Thứ Bảy, 1 tháng 6, 2024

Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào xây dựng và phát triển đội ngũ trí thức trẻ ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu Cách mạng công nghiệp 4.0

Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng vị trí, tầm quan trọng của đội ngũ trí thức nói chung, đội ngũ trí thức trẻ nói riêng đối với sự nghiệp đấu tranh chống giặc ngoại xâm thống nhất đất nước và kiến thiết, dựng xây nước nhà. Bối cảnh hiện nay, đáp ứng xu thế phát triển với tác động của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, việc nghiên cứu và vận dụng linh hoạt, sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ trí thức trẻ sẽ tạo động lực để Việt Nam phát triển nhanh và bền vững.

Chủ tịch Hồ Chí Minh với đại biểu trí thức dự Hội nghị Chính trị đặc biệt tháng 3-1964. Ảnh tư liệu.

Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Trí thức là vốn liếng quý báu của dân tộc. Ở nước khác như thế, ở Việt Nam càng như thế”. Việc nghiên cứu, vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh là cơ sở lý luận giúp Đảng, Nhà nước tiếp tục xây dựng, hoàn thiện chủ trương, chính sách về xây dựng, phát triển đội ngũ trí thức trẻ đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước nhanh, bền vững trong bối cảnh tác động của Cách mạng công nghiệp 4.0.

1. Một số nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng và phát triển đội ngũ trí thức trẻ

Về vị trí, vai trò của đội ngũ trí thức trẻ, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Thanh niên là người chủ tương lai của nước nhà. Thật vậy, nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do các thanh niên”. Trong Thư gửi thanh niên và nhi đồng toàn quốc nhân dịp Tết sắp đến (tháng 1-1946), Người viết: “Một năm khởi đầu từ mùa xuân. Một đời khởi đầu từ tuổi trẻ. Tuổi trẻ là mùa xuân của xã hội”. Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành tình cảm đặc biệt cho thanh niên, nhất là thanh niên trí thức qua việc bồi dưỡng, giáo dục, rèn luyện.

Theo Người, trí thức trẻ là một bộ phận quan trọng của đội ngũ trí thức Việt Nam, là lực lượng tiên phong trong đội ngũ thanh niên. Họ là lực lượng có tinh thần yêu nước nồng nàn, có khát vọng ý chí vươn lên, có đạo đức cách mạng trong sáng, dám nghĩ, dám làm, dám hy sinh; có vị trí, vai trò quan trọng trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng, thống nhất dân tộc và kiến thiết nước nhà. Đồng thời, họ đang công tác, hoạt động và nghiên cứu ở nhiều lĩnh vực kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh,… quan trọng của đất nước.

Về trách nhiệm của đội ngũ trí thức trẻ, Người nhắc nhở: “Thanh niên muốn làm người chủ tương lai cho xứng đáng thì ngay hiện tại phải rèn luyện tinh thần và lực lượng của mình, phải ra làm việc để chuẩn bị cái tương lai đó” và "Để thật xứng đáng là người chủ của một nước xã hội chủ nghĩa, thanh niên ta quyết tâm thực hiện mấy điều sau đây: Phải thấm nhuần đạo đức cách mạng tức là khiêm tốn, đoàn kết, thực hành chủ nghĩa tập thể, thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau, người tiên tiến thì giúp đỡ người kém, người kém phải cố gắng để tiến lên, ra sức cần kiệm xây dựng nước nhà; phải nghiêm khắc chống chủ nghĩa cá nhân như tự tư tự lợi, tự kiêu, tự mãn, chỉ tham việc gì có danh tiếng, xem khinh những công việc bình thường. Phải chống tham ô, lãng phí; phải cố gắng học hỏi để không ngừng nâng cao trình độ chính trị, văn hóa và kỹ thuật để phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân”.

Về mục tiêu và khát vọng, Hồ Chí Minh nhấn mạnh đến: (1) Mục tiêu xây dựng đội ngũ trí thức trẻ: Trí thức trẻ phải gắn với vận mệnh dân tộc, thể hiện nghĩa vụ và trách nhiệm của mình với đất nước; (2) Đội ngũ trí thức trẻ phải gắn bó thường xuyên, mật thiết với nhân dân, trên tinh thần khiêm tốn học hỏi những điều hay lẽ phải, vì tuổi trẻ đôi khi chưa có kinh nghiệm muốn khẳng định mình dễ dẫn đến vội vàng, nhất là đội ngũ trí thức trẻ thuần túy về khoa học, kỹ thuật. Nhận xét về thanh niên, trong đó có thanh niên trí thức, Người cho rằng: “Ưu điểm của thanh niên ta là hăng hái, giàu tinh thần xung phong. Khuyết điểm là ham chuộng hình thức, thiếu thực tế, bệnh cá nhân, bệnh anh hùng. Rất mong toàn thể thanh niên ta ra sức phát triển những ưu điểm và tẩy sạch những khuyết điểm ấy. Huy hiệu của thanh niên ta là “tay cầm cờ đỏ sao vàng tiến lên”; (3) Đội ngũ trí thức trẻ nhiệt huyết, khao khát được cống hiến để khẳng định mình và phục vụ cho Tổ quốc. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đội ngũ trí thức trẻ là những người có học vấn, có năng lực sáng tạo, hoài bão lớn, dám làm những việc lớn, ích nước, lợi dân; (4) Đội ngũ trí thức trẻ năng động, chủ động kết bạn với các quốc gia trên thế giới; (5) Coi trọng giáo dục đạo đức, lý tưởng cách mạng cho trí thức trẻ.

Về quan điểm xây dựng đội ngũ trí thức trẻ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến việc đào tạo đội ngũ trí thức cho cách mạng, đề ra phương châm vừa cải tạo và sử dụng những trí thức cũ, vừa xây dựng và phát triển lực lượng trí thức mới. Người đã rất đề cao, coi trọng người trí thức, các biện pháp, chính sách động viên, khuyến khích đội ngũ trí thức tham gia vào sự nghiệp cách mạng; đào tạo trí thức mới, cải tạo trí thức cũ, để xây dựng đội ngũ trí thức có phẩm chất khoa học, có đạo đức và năng lực thực tiễn cao. 

Trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Sắp xếp thời gian và bài học… phải cho khéo, phải có mạch lạc với nhau, mà không xung đột với nhau”[5]. Trí thức trẻ luôn phải trau dồi, học tập, lĩnh hội kho tàng tri thức của nhân loại là vô tận, người học phải biết chọn lựa nội dung phù hợp... Trí thức không chỉ học mà phải hành. Hành là làm, ứng dụng kiến thức vào thực tiễn. Học với hành phải đi đôi nghĩa là học và hành không thể tách rời, phải coi trọng như nhau. “Hành” được đến đâu, điều đó còn tùy thuộc vào tri thức “học” được phong phú sinh động và sâu sắc thế nào. “Học đi đôi với hành” vì chúng là hai mặt thống nhất với nhau, bổ sung cho nhau. Đó là hai công việc thống nhất với nhau trong quá trình học tập. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh “Học phải đi đôi với hành” chính là nguyên lý, là phương châm giáo dục, đồng thời là phương pháp học tập đạt hiệu quả cao.

Có thể thấy, tư tưởng về đội ngũ trí thức trẻ đã thể hiện tầm nhìn chiến lược của Chủ tịch Hồ Chí Minh, là cơ sở lý luận và thực tiễn cho Đảng, Nhà nước quan tâm, bồi dưỡng đội ngũ trí thức trẻ. Đồng thời, thể hiện tình cảm, sự quan tâm, chăm lo, dìu dắt của Chủ tịch Hồ Chí Minh dành cho đội ngũ trí thức trẻ. Tư tưởng và tình cảm của Người chính là nguồn động lực, khích lệ ý chí, tinh thần, nghị lực vươn lên chiếm lĩnh những tầm cao mới của đội ngũ trí thức trẻ trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng gặp gỡ trí thức trẻ Việt Nam tại Pháp (tháng 3/2018). Ảnh: qdnd.vn.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng gặp gỡ trí thức trẻ Việt Nam tại Pháp 
(tháng 3-2018). Ảnh: qdnd.vn.

2. Một số thành tựu đạt được trong việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ trí thức trẻ ở Việt Nam thời gian qua

Trong 38 năm đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã xây dựng và ban hành nhiều chủ trương, chính sách, thể hiện quan điểm nhất quán là đẩy mạnh xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức trẻ, tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự cống hiến, sáng tạo của họ trong công cuộc đổi mới, đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, hội nhập quốc tế như: Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 6-8-2008 về xây dựng đội ngũ trí thức của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, tiếp đó đến Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 31-10-2012 về Phát triển khoa học và công nghệ; Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19-5-2018 về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, Nghị quyết 45-NQ/TW ngày 24-11-2023 Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước nhanh và bền vững trong giai đoạn mới…

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, các cơ quan, ban, ngành đã thực hiện các chính sách xây dựng và từng bước hoàn thiện hệ thống đào tạo, nghiên cứu; đổi mới cơ chế quản lý, tăng cường đầu tư cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hóa và văn nghệ; các chính sách sử dụng và tạo môi trường phát huy vai trò của đội ngũ trí thức trẻ; chính sách đãi ngộ, tôn vinh trí thức, các giải thưởng quốc gia, phong tặng các chức danh khoa học và các danh hiệu cao quý; thu hút trí thức trẻ người Việt Nam ở nước ngoài...

Hằng năm, Việt Nam đào tạo được hàng trăm nghìn cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ trẻ về các lĩnh vực, ngành nghề đóng góp vào đội ngũ lao động trình độ cao nguồn lực dồi dào chất lượng, tăng năng suất lao động đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Hơn thế nữa đội ngũ trí thức trẻ đã có những đóng góp tích cực trong nhiều mặt đời sống xã hội, có thể kể đến như nhiều trí thức trẻ Việt Nam đoạt giải cao trong các kỳ thi khối ASEAN hay quốc tế,... Đội ngũ trí thức trẻ đóng vai trò quan trọng trong việc sưu tầm, nghiên cứu phổ biến truyền dạy vốn văn hóa - văn nghệ dân gian các dân tộc Việt Nam góp phần bảo vệ vốn văn hóa truyền thống dân tộc. Ngoài ra, trên các lĩnh vực nông nghiệp, kinh tế, chính trị, quốc phòng - an ninh cũng có đông đảo đội ngũ trí thức trẻ tham gia. Nhiều bộ, ban, ngành, cơ quan, địa phương đã xây dựng, đào tạo, thu hút và sử dụng nguồn nhân lực trí thức trẻ một cách hiệu quả. Thành phố Hải Phòng, Đà Nẵng có những giải pháp quyết liệt thu hút, trọng dụng đội ngũ trí thức trẻ.

Những chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước đã góp phần tích cực thúc đẩy đội ngũ trí thức trẻ phát triển nhanh cả về số lượng và chất lượng. Hiện nay, Việt Nam đã mở rộng giáo dục bậc cao (đại học và sau đại học), trước hết là tăng số lượng các trường đại học, cao đẳng. Tính đến đầu nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng, cả nước có 460 trường đại học và cao đẳng, bao gồm 224 trường đại học và 236 trường cao đẳng; tính bình quân mỗi tỉnh, thành phố có khoảng 6,6 trường đại học, cao đẳng, tổng số sinh viên cả nước có khoảng trên 2,2 triệu, đạt tỷ lệ khoảng 250 sinh viên/1 vạn dân. Trong đó, sinh viên đại học chiếm 66%, cao đẳng chiếm 34%; nữ sinh chiếm 49,6%; số sinh viên học tập tại các trường công lập chiếm 85%, các trường ngoài công lập chiếm khoảng 15% tổng số sinh viên; sinh viên hệ chính quy là 1.962.000. Ngoài ra, có khoảng 80.000 lưu học sinh Việt Nam đang học tập tại gần 40 quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới. Đây là lực lượng đông đảo, được đào tạo ở những cơ sở uy tín, đã và đang là nguồn bổ sung cho đội ngũ trí thức Việt Nam, cũng chính là động lực tiên quyết để phát triển đội ngũ trí thức Việt Nam và xây dựng đất nước.  

Từ năm 1980 đến năm 2015, sau 24 đợt xét, tổng số lượt giáo sư, phó giáo sư đã được công nhận ở nước ta là 11.619, trong đó có 1.680 giáo sư và 9.939 phó giáo sư. Riêng năm 2016 có thêm 65 giáo sư và 638 phó giáo sư được công nhận; năm 2017, số giáo sư, phó giáo sư đạt chuẩn tăng lên 1.131 người (trong đó giáo sư là 74, phó giáo sư 1.071); năm 2019: 73 giáo sư, 349 phó giáo sư; năm 2020: 39 giáo sư, 300 phó giáo sư; năm 2021: 42 giáo sư, 363 phó giáo sư; năm 2022: 34 giáo sư, 349 phó giáo sư... Đội ngũ trí thức có trình độ chuyên môn học thuật cao hiện đang công tác, cống hiến trên tất cả các lĩnh vực, đặc biệt tham gia vào hoạt động giáo dục và đào tạo ở các trường, đại học, học viện và cao đẳng.

Việt Nam đã chủ động liên kết đào tạo với các nước có nền giáo dục hiện đại trên thế giới, do đó đội ngũ trí thức trẻ có cơ hội học tập, nghiên cứu, tiếp cận những tri thức hiện đại nhất, trở thành nguồn chủ lực trong phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh. Đồng thời, tiếp thu những bài học kinh nghiệm về đào tạo nguồn lực trí thức ở các nước phát triển trên thế giới, Việt Nam đã nhìn nhận vai trò của các tập đoàn kinh tế, doanh nghiệp không chỉ tham gia vào hoạt động sản xuất - kinh doanh, mà còn tham gia tích cực vào đào tạo, đào tạo lại và nâng cao chất lượng theo chiều sâu nguồn nhân lực trí thức.

Bên cạnh những thành tựu đạt được, việc đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng đội ngũ trí thức trẻ ở Việt Nam còn một số hạn chế, thiếu sót cần khắc phục như: Việt Nam chưa có chiến lược tổng thể về đội ngũ trí thức, và về đội ngũ trí thức trẻ - đây là hạn chế mang tính chất căn cơ dẫn đến tình trạng thiếu đồng bộ, thống nhất trong quá trình xây dựng đội ngũ trí thức. Nhiều chủ trương, chính sách của Ðảng và Nhà nước đối với đội ngũ trí thức chậm đi vào cuộc sống. Một số chủ trương, chính sách không sát với thực tế; có chủ trương, chính sách đúng đắn nhưng thiếu những chế tài đủ mạnh bảo đảm cho việc thực hiện có kết quả… Việc triển khai chính sách thu hút, sử dụng trí thức trẻ thiếu tính đồng bộ. Một thực tế tồn tại phổ biến ở nhiều ngành, địa phương hiện nay là coi trọng việc thu hút trí thức trẻ nhưng lại chưa coi trọng việc sử dụng họ. Mặt khác, chính sách thu hút, trọng dụng trí thức trẻ do các địa phương xây dựng vẫn nặng tính hình thức, chưa được nghiên cứu kỹ lưỡng, chưa được tổng kết trong thực tế triển khai để đánh giá hiệu quả của chính sách. Đặc biệt, để giữ chân người tài làm việc trong nền công vụ thì các văn bản của các bộ, ngành và địa phương mới chỉ chú trọng đến xây dựng chính sách thu hút mà chưa quan tâm chú trọng đến việc sử dụng, đãi ngộ và trọng dụng họ. Hiện tượng bất hợp lý và lãng phí “chất xám” của đội ngũ trí thức trẻ sẽ vẫn tiếp tục diễn ra nếu đơn vị, địa phương “trải thảm đỏ” để thu hút nhân tài về làm việc nhưng bố trí, sắp xếp họ không đúng chuyên môn, năng lực và sở trường công tác.

Hạn chế trên xuất phát từ một số nguyên nhân cơ bản như: một số cấp uỷ đảng, chính quyền và cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp chưa nhận thức đúng về tầm quan trọng của việc xây dựng đội ngũ trí thức trẻ nói chung, cũng như chưa thấy được vai trò, vị trí của đội ngũ trí thức trẻ nói riêng dẫn đến việc đánh giá, sử dụng họ không đúng năng lực và trình độ, dẫn đến "tâm tư" trong một bộ phận trí thức trẻ; bản thân một số trí thức trẻ chưa thấy được hết tầm quan trọng và trách nhiệm của mình trong quá trình hội nhập quốc tế; môi trường làm việc ở một số nơi còn thiếu dân chủ, thiếu tự do sáng tạo, nhất là đối với đội ngũ trí thức trẻ thuộc lĩnh vực khoa học xã hội và văn nghệ sĩ; cho đến nay chưa có một văn bản có tính hệ thống như một nghị quyết hoặc một chiến lược riêng về công tác này.

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính cùng đại diện trí thức Việt Kiều, thanh niên, sinh viên Việt Nam và cán bộ, nhân viên cơ quan đại diện Việt Nam tại New York, chiều 15/5/2022 - Ảnh: VGP/Nhật Bắc.

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính cùng đại diện trí thức Việt kiều, thanh niên, sinh viên Việt Nam và cán bộ, nhân viên cơ quan đại diện Việt Nam tại New York, chiều 15-5-2022. Ảnh: VGP/Nhật Bắc.

3. Giải pháp vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ trí thức trẻ nhằm đáp ứng yêu cầu Cách mạng công nghiệp 4.0

Một là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức về vai trò của trí thức trẻ trong Cách mạng công nghiệp 4.0. Hiện nay, việc nâng cao nhận thức của xã hội về vị trí và vai trò của đội ngũ trí thức trẻ phải được xem là giải pháp mang tính tổng thể, tác động lâu dài và cần duy trì thường xuyên. Vì thế, để thực hiện hiệu quả giải pháp này cần tập trung giải quyết một số nhiệm vụ cơ bản: (i) Tiếp tục đổi mới tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức của các cấp chính quyền và nhân dân về vị trí, vai trò của đội ngũ trí thức trẻ. Luôn phải khẳng định công tác tư tưởng cần được thực hiện thường xuyên và phải gắn với việc giải quyết một cách thỏa đáng vấn đề lợi ích. (ii) Đội ngũ trí thức trẻ không ngừng nâng cao nhận thức về vai trò của mình trong giai đoạn hiện nay: thường xuyên nâng cao năng lực chuyên môn và nhận thức rõ vai trò, trách nhiệm của mình trước đòi hỏi của sự nghiệp CNH, HĐH; phải tự giác sửa chữa những khuyết điểm, khắc phục những hạn chế trong tư duy, cách nghĩ để tham gia một cách tích cực vào quá trình xây dựng và phát triển đất nước.

Hai là, xây dựng và hoàn thiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ trí thức trẻ, nhất là những tài năng trẻ. Việc nghiên cứu đề xuất các giải pháp liên quan đến giáo dục là những giải pháp căn bản, nền tảng, có ý nghĩa chiến lược trong xây dựng đội ngũ trí thức trẻ ở Việt Nam. Để làm được điều đó, cần thực hiện một số giải pháp cơ bản sau: xây dựng chiến lược đào tạo, bồi dưỡng nhân tài đáp ứng yêu cầu phát triển của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0; tạo ra những chuyển biến căn bản trong giáo dục đại học và sau đại học; hoàn thiện chính sách thu hút, sử dụng, trọng dụng, đãi ngộ và tôn vinh đội ngũ trí thức trẻ, trong đó cần có cơ chế, chính sách đặc biệt thu hút, đãi ngộ và tôn vinh đội ngũ trí thức trẻ có trình độ chuyên môn cao đang làm việc ở nước ngoài về nước; tạo môi trường thuận lợi cho trí thức trẻ phát huy năng lực của bản thân trước yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0Để được như như vậy cần thực hiện một số giải pháp cụ thể sau: Tiếp tục cụ thể hóa quy chế dân chủ trong hoạt động khoa học, văn hóa, văn nghệ; xây dựng quy chế nhằm phát huy chức năng phản biện của đội ngũ trí thức dưới nhiều hình thức khác nhau, đặc biệt là trí thức trẻ. Thực hiện được giải pháp này là một việc rất khó khăn nhưng lại có ý nghĩa lớn trong việc khơi dậy và phát huy được tiềm năng sáng tạo của đội ngũ trí thức trẻ trong quá trình phát triển của đất nước.

Ba là, tập trung nguồn lực để thu hút, sử dụng, trọng dụng, đãi ngộ và tôn vinh đội ngũ trí thức trẻ. Thực tiễn cho thấy, muốn họ phát huy được tiềm năng và vai trò của mình thì cần phải thực hiện đồng bộ chính sách thu hút, sử dụng, đãi ngộ và tôn vinh, cụ thể: tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý của Nhà nước về thu hút, sử dụng trí thức, nhất là việc tuyển dụng các vị trí công việc cần thực hiện một cách công khai, minh bạch, có tiêu chí rõ ràng. Mặt khác, việc tuyển dụng cần xóa bỏ tư duy bằng cấp mà quan tâm nhiều hơn vào năng lực thực tiễn và khả năng tư duy, sáng tạo để thu nhận được những người có thực lực; trọng dụng đội ngũ trí thức trẻ tài năng, có chế độ khuyến khích và ưu đãi đội ngũ trí thức trẻ chuyên môn giỏi và tâm huyết. Việc xây dựng lực lượng và trọng dụng đội ngũ trí thức trẻ là nhiệm vụ hết sức quan trọng, vì lực lượng trí thức trẻ chính là chủ nhân tương lai của đất nước, là thế hệ sẽ duy trì truyền thống và quyết định vận mệnh của dân tộc trong những chặng đường phát triển tiếp theo. Cần đổi mới chính sách đãi ngộ về vật chất đối với đội ngũ trí thức. Chế độ đãi ngộ đó không những phải bảo đảm cho họ được yên tâm về nhu cầu của bản thân và gia đình mà còn phải mang lại cho họ những chế độ chuyên biệt, đãi ngộ riêng như là ghi nhận của xã hội về công sức, tài năng của họ trong xã hội. Muốn vậy, cần cải cách chế độ tiền lương cho đội ngũ trí thức, nhất là đội ngũ trí thức trẻ mới ra trường. Ngoài cải cách chế độ tiền lương, còn cần có những hỗ trợ vật chất khác cho đội ngũ trí thức trẻ mang tính đặc thù; đổi mới chính sách tôn vinh về tinh thần đối với đội ngũ trí thức. Để làm được điều đó, cần đơn giản hóa các thủ tục hành chính khi xét các danh hiệu đối với đội ngũ trí thức; đổi mới cơ chế xét công nhận chức danh chuyên môn khoa học bảo đảm đúng người, đúng đối tượng, tránh tình trạng bỏ sót người tài, người có cống hiến; đặc biệt tránh định kiến, khắt khe khi xét giải thưởng hay phong tặng với đội ngũ trí thức trẻ có nhiều cống hiến.

Bốn là, tạo môi trường thuận lợi, lành mạnh để phát huy tính độc lập, sáng tạo của đội ngũ trí thức trẻ trước yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0. Môi trường làm việc thuận lợi, lành mạnh là một yếu tố có vai trò quan trọng. Nó có thể tác động, thúc đẩy hoặc kìm hãm năng lực sáng tạo và cống hiến của họ. Trong đó, môi trường dân chủ là yếu tố có tác động mạnh mẽ nhất bởi ở đó người trí thức được tự do sáng tạo, được trình bày, bảo vệ quan điểm nghiêm túc của mình. Muốn xây dựng được môi trường như vậy, cần thực hiện một số biện pháp cụ thể: cụ thể hóa quy chế dân chủ trong hoạt động khoa học, văn hóa, văn nghệ theo quy định của Đảng, Nhà nước; xây dựng quy chế nhằm phát huy chức năng phản biện của đội ngũ trí thức dưới nhiều hình thức khác nhau, đặc biệt là trí thức trẻ…

Năm là, tích cực phát huy tinh thần chủ động, tích cực của đội ngũ trí thức trẻ trước yêu cầu của Cách mạng công nghiệp 4.0 và sự phát triển bền vững của đất nước: Thời gian tới, cần đặt lên vai đội ngũ trí thức trẻ những trọng trách và trách nhiệm to lớn đối với xã hội, được thể hiện thông qua các diễn đàn để phản biện xã hội, nhưng để quá trình phản biện xã hội có tính hiệu quả thì những phản biện của trí thức trẻ phải là những phản biện có tính xây dựng, cần có tổ chức, có phương thức tham vấn phù hợp; giáo dục cho đội ngũ trí thức trẻ sự nhận thức đúng đắn, đầy đủ về cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 cũng như xu hướng phát triển và những tác động tích cực hay tiêu cực của nó đối với đời sống kinh tế - xã hội; xác định rõ năng lực, sở trường của mình để lựa chọn những ngành nghề phù hợp, ưu tiên những ngành nghề đáp ứng được những yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0. Chủ động trước những xu hướng thay đổi, vận động của thị trường lao động hoặc những thay đổi công nghệ của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đem lại; tích cực học tập, rèn luyện kỹ năng và nâng cao năng lực bản thân cũng như chủ động tìm hiểu về các yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 để không bị lạc hậu và có thể trở thành công dân toàn cầu; chủ động, sáng tạo, linh hoạt và làm chủ kỹ năng để có khả năng làm việc với công nghệ hiện đại, thích ứng với sự thay đổi nhanh chóng trong phương thức sản xuất mới, phương thức giao tiếp mới của xã hội, phong cách sống mới của thời đại./.

ST.

Nâng cao hiệu quả công tác tham mưu về kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng nhằm phòng ngừa, phát hiện và xử lý tham nhũng, góp phần tăng cường kiểm soát quyền lực trong Đảng

Thời gian qua, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã  ban hành, chỉ đạo ban hành nhiều quy định về kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng, bảo đảm khá đầy đủ, toàn diện, tạo cơ sở chính trị, pháp lý quan trọng để cấp ủy, tổ chức đảng và ủy ban kiểm tra các cấp thực hiện tốt nhiệm vụ  kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật đối với tổ chức đảng và đảng viên, góp phần kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực có hiệu quả.

Hội thảo khoa học đề tài “Công tác tham mưu của các cơ quan đảng Trung ương trên lĩnh vực kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng qua 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới - Thực trạng, vấn đề đặt ra và giải pháp”.

Các quy định, quy chế, hướng dẫn về kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng được sửa đổi, bổ sung, ban hành bảo đảm đồng bộ, thống nhất và chặt chẽ hơn, xác định rõ hơn nội dung, đối tượng kiểm tra, giám sát, làm cơ sở để xem xét, đánh giá, kết luận, xác định trách nhiệm của tập thể, cá nhân vi phạm và nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sátQua đó, góp phần từng bước kiềm chế, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, tình trạng tham nhũng, “lợi ích nhóm”, “tư duy nhiệm kỳ”, tha hóa quyền lực trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên.

Thực hiện các quy định của Đảng, từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XII đến nay, công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng đã có bước tiến mới, với những kết quả rất quan trọng, mang tính đột phá. Việc xử lý kỷ luật đảng đối với tổ chức đảng và đảng viên vi phạm được thực hiện nghiêm minh, công khai, không có “vùng cấm”, không có ngoại lệ. UBKT Trung ương tích cực đổi mới hoạt động kiểm tra, giám sát, chủ động nắm chắc tình hình, kịp thời phát hiện dấu hiệu vi phạm. Tăng cường công tác giám sát với cách làm mới (trong đó có hoạt động xác minh...); theo dõi địa bàn, khai thác tài liệu các cơ quan liên quan. Lựa chọn những vấn đề trọng tâm, trọng điểm để kiểm tra, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ và những vấn đề gây bức xúc trong xã hội. Chỉ tiến hành kiểm tra theo chức năng, nhiệm vụ, đó là kiểm tra việc chấp hành quy chế làm việc, thực hiện nghị quyết, chỉ thị của Đảng, công tác lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy, tổ chức đảng. Tập trung kiểm tra, phát hiện vấn đề trọng tâm, nhanh chóng kết luận, xử lý, tạo niềm tin trong cán bộ, đảng viên và nhân dân. Kiên quyết, khách quan, chính xác, không suy diễn; đề cao đối thoại với đối tượng bị kiểm tra. Xem xét kỷ luật phải công tâm, khách quan, toàn diện, lịch sử cụ thể, chính xác, thấu tình, đạt lý. Tăng cường kiểm tra các tổ chức đảng, đảng viên ở cấp huyện và cơ sở khi có dấu hiệu vi phạm (cách cấp); kịp thời tiến hành kiểm tra lại các vụ việc dư luận quan tâm, UBKT cấp dưới đã kiểm tra nhưng chưa đáp ứng yêu cầu. Thường trực UBKT Trung ương chủ động và có quyết tâm chính trị cao trong chỉ đạo kiểm tra, giám sát, gương mẫu trong thực hiện nhiệm vụ; thường xuyên nghe các đoàn kiểm tra, giám sát báo cáo và kịp thời định hướng, chỉ đạo, tạo sự thống nhất trong quá trình kiểm tra, giám sát. Thực hiện việc công khai kết quả các phiên họp của UBKT Trung ương. Chú trọng tuyên truyền trên báo chí về công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng.

UBKT Trung ương đã tập trung kiểm tra làm rõ, kết luận nhiều vi phạm nghiêm trọng, quyết định kỷ luật, đề nghị kỷ luật nghiêm minh các tổ chức đảng, đảng viên vi phạm, trong đó có cả những cán bộ cao cấp của Đảng, Nhà nước, lực lượng vũ trang, lãnh đạo chủ chốt các địa phương, đơn vị, cả đương chức và nghỉ hưu, khắc phục tư tưởng “hạ cánh an toàn” trong cán bộ, đảng viên. Nhiều vụ việc phức tạp, tồn đọng, kéo dài, dư luận quan tâm đã được xem xét, kết luận và xử lý nghiêm minh, có tác dụng cảnh báo, răn đe đối với cán bộ, đảng viên, góp phần tăng cường kiểm soát quyền lực trong Đảng.

Từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII của Đảng đến tháng 6-2023, cấp ủy các cấp đã kiểm tra 114.878 tổ chức đảng và 619.030 đảng viên, trong đó có 136.864 cấp ủy viên các cấp; giám sát 85.117 tổ chức đảng và 282.471 đảng viên, trong đó có 82.495 cấp ủy viên. Qua giám sát, phát hiện 407 tổ chức đảng và 1.264 đảng viên có dấu hiệu vi phạm; chuyển kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm 47 tổ chức đảng và 201 đảng viên. UBKT các cấp tăng cường kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm, đã kiểm tra 6.873 tổ chức đảng và 20.824 đảng viên, trong đó có 10.162 cấp ủy viên các cấp, chiếm 48,8% số đảng viên được kiểm tra; giám sát 59.854 tổ chức đảng và 86.678 đảng viên, trong đó có 52.350 cấp ủy viên các cấp, chiếm 60,4% số đảng viên được giám sát.

Qua kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng, có thể thấy, nội dung vi phạm của tổ chức đảng và đảng viên chủ yếu là vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, quy chế làm việc; thiếu trách nhiệm, buông lỏng lãnh đạo, chỉ đạo, thiếu kiểm tra, giám sát, dẫn đến xảy ra các vi phạm trong quản lý, sử dụng đất đai, khoáng sản, tài chính, tài sản, thực hiện dự án đầu tư; và vi phạm về phẩm chất đạo đức, lối sống… Đáng chú ý là vi phạm còn xảy ra ở cả các lĩnh vực nhạy cảm, như thực hiện chính sách nhân đạo, an sinh xã hội, y tế, giáo dục… Có trường hợp từng là cán bộ lãnh đạo bộ, ngành đã bị kỷ luật khai trừ ra khỏi Đảng do có những bài viết, phát ngôn trái với Cương lĩnh, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng, Nhà nước, suy thoái về tư tưởng chính trị, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Tính chất, mức độ, hậu quả của các vi phạm ngày càng lớn, có những vụ việc gây thiệt hại rất lớn về tiền, tài sản của Nhà nước; nhiều vi phạm diễn ra trong một thời gian dài, liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành nhưng không được phát hiện, kiểm tra kịp thời, dẫn đến khi xử lý để lại hậu quả rất nặng nề.

UBKT Trung ương đã tham mưu với Ban Bí thư ban hành 24 quy chế phối hợp giữa UBKT Trung ương và các cơ quan, tổ chức đảng có liên quan, tham mưu về phối hợp giữa kiểm tra, giám sát của Đảng với thanh tra, kiểm toán nhà nước và điều tra, truy tố, xét xử ngày càng chặt chẽ, đồng bộ, hiệu quả hơn, hạn chế sự chồng chéo trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền; kịp thời phát hiện những sơ hở, thiếu sót trong lãnh đạo, quản lý để đề xuất bổ sung, sửa đổi các văn bản có liên quan cho phù hợp. Việc công khai kết luận kiểm tra và xử lý vi phạm đối với tổ chức đảng, đảng viên trên các phương tiện thông tin đại chúng đã có tác động tích cực, góp phần giáo dục cán bộ, đảng viên, được nhân dân đồng tình, ủng hộ. Cùng với kỷ luật của Đảng, các cơ quan nhà nước cũng tiến hành kỷ luật hành chính tương xứng, bảo đảm kịp thời, đồng bộ giữa kỷ luật của Đảng và kỷ luật của Nhà nước; kỷ luật của Đảng đi trước, tạo tiền đề, mở đường cho kỷ luật của Nhà nước, kỷ luật của đoàn thể và xử lý hình sự. Đây là bước đột phá trong công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng, góp phần siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong Đảng và trong bộ máy nhà nước.

Đặc biệt, việc kiểm tra, giám sát, đôn đốc công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực được tăng cường, nhiều cấp ủy, tổ chức đảng đã đưa công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực thành nhiệm vụ trọng tâm của công tác kiểm tra, giám sát. Theo thống kê bước đầu, trong hơn 10 năm qua, cấp ủy, UBKT các cấp đã thi hành kỷ luật hơn 3.700 tổ chức đảng, hơn 213.000 đảng viên, trong đó có hơn 8.760 đảng viên bị kỷ luật do tham nhũng hoặc liên quan đến tham nhũng, hơn 700 đảng viên bị kỷ luật do vi phạm về kê khai tài sản, thu nhập. Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, UBKT Trung ương đã kỷ luật gần 220 cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý. Riêng từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII của Đảng đến nay, đã kỷ luật 95 cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý, cao hơn 8 lần so với nhiệm kỳ Đại hội XI (11 cán bộ) và gần bằng số cán bộ cao cấp bị xử lý kỷ luật của cả nhiệm kỳ Đại hội XII (113 cán bộ).

Phải xử lý kỷ luật cán bộ là điều không ai mong muốn, là điều không khỏi đau xót, nhưng là việc không thể không làm. Thực tế xử lý kỷ luật cán bộ cao cấp vi phạm vừa qua cho thấy, nhìn một cách tổng thể công tác cán bộ của Đảng được quy định rất chặt chẽ và khoa học, nhất là việc đề bạt, cất nhắc, luân chuyển cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý phải qua nhiều bước, nhiều cơ quan, ban, ngành ở Trung ương xem xét, thẩm định. Do đó, không thể có lỗ hổng về quy trình, quy định. Phải chăng lỗ hổng ở đây là do tổ chức, cá nhân thực hiện các quy trình, quy định đó tạo ra, là sự thiếu trách nhiệm, nể nang, né tránh, là lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm của những người có thẩm quyền, trách nhiệm đánh giá, nhận xét, luân chuyển, bổ nhiệm cán bộ? Vì thế, cần tăng cường kiểm tra, giám sát nội bộ Đảng, ngăn chặn, phòng ngừa vi phạm của tổ chức đảng và đảng viên, phát hiện và khắc phục ngay những thiếu sót, khuyết điểm khi mới manh nha; bảo đảm cho Đảng ta, trước hết là các cơ quan lãnh đạo và cán bộ lãnh đạo của Đảng luôn kiên định về chính trị, vững vàng về đường lối, không chệch hướng, có phẩm chất cách mạng tốt, ngăn chặn, đẩy lùi được sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Quan điểm chỉ đạo của Thường trực Ban Bí thư và UBKT Trung ương trong việc xử lý cán bộ sai phạm là rất dứt khoát, bởi nếu không kịp thời ngăn chặn được sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, sự “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” thì sẽ ảnh hưởng đến sự tồn vong của Đảng và chế độ.

Cách thức tiến hành của UBKT Trung ương trong xem xét các vụ việc và xử lý trách nhiệm những tập thể, cá nhân có khuyết điểm liên quan trong thời gian vừa qua được dư luận và cán bộ, đảng viên đánh giá cao. Việc công khai thông tin thể hiện sự cương quyết, trách nhiệm và thẳng thắn trong xử lý cán bộ sai phạm, cho dù đó là cán bộ ở cấp nào, đương chức hay nghỉ hưu. Cách thức công khai như vậy cũng cần được áp dụng ở cả cấp địa phương khi xem xét xử lý cán bộ sai phạm để tạo niềm tin trong nhân dân. Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng thời gian qua còn không ít khuyết điểm, hạn chế. “Việc tự kiểm tra, phát hiện và xử lý vi phạm của nhiều cấp ủy, tổ chức đảng vẫn là khâu yếu; còn nhiều tổ chức đảng và đảng viên có vi phạm nhưng chưa được phát hiện kịp thời... Công tác giám sát ở các cấp chưa thường xuyên, có nơi, có lúc chưa thực chất, phạm vi, đối tượng còn hẹp... Việc thi hành kỷ luật đảng ở một số nơi chưa nghiêm, còn hiện tượng nể nang, ngại va chạm”. Việc thực hiện các nguyên tắc tổ chức của Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ ở một số nơi chưa nghiêm, thậm chí còn vi phạm, mất đoàn kết nội bộ, có nơi còn biểu hiện cục bộ, “lợi ích nhóm”, “trông chờ, nghe ngóng”, “nhẹ trên, nặng dưới” hoặc bao che sai phạm của các địa phương, cơ quan, đơn vị. Công tác tự kiểm tra, giám sát của một số cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị để phòng ngừa, ngăn chặn, đấu tranh xử lý tiêu cực, sai phạm liên quan đến tham nhũng, kinh tế còn hạn chế.

Đặc biệt, việc kiểm soát quyền lực của cấp ủy và UBKT các cấp nhằm phòng ngừa sự lợi dụng quyền hạn trong thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát vẫn chưa thực sự được quan tâm, chú trọng. Trên thực tế, có nhiều biểu hiện lợi dụng quyền hạn trong thực thi nhiệm vụ kiểm tra, giám sát chưa được phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm minh, như nhận hối lộ, nhận quà biếu; tự ý tiếp xúc với đối tượng kiểm tra, giám sát; sử dụng các tài liệu thẩm tra, xác minh, kết quả kiểm tra, giám sát để trục lợi; bao che, “bỏ qua” hành vi vi phạm của đối tượng vi phạm; làm sai lệch kết quả kiểm tra, giám sát gây bất lợi hoặc có lợi cho đối tượng kiểm tra, giám sát... Các biểu hiện tha hoá quyền lực xuất hiện với nhiều hình thức, mức độ khác nhau rất đa dạng, tinh vi song mục đích chính vẫn là trục lợi – tức là tham nhũng (cả về vật chất và phi vật chất); dùng quyền lực tác động không đúng, “ưu ái” với một số đối tượng thân quen hoặc lợi dụng vị trí công tác để thao túng, thâu tóm quyền lực của tập thể, của người khác trái quy định nhằm trục lợi, “chỉ một cá nhân có thể thâu tóm, thao túng cả tập thể”, hoặc “năng lực, bộ máy, quyết tâm không thiếu nhưng vẫn không phát hiện và xử lý được tham nhũng”? Như vậy, phải chăng có vấn đề “lợi ích nhóm” và có sự dung túng, bao che, tiếp tay của cán bộ, đảng viên có chức vụ, quyền hạn? Lợi ích càng lớn thì sự tha hoá quyền lực càng nhanh, mạnh và quyết liệt, dữ dội hơn. Thực tế cho thấy, một khi luật pháp lỏng lẻo hay quyền lực ít được giám sát, kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ, đầy đủ thường xuyên thì sự tha hoá quyền lực càng biểu hiện công khai, trắng trợn hơn!

Một số giải pháp chủ yếu

Thời gian tới, để nâng cao hiệu quả kiểm soát quyền lực trong Đảng, vai trò, trách nhiệm của cấp ủy và UBKT các cấp trong công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng là hết sức nặng nề. Theo đó, cần xây dựng và hoàn thiện các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước liên quan đến công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng; hoàn chỉnh quy trình, phương pháp kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng; tăng cường đầu tư, hiện đại hóa cơ sở vật chất, kỹ thuật, phương tiện làm việc phục vụ công tác kiểm tra, giám sát; nâng cao chất lượng công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn về công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng. Cùng với đó, cần kiểm soát được quyết định, hành vi của chính những người làm công tác kiểm tra, giám sát. Quán triệt Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, cần tập trung thực hiện một số giải pháp chủ yếu sau:

Một làtham mưu về tiếp tục nâng cao hơn nữa nhận thức, trách nhiệm và quyết tâm chính trị của các cấp ủy, tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên, trước hết là bí thư cấp uỷ, người đứng đầu về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng. Từng cán bộ kiểm tra phải nắm vững và thực hiện nghiêm túc những quy định, những văn bản về công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật đảng, đặc biệt là những nội dung mới, nội dung cốt lõi về công tác này được nêu trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng, nhằm tạo sự thống nhất cao về ý chí và hành động trong toàn ngành kiểm tra đảng. Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng phải chủ động, đi trước, là tiền đề, “mở đường” cho xử lý kỷ luật hành chính Nhà nước và xử lý theo pháp luật, góp phần đắc lực nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống tham những. Kỷ luật đảng rõ ràng, chặt chẽ, nghiêm minh là điều kiện quan trọng để Đảng thật sự là một khối đoàn kết, thống nhất trên tất cả các mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức; bảo đảm cho đường lối, chủ trương của Đảng được chấp hành nghiêm chỉnh, thực hiện thắng lợi. Do đó, Đảng phải giữ kỷ luật rất nghiêm từ trên xuống dưới. Nếu kỷ luật của Đảng lỏng lẻo thì những kẻ cơ hội, những phần tử phản động sẽ dễ dàng chui vào hàng ngũ để phá hoại Đảng. Kỷ luật của Đảng nghĩa là tư tưởng phải nhất trí, hành động phải thống nhất, xuất phát từ sự tự giác của đảng viên trong thực hiện nhiệm vụ của họ đối với Đảng. Tuy nhiên, kỷ luật của Đảng không chỉ đòi hỏi tính tự giác mà còn mang tính bắt buộc đối với những tổ chức đảng và đảng viên chưa ý thức đầy đủ về trách nhiệm, nhiệm vụ của mình. Những đảng viên giữ vị trí càng cao, trách nhiệm càng lớn, càng phải gương mẫu và nếu mắc sai phạm càng phải chịu kỷ luật nghiêm khắc, không được châm chước, bao che cho nhau. Trong bất kỳ trường hợp nào, mọi đảng viên đều bình đẳng trước kỷ luật của Đảng và bình đẳng về mặt công dân trước pháp luật. Phải căn cứ vào nội dung, tính chất, mức độ vi phạm để có hình thức kỷ luật thích đáng.

Hai là, tham mưu tiếp tục thể chế hóa, cụ thể hóa các mục tiêu, quan điểm, giải pháp về công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật đảng trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng thành các văn bản, quy định, quy chế, hướng dẫn, bảo đảm tính khoa học, đồng bộ, chặt chẽ, thống nhất, khả thi, khắc phục những bất cập trong các quy định hiện hành. Công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng phải chủ động tiến hành một cách thường xuyên, toàn diện, khách quan, công khai, dân chủ, thận trọng và chặt chẽ; coi trọng phòng ngừa, lấy “xây” là chính, là nhiệm vụ cơ bản, chiến lược lâu dài, nhưng “chống” là nhiệm vụ cấp bách, quyết liệt, phải kiên trì, kiên quyết, thực hiện thường xuyên và hiệu quả.

Trong đó, chú trọng đổi mới, cải tiến quy trình kiểm tra, giám sát để siết chặt kỷ luật, kỷ cương, phát hiện từ sớm, ngăn chặn từ gốc các vi phạm của tổ chức đảng và đảng viên. Những quy định này cũng nhằm bảo đảm không có đảng viên nào có đặc quyền vượt quá Điều lệ Đảng cho phép; mọi đảng viên đều bị giám sát, xem xét, nhận xét, đánh giá hoạt động; mọi đảng viên đều có quyền bình đẳng, trực tiếp hoặc gián tiếp quyết định và quản lý công việc trong Đảng. Để bảo đảm kỷ luật được chặt chẽ, tự giác thì phải mở rộng, tăng cường dân chủ trong Đảng. Hai mặt dân chủ và kỷ luật trong Đảng phải luôn luôn đi đôi với nhau. Có mở rộng, tăng cường dân chủ trong Đảng thì mới bảo đảm được kỷ luật và ngược lại, có bảo đảm được kỷ luật thì mới mở rộng, tăng cường được dân chủ trong Đảng.

Theo đó, Đảng cho phép mọi đảng viên được tự do tư tưởng, được đề đạt tâm tư, nguyện vọng, ý kiến riêng của mình lên đến cơ quan cao nhất của Đảng. Đồng thời, Đảng cũng yêu cầu phải quản lý chặt chẽ cán bộ, đảng viên trong cả lời nói và việc làm. Trách nhiệm đó trước hết thuộc về các chi bộ đảng. Mọi cán bộ, đảng viên dù ở cấp nào cũng đều phải rèn luyện tính tổ chức, tính kỷ luật, tự giác đặt mình trong sự quản lý của chi bộ, tham gia đầy đủ sinh hoạt chi bộ, tuân thủ kỷ luật của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Kiên quyết không để một cán bộ, đảng viên nào đứng ngoài sự quản lý của tổ chức. Mọi hành động vô tổ chức, vô kỷ luật, không chấp hành chỉ thị, nghị quyết của Đảng, gây chia rẽ, bè phái trong Đảng đều phải bị xử lý nghiêm minh. Đây là yêu cầu cấp thiết, thường xuyên để giữ nghiêm kỷ luật của Đảng.

Ba là, tham mưu tập trung kiểm tra, giám sát tổ chức đảng gắn với trách nhiệm người đứng đầu, cán bộ chủ chốt ở những nơi dễ xảy ra vi phạm, nội bộ có biểu hiện mất đoàn kết, những nơi người dân có nhiều bức xúc, dư luận xã hội quan tâm; những nơi tham mưu, xây dựng thể chế, chính sách, thực hiện chức năng quản lý nhà nước trong một số lĩnh vực, như kinh tế - tài chính, năng lượng, y tế, giáo dục, đất đai, tài nguyên, khoáng sản, huy động, sử dụng các nguồn vốn, thực hiện các dự án đầu tư và công tác cán bộ. Cần công khai trên công luận những vụ việc tha hoá quyền lực, nhất là lạm quyền, lộng quyền, lạm dụng quyền lực, tham nhũng, “lợi ích nhóm” lớn; công khai các hành vị tha hoá quyền lực trong việc chạy chức, chạy quyền, trong việc bổ nhiệm người thân, người nhà không đúng tiêu chuẩn, điều kiện, quy trình, thủ tục, thẩm quyền hoặc nâng đỡ “không trong sáng” cán bộ dưới quyền… để cán bộ, đảng viên, Nhân dân thấy rõ tính chất nguy hại của tha hoá quyền lực để lại nhiều hậu quả đặc biệt nghiêm trọng… Phải chú trọng nâng cao vai trò, trách nhiệm của cấp uỷ, tổ chức đảng, đặc biệt là người đứng đầu trong công tác kiểm tra, giám sát về phòng, chống tham nhũng; chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ kiểm tra bảo đảm chất lượng, đáp ứng yêu cầu. Qua kiểm tra, giám sát, kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm minh các tổ chức đảng, đảng viên vi phạm và công khai kết quả xử lý trên các phương tiện thông tin đại chúng. Phải chú trọng công tác giám sát để phát hiện sớm, xử lý từ đầu, không để vi phạm nhỏ tích tụ thành vi phạm lớn, vi phạm của một người thành vi phạm của nhiều người, giám sát phải mở rộng, kiểm tra có trọng tâm, trọng điểm.

Bốn là, tham mưu tăng cường kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm và nâng cao hơn nữa chất lượng công tác giám sát, chú ý giám sát đều các khu vực, lĩnh vực, địa phương, coi đây là việc làm thường xuyên để phát hiện, nhắc nhở, cảnh báo, phòng ngừa từ xa, giải quyết từ sớm các khuyết điểm, vi phạm với mục đích “trị bệnh cứu người”, không để từ khuyết điểm kéo dài trở thành vi phạm, từ vi phạm nhỏ trở thành vi phạm lớn, để lại hậu quả nghiêm trọng.

Khi xem xét đơn, thư tố cáo, không phân biệt có ký tên hay không ký tên, vì đây là một đầu mối, một nguồn thông tin, còn vấn đề khẳng định sự đúng, sai của thông tin này là ở công tác kiểm tra của UBKT và các cơ quan có trách nhiệm. Điều này càng khẳng định, dân chủ là cơ sở để thực hiện kiểm tra, giám sát nội bộ, mở rộng dân chủ là điều kiện cốt yếu để tăng cường kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật nghiêm minh trong Đảng hiện nay. Tăng cường sự chỉ đạo, hướng dẫn nghiệp vụ của UBKT cấp trên đối với UBKT cấp dưới trong công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng, đặc biệt là các vụ việc nghiêm trọng, phức tạp, lĩnh vực nhạy cảm, quan trọng và xử lý vi phạm về tham nhũng, lãng phí, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”. Tăng cường chỉ đạo UBKT cấp dưới, khi cần thiết thì tiến hành kiểm tra cách cấp để thúc đẩy và tạo chuyển biến mang tính toàn diện, rõ rệt hơn nữa trong toàn ngành kiểm tra đảng. Các địa phương, đơn vị phải làm mạnh hơn nữa, quyết liệt hơn nữa, phải thực sự quan tâm, lắng nghe ý kiến của nhân dân, báo chí, công luận; chọn một số vụ việc có tính điển hình để kiểm tra, kết luận và xử lý nghiêm minh, nhất là trong phát hiện, xử lý, ngăn chặn tình trạng nhũng nhiễu, tiêu cực, gây phiền hà cho người dân và doanh nghiệp trong giải quyết công việc; khắc phục cho được tình trạng “trông chờ, nghe ngóng”, “trên nóng, dưới lạnh”.

Năm là, tham mưu phối hợp chặt chẽ giữa công tác kiểm tra, giám sát của Đảng với công tác thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử của Nhà nước; đưa công tác phòng, chống tham nhũng thành một trong những nội dung công tác trọng tâm của UBKT các cấp trong nhiệm kỳ này. Tập trung kiểm tra, xử lý kịp thời, nghiêm minh các tổ chức đảng, đảng viên có dấu hiệu vi phạm trong các vụ việc, vụ án thuộc diện Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực theo dõi, chỉ đạo. Trong quá trình kiểm tra, giám sát, nếu phát hiện vi phạm có dấu hiệu tội phạm thì chuyển ngay hồ sơ vụ việc đến cơ quan điều tra có thẩm quyền để thụ lý, điều tra, xử lý theo quy định của pháp luật, không chờ đến khi kết thúc quá trình kiểm tra, giám sát mới chuyểnKỷ luật của Đảng phải được thực hiện trước, là tiền đề để xử lý kỷ luật hành chính của Nhà nước, của đoàn thể và xử lý hình sự.

Sáu là, tham mưu thường xuyên quan tâm củng cố, kiện toàn tổ chức, bộ máy UBKT và cơ quan UBKT; xây dựng đội ngũ cán bộ kiểm tra các cấp đủ về số lượng, bảo đảm về chất lượng, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Đề xuất cấp có thẩm quyền tăng cường luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý các ngành, các cấp về làm công tác kiểm tra và luân chuyển cán bộ kiểm tra sang công tác ở các cấp, các ngành khác theo Thông báo Kết luận số 312-TB/TW, ngày 9-3-2010 của Ban Bí thư “Về luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý các ngành, các cấp về làm công tác kiểm tra, giám sát và luân chuyển lãnh đạo UBKT các cấp sang công tác ở các ngành, các cấp để đào tạo, bồi dưỡng, tạo nguồn cán bộ kiểm tra”. Đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ kiểm tra, trong đó chú trọng trang bị phương pháp, kỹ năng nghiệp vụ và thường xuyên bổ sung kinh nghiệm thực tiễn về xử lý các vụ việc, cập nhật kiến thức cho họ. Đẩy mạnh ứng dựng công nghệ thông tin trong hoạt động của UBKT các cấp, đặc biệt là xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu về kiểm tra, gáim sát, kỷ luật đảng, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong bối cảnh mới, góp phần đổi mới phương thức lãnh đạo, lề lối làm việc và cải cách hành chính trong Đảng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng./.

ST.