh niên. Nghị quyết số 25-NQ/TW, ngày
25-7-2008, của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X, “Về tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng đối với công tác thanh niên thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa” đã đánh giá cao vai trò của thanh niên và xác định rõ nhiệm vụ đào tạo,
bồi dưỡng, phát huy thanh niên: “Thanh niên là rường cột của nước nhà, chủ nhân
tương lai của đất nước, là lực lượng xung kích trong xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, một trong những nhân tố quyết định sự thành bại của sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước, hội nhập quốc tế và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Thanh niên được đặt ở vị trí trung tâm trong chiến lược bồi dưỡng, phát huy
nhân tố và nguồn lực con người. Chăm lo, phát triển thanh niên vừa là mục tiêu,
vừa là động lực bảo đảm cho sự ổn định và phát triển vững bền của đất nước”(1).
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của
Đảng xác định mục tiêu, khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh
phúc, phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển,
theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, Đại hội cũng đặt ra mục tiêu
đối với thế hệ trẻ: “Tăng cường giáo dục thế hệ trẻ về lý tưởng cách mạng, đạo
đức, lối sống văn hoá, nâng cao lòng yêu nước, tự hào dân tộc, nuôi dưỡng ước
mơ, hoài bão, khát vọng vươn lên; nêu cao tinh thần trách nhiệm đối với đất
nước, với xã hội; xây dựng môi trường, điều kiện học tập, lao động, giải trí,
rèn luyện để phát triển lành mạnh, toàn diện, hài hòa cả về trí tuệ, thể
chất và giá trị thẩm mỹ. Tạo động lực cho thanh niên xung kích trong học
tập, lao động sáng tạo, khởi nghiệp, lập nghiệp; làm chủ các kiến thức
khoa học, công nghệ hiện đại, phát huy vai trò quan trọng trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Chăm lo bồi dưỡng, giáo dục, phát triển toàn diện
và bảo đảm quyền của trẻ em; dành những điều kiện tốt nhất, sự chăm lo chu đáo
nhất cho trẻ em - tương lai của đất nước”(2).
Công tác thanh niên là trách nhiệm của cả hệ
thống chính trị, của toàn xã hội, của mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân. Trong
đó, Đảng là hạt nhân lãnh đạo, chỉ đạo, chính quyền có vai trò, trách nhiệm
trong việc tổ chức thực hiện, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính
trị - xã hội phối hợp giáo dục, bồi dưỡng, phát huy thanh niên. Nghị quyết số
25-NQ/TW chỉ rõ, xây dựng Đoàn vững mạnh là nội dung quan trọng trong công tác
xây dựng Đảng, là xây dựng Đảng trước một bước. Đảng đề ra đường lối, chủ trương
định hướng cho thanh niên hành động; xác định các chuẩn mực cho thanh niên phấn
đấu; xây dựng các tấm gương điển hình tiêu biểu cho thanh niên học tập và noi
theo.
Giải pháp nâng cao nhận thức, trách nhiệm về
công tác thanh niên
Để nghị quyết của Đảng về công tác thanh niên
đi vào cuộc sống, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền phổ biến và truyền thông
nhằm nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên và người dân
về quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về công tác thanh niên,
tập trung thực hiện các giải pháp sau:
Thứ nhất, các cấp ủy, lãnh đạo
chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội bảo
đảm quyền tiếp cận của đoàn viên, thanh niên với chính sách và luật pháp (như:
được biết chính sách và luật pháp sắp được ban hành; đối thoại và tham vấn
thanh niên; huy động thanh niên tham gia vận động chính sách và phản biện chính
sách; tuyên truyền, phổ biến cho đoàn viên, thanh niên hiểu về chính sách và
luật pháp); triển khai thực hiện chính sách và luật pháp.
Các cấp ủy coi trọng nhiệm vụ chăm lo xây dựng
Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh thực sự vững mạnh về chính trị, tư tưởng
và tổ chức, xứng đáng là tổ chức của thanh niên, vì thanh niên. Mở rộng mặt
trận đoàn kết, tập hợp thanh niên trong nước và ngoài nước bằng nhiều hình thức
đa dạng, phong phú. Chú trọng nâng cao chất lượng đoàn viên, chất lượng cán bộ
đoàn, nhất là chất lượng về chính trị, tư tưởng và tính tiên phong, gương mẫu,
trách nhiệm nêu gương của cán bộ và đoàn viên. Đổi mới mạnh mẽ phương thức hoạt
động của Đoàn, nhất là ở cơ sở, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo. Đồng
hành với thanh niên và cảm thông, chia sẻ với thanh niên, thấu hiểu tâm tư,
nguyện vọng của thanh niên, chăm lo đáp ứng những lợi ích hợp pháp và nhu cầu
chính đáng của thanh niên, kịp thời định hướng, hỗ trợ, giúp đỡ thanh niên. Xây
dựng Đoàn vững mạnh làm nòng cốt chính trị trong các hội của thanh niên. Thực
hiện tốt nhiệm vụ phụ trách Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh và quan tâm
chăm sóc, hướng dẫn, giáo dục thiếu niên, nhi đồng.
Thứ hai, đổi mới nội dung và
phương thức giáo dục chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước phù hợp với tâm lý,
trình độ nhận thức của thanh niên; tăng cường giáo dục lý tưởng cách mạng,
truyền thống văn hóa, lịch sử của Đảng và dân tộc cho thanh niên; tập trung vào
các nội dung chủ yếu sau:
- Tiếp tục đổi mới phương thức, nâng cao hiệu
quả công tác tuyên truyền, giáo dục về chính trị tư tưởng, học tập chủ nghĩa Mác
- Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quán triệt chủ trương, đường lối và các nghị
quyết của Đảng, của Đoàn; tăng cường các hình thức tạo diễn đàn trao đổi, đối
thoại có tính tương tác với đoàn viên, thanh niên; thường xuyên nắm bắt tình
hình tư tưởng, định hướng dư luận trong thanh niên thông qua mạng lưới thăm dò
dư luận xã hội do Đoàn tổ chức; đổi mới nội dung và phương thức học tập các bài
học lý luận chính trị trong đoàn viên, thanh niên; chủ động, tích cực đấu tranh
có hiệu quả với những luận điệu chống phá của các thế lực thù địch nhằm vào
thanh, thiếu niên.
- Chú trọng tuyên truyền, giáo dục về truyền
thống yêu nước, đoàn kết, cần cù, sáng tạo và khát vọng vươn lên trong mọi hoàn
cảnh, bồi dưỡng, xây dựng lớp thanh niên có bản lĩnh, tự tin đảm nhận vai trò
chủ nhân tương lai của đất nước. Giáo dục truyền thống vẻ vang của Đảng, của
Đoàn, ý thức giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, truyền thống của quê
hương, gia đình, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại; đấu tranh với
các biểu hiện, hành vi đi ngược lại với chuẩn mực giá trị xã hội, truyền thống
tốt đẹp của dân tộc.
- Triển khai sâu, rộng các nội dung giáo dục
lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hóa, nâng cao lòng yêu nước, tự hào
dân tộc, nuôi dưỡng ước mơ, hoài bão, khát vọng cống hiến vì Tổ quốc; nêu cao
tinh thần trách nhiệm đối với đất nước, với xã hội, gắn với các phong trào hành
động cách mạng của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Thanh
niên Việt Nam, Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh. Nghiên cứu chỉnh sửa, bổ
sung nội dung Chương trình “Rèn luyện đoàn viên”, Chương trình “Rèn luyện đội
viên”, các cuộc vận động trong các nhóm đối tượng thanh niên phù hợp với tình
hình mới và khả năng tổ chức thực hiện.
- Tiếp tục đổi mới và triển khai sâu rộng các
mô hình giáo dục giá trị sống, kỹ năng xã hội. Tăng cường định hướng giá trị
thông qua các loại hình văn hóa, văn học - nghệ thuật. Định hướng cho thanh
niên phát triển loại hình văn hóa hiện đại mang tính khoa học và nhân văn, tham
gia bảo tồn và phát triển các lễ hội văn hóa.
- Đẩy mạnh tổ chức các hoạt động giáo dục, hỗ
trợ nhằm giảm số lượng đối tượng thanh, thiếu niên chậm tiến, tạo điều kiện để
những thanh, thiếu niên lầm lỡ tái hòa nhập cộng đồng và không tái vi phạm pháp
luật.
- Tăng cường giáo dục thanh niên thông qua
những tấm gương điển hình tiên tiến, cá nhân có thành tích vượt trội. Cán bộ,
đảng viên phải làm gương về đạo đức, học tập, lao động. Thường xuyên chú trọng
xây dựng, phát hiện, nhân rộng những mẫu hình cá nhân tiêu biểu, vượt trội ở
các nhóm đối tượng thanh niên. Lấy “xây” để “chống”, làm cho các giá trị tốt
đẹp có sức lan tỏa trong cộng đồng thanh niên.
- Đoàn Thanh niên chủ động phối hợp với nhà
trường, gia đình và xã hội trong giáo dục đạo đức, lối sống cho thanh, thiếu
nhi; làm cho thế hệ trẻ hôm nay biết yêu cuộc sống, giàu lòng nhân ái, kế thừa
và phát huy những giá trị nhân văn của dân tộc, ứng xử văn minh, thanh lịch,
nghĩa tình; chú trọng nêu gương người tốt, việc tốt; dám bày tỏ chính kiến, đấu
tranh với cái xấu. Kiên quyết đấu tranh chống các biểu hiện tiêu cực, tham
nhũng, từng bước bài trừ các tệ nạn xã hội.
Thứ ba, đổi mới phương thức
tuyên truyền, phổ biến, giáo dục chính sách và luật pháp cho thanh niên bằng
những hình thức mới bảo đảm sự tham gia của đoàn viên, thanh niên ngay từ khâu
xây dựng, vận động, phản biện, tuyên truyền, phổ biến, chủ động thực hiện, kiểm
tra và giám sát. Các cấp ủy, lãnh đạo chính quyền định kỳ tổ chức đối thoại với
thanh niên về chính sách và lãnh đạo các đoàn thể nhân dân, nhất là Đoàn Thanh
niên Cộng sản Hồ Chí Minh thực hiện những hình thức mới, như đối thoại, diễn
đàn, tham vấn và tư vấn thanh niên trong xây dựng và thực hiện chính sách.
Thứ tư, phát huy ưu thế của
các phương tiện truyền thông hiện đại, đa phương tiện, hệ thống báo chí, xuất
bản của Đoàn và báo chí chính thống của Đảng, Nhà nước trong công tác giáo dục,
tuyên truyền, phổ biến chính sách và luật pháp cho thanh niên bằng hình thức
diễn đàn, đối thoại, các gameshow, trao đổi của thanh niên về thực hiện chính
sách và luật pháp; sử dụng có hiệu quả các hình thức, công cụ tuyên truyền,
giáo dục mới, như internet, các phương tiện truyền thông xã hội... Các cấp bộ
đoàn tiếp tục phát huy ứng dụng internet, các phương tiện truyền thông xã hội
để chuyển tải thông tin qua cổng thông tin điện tử của Đoàn, hệ thống website
của các tỉnh đoàn, huyện đoàn, các đơn vị đoàn trực thuộc, thư điện tử cho đội
ngũ cán bộ, đoàn viên, thanh niên...; xây dựng các diễn đàn trên mạng để trở
thành kênh thông tin phục vụ cho việc trao đổi, chia sẻ của thanh niên về thực
hiện chính sách. Đặc biệt, cần chỉ đạo việc thực hiện văn hóa ứng xử trên không
gian mạng của người dân, nhất là đối với thanh niên.
Thứ năm, khai thác hiệu quả
các nguồn lực xã hội trong công tác vận động, tuyên truyền, giáo dục thanh,
thiếu nhi. Nâng cao hiệu quả các chương trình phối hợp; lồng ghép các hoạt động
của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam,
Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh với các đoàn thể nhân dân và các chủ thể
xã hội khác, nhằm giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hóa cho
thanh niên. Lựa chọn, phân công cán bộ giỏi lý luận, kỹ năng, nghiệp vụ, nắm
chắc thực tiễn làm công tác vận động, tuyên truyền, giáo dục thanh niên; thường
xuyên đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao năng lực cho đội ngũ báo cáo viên, tuyên
truyền viên, duy trì và phát triển đội ngũ cộng tác viên trong công tác tuyên
truyền, giáo dục của Đoàn.
Thứ sáu, có các giải pháp hỗ
trợ, khuyến khích cán bộ, đoàn viên tự tìm hiểu, tự học chính sách và luật
pháp. Coi cán bộ, đoàn viên là tuyên truyền viên làm nhiệm vụ tuyên truyền, phổ
biến chính sách và luật pháp cho thanh niên và người dân.
Giải pháp về cơ chế phối hợp đồng bộ, liên
ngành trong công tác thanh niên
Sự phối hợp liên ngành trong việc chăm lo bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp của thanh niên là cơ chế có tính ưu việt nhằm tạo ra
sự thống nhất về nội dung, phương thức và tạo ra nguồn lực cần thiết để thực
hiện chính sách phát triển thanh niên. Cơ chế phối hợp liên ngành trong thực
hiện nghị quyết của Đảng về công tác thanh niên được thực hiện như
sau: Một là, các cơ quan quản lý nhà nước về thanh niên, các ngành
giáo dục, lao động, y tế, văn hóa, quân đội, công an… phối hợp và lồng ghép
hoạt động với nhau dưới sự điều phối của Ủy ban quốc gia về thanh niên Việt Nam
và Bộ Nội vụ (cơ quan được giao quản lý thanh niên); Hai là, các cơ
quan quản lý nhà nước về thanh niên và quản lý lĩnh vực có liên quan đến phát
triển thanh niên phối hợp và lồng ghép các hoạt động với Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam, các đoàn thể nhân dân, nhất là Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, các
tổ chức của thanh niên để làm công tác định hướng, giáo dục chuẩn mực giá trị,
đạo đức, lối sống cho thanh niên; Ba là, sự phối hợp và lồng ghép
hoạt động giữa các cơ quan quản lý nhà nước và các đoàn thể nhân dân với nhà
trường và cộng đồng dân cư trong thực hiện công tác định hướng, giáo dục chuẩn
mực giá trị, đạo đức, lối sống cho thanh niên; Bốn là, sự phối hợp
giữa nhà trường với gia đình trong định hướng, giáo dục chuẩn mực giá trị, đạo
đức, lối sống cho thanh niên; Năm là, sự phối hợp giữa đoàn thể
nhân dân và nhà trường với các đơn vị của lực lượng vũ trang, các đơn vị cung
ứng dịch vụ xã hội và các doanh nghiệp trong định hướng, giáo dục chuẩn mực giá
trị, đạo đức, lối sống cho thanh niên.
Trong thực tế, sự phối hợp liên ngành trong
thực hiện nghị quyết của Đảng về công tác thanh niên là cơ chế có tính ưu việt
nhằm tạo ra sự thống nhất về nội dung, phương thức và tạo ra nguồn lực cần
thiết để thực hiện. Trong thời gian tới, cần tiếp tục tập trung thực hiện các
giải pháp sau:
Thứ nhất, dưới sự lãnh đạo của
các cấp ủy, chính quyền và các cơ quan quản lý nhà nước về thanh niên cần phối
hợp chặt chẽ, đồng bộ, thiết thực với các chủ thể xã hội để xây dựng và thực
hiện chính sách phát triển thanh niên.
Thứ hai, các cấp chính quyền,
trong phạm vi quyền hạn của mình bố trí đủ nguồn lực cho các chủ thể xã hội
tham gia thực hiện nghị quyết của Đảng về công tác thanh niên.
Thứ ba, các cấp ủy cần giao
cho Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh làm đầu mối trong việc xã hội hóa, nhằm
huy động sức mạnh tổng thể trong thực hiện chính sách phát triển thanh niên.
Thứ tư, các chủ thể xã hội
sử dụng các hình thức phối hợp sau: Tổ chức ký nghị quyết, chương trình hoặc kế
hoạch liên tịch; tổ chức các hội nghị, hội thảo; tổ chức các diễn đàn thanh
niên; phối hợp kiểm tra, đánh giá liên ngành việc thực hiện chính sách; nghiên
cứu tác động của chính sách đối với phát triển thanh niên.
Thứ năm, Đoàn Thanh niên Cộng
sản Hồ Chí Minh các cấp cần chủ động phối hợp và lồng ghép các hoạt động với
chính quyền, gia đình, nhà trường, các doanh nghiệp, đơn vị cung ứng dịch vụ xã
hội và hợp tác xã, các đơn vị của lực lượng vũ trang, các tôn giáo, cộng đồng
dân cư trong thực hiện chính sách phát triển thanh niên; lồng ghép các hoạt
động với các chủ thể xã hội khác trong xây dựng và thực hiện nghị quyết của
Đảng; lồng ghép các hoạt động xây dựng tổ chức, phát động phong trào với hoạt
động thực hiện Nghị quyết số 25-NQ/TW đối với công tác thanh niên.
Thứ sáu, các cấp bộ đoàn tiếp
tục đẩy mạnh chương trình phối hợp hoạt động với Chính phủ, ủy ban nhân dân các
cấp, các ban, ngành, các đoàn thể, tổ chức kinh tế - xã hội ở Trung ương và địa
phương, để tạo nên sức mạnh tổng hợp và huy động nguồn lực cho công tác thanh
niên./.
(Nguồn: Tạp chí Cộng
sản)