Thứ Bảy, 1 tháng 6, 2024

Một số giải pháp góp phần nâng cao chất lượng công tác tham mưu lĩnh vực tổ chức xây dựng Đảng

Công tác tham mưu chiến lược lĩnh vực tổ chức xây dựng Đảng là công tác tham mưu ở cấp Trung ương; tham mưu cho Ban Chấp hành Trung ương, trực tiếp là Bộ Chính trị, Ban Bí thư về công tác tổ chức, cán bộ của toàn Đảng. Trong đó, Ban Tổ chức Trung ương đóng vai trò là cơ quan chịu trách nhiệm chính trong thực hiện công tác tham mưu chiến lược về tổ chức xây dựng Đảng. Ngoài ra, có sự phối hợp của các cơ quan đảng Trung ương, vụ tổ chức cán bộ ở các cơ quan Trung ương, các ban tổ chức cấp ủy các cấp và các cơ quan có liên quan.

Hội thảo khoa học về nâng cao chất lượng công tác tham mưu xây dựng, ban hành các văn bản về công tác tổ chức xây dựng Đảng.

Trong gần 40 năm đổi mới, công tác tham mưu lĩnh vực tổ chức xây dựng Đảng đã đạt được những kết quả quan trọng:

Tham mưu về tổ chức bộ máy, biên chế, chính sách tiền lương trong hệ thống chính trị. Tổ chức nghiên cứu, tham mưu, đề xuất với Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư về mô hình tổ chức tổng thể của hệ thống chính trị; tham mưu sửa đổi, bổ sung, ban hành mới, hoàn thiện các quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, mối quan hệ công tác của các cơ quan, đơn vị, tổ chức trong hệ thống chính trị. Tham mưu lãnh đạo, chỉ đạo các cấp ủy, tổ chức đảng cụ thể hóa, thể chế hóa và tổ chức thực hiện có hiệu quả việc sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy, tinh gọn đầu mối các tổ chức theo hướng giảm, giải thể hoặc sắp xếp lại các cơ quan, tổ chức hoạt động không hiệu quả, không tăng thêm đầu mối và biên chế.

Nhìn chung, các nhiệm vụ, giải pháp về sắp xếp, tinh gọn hệ thống tổ chức của Đảng đã được triển khai thực hiện nghiêm túc, đồng bộ từ Trung ương đến cơ sở, đạt được nhiều kết quả quan trọng như: Giảm nhiều tổ chức đảng trực thuộc Trung ương, trực thuộc cấp tỉnh; hệ thống tổ chức đảng trong doanh nghiệp nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập được củng cố, kiện toàn; công tác phát triển đảng ở doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp ngoài nhà nước, thôn, tổ dân phố được quan tâm, đẩy mạnh… đã góp phần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị và xã hội. Hệ thống tổ chức của các cơ quan Nhà nước, mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội được sắp xếp kiện toàn, tinh gọn đầu mối bên trong; đổi mới nội dung, phương thức hoạt động.

Tham mưu về xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở đảng. Gần 40 năm qua cùng với quá trình phát triển, đổi mới của đất nước, số lượng, mô hình tổ chức cơ sở đảng tiếp tục được sắp xếp, hoàn thiện, điều chỉnh về quy mô, hình thức tổ chức, nội dung và phương thức hoạt động để phù hợp với yêu cầu mới. Qua gần 40 năm đổi mới, hầu hết các loại hình tổ chức cơ sở đảng từng bước được sắp xếp, củng cố, kiện toàn trên cơ sở các quy định về chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ công tác. Nhiều cấp ủy cơ sở quan tâm đổi mới phương thức lãnh đạo, bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện của Đảng ở cơ sở; xây dựng, sửa đổi, bổ sung quy chế làm việc của cấp ủy bảo đảm nguyên tắc của Đảng gắn với thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương, cơ quan, đơn vị. Chất lượng sinh hoạt cấp ủy, chi bộ định kỳ, sinh hoạt chuyên đề có chuyển biến tích cực; nâng cao tính chiến đấu trong sinh hoạt; tinh thần trách nhiệm, phương pháp điều hành, kỹ năng tổ chức sinh hoạt của nhiều bí thư chi bộ có bước tiến bộ, xuất hiện nhiều mô hình mới, cách làm hiệu quả.

Các cấp ủy, tổ chức đảng thường xuyên quan tâm củng cố, kiện toàn cấp ủy cơ sở bảo đảm số lượng, chất lượng; lựa chọn đảng viên có đủ tiêu chuẩn, điều kiện tham gia cấp ủy, đảm nhiệm vị trí bí thư, phó bí thư; trình độ chuyên môn, lý luận chính trị của đội ngũ cấp ủy viên, bí thư được nâng lên sau mỗi nhiệm kỳ. Trong từng nhiệm kỳ, công tác kiểm tra, giám sát ngày càng được Đảng quan tâm và chỉ đạo thực hiện nghiêm túc. Các cấp ủy, tổ chức đảng, ủy ban kiểm tra các cấp tăng cường kiểm tra định kỳ, đột xuất, kiểm tra có dấu hiệu vi phạm; mở rộng hoạt động giám sát; xử lý kỷ luật nghiêm đối với các tổ chức đảng vi phạm. Công tác khen thưởng được thực hiện thường xuyên gắn với việc đổi mới đánh giá, xếp loại tổ chức cơ sở đảng.

Tham mưu về xây dựng và quản lý đội ngũ đảng viên. Ban Tổ chức Trung ương đã chủ trì, phối hợp với các cơ quan, tổ chức liên quan chủ động nghiên cứu, tham mưu, đề xuất Ban Chấp hành Trung ương các khóa ban hành các nghị quyết, kết luận quan trọng về xây dựng và quản lý đội ngũ đảng viên; tham mưu Trung ương ban hành các quy định, quy chế, hướng dẫn về công tác xây dựng, quản lý và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên. Cùng với sự trưởng thành, lớn mạnh và phát triển của toàn Đảng, đội ngũ đảng viên của Đảng ngày càng phát triển nhanh về số lượng; trình độ, kiến thức, năng lực ngày càng nâng lên và cơ cấu đội ngũ đảng viên ngày càng hợp lý hơn.

Tham mưu về công tác cán bộ. Đã tham mưu Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư ban hành nhiều nghị quyết, kết luận, luật, nghị định, sửa đổi, bổ sung nhiều quy định, quy chế liên quan đến công tác cán bộ để góp phần chỉnh đốn, khắc phục những vướng mắc, hạn chế, yếu kém, bất cập. Nhiều cấp ủy, tổ chức đảng, các cơ quan Nhà nước đã lãnh đạo, chỉ đạo, thể chế hóa thành các quy định và tổ chức thực hiện nghiêm túc, đạt được những kết quả quan trọng. Qua gần 40 năm đổi mới, đội ngũ cán bộ các cấp đã có bước trưởng thành, phát triển về nhiều mặt, chất lượng đội ngũ ngày được nâng lên, đóng góp quan trọng vào thành công của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Nghiên cứu, tổng kết thực tiễn để tham mưu Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư lãnh đạo, chỉ đạo hoàn thiện thể chế về công tác cán bộ; kịp thời xây dựng, bổ sung, sửa đổi và ban hành mới hàng loạt quy định, quy chế về đánh giá, quy hoạch, luân chuyển, bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử; về danh mục chức danh, chức vụ lãnh đạo, quản lý và tương đương trong hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở; về kiểm soát quyền lực, chống chạy chức, chạy quyền, từ chức, miễn nhiệm cán bộ; về thẩm quyền, trách nhiệm người đứng đầu trong công tác cán bộ...; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền đi đôi với tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ.

Tham mưu về bảo vệ chính trị nội bộ. Đã tham mưu Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư các chỉ thị, nghị quyết, quy định, kết luận về công tác bảo vệ chính trị nội bộ đáp ứng yêu cầu của từng giai đoạn; cụ thể hóa sâu sắc, toàn diện các quan điểm chỉ đạo của Đảng về công tác bảo vệ chính trị nội bộ, giải quyết những yêu cầu, thách thức đặt ra đối với nhiệm vụ bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ.

Thực hiện tốt công tác tổ chức quán triệt các văn bản lãnh đạo của Đảng về công tác bảo vệ chính trị nội bộ; triển khai các công tác rà soát, thẩm tra, xác minh vấn đề chính trị, thẩm định và kết luận tiêu chuẩn chính trị của cán bộ, đảng viên; giải quyết đơn thư, khiếu nại, tố cáo liên quan đến công tác bảo vệ chính trị nội bộ; việc bố trí, sử dụng cán bộ có vấn đề chính trị. Thực hiện tốt công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch; công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực và kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật Đảng; phối hợp nắm tình hình chính trị nội bộ. Chủ động hướng dẫn, cụ thể hóa các nội dung chỉ đạo của Đảng về công tác bảo vệ chính trị nội bộ tại các cấp ủy, tổ chức đảng trực thuộc Trung ương.

Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác tham mưu về tổ chức xây dựng Đảng cũng bộc lộ những hạn chế, thiếu sót:

Một số nơi việc sắp xếp tổ chức bộ máy còn mang tính cơ học, chưa gắn với nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động; chưa gắn biên chế với vị trí việc làm và cơ cấu lại, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Chức năng, nhiệm vụ của một số cơ quan, tổ chức còn trùng lắp, chồng chéo, làm giảm hiệu lực, hiệu quả hoạt động. Chính sách tiền lương chưa tạo được động lực trong thực hiện nhiệm vụ.

Chưa có sự thống nhất trong việc thành lập tổ chức đảng trực thuộc đảng ủy xã, phường, thị trấn; nhiều chi bộ, đảng bộ cơ sở có đông đảng viên, tổ chức sinh hoạt đảng khó khăntổ chức cơ sở đảng ở các loại hình doanh nghiệp chưa theo kịp quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩacông tác xây dựng, phát triển tổ chức đảng trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước còn nhiều khó khănnăng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của một số ít tổ chức cơ sở đảng còn hạn chế, việc khắc phục khâu yếu, mặt yếu còn chậm. Một số tổ chức cơ sở đảng chưa kịp thời sửa đổi, bổ sung quy chế làm việc; khả năng vận dụng, cụ thể hóa và tổ chức thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và của cấp ủy cấp trên còn hạn chế, việc giải quyết một số vấn đề phức tạp xảy ra tại cơ sở còn lúng túngCông tác kiểm điểm, đánh giá, xếp loại chất lượng tổ chức cơ sở đảng vẫn chưa thực chất, một số nơi có biểu hiện nể nang, né tránh, ngại va chạmCông tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật ở một số cấp ủy cơ sở chưa nghiêm, chưa thường xuyên, kịp thời.

Công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ, đảng viên chưa thường xuyên, chưa đi vào chiều sâu, có mặt còn hình thức và chất lượng chưa cao, thậm chí còn lúng túng trước những vấn đề phức tạp mới phát sinhCông tác quản lý đảng viên chưa được quan tâm đúng mức, nhất là việc nắm bắt tình hình và diễn biến tư tưởng chính trị của đảng viên; chưa kịp thời phát hiện, ngăn chặn và đấu tranh với những biểu hiện suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” và tệ nạn quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực ngay từ chi bộ, đảng bộ cơ sở. Công tác kết nạp đảng viên ở một số nơi còn chạy theo số lượng, chưa chú trọng về chất lương, nên số lượng đảng viên dự bị không chuyển được thành đảng viên chính thức và bị xóa tên hng năm có xu hướng tăng lên.

Công tác tham mưu về công tác cán bộ còn một số hạn chế: Một số nội dung trong các nghị quyết, kết luận của Trung ương về công tác cán bộ chậm được thể chế hóa, cụ thể hóaĐánh giá cán bộ còn hình thức, chưa lấy hiệu quả công việc làm thước đo chủ yếu; đánh giá chưa liên tục cả quá trình, chưa đa chiều gắn với nhiệm vụ và tiêu chí cụ thể; chưa rõ trách nhiệm của tập thể lãnh đạo, cá nhân người đứng đầu trong nhận xét, đánh giá. Công tác quy hoạch cán bộ còn dàn trải, phổ biến là quy hoạch khép kín trong từng ngành, từng địa phương; thiếu tổng thể, liên thôngCông tác tuyển chọn, bố trí, sử dụng và bổ nhiệm cán bộ ở không ít nơi chưa thực sự xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ; tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm, đoàn kết xuôi chiều trong bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử còn xảy ra ở nhiều nơi; tình trạng đúng quy trình nhưng chưa đúng người, đúng việc xảy ra ở không ít nơiPhân cấp quản lý cán bộ còn thiếu đồng bộ giữa các bộ, ngành và địa phươngChính sách đối với cán bộ vẫn còn những hạn chế, bất cập, chưa đáp ứng  kịp yêu cầu xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ. Cơ quan tham mưu về công tác cán bộ ở một số nơi chậm đổi mới, cả về tư duy đến nội dung, phương pháp công tác; còn thiếu chủ động trong công việc, nhất là nghiên cứu, đề xuất những vấn đề mang tính chiến lược, lâu dài. Đội ngũ cán bộ làm công tác tham mưu về công tác tổ chức cán bộ ở các cấp biến động nhiều, nhất là sau mỗi kỳ đại hội; phẩm chất, năng lực, trình độ, chất lượng nghiên cứu, tham mưu có mặt còn hạn chế.

Một số văn bản, quy định của Đảng và Nhà nước về bảo vệ chính trị nội bộ còn chậm được bổ sung, hoàn thiện đồng bộ với các quy định hiện hành.

Để thực hiện tốt chức năng tham mưu lĩnh vực tổ chức xây dựng Đảng, cần tập trung thực hiện một số nhiệm vụ, giải pháp sau đây:

Một là, hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của các cơ quan đảng Trung ương làm công tác tham mưu trên lĩnh vực tổ chức xây dựng Đảng. Tiếp tục rà soát lại chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, mối quan hệ công tác, cơ cấu tổ chức bên trong của các cơ quan đảng Trung ương để từng bước sắp xếp tinh gọn, hợp lý, xóa bỏ tổ chức trung gian, trùng lặp hoặc không còn phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, để bộ máy luôn luôn được vận hành thông suốt, hiệu lực, hiệu quả, thực hiện tốt nhiệm vụ được giao. Tập trung thực hiện việc cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức của từng cơ quan, tạo ra chuyển biến rõ rệt, bảo đảm tỷ lệ cán bộ, công chức, viên chức có trình độ nghiên cứu, tham mưu tổng hợp chiếm trên 50% tổng số biên chế được giao, có từ 20%- 30% số chuyên viên là chuyên viên cao cấp, trong số đó có nhiều chuyên gia đầu ngành thực hiện nhiệm vụ tham mưu chiến lược cho Trung ương. Kiên quyết tinh giản số cán bộ, công chức, viên chức trình độ năng lực kém, thiếu ý thức phục vụ và không hoàn thành nhiệm vụ được giao. Tiếp tục đổi mới công tác tuyển dụng, công tác luân chuyển cán bộ, công chức, viên chức trong hệ thống chính trị, có chính sách phù hợp, hấp dẫn để thu hút cán bộ có đức, có tài về công tác ở các cơ quan đảng Trung ương; bố trí, sắp xếp phù hợp giữa các độ tuổi để có sự kế thừa và phát triển, tránh tình trạng hẫng hụt đội ngũ cán bộ có trình độ tham mưu chiến lược.

Hai là, xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác tham mưu lĩnh vực tổ chức xây dựng Đảng. Đổi mới công tác tuyển chọn cán bộ công tác tham mưu trong lĩnh vực tổ chức xây dựng Đảng thực sự nổi trội về trình độ, năng lực, phẩm chất đạo đức vào công tác tại ban tổ chức cấp ủy các cấp; đa dạng nguồn tuyển chọn từ các cơ quan, đơn vị và từ các học viện, trường đại học. Coi trọng quy hoạch, tạo nguồn cán bộ tham mưu lĩnh vực tổ chức xây dựng Đảng ở các cấp, các ngành. Công tác quy hoạch cán bộ phải được thực hiện nghiêm túc, bài bản, có tầm nhìn xa, có độ mở cao; từ đó xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, tạo sự chủ động về nguồn cán bộ lãnh đạo, nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trước mắt và lâu dài của Ngành Tổ chức xây dựng Đảng. Phát hiện sớm nguồn cán bộ trẻ ở nhiều cơ quan, tổ chức, lĩnh vực, ngành nghề có đức, có tài, có triển vọng, năng lực làm công tác tổ chức xây dựng Đảng, đưa vào quy hoạch để có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, tạo nguồn. Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng về lý luận chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp đối với cán bộ làm công tác tham mưu về tổ chức xây dựng Đảng.

Ngoài nội dung về trình độ chuyên môn, lý luận chính trị, nghiệp vụ công tác, một nội dung quan trọng trong công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác tổ chức xây dựng Đảng chính là kỹ năng, kinh nghiệm đánh giá, nhìn nhận con người và kỹ năng, phương pháp, kinh nghiệm xử lý các tình huống về công tác tổ chức, cán bộ, đảng viên, bảo vệ chính trị nội bộ. Đổi mới mạnh mẽ công tác đánh giá, bố trí, đề bạt, sử dụng đội ngũ cán bộ tham mưu về tổ chức xây dựng Đảng, nhất là cán bộ trẻ. Đẩy mạnh luân chuyển cán bộ trong hệ thống chính trị, các lĩnh vực công tác, tạo môi trường rèn luyện trong thực tiễn cho cán bộ Ngành Tổ chức xây dựng Đảng phấn đấu, trưởng thành. Xây dựng phong cách, lề lối, tác phong làm việc chuyên nghiệp, khoa học cho đội ngũ cán bộ làm công tác tham mưu về tổ chức xây dựng Đảng. Hoàn thiện hệ thống thể chế, quy định chuẩn mực về lề lối, phong cách làm việc của cán bộ tham mưu về tổ chức xây dựng Đảng. Xây dựng bộ tiêu chí đánh giá chất lượng đội ngũ cán bộ tham mưu lĩnh vực tổ chức xây dựng Đảng.

Ba là, đổi mới phương thức, nâng cao chất lượng nội dung tham mưu lĩnh vực tổ chức xây dựng Đảng. Xác định rõ hơn tính hệ thống về nội dung tham mưu trong lĩnh vực tổ chức xây dựng Đảng. Hoàn thiện cơ chế công tác tham mưu trong các cơ quan của Đảng nói chung và trong công tác tổ chức xây dựng Đảng nói riêng. Phải gắn rất chặt chẽ, hữu cơ giữa nghiên cứu lý luận với tổng kết thực tiễn, tôn trọng thực tiễn, lấy sự phát triển của thực tiễn làm điểm xuất phát và cũng là điểm đến của công tác nghiên cứu - tham mưu; coi trọng sự sáng tạo - tư duy sáng tạo; coi trọng chế độ phản biện, chế độ tự phản biện, chế độ tiếp thu phản biện, dân chủ, khách quan trong nghiên cứu - tham mưu xây dựng đường lối, chủ trương, chính sách phát triển đất nước; xây dựng được cơ chế, phương thức, hình thức cụ thể hóa, thể chế hóa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng thành pháp luật, chính sách của Nhà nước

Bốn là, nâng cao hiệu quả công tác phối hợp giữa các cơ quan đảng Trung ương làm công tác tham mưu lĩnh vực tổ chức xây dựng Đảng. Tăng cường sự tham gia, phối hợp giữa các cơ quan Đảng Trung ương trong triển khai các đề án trình Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư thông qua việc tham gia vào các ban chỉ đạo, tổ biên tập, tổ giúp việc đề án. Tăng cường phối hợp trong các hoạt động nghiên cứu phục vụ công tác tham mưu như tổ chức xin ý kiến, tổ chức các hội thảo, tọa đàm. Đối với các nội dung tham mưu liên quan đến nhiều lĩnh vực, cần mời các chuyên gia, nhà khoa học từ các cơ quan đảng Trung ương tham mưu ở lĩnh vực đó tham gia thực hiện các chuyên đề nghiên cứu chuyên sâu, tham gia cung cấp các thông tin, dữ liệu theo yêu cầu của đề án để bảo đảm tính khách quan trong đánh giá, nhận định và tính thiết thực, khả thi của các giải pháp đề xuất.

Năm là, bảo đảm các điều kiện, nguồn lực phục vụ công tác tham mưu lĩnh vực tổ chức xây dựng Đảng: Tiếp tục hoàn thiện quy định về xây dựng đội ngũ cán bộ tham mưu; quy định rõ về tiêu chuẩn, điều kiện đối với chức danh chuyên gia; nâng cao chất lượng công tác tham mưu của các chức danh trợ lý, thư ký; tiếp tục hoàn thiện các cơ chế, chính sách về vị trí việc làm của cán bộ, công chức, viên chức, trong đó vị trí việc làm của cán bộ tham mưu. Tiếp tục đổi mới công tác tuyển dụng, sử dụng, quản lý, đào tạo, bồi dưỡng, quy hoạch, bố trí cán bộ, công chức, viên chức; sớm hoàn thiện cơ chế, chính sách thu hút và trọng dụng người có tài năng, các chuyên gia cho công tác tham mưu của các cơ quan Đảng Trung ương về lĩnh vực tổ chức xây dựng Đảng.

Bảo đảm điều kiện, nguồn lực về kinh tế, cơ sở vật chất, kỹ thuật và môi trường làm việc: Đẩy mạnh cải cách tiền lương, bảo đảm thu nhập, phụ cấp và các chế độ chính sách ưu đãi, đặc thù riêng cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức làm việc trong các cơ quan tham mưu của các cơ quan Đảng. Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin vào việc thực hiện công tác tham mưu của các cơ quan Đảng Trung ương; đầu tư cơ sở vật chất, kỹ thuật phục vụ công tác tham mưu, nghiên cứu của các cơ quan Đảng Trung ương. Nâng kinh phí cấp cho đề án trình Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư nhằm bảo đảm chất lượng, hiệu quả quá trình tham mưu; tạo dựng môi trường làm việc thực sự dân chủ, lành mạnh, công bằng, có văn hóa; tôn trọng, lắng nghe các ý kiến phản biện và những nội dung còn có ý kiến khác nhau trong quá trình tham mưu./.

ST.

LỜI BÁC DẠY NGÀY NÀY NĂM XƯA: NGÀY 1 THÁNG 6 NĂM 1946!

     “Đồng bào Nam Bộ là dân nước Việt Nam. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi”!

Là chân lý thiêng liêng, cao cả của dân tộc Việt Nam được Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định trong thư gửi đồng bào Nam Bộ, đăng trên Báo Cứu quốc, số 255 ngày 01 tháng 6 năm 1946.

Đầu năm 1946, đất nước ta đứng trước muôn vàn khó khăn, thử thách, nhất là nguy cơ thực dân Pháp quay trở lại xâm lược. Chủ tịch Hồ Chí Minh thấu hiểu tâm trạng lo lắng và nguyện vọng thiết tha được độc lập, thống nhất Nam - Bắc một nhà của đồng bào miền Nam. Trước khi lên đường sang Paris để mở cuộc đàm phán chính thức với Chính phủ Pháp, Người đã gửi thư bày tỏ sự đồng cảm và khơi dậy niềm tin của đồng bào Nam bộ vào thắng lợi tất yếu trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Thực tiễn sau 30 năm đấu tranh giải phóng dân tộc, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh chân lý trên đã trở thành hiện thực: Việt Nam là một quốc gia độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.

Trong giai đoạn hiện nay, tình hình quốc tế và trong nước có những thay đổi nhanh chóng, đan xen giữa thời cơ và thách thức; song Đảng ta luôn nhất quán với tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội của Chủ tịch Hồ Chí Minh; phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực và tiềm năng, sức sáng tạo của nhân dân; đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, khoan dung để tập hợp, đoàn kết mọi người Việt Nam ở trong và ngoài nước; tăng cường quan hệ mật thiết giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước, tạo sinh lực mới của khối đại đoàn kết toàn dân tộc vì mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” làm điểm tương đồng; tôn trọng những điểm khác biệt không trái với lợi ích chung của quốc gia, dân tộc.

Thấm nhuần lời Bác dạy, Quân đội ta luôn kiên định mục tiêu, lý tưởng chiến đấu, trung thành tuyệt đối và tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, vào thắng lợi của công cuộc đổi mới; vào sức mạnh chiến đấu và chiến thắng của quân đội trong tình hình mới. Quan tâm lãnh đạo tốt việc xây dựng mối đoàn kết, gắn bó cán bộ, chiến sĩ giữa các vùng miền, giữa người kinh với người dân tộc thiểu số; chăm lo bồi dưỡng nâng cao chất lượng huấn luyện đối với bộ đội là con em dân tộc ít người, vùng sâu, vùng sa; thực hiện tốt chức năng đội quân công tác, làm tốt công tác dân vận góp phần xây dựng khối đại đoàn kết các dân tộc Việt Nam, xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc; kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch gây chia rẽ giữa các dân tộc anh em, góp phần nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của quân đội, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được...
Ảnh: Tháng 2/1946, Người nói chuyện với hơn 10 vạn nhân dân thủ đô Hà Nội sau cuộc tổng tuyển cử bầu ra Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.
Môi trường ST.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên và sự vận dụng trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay

Nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên là một trong những nhiệm vụ chính yếu, quyết định nhiều vấn đề cốt lõi đối với công tác xây dựng Đảng. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng là kim chỉ nam cho đội ngũ lãnh đạo, đảng viên hướng tới, học tập, làm theo, để tự rèn luyện, trau dồi, tu dưỡng ngày càng trong sạch, tiến bộ, góp phần để “Đảng ta là đạo đức, là văn minh”.

Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước Tô Lâm nói chuyện với nhân dân tại Khu di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Phủ Chủ tịch_Ảnh: TTXVN

Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên

Từ việc phân tích sâu sắc khía cạnh đạo đức của một tổ chức, hệ thống chính trị Xô-viết và của một người cộng sản chân chính đứng đầu tổ chức đó là lãnh tụ vĩ đại V.I. Lê-nin, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Không phải chỉ thiên tài của Người, mà chính là tính coi khinh sự xa hoa, tinh thần yêu lao động, đời tư trong sáng, nếp sống giản dị, tóm lại là đạo đức vĩ đại và cao đẹp của người thầy, đã ảnh hưởng lớn lao tới các dân tộc châu Á và đã khiến cho trái tim của họ hướng về Người, không gì ngăn cản nổi”. Người coi V.I. Lê-nin là Người thầy dạy vĩ đại của cách mệnh vô sản. Cũng là một vị đạo đức rất cao, dạy chúng ta phải thực hiện cần, kiệm, liêm, chính. Tinh thần Lênin muôn đời bất diệt.

Trên cơ sở kế thừa quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và truyền thống đạo đức của dân tộc Việt Nam được hun đúc, vun đắp từ hàng nghìn năm lịch sử, đồng thời có sự tiếp thu tinh hoa nhân loại, Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định và gương mẫu thực hiện những nguyên tắc xây dựng Đảng về đạo đức cách mạng. Người chỉ rõ, đạo đức cách mạng là cái gốc sự phát triển của cách mạng, bởi vậy trong tư duy và hành động, Người luôn kết hợp một cách nhuần nhuyễn giữa “pháp trị” và “đức trị”, trong đó đặc biệt đề cao hai phương diện chính: Đạo đức của mỗi cán bộ, đảng viên và đạo đức của tổ chức đảng.

Về đạo đức cách mạng của đội ngũ cán bộ, đảng viên.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, xây dựng Đảng về đạo đức phải được bắt đầu từ công cuộc đấu tranh chống biểu hiện suy thoái về tư tưởng, đạo đức của từng cán bộ, đảng viên; coi trọng đúng mức công tác giáo dục, bồi dưỡng về đạo đức cách mạng đối với người lãnh đạo. Người cho rằng, đạo đức người cách mạng giống như gốc rễ của cây, như nguồn của sông suối, khi “sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”. Người cũng nhiều lần khẳng định, đạo đức cách mạng là yếu tố không thể thiếu đối với người làm cách mạng; “Làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ... Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”. Do vậy, Người coi nhiệm vụ xây dựng Đảng về đạo đức nói chung, bồi dưỡng, giáo dục đạo đức cho cán bộ, đảng viên nói riêng là động lực cốt lõi làm nên những thành công của con đường cách mạng đầy gian nan.

Cho đến những năm cuối cuộc đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn miệt mài viết tác phẩm “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân” để căn dặn, giáo dục cán bộ, đảng viên toàn hệ thống chính trị. Trong Di chúc, Người chỉ rõ: “Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”. Theo người, “đạo đức cách mạng là: Quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng. Đó là điều chủ chốt nhất”. Bên cạnh đó, Người cũng thường xuyên nhấn mạnh những chuẩn mực cơ bản của đạo đức cách mạng, như trung với nước, hiếu với dân; yêu thương con người, sống có tình nghĩa; cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; tinh thần quốc tế trong sáng, tiến bộ,... Cụ thể:

Trung với nước, hiếu với dân được xem là phẩm chất bao trùm, quan trọng nhất, giữ vai trò chi phối các phẩm chất khác, thể hiện bản lĩnh, tinh thần cống hiến của người cách mạng luôn sẵn sàng vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, thậm chí là hi sinh để hoàn thành nhiệm vụ vì dân, vì nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khéo léo sử dụng khái niệm “trung” và “hiếu” trong quan niệm đạo đức truyền thống “Trung với vua, hiếu với cha mẹ” và mở rộng nội hàm, cách hiểu sang nội dung mới, rộng lớn hơn, đó là “Trung với nước, hiếu với dân” nhằm tạo nên sự chuyển biến trong nhân sinh quan nói chung và các quan điểm về đạo đức cách mạng nói riêng. Trong đó, “Trung với nước” là trung thành với sự nghiệp dựng nước và giữ nước, với con đường đi lên của đất nước, suốt đời phấn đấu cho Đảng, cho cách mạng; “Hiếu với dân” là gần dân, lấy dân làm gốc, gắn bó với dân, “hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân”. Đặc biệt, Người khẳng định “Trung với nước” phải gắn liền “Hiếu với dân” bởi nước là “nước của dân”, người dân là chủ thể nắm quyền lực nhà nước; mọi lực lượng đều ở dân, còn cán bộ, đảng viên là đầy tớ của nhân dân chứ không phải là “quan
cách mạng”.

Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư cũng là các khái niệm đạo đức truyền thống được Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp thu, chọn lọc và vận dụng linh hoạt để phù hợp với yêu cầu, nội dung mới của đạo đức cách mạng. Người chỉ rõ: “Ngày nay ta đề ra cần, kiệm, liêm, chính cho cán bộ thực hiện làm gương cho nhân dân theo để lợi cho nước cho dân”. Người cũng cho rằng đây chính là một biểu hiện sinh động của phẩm chất “Trung với nước, hiếu với dân” và chỉ ra mối quan hệ khăng khít giữa chúng. Theo đó, “cần” và “kiệm” phải luôn đi đôi với nhau như hai chân của con người, “CẦN mà không KIỆM, “thì làm chừng nào xào chừng ấy”... KIỆM mà không CẦN, thì không tăng thêm, không phát triển được”. Chữ “liêm” phải đi đôi với chữ “kiệm”, cũng như chữ “kiệm” phải đi đôi với chữ “cần”, cụ thể, “Có KIỆM mới LIÊM được. Vì xa xỉ mà sinh tham lam”(10); hay “CẦN, KIỆM, LIÊM, là gốc rễ của CHÍNH. Nhưng một cây cần có gốc rễ, lại cần có nhành, lá, hoa, quả mới là hoàn toàn”. Mặt khác, “cần, kiệm, liêm, chính” nhất định sẽ đi đến chí công vô tư và ngược lại.

Yêu thương, quý trọng con người cũng là một phẩm chất quan trọng trong đạo đức cách mạng và luôn được Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt chú ý, bởi đây là đức tính nền tảng để hình thành, nung nấu ý chí quyết tâm làm cách mạng nhằm giải phóng dân tộc, giai cấp, giải phóng con người. Người xác định rõ, làm việc “chính” là người “thiện”, làm việc “tà” là người “ác”, đó là hai hạng người và loại việc cơ bản trong cuộc sống; những người bị áp bức, bóc lột, sẵn sàng làm điều thiện thì dù màu da, tiếng nói, chủng tộc, tôn giáo khác nhau thì vẫn có thể thực hành chữ “bác ái”, coi nhau như anh em một nhà trong một “thế giới đại đồng”. Người khuyên mọi người lấy thẳng thắn, chân thành để đối xử, lấy tin yêu, giúp đỡ để cảm hóa lẫn nhau; trân trọng, phát huy yếu tố tích cực trong mỗi người để hạn chế, đẩy lùi yếu tố tiêu cực, giúp tất cả cá nhân đều tiến bộ, trưởng thành, đóng góp vào sự nghiệp cách mạng chung của Đảng và nhân dân, bởi “Đạo đức cách mạng là hòa mình với quần chúng thành một khối, tin quần chúng, hiểu quần chúng, lắng nghe ý kiến của quần chúng”.

Đặc biệt, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh “Đạo đức cách mạng là tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân”, điều này có nghĩa “vô luận trong hoàn cảnh nào, cũng phải quyết tâm đấu tranh, chống mọi kẻ địch, luôn luôn cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu, quyết không chịu khuất phục, không chịu cúi đầu”, phải biết “đặt lợi ích của Đảng lên trên hết”Theo Người, để xây dựng Đảng về đạo đức, trước hết phải quét sạch chủ nghĩa cá nhân, bởi chủ nghĩa cá nhân “như cỏ dại, sinh sôi, nảy nở rất dễ” và “là một kẻ địch hung ác của chủ nghĩa xã hội. Người cách mạng phải tiêu diệt nó”. Mục tiêu của việc giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng trong cán bộ, đảng viên là nhằm xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa, tức là dần quét sạch chủ nghĩa cá nhân.

Về đạo đức cách mạng của tổ chức đảng.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, để có một đảng chân chính, vững mạnh, cần xác định rõ mục đích tối thượng của Đảng chính là phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, vì lợi ích của nhân dân mà chiến đấu và Đảng không có lợi ích riêng nào hết. Đây cũng là lý tưởng đạo đức cao đẹp của Đảng, của toàn thể cán bộ, đảng viên. Cùng với đó, Người chỉ rõ, đạo đức chính là ở chỗ làm cho lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin thấm sâu vào tư tưởng và hành động của từng cán bộ, đảng viên trong toàn Đảng, “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam”, có ý chí, khát vọng, quyết tâm đêm ngày đều “nghĩ đến sự nghiệp cách mạng và cứu độ nhân loại”. Theo đó, trong đời hoạt động cách mạng, Người luôn chú trọng củng cố nền tảng tư tưởng của Đảng; khuyến khích đội ngũ cán bộ, đảng viên phải ra sức học tập chủ nghĩa Mác - Lê-nin, nhất là trong những điều kiện, hoàn cảnh mà nhiều cán bộ, đảng viên có trình độ lý luận chính trị rất thấp. Người khẳng định, “có thể tránh được biết bao bế tắc, sai lầm và biết bao thất bại đau đớn, nếu chúng ta có thể cung cấp cho các đồng chí ấy những kiến thức tối cần thiết về lý luận soi đường, tạo điều kiện dễ dàng cho các đồng chí ấy tiến hành công tác” và thường xuyên căn dặn đội ngũ cán bộ, đảng viên phải tích cực vận dụng và phát triển lý luận Mác - Lê-nin một cách sáng tạo, luôn bổ sung, làm giàu lý luận bằng những kiến thức thực tiễn mới, tránh giáo điều, kinh viện.

Xuất phát từ tình hình thực tế trong Đảng cũng như bối cảnh lịch sử đất nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh phân tích: “Đảng ta không phải từ trên trời sa xuống. Nó ở trong xã hội mà ra”; Người lý giải: “Đảng ta là một Đảng rất to lớn, bao gồm đủ các tầng lớp trong xã hội. Vì vậy, có nhiều tính cách rất trung thành, rất kiên quyết, rất vĩ đại. Song cũng không tránh khỏi những tập tục, những tính nết, những khuyết điểm của xã hội bên ngoài, nó lây, ngấm vào trong Đảng”. Theo đó, Người cảnh báo: “Có những người trong lúc tranh đấu thì hăng hái, trung thành, không sợ nguy hiểm, không sợ cực khổ, không sợ quân địch, nghĩa là có công với cách mạng. Song đến khi có ít nhiều quyền hạn trong tay thì đâm ra kiêu ngạo, xa xỉ, phạm vào tham ô, lãng phí, quan liêu, không tự giác, mà biến thành người có tội với cách mạngTừ rất sớm, Người đã chỉ ra những nguy cơ suy thoái về đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên, đặc biệt là những người có chức vị cao: “Trước nhất là cán bộ các cơ quan, các đoàn thể, cấp cao thì quyền to, cấp thấp thì quyền nhỏ. Dù to hay nhỏ, có quyền mà thiếu lương tâm là có dịp đục khoét, có dịp ăn của đút, có dịp “dĩ công vi tư””. Do đó, nếu không giữ được đạo đức cách mạng thì đội ngũ cán bộ, đảng viên sẽ dễ bị tha hóa, tự đánh mất mình, sa vào suy thoái, ảnh hưởng trực tiếp đến uy tín của Đảng, làm suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng.

Cùng với đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Để làm cho tất cả cán bộ, đảng viên xứng đáng là những chiến sỹ cách mạng, Đảng ta phải ra sức tăng cường giáo dục toàn Đảng về lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, về đường lối, chính sách của Đảng, về nhiệm vụ và đạo đức của người đảng viên. Phải thực hành phê bình và tự phê bình nghiêm chỉnh trong Đảng. Phải hoan nghênh và khuyến khích quần chúng thật thà phê bình cán bộ, đảng viên... Phải kiên quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng, bồi dưỡng tư tưởng tập thể, tinh thần đoàn kết, tính tổ chức và kỷ luật”. Khẳng định vai trò tiên quyết của việc nêu gương, Người cho rằng lãnh đạo, người đứng đầu phải thật sự gương mẫu, làm gương: “Lấy gương người tốt, việc tốt để hàng ngày giáo dục lẫn nhau là một trong những cách tốt nhất để xây dựng Đảng, xây dựng các tổ chức cách mạng, xây dựng con người mới, cuộc sống mới”.

Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Quảng Ninh trò chuyện với công dân tại buổi tiếp công dân thường kỳ_Nguồn: baoquangninh.vn 

Thực tiễn xây dựng Đảng về đạo đức ở nước ta hiện nay

Xây dựng Đảng về đạo đức là vấn đề mang tính chiến lược, lâu dài, thuộc về chế định nội tại trong sự phát triển của Đảng; là nhiệm vụ cần có, phải có để Đảng luôn là Đảng của đạo đức, văn minh, xứng đáng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam. Nhận thức rõ điều đó, đồng thời dựa trên hệ thống quan điểm, chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta không ngừng nâng cao chất lượng, đổi mới phương pháp xây dựng Đảng về đạo đức cách mạng. Đại hội XIII của Đảng xác định: “Trong những năm tới phải đặc biệt coi trọng và đẩy mạnh hơn nữa xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ”, theo đó Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách khoa học, thiết thực nhằm nâng cao phẩm chất đạo đức trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới, củng cố vững chắc niềm tin của nhân dân vào uy tín, năng lực, phẩm chất của Đảng  và hệ thống chính trị.

Nhìn chung, thời gian qua, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được đặc biệt quan tâm về mọi mặt, đạt được những thành tựu có ý nghĩa lớn. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, kết quả xây dựng nền văn hóa, trong đó có đạo đức chưa thực sự được như mong muốn. Mặt khác, một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên đã và đang bị cuốn vào vòng xoáy danh lợi, bị dục vọng chi phối, có dấu hiệu suy thoái về đạo đức, lối sống,...; xuất hiện tình trạng tham nhũng, kèn cựa địa vị, tranh chức, quyền, dùng mọi thủ đoạn để tìm kiếm các mối quan hệ, liên kết “lợi ích nhóm”; dùng tiền bạc do tham nhũng để mua chức, mua danh mà bất chấp cả liêm sỉ, danh dự,...

Trong bối cảnh đó, công tác xây dựng Đảng về đạo đức trở nên khó khăn hơn bao giờ hết. Trách nhiệm làm cho “môi trường đạo đức” của Đảng ngày càng trong sạch không phải của riêng ai, nhưng trước hết và cơ bản nhất là của từng tổ chức đảng, từng cán bộ, đảng viên; phải kiên quyết ngăn chặn những hậu quả nặng nề, có thể làm tổn thương đến uy tín, thanh danh của Đảng. Trước tình hình đó, nhân dân luôn có mong ước, ý nguyện cũng như nghiêm khắc yêu cầu Đảng ta phải thực sự trong sạch, vững mạnh được thể hiện từ yếu tố cơ bản nhất, đó là nền tảng đạo đức thông qua những hành động thực tiễn, việc làm, ứng xử thiết thực.

Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay

Thứ nhất, kiên quyết thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trong nhiệm vụ xây dựng nền đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân. Mặt khác, phải làm cho yếu tố đạo đức thẩm thấu vào trong đường lối, định hướng chính trị của Đảng; Đảng phải luôn giữ vững mục tiêu cách mạng trong đường lối chính trị của mình, chiến đấu vì lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc. Theo đó, đường lối chính trị đúng đắn phải được xuất phát, đúc kết từ thực tiễn mà ra và hàm chứa trong đó cả những giá trị phổ quát, ưu việt của nhân loại. Muốn vậy, trước hết phải tuân thủ và thực hành nghiêm các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt của Đảng, đặc biệt là nguyên tắc tập trung dân chủ - nguyên tắc tổ chức cơ bản trong xây dựng một Đảng của đạo đức và văn minh.

Thứ hai, nền đạo đức cách mạng phải được hòa quyện bền chặt trong mối quan hệ mật thiết giữa Đảng và nhân dân. Theo đó, một Đảng chân chính, đạo đức và có đủ tư cách để lãnh đạo, dẫn dắt nhân dân thì tiêu chí hàng đầu là thường xuyên chăm lo, củng cố quan hệ mật thiết giữa Đảng và nhân dân. Để làm được điều này, cần nỗ lực huy động, phát huy vai trò và “nuôi dưỡng” sức mạnh vĩ đại của các tầng lớp nhân dân. Trong mọi trường hợp, hoàn cảnh, cán bộ, đảng viên phải luôn trăn trở, suy nghĩ, suy xét thấu đáo, luôn đặt lợi ích của nhân dân lên trên, lên trước.

Thứ ba, kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong Đảng; luôn kiên định con đường xã hội chủ nghĩa, có niềm tin vào cương lĩnh, đường lối, nghị quyết của Đảng; tránh hiện tượng phai nhạt lý tưởng cách mạng, sa sút ý chí chiến đấu, thấy sai không phê phán, thấy đúng không bảo vệ, thậm chí còn cổ xúy, phụ họa cho quan điểm và việc làm sai trái, lệch lạc với chủ trương, đường lối của Đảng; đặc biệt, cần nghiêm túc, tích cực đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng gắn với đẩy mạnh công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, nhất là những mô hình mới, kinh nghiệm hay. Bên cạnh đó, không ngừng đấu tranh với những biểu hiện vi phạm đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, những biểu hiện tham nhũng, lãng phí, quan liêu, không trung với nước, không hiếu với dân, không thực hiện cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư,...; sống cơ hội, bè phái, vụ lợi, hám danh, vô cảm, chỉ thích xa hoa, hưởng lạc, không gương mẫu nêu gương,...

Thứ tư, kiên trì bồi dưỡng đạo đức cách mạng với lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, xây dựng chuẩn mực đạo đức cho cán bộ, đảng viên, đặc biệt là nâng cao trách nhiệm trong thực thi công vụ, hướng tới nhân dân và vì nhân dân trên tinh thần “việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh”. Tăng cường tuyên truyền, quán triệt thực hiện hiệu quả Kết luận số 01-KL/TW, ngày 18-5-2021, của Bộ Chính trị, “Về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị “Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh””, từ đó tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, trách nhiệm của cấp ủy, cán bộ, đảng viên về sự cần thiết và yêu cầu nâng cao chất lượng, sinh hoạt Đảng; đồng thời, quan tâm công tác kiểm tra, giám sát trong chấp hành Điều lệ, chỉ thị, nghị quyết,... của Đảng. Mặt khác, bên cạnh việc giáo dục, rèn luyện, cần có cơ chế đủ mạnh, kịp thời để xử lý kỷ luật, thậm chí có thể đưa ra khỏi Đảng những người có dấu hiệu vi phạm nghiêm trọng, trong đó cần bám sát tinh thần Kết luận số 21-KL/TW, ngày 25-10-2021, của Ban Chấp hành Trung ương, “Về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa””.

Thứ năm, mỗi cán bộ, đảng viên phải không ngừng tự rèn luyện, gương mẫu trong sinh hoạt và công tác, luôn có ý thức không ngừng nâng cao bản lĩnh, trí tuệ, dám nghĩ, dám làm, dám nói, chấp hành nghiêm chỉnh chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; kiên quyết khắc phục những biểu hiện suy thoái đạo đức, tiêu cực trong xã hội; thực hiện nghiêm túc Quy định số 37-QĐ/TW, ngày 25-10-2021, của Ban Chấp hành Trung ương, “Về những điều đảng viên không được làm”. Mặt khác, cần tuyển chọn, chọn lọc kỹ càng khi phân công, bổ nhiệm cán bộ, công chức, bảo đảm phẩm chất đạo đức của cán bộ, công chức từ cấp thấp đến cấp cao. Ở góc độ lớn hơn, cần nghiên cứu, bổ sung, nâng cao chất lượng, hiệu quả trong các chương trình, môn học ở hệ thống giáo dục phổ thông, đại học, nhằm thiết lập nền tảng đạo đức vững chắc cho thế hệ trẻ, những người chủ tương lai của đất nước./.

ST.

Chặt đứt "nọc độc" căn bệnh trầm kha

Bệnh “nhận vơ” thành tích, đùn đẩy, lo sợ trách nhiệm như virus độc hại, gặm nhấm, để lại trăm thứ hệ lụy dai dẳng.

Cán bộ, đảng viên mắc bệnh này sẽ đánh mất vai trò tiên phong, vì làm việc gì cũng mưu cầu vụ lợi, mánh khóe, nơm nớp lo âu bị phanh phui. Đây là mối nguy trong Đảng cần phải triệt hạ tận gốc bằng những giải pháp mạnh mẽ, trong đó chú trọng xây dựng nền đạo đức chính trị, liêm chính, công minh.

Trăm thứ hệ lụy dai dẳng

Bệnh “nhận vơ” thành tích, đùn đẩy, lo sợ trách nhiệm đẻ ra trăm thứ tác hại trong đời sống cán bộ, đảng viên hiện nay, song hệ lụy trước tiên đó là làm băng hoại đạo đức, biến con người thành cá nhân chủ nghĩa, gây mất đoàn kết nội bộ. Không phải ngẫu nhiên mà nhiều lần người đứng đầu Đảng ta đã nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải giữ gìn phẩm chất trong sáng.

Sự hoài nghi, đố kỵ, ghen ghét, sợ người khác, tổ chức khác hơn mình nên lúc nào cũng tìm mọi cách để “đứng trên đầu, trên cổ” người ta, bằng các thủ đoạn chạy chọt, vơ vét thành tích, đùn đẩy trách nhiệm cho người khác... Nhưng tiếc thay, thành tích mà họ có được là thành tích ảo, sức mạnh giả tạo. Đây chính là căn nguyên làm mất sự dân chủ, đoàn kết nội bộ, gây mất niềm tin trong cán bộ đảng viên, quần chúng nhân dân.

“Nhận vơ” thành tích, đùn đẩy trách nhiệm - căn bệnh trầm kha, mối nguy cho Đảng - Bài 2: Chặt đứt "nọc độc" căn bệnh trầm kha (Tiếp theo và hết)
 Tranh của MẠNH TIẾN

Ở góc độ kinh tế-xã hội, bệnh “nhận vơ” thành tích, đùn đẩy, lo sợ trách nhiệm cũng chính là hành vi tham nhũng, gây thiệt hại về vật chất cho Đảng, Nhà nước, kìm hãm sự phát triển nói chung. Bởi thông thường những cán bộ, đảng viên mắc phải căn bệnh này thì lòng tham không đáy. Một khi họ đã tranh được công, đổ được tội, thu lợi bất chính thì sẽ tiếp tục có những hành động tham ô khác, không từ một thứ gì miễn là vun vén lợi lộc cho mình. Các chuyên gia cũng nhận định, căn bệnh vơ thành tích, đùn đẩy trách nhiệm này cũng sẽ gián tiếp tác động đến việc ban hành chính sách. Hay nói cách khác để có lợi cho bản thân, họ sẽ “chạy” các chính sách theo hướng mang lợi cho họ, không nghĩ đến tập thể.

Trong bối cảnh hiện nay, tình trạng đùn đẩy, sợ trách nhiệm diễn ra khá phổ biến, có tác động trực tiếp tới sự phát triển của các lĩnh vực, ngành và sự vững mạnh của các tổ chức. Căn bệnh lo sợ trách nhiệm khiến cán bộ, đảng viên không dám làm, triệt tiêu sự sáng tạo, đổi mới; làm cho nhiều công việc trở nên trì trệ, ách tắc, không khai thông được nguồn lực, kìm hãm sự phát triển.

Tại Kỳ họp Quốc hội lần thứ bảy, khóa XV mới đây, lý giải nguyên nhân vì sao đầu tư công sau 4 tháng đầu năm 2024 chỉ đạt 17,46% kế hoạch, trong đó hơn 310 dự án có tỷ lệ giải ngân 0%; 28 địa phương giải ngân dưới mức trung bình của cả nước? Nhiều đại biểu Quốc hội cho rằng một phần là do tâm lý sợ sai, sợ trách nhiệm còn khá nặng nề. Hệ quả là làm chậm quá trình phát triển của tổ chức, sự tiến bộ của cá nhân, nghiêm trọng hơn làm giảm sút niềm tin trong quần chúng với Đảng, Nhà nước, chế độ.

Đấu tranh ngăn chặn căn bệnh “nhận vơ” thành tích, đùn đẩy, lo sợ trách nhiệm là nhiệm vụ cấp bách của Đảng ta hiện nay. Bởi như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn “Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng”. Một trong những điểm mới nổi bật ở Kết luận số 21-KL/TW của Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII đó là đã đề ra mục tiêu trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng: Kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá"...

Theo số liệu của Ban Nội chính Trung ương, trong năm 2023, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã thi hành kỷ luật 19 cán bộ diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý; thi hành kỷ luật 105 cán bộ diện Trung ương quản lý, trong đó 22 ủy viên, nguyên ủy viên Trung ương Đảng, tính từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII đến tháng 2-2024. Trong số đó, không ít cán bộ, đảng viên từng là những tấm gương với nhiều thành tích.

Liều kháng sinh điều trị căn bệnh nguy hại

Đấu tranh với căn bệnh “nhận vơ” thành tích, đùn đẩy, lo sợ trách nhiệm là nhiệm vụ cấp bách nhưng không phải ngày một, ngày hai. Bởi đây là cuộc chiến mà "địch" ở phía bên trong ta, không có giới tuyến rõ ràng, phức tạp vì khó nhận định tội; cần phải kiên trì, kiên quyết, lâu dài, vừa xây, vừa chống. Và đặc biệt là cần sự vào cuộc đồng bộ của cả hệ thống chính trị, từ thay đổi nhận thức chính trị đến hành động.

Trước hết, các tổ chức đảng cần tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên về những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, nhất là biểu hiện tranh thành tích, đùn đẩy trách nhiệm. Thực tế, rất nhiều cán bộ, đảng viên vẫn nhận thức mơ hồ, cho rằng “vơ thành tích”, “đùn đẩy trách nhiệm” là làm lợi cho tập thể mình.

Đó là cách lý giải ngụy biện bởi thành tích ảo để lại trăm hệ lụy, về lâu dài làm suy yếu sức mạnh của Đảng. Do vậy, các tổ chức đảng cần thường xuyên đa dạng hóa hình thức tuyên truyền, nhất là thông qua hội họp, sinh hoạt hoặc lồng ghép vào các hoạt động phong trào, giúp cán bộ, đảng viên nâng cao nhận thức về những chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn mới theo Quy định số 144-QĐ/TW ngày 9-5-2024 của Bộ Chính trị về chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn mới.

Song cùng với đó, để tránh việc đùn đẩy trách nhiệm, mỗi cán bộ, đảng viên không ngừng phát huy trách nhiệm của bản thân trong tự phê bình và phê bình, giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt đảng. Một mặt cán bộ, đảng viên tự soi, tự sửa; phát huy những điểm mạnh, tự sửa những khuyết điểm, hạn chế; mặt khác đóng góp cho đồng đội trên tinh thần xây dựng, phê bình việc chứ không phê bình người; cùng nhau học tập, nâng cao chất lượng công tác, tiến bộ. Đây cũng là giải pháp nâng cao sức chiến đấu của tổ chức đảng trước những thói hư, tật xấu.

Để chữa bệnh lo sợ trách nhiệm đòi hỏi phải có cơ chế chính sách khuyến khích, đãi ngộ cán bộ, đảng viên trong thực thi nhiệm vụ. Bộ Chính trị ban hành Kết luận số 14-KL/TW ngày 22-9-2021 về chủ trương khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung với những tư duy mới. Trong đó có một điểm rất đáng chú ý đó là đề cao cán bộ: Dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm.

Trên tinh thần này, mỗi cán bộ, đảng viên nêu cao tinh thần 4 “dám”, đặc biệt là dám chịu trách nhiệm. Mặt khác cấp ủy, tổ chức đảng cần có đánh giá khách quan về cán bộ 4 dám, vì thực tế cán bộ xông xáo, dám nghĩ dám làm thì dễ sai, thậm chí nhiều lần sai, do vậy cần phải công tâm khách quan, vừa giúp cán bộ, đảng viên nhận ra khuyết điểm, lại vừa giúp họ sửa sai, đột phá, sáng tạo vì tập thể; đồng thời có các chính sách đãi ngộ để họ phát huy sáng tạo, đổi mới.

Các tổ chức đảng cần tăng cường hơn nữa công tác kiểm tra, giám sát cán bộ, đảng viên. Thời gian qua, không ít cán bộ sai phạm nhưng ngay trong tập thể không phát hiện ra; thậm chí che giấu, sợ liên lụy mất thành tích, rồi “mũ ni che tai”, “ngậm bồ hòn làm ngọt”. Điều này cho thấy công tác kiểm tra, giám sát của tổ chức đảng chưa làm tròn trách nhiệm.

Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” viết năm 1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng răn dạy: “Kiểm soát khéo, bao nhiêu khuyết điểm lòi ra hết, hơn nữa kiểm tra khéo về sau khuyết điểm nhất định bớt đi”. Trên tinh thần ấy, mỗi tổ chức đảng cần nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, kiên quyết loại trừ ra khỏi đảng những cán bộ, đảng viên tranh công, đổ lỗi; động cơ không trong sáng, gian dối, để giữ gìn sự trong sạch của tổ chức đảng. Đồng thời, phát huy  vai trò của quần chúng nhân dân trong giám sát, kiểm tra cán bộ, đảng viên. 

Để xảy ra căn bệnh “nhận vơ” thành tích, đùn đẩy, lo sợ trách nhiệm cũng phải nhìn nhận thẳng vấn đề đó là công tác thi đua, khen thưởng thời gian qua chưa thực sự hữu hiệu. Bằng chứng là nhiều nơi, khen thưởng chưa kịp thời, chưa đúng người, cào bằng, thậm chí thiếu chính xác, dẫn đến chưa tạo động lực phấn đấu. Giải quyết vấn đề này, vừa qua Luật Thi đua, khen thưởng (sửa đổi) đã có hiệu lực thi hành từ ngày 1-1-2024 với nhiều điểm mới, đột phá.

Theo đó, việc khen thưởng cần bảo đảm tính toàn diện, hợp lý; đúng nguyên tắc, quy trình; hướng về cơ sở, người trực tiếp lao động; trên quan điểm thành tích đến đâu khen thưởng đến đó, khen thưởng phải kịp thời từ những việc làm tốt, hành động ý nghĩa; tạo động lực cho cán bộ, đảng viên có niềm tin, động lực thi đua mới bằng khả năng của mình.

Trị bệnh chủ nghĩa cá nhân nói chung, bệnh “nhận vơ” thành tích, đùn đẩy, lo sợ trách nhiệm nói riêng là nhiệm vụ lâu dài của Đảng ta. Trước thềm Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng, công việc này càng quan trọng, cấp thiết, đòi hỏi sự kiên trì, kiên quyết của cả hệ thống chính trị, có như vậy mới đạt được như kỳ vọng của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: “Mỗi cá nhân cũng trở nên tốt hơn, phát huy được nhiều hơn phẩm chất và năng lực của mình”./.

ST.

Nhận diện những dạng thức mới của căn bệnh trầm kha

“Nhận vơ” thành tích nhưng khi tập thể, cá nhân có khuyết điểm thì lại đùn đẩy, lo sợ trách nhiệm. Đây là căn bệnh nguy hại bởi nó là giặc “nội xâm”, một loại “giặc từ bên trong”, gây chia rẽ đoàn kết, kìm hãm sự phát triển, làm giảm sút sức sống, uy tín, ngăn cản bước tiến sự nghiệp cách mạng của Đảng ta. Nguy hại là căn bệnh này đang lây lan trong phong cách làm việc của một bộ phận cán bộ, đảng viên. Trị bệnh “nhận vơ” thành tích, đùn đẩy, lo sợ trách nhiệm vừa là công việc cấp bách, vừa là nhiệm vụ lâu dài của Đảng hiện nay.

Mặc dù chẳng có đóng góp hoặc không đáng kể nhưng vẫn “nhận vơ” thành tích về mình, thậm chí phô trương thành tích để làm đẹp báo cáo, đánh bóng tổ chức và bản thân; nhưng hễ có sai lầm, khuyết điểm gì thì lại lo sợ trách nhiệm và tìm mọi cách để chối bay, chối biến, đùn đẩy, không dám nhận. Đó là biểu hiện của sự sa sút về tư tưởng, phẩm chất đạo đức, lối sống; một biểu hiện cụ thể, rất đáng báo động của chủ nghĩa cá nhân. Để điều trị căn bệnh này, cần thiết phải mổ xẻ mầm mống, “nội soi” nguyên nhân gây ra.

Biểu hiện lo ngại của chủ nghĩa cá nhân

Khi muốn ám chỉ, phê phán những kẻ có lối sống thực dụng, khôn lỏi, thành tích thì vơ hết về mình, khó khăn, hiểm nguy lại đùn đẩy cho người khác, người xưa thường có câu: “Ăn cỗ đi trước, lội nước theo sau”. Lời nhắc nhở ấy cho đến nay vẫn nguyên giá trị; bởi hành vi này đang ngấm ngầm diễn ra trong hoạt động công quyền ở các cơ quan Nhà nước.

Theo Từ điển tiếng Việt: “Nhận vơ” là nhận về mình cái biết rõ là không phải của mình. Đây là hành vi ngang ngược mà biểu hiện thấy rõ nhất là khi cấp trên đề nghị báo cáo thành tích để khen thưởng thì các tổ chức, cơ quan đồng loạt báo cáo rất kêu. Ngoài việc “tô hồng” thành tích thì có cả những phần việc biết đơn vị, cá nhân mình không tham gia nhưng vẫn khai man, “dây máu ăn phần”. Người mắc bệnh này thường có tâm lý hoang mang, lo sợ, hoài nghi, thiếu niềm tin và mang tư tưởng ghen ghét, đố kỵ. Nhiều tổ chức, cá nhân soạn xong báo cáo thì gửi cấp trên, còn nội bộ thì giấu tiệt đi, không cho ai biết vì sợ bị lộ. Thế nhưng “cái kim trong bọc lâu ngày cũng lòi ra”. Chuyện thật như bịa ấy đã xảy ra ở tỉnh Vĩnh Long cách đây chưa lâu. Chuyện là, khi được cấp trên đề nghị báo cáo tiến độ Dự án xây dựng nhà ở xã hội Khu công nghiệp Hòa Phú, lãnh đạo huyện Long Hồ đã vô tư khai man hoàn thành tiến độ để được biểu dương. Chỉ đến khi bị đoàn thanh tra của Chính phủ về làm việc thì mới lòi “cái đuôi chuột” ra.

 
“Nhận vơ” thành tích, đùn đẩy trách nhiệm - căn bệnh trầm kha, mối nguy cho Đảng-Bài 1: Nhận diện những dạng thức mới của căn bệnh trầm kha
Tranh: Mạnh Tiến 

 Lại có một chuyện cười ra nước mắt, vào dịp kỷ niệm 76 năm Ngày Thương binh-Liệt sĩ (27-7), một đơn vị nọ ở địa phương được giao nhiệm vụ đón và phục vụ các đoàn thiện nguyện từ các nơi về thăm hỏi, tặng quà gia đình chính sách. Cuối năm làm báo cáo, đơn vị ấy đã “mạnh dạn” tự cộng thêm các phần quà của các tổ chức khác đến thăm, tặng vào thành tích của đơn vị mình. Với thành tích cao "ngất ngưởng" và được cấp trên khen thưởng, biểu dương... Hoặc hiện tượng khá phổ biến trong thực tế khi đánh giá về kết quả của một việc cụ thể, ví như thành tích trong công tác tuyên truyền, các hoạt động phong trào, xây dựng mô hình điển hình... Tổ chức đảng, đoàn thanh niên, hội phụ nữ, công đoàn cũng đều nhận về mình. Tổ chức nào cũng “vơ vào” số liệu, cách làm, hiệu quả... giống và “hay” như nhau.

Thành tích thì vơ về mình nhưng hễ liên quan đến trách nhiệm thì tìm cách đùn đẩy. Biểu hiện đó là: Nhiều tổ chức và cá nhân khi bị nhắc nhở, phê bình thì tìm mọi cách để đổ lỗi, tìm một lý do nào đó để chèo lái sự việc sang hướng khác, hòng tìm đường thoát cho mình. Thường thì cấp trên đổ lỗi cho cấp dưới; cấp dưới lại đổ lỗi cho cấp dưới nữa; hoặc vin vào lý do cơ chế, do điều kiện, hoàn cảnh... Sau khi đùn đẩy là lo sợ trách nhiệm. Biểu hiện mắc bệnh này là thường xuyên sợ bị liên lụy, sợ bị quy trách nhiệm, sợ bị ảnh hưởng lợi ích cá nhân, nên làm gì cũng tính toán, so đo, lo sợ, không quyết đoán, thu mình trong “chiếc kén”. Thậm chí cấp trên giao nhiệm vụ nhưng tìm mọi cách để né tránh, không làm, hoặc kiểu làm đối phó, không tận tâm, tận lực để tránh vạ trách nhiệm. Đây cũng là căn bệnh mà cách đây 50 năm, trong bài viết "Bệnh sợ trách nhiệm” của đồng chí Nguyễn Phú Trọng đăng trên Tạp chí Cộng sản chỉ rõ: “Làm việc cầm chừng cho đủ bổn phận, cốt sao không phạm khuyết điểm. Rụt rè, do dự khi giải quyết công việc, không phát biểu rõ ràng, dứt khoát ý kiến của mình, không dám quyết đoán những việc thuộc phạm vi trách nhiệm và quyền hạn được giao. Lấy lý do làm việc tập thể, tôn trọng tập thể để dựa dẫm vào tập thể, việc lớn việc nhỏ gì cũng đưa ra tập thể bàn, chờ ý kiến tập thể cho đỡ phiền...”.

“Nhận vơ” thành tích, đùn đẩy, lo sợ trách nhiệm là những biểu hiện tiêu cực trong hoạt động, thực thi nhiệm vụ của tổ chức, một bộ phận cán bộ, đảng viên hiện nay. Nó có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, là biểu hiện đáng báo động với các dạng thức mới của chủ nghĩa cá nhân, biểu hiện của tình trạng “tranh công, đổ lỗi”. Căn bệnh này đang lây lan và có chiều hướng gia tăng, nhất là thời điểm trước thềm đại hội Đảng các cấp. Thực chất nó tạo nên sự vững mạnh giả tạo, thành tích ảo; triệt hạ sự phát triển.

“Tấm bình phong” che khuyết điểm

Trong suốt cuộc đời cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn lo lắng, rèn giũa, nhắc nhở cán bộ tránh xa những thói hư tật xấu của chủ nghĩa cá nhân. Người gọi chủ nghĩa cá nhân là “giặc nội xâm”-giặc ở bên trong mỗi con người, mỗi cơ quan, đoàn  thể; “Nó là mẹ đẻ ra tất cả mọi tính hư nết xấu”.

Tại Hội nghị Trung ương 4 khóa XII (năm 2016), Đảng ta đã đưa ra 27 biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên. Biểu hiện trước tiên đó là do cán bộ, đảng viên sa vào chủ nghĩa cá nhân:  “Cá nhân chủ nghĩa, sống ích kỷ, thực dụng, cơ hội, vụ lợi; chỉ lo thu vén cá nhân, không quan tâm đến lợi ích tập thể; ganh ghét, đố kỵ, so bì, tị nạnh, không muốn  người khác hơn mình”. Quân ủy Trung ương cũng ban hành Nghị quyết số 847-NQ/QUTW về phát huy phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ, kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân trong tình hình mới. Điều ấy cho thấy quyết tâm cao của Đảng ta trong công cuộc chống lại các biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân.

Thành tích, khen thưởng vốn là những mỹ từ rất ý nghĩa. Đó là sự ghi nhận, khẳng định quá trình phấn đấu, nỗ lực trong thực thi nhiệm vụ; khác xa hoàn toàn với hành vi “nhận vơ” thành tích, đùn đẩy, lo sợ trách nhiệm. Vì sao căn bệnh này xuất hiện ngày càng đáng báo động, lây lan ở một bộ phận cán bộ, đảng viên?

Xét về nguyên nhân chủ quan thì sâu xa của căn bệnh này là do chủ nghĩa cá nhân mà ra; dẫn đến một số cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Biểu hiện rõ nhất là bệnh thành tích, háo danh, háo thành tích, “con gà tức nhau tiếng gáy”, nên luôn bon chen, ganh đua. Đôi khi, các tổ chức, cá nhân còn sử dụng thành tích để làm “tấm bình phong” che đậy khuyết điểm. Bệnh này còn do một bộ phận cán bộ, đảng viên thiếu trách nhiệm, thiếu trung thực trong thực thi nhiệm vụ. Cùng với tâm lý sợ sai, ngại va chạm nên họ làm việc cầm chừng, thiếu sáng tạo, né tránh khuyết điểm để lợi mình, hại người.

Xét về nguyên nhân khách quan, trong quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật và vận hành các cơ chế, chính sách, quy định vẫn còn nhiều nội dung chồng chéo, mâu thuẫn, phát sinh tình trạng chồng lấn chức năng, nhiệm vụ. Bên cạnh đó, công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ngày càng quyết liệt, nhiều cán bộ, kể cả cấp cao bị xử lý. Kết quả đó bên cạnh hiệu ứng xã hội rất tốt, góp phần xây dựng Đảng và hệ thống chính trị cũng tác động tới tư tưởng, tâm lý của một bộ phận cán bộ, đảng viên, lo lắng, lo sợ thái quá, làm gì cũng nghe ngóng, sợ sai, sợ trách nhiệm, chỉ lo bảo toàn, giữ ghế; hoặc tìm mọi cách đánh bóng, ghi điểm tạo sự vững mạnh giả tạo; khi xảy ra sự vụ thì đùn đẩy, né tránh trách nhiệm. Việc cụ thể hóa, hiện thực hóa chủ trương, quy định về khuyến khích, bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung, nhiều nơi chưa quán triệt, thực hiện nghiêm túc, hiệu quả...

Trong thực tế, không ít cán bộ, đảng viên nhờ “nhận vơ” thành tích, đùn đẩy trách nhiệm, qua mặt được tổ chức, leo cao trong bộ máy Nhà nước, đến lúc bị xử lý mới vỡ lẽ ra. Lỗi này một phần nguyên nhân là do việc theo dõi, bồi dưỡng, đánh giá, kiểm tra, giám sát cán bộ, đảng viên chưa hiệu quả. Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII chỉ rõ: Đó chính là vì “tâm lý nể nang, né tránh, ngại va chạm, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh”. Mặt khác, hoạt động thi đua, khen thưởng ở một số đơn vị còn nặng tính hình thức, chưa chú trọng kết quả thực chất, việc tổ chức, đánh giá còn hời hợt, cảm tính./.

ST.

NHỮNG NGƯỜI “KÊ CAO THỀM TỔ QUỐC” 🇻🇳

 Trên đầu là trời xanh, dưới chân là biển ngọc. Những người lính công binh Hải quân chinh phục biển ấy là “Những người kê cao Tổ quốc” vẫn ngày đêm dầm mình dưới sóng biển vác trên vai những bao đá hộc, xi măng, cốt thép vạm vỡ gân guốc kè quây đảo nổi, cơi nới, xây cao đảo chìm….cùng nhau xây dựng Trường Sa.

Mỗi viên đá, mỗi hạt cát, mỗi tấc bê tông ở đảo là cả một giá trị to lớn trong công cuộc xây dựng chủ quyền của Đất nước.

Người lính Công binh của Hải quân được huấn luyện xây dựng kè bờ đảo, với những điều kiện khắc nghiệt và đặc biệt như phải xử lý nước mặn, sóng gió trong xây dựng. Họ có vũ khí, nhưng chỉ được trang bị những v.ũ kh.í để tự vệ. Nhưng chính họ lại là những người lính sẽ có thể đụng độ đầu tiên với đội quân x.âm l.ấn đảo. Câu chuyện 64 chiến sĩ công binh h.y s.inh ở đảo Gạc Ma năm 1988 là một điển hình về cuộc chiến đấu không cân sức, đột ngột, bất khả kháng; về sự h.y s.inh dũng cảm của những người lính công binh hải quân, mà lịch sử giữ nước giữ đảo của Việt Nam sẽ luôn ghi nhớ khắc sâu.

Bao ngày đêm phải đối mặt với nhiều khó khăn, gian khổ để xây dựng, tôn tạo và bảo dưỡng các công trình, góp phần giữ gìn mảnh đất thiêng liêng của Tổ quốc nơi đầu sóng ngọn gió. Từ những đôi bao tay rách nát, vai ứa m.áu chúng ta như lại thấy cái bất khuất, kiên trì, vĩ đại của những con người chinh phục biển cả bằng cái đầu lạnh lùng và trái tim ấm nóng.

Sưu tầm