Thứ Bảy, 1 tháng 6, 2024

Phản bác quan điểm cho rằng Việt Nam thực hiện “chuyên chế kiểu cũ” trong phòng, chống tham nhũng

Công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ở nước ta đã và đang được triển khai mạnh mẽ, được cán bộ, đảng viên và nhân dân đồng tình, ủng hộ, được cộng đồng quốc tế ghi nhận. Theo Báo cáo do Tổ chức Minh bạch quốc tế công bố đầu năm 2023, Việt Nam là 1 trong 6 quốc gia khu vực châu Á - Thái Bình Dương có tiến bộ nổi trội về phòng, chống tham nhũng, tăng 10 bậc trên bảng xếp hạng 180 quốc gia và vùng lãnh thổ được khảo sát, từ xếp thứ 87 (năm 2021) lên xếp thứ 77 (năm 2022), tăng hơn 30 bậc trong 10 năm. Điều này cho thấy nỗ lực, quyết tâm của Việt Nam trong phòng, chống tham nhũng đã được ghi nhận.

Công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ở nước ta đã và đang được triển khai mạnh mẽ, được cán bộ, đảng viên và nhân dân đồng tình, ủng hộ, được cộng đồng quốc tế ghi nhận. (Ảnh minh họa)

Công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ở nước ta đã và đang được triển khai mạnh mẽ, được cán bộ, đảng viên và nhân dân đồng tình, ủng hộ, được cộng đồng quốc tế ghi nhận. (Ảnh minh họa)

Trên thực tế, các cơ quan chức năng đã tăng cường phối hợp chặt chẽ, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử kịp thời, nghiêm minh những vụ án tham nhũng cả trong khu vực nhà nước và ngoài nhà nước, cả cán bộ đương chức và đã nghỉ hưu có sai phạm. Việc phát hiện, xử lý được tiến hành đồng bộ, quyết liệt ở cả cấp Trung ương và địa phương, đặc biệt là ở cấp tỉnh. Trong giai đoạn 2012-2022, cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp đã thi hành kỷ luật 2.740 tổ chức đảng, hơn 167.700 cán bộ, đảng viên, trong đó có 7.390 đảng viên bị kỷ luật do tham nhũng; kỷ luật 170 cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý... Nhiều đại án tham nhũng, tiêu cực được phát hiện và xử lý nghiêm như vụ án liên quan đến tiêu cực trong hệ thống đăng kiểm, vụ chuyến bay giải cứu, hay các vụ án liên quan đến các tập đoàn kinh tế lớn như Việt Á, FLC, Tân Hoàng Minh, AIC, Vạn Thịnh Phát

Tuy nhiên, bất chấp thực tế, các thế lực, phần tử thù địch, phản động, cơ hội chính trị vẫn không ngừng công kích, xuyên tạc công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực của Đảng, Nhà nước ta bằng nhiều luận điệu thâm độc, nham hiểm. Chúng xuyên tạc mục tiêu và bản chất đấu tranh phòng, chống tham nhũng là cuộc “đấu đá nội bộ” nhằm “thanh trừng bè phái”, “đánh bóng tên tuổi”, chỉ mang tính chất “phong trào”. Chúng ra sức phủ nhận những kết quả đạt được trong công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Lợi dụng dư luận xã hội bức xúc về các vụ việc sai phạm trong công tác quản lý nhà nước, trong công tác xây dựng Đảng cũng như những hạn chế, khuyết điểm trong phòng ngừa, ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, các đối tượng phản động rêu rao rằng tham nhũng là căn bệnh kinh niên của chế độ độc đảng cầm quyềnnếu còn giữ thể chế chính trị như hiện nay thì không thể chống tham nhũng thành công”...(!). Chúng ta đều biết, mục đích cuối cùng của chúng là phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, thực hiện diễn biến hòa bình” hòng lật đổ chế độ chính trị, kêu gọi đa nguyên, đa đảng.

Khi các cơ quan chức năng của nước ta tiến hành điều tra, xử lý những vụ án tham nhũng, tiêu cực nghiêm trọng, trong đó có sự dính líu của một số cán bộ cấp cao thì những thành phần chống phá lại chuyển sang giọng điệu phê phán, rằng cuộc chiến chống tham nhũng chỉ là cái vỏ ồn ào”; rằng những bản án nặng nề, “tuyên truyền rầm rộ” chỉ là “nỗ lực cứu chế độ” và đang làm sống lại mô hình chuyên chế kiểu cũ, trong đó tinh thần và động lực kinh doanh bị huỷ hoạitự do, dân chủnhân quyền bị “vi phạm nghiêm trọng”…(!).

Những thế lực, đối tượng phản động, thù địch còn lớn tiếng “phán xét” Việt Nam thực hiện mô hình chuyên chế kiểu cũ”, “chấp nhận” tham nhũng để đổi lấy tăng trưởng, biểu hiện ở hình thức cấu kết, chia chác lợi ích giữa quan chức và doanh nghiệp, “bôi trơn” guồng máy cai trị để “vượt qua” những bất cập, rào cản trong môi trường kinh doanh hay “lách” những khoảng trống kiểm soát quyền lực dưới chế độ một Đảng lãnh đạo(!). Vì, nếu quá tập trung vào chống tham nhũng sẽ làm “nhụt chí” cán bộ, đảng viên, làm “chùn bước” những người dám nghĩ, dám làm; ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế trong nước, gây tê liệt chuỗi cung ứng đầu tư nước ngoài, ảnh hưởng đến xuất khẩu, cản trở sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Sau những “lý luận” như vậy, một lần nữa, chúng tiếp tục chiêu bài cũ - “hò hét” rằng, thuốc đặc trị tham nhũng ở Việt Nam là phải thay đổi thể chế chính trị, phải đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập.

Khái quát lại những luận điệu, chiêu trò xuyên tạc như trênđể chúng ta không ngừng nâng cao nhận thức và tiếp tục khẳng định rằng tham nhũng là căn bệnh nhức nhối xảy ra ở mọi quốc gia với chế độ chính trị - xã hội khác nhau. Căn nguyên của tham nhũng không nằm ở chế độ đa đảng hay một đảng, mà là do sự tha hóa quyền lực và thiếu kiểm soát quyền lực sinh ra. Do đó, tham nhũng tồn tại ở mọi thể chế chính trị, thậm chí ở những nước theo chế độ đa đảng, tham nhũng vẫn hoành hành nghiêm trọng. Thực tế, theo đánh giá của Tổ chức Minh bạch quốc tế, các nước thực hiện đa đảng như Colombia, Brazil, Malaysia, Thái Lan, Indonesia,... vẫn thuộc nhóm “nước tham nhũng nghiêm trọng”. Trong khi đó, có những nước do một Đảng nổi trội cầm quyền như Nhật Bản, Singapore lại thuộc nhóm những nước minh bạch, ít tham nhũng. Rõ ràng, hiệu quả phòng, chống tham nhũng không phụ thuộc vào chế độ một đảng hay chế độ đa đảng mà phụ thuộc vào chất lượng của hệ thống pháp luật, năng lực quản trị của nhà nước, phẩm chất của đội ngũ cán bộ, công chức và nhiều yếu tố khác.

Đối với Việt Nam, cần thấy rằng việc phòng, chống tham nhũng không phải bây giờ chúng ta mới làm, mà đã làm từ lâu, làm thường xuyên, là chủ trương xuyên suốt của Đảng và Nhà nước ta nhằm xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, củng cố hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước, đảm bảo dân chủ, bảo vệ chế độ, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân. Từ tháng 12/2003, Việt Nam đã tham gia ký kết Công ước của Liên hợp quốc về phòng, chống tham nhũng. Suốt từ đó đến nay, chúng ta chưa từng lơi lỏng trong cuộc đấu tranh này. Đặc biệt, trong bối cảnh mới, công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực càng được Đảng, Nhà nước ta hết sức chú trọng, coi đó là nhiệm vụ bức thiết, có ảnh hưởng đến sự tồn vong của chế độ. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng ở nước ta đang diễn ra rất quyết liệt, không có vùng cấm, không kể cán bộ đương chức hay đã nghỉ hưu, tham nhũng vật chất hay tham nhũng quyền lực….

Những nỗ lực và kết quả trong công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng đã góp phần quan trọng giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với Đảng, Nhà nước. Theo kết quả điều tra dư xã hội của Ban Tuyên giáo Trung ương, đại đa số người dân (93%) bày tỏ niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng trong cuộc đấu tranh nàyCông tác phòng, chống tham nhũng được định vừa là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách, vừa phải tiến hành thường xuyên, bên bỉ, lâu dài nhằm làm trong sạch tổ chức bộ máy của Đảng, Nhà nước, vì lợi ích chung của xã hội chứ hoàn toàn không phải cuộc “đấu đá” hay “thanh trừng nội bộ” như giọng điệu xuyên tạc nhằm âm mưu gây nhiễu loạn thông tin, đánh lừa dư luận, làm suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước ta.

Do đó, trong bối cảnh hiện nay, việc tăng cường công tác tuyên truyền luôn vô cùng cần thiết và có ý nghĩa. Một là, thường xuyên giáo dục, nhắc nhở, nâng cao nhận thức, củng cố tinh thần trách nhiệm, phẩm chất, bản lĩnh của đội ngũ cán bộ, công chức. Hai là, nâng cao nhận thức xã hội, tính tích cực chính trị - xã hội và vai trò của người dân trong tham gia phòng, chống tham nhũng. Ba là, lan toả những nhận thức và suy nghĩ đúng đắn về công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực của Đảng và Nhà nước ta, hạn chế những quan điểm lệch lạc, thiếu chính xác về cuộc đấu tranh này ở Việt Nam. Bốn là, nâng cao và lan toả bầu không khí quyết tâm, dân chủ, thúc đẩy liêm chính trong toàn xã hội, từ đó tạo môi trường phòng, chống tham nhũng thuận lợi và hiệu quả hơn.

Cùng với không ngừng nâng cao công tác tuyên truyền, các hành vi tham nhũng, tiêu cực khi phát hiện phải được xử lý kịp thời, nghiêm minh. Bởi, tham nhũng là loại tội phạm nghiêm trọng, nguy hiểm, gây ra nhiều hệ luỵ và thiệt hại nhiều mặt cả về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội. Tham nhũng làm méo mó các quan hệ xã hội, gây thiệt hại lớn cho nền kinh tế và phúc lợi chung của toàn xã hội; làm đảo lộn những chuẩn mực đạo đức xã hội, làm xói mòn những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Tham nhũng gây ảnh hưởng xấu đến đội ngũ cán bộ, dẫn đến sự suy thoái đạo đức, lối sống trong đội ngũ này, gây ra sự bất bình, bức xúc và làm suy giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ và sự nghiệp xây dựng đất nước hiện nay, nếu không được ngăn chặn, kiểm soát hiệu quả sẽ gây cản trở lớn cho sự phát triển đất nước.

Ở nhiều quốc gia trên thế giới, những hành vi tham nhũng đều phải chịu sự trừng trị nghiêm khắc của pháp luật và sự phán xét mạnh mẽ của xã hội. Ở Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta luôn nhận thức rõ tham nhũng là nguy cơ đe dọa sự tồn vong của chế độ; đấu tranh phòng chống tham nhũng, tiêu cực là việc làm tất yếu, hợp lòng dân và xu thế phát triển của nhân loại. Chống tham nhũng góp phần khắc phục tình trạng thất thoát và thu hồi tài sản, củng cố và tăng cường niềm tin của nhân dân, làm trong sạch môi trường đầu tư, tạo ra động lực cho sự phát triển đất nước.

Đồng chí Trần Cẩm Tú, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương chủ trì Kỳ họp thứ 24 của Ủy ban Kiểm tra Trung ương _  Ảnh: TTXVN

Đồng chí Trần Cẩm Tú, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương chủ trì Kỳ họp thứ 24 của Ủy ban Kiểm tra Trung ương _ Ảnh: TTXVN

Việc điều tra, truy tố, xét xử của các các cơ quan chức năng Việt Nam thời gian qua đều đúng người đúng tội, được dư luận đồng tình cao. Cán bộ, công chức vi phạm pháp luật, lợi dụng chức vụ, quyền hạn để tư lợi… thì phải chịu các hình thức xử lý nghiêm khắc. Doanh nghiệp kinh doanh thiếu liêm chính, tham ô, hối lộ, lừa đảo, chiếm đoạt tài sản của người khác... thì phải chịu sự trừng phạt thích đáng theo quy định của pháp luật. Mọi hành vi vi phạm pháp luật, xâm phạm lợi ích của nhà nước và nhân dân đều bị nghiêm trị theo tinh thần của Nhà nước pháp quyền, Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.

Việc xử lý nghiêm những đại án tham nhũng là để góp phần nêu cao tính răn đe, cảnh tỉnh, phòng ngừa, ngăn chặn tham nhũng, tiêu cực từ trong trứng nước. Chứ không phải “ồn ào” hay “nặng nề” như những luận điệu xuyên tạc, bôi nhọ của các thế lực thù địch, phản động; càng không thể nói chống tham nhũng quyết liệt là huỷ hoại tinh thần và động lực kinh doanh như sự rèm pha vô lối của chúng. Trái lại, chống tham nhũng quyết liệt cũng chính là để xây dựng và thúc đẩy môi trường kinh doanh trong sạch, xã hội trong sạch, liêm chính, phát triển lành mạnh.

Thực tế, gần 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới, bên cạnh những thành tựu đạt được, đất nước ta phải đối mặt với nhiều nguy cơ, trong đó tham nhũng là một trong những nguy cơ lớn. Vì vậy, Đảng và Nhà nước ta đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thường xuyên, liên tục và quyết liệt với quan điểm không có vùng cấm, sai phạm đến đâu thì xử lý đến đó, không có ngoại lệ, không có đặc quyền và được tiến hành sâu rộng từ Trung ương đến địa phương.

Quyết tâm đấu tranh phòng chống tham nhũng, tiêu cực được thể hiện rất rõ trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng: “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, lãng phí với quyết tâm chính trị cao hơn, hành động mạnh mẽ hơn và hiệu quả hơn". Việc kiên quyết, nghiêm khắc xử lý các đại án tham nhũng có liên quan đến một số tập đoàn kinh tế lớn và cán bộ cấp cao ở cả Trung ương và địa phương chính là sự khẳng định nỗ lực của Đảng và Nhà nước ta trong cuộc chiến phức tạp nàyđồng thời gián tiếp bác bỏ luận điệu về mô hình chuyên chế kiểu cũ”, trong đó tăng trưởng kinh tế đi cùng với chuyên chế và tham nhũng tràn lan.

Đấu tranh phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý tham nhũng, tiêu cực quyết liệt, mạnh mẽ không phải là làm sống dậy mô hình chuyên chế kiểu cũ” mà là một trong những nội dung cốt lõi của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh; là xu thế tất yếu khách quan nhằm tạo động lực và môi trường thuận lợi để thúc đẩy sự phát triển thịnh vượng và bền vững của đất nước, xây dựng xã hội văn minh, vì sự phát triển toàn diện của con người Việt Nam./.

ST.

Đấu tranh phản bác luận điệu xuyên tạc tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam

Đấu tranh phản bác luận điệu của các thế lực thù địch xuyên tạc, phủ nhận tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ góp phần bảo vệ bản chất khoa học, cách mạng của tư tưởng Hồ Chí Minh, mà còn trực tiếp bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam là một bộ phận đặc biệt quan trọng trong hệ tư tưởng của Người. Đó là hệ thống các luận điểm về: tính tất yếu phải có đảng cách mạng chân chính để lãnh đạo công cuộc giải phóng dân tộc ở Việt Nam; quy luật hình thành Đảng Cộng sản Việt Nam; đảng cầm quyền; xây dựng chỉnh đốn Đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, v.v. Đây là cơ sở lý luận trực tiếp, sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình xây dựng, lãnh đạo, trưởng thành của Đảng ta gần 95 năm qua - nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Tuy nhiên, với mưu đồ đen tối nhằm phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng, phủ nhận, tiến tới xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng nước ta, các thế lực thù địch, phản động đã, đang dùng mọi thủ đoạn xuyên tạc nội dung, phủ nhận giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam. Vì vậy, nhận diện, đấu tranh phản bác các luận điệu xuyên tạc này là vấn đề cấp thiết, quan trọng để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong tình hình hiện nay.

Trước hết, về việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Lâu nay, các thế lực thù địch tìm mọi cách quy kết “Hồ Chí Minh thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam là có “tội” với dân tộc và nhân dân”; chúng “chụp mũ”, cho rằng “Hồ Chí Minh thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam đã đẩy nhân dân Việt Nam vào cảnh cơ cực, đói khổ, nghèo nàn, cùng quẫn”, v.v. Đây là sự vu khống, bịa đặt vô cùng trắng trợn, nhằm bôi nhọ, phủ nhận công lao to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam và sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân ta. Thực vậy, với lòng yêu nước nồng nàn và ước muốn tột cùng là cứu nước, cứu dân thoát khỏi ách thống trị, bóc lột của thực dân Pháp và bọn phong kiến tay sai, Hồ Chí Minh đã bôn ba tìm đường cứu nước. Người đã đến với chủ nghĩa Mác - Lênin “như một cuộc hẹn hò lịch sử” và đã tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn là giải phóng dân tộc bằng cách mạng vô sản. Người khẳng định: “Cách mạng Việt Nam phải đi theo con đường của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917” mới có thể giành được độc lập dân tộc thực sự, hoàn toàn; nhân dân ta mới được hưởng cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Để thực hiện con đường cứu nước đúng đắn đó, Người đã đặt câu hỏi và tự trả lời: “Cách mệnh trước hết phải có cái gì? Trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi”. Nghĩa là, Người đã nhận thấy rõ tính tất yếu cũng như vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam. Đồng thời, đảng đó phải là đảng cách mạng, chân chính, phải được thiết lập trên cơ sở gắn bó máu thịt giữa đảng với các tầng lớp nhân dân, đảng không có lợi ích nào khác ngoài đấu tranh vì lợi ích của dân tộc, được quần chúng nhân dân thừa nhận và vì sự nghiệp giải phóng nhân dân lao động khỏi ách thống trị, bóc lột của thực dân Pháp cùng bè lũ tay sai. Từ tư duy khoa học, cách mạng đó, Người đã chủ động tiến hành chuẩn bị mọi mặt về tư tưởng, chính trị, tổ chức và cán bộ cho sự ra đời của Đảng. Và thực tế đã cho thấy, sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 03/02/1930 là bước ngoặt quan trọng trong lịch sử của cách mạng Việt Nam, chấm dứt thời kỳ khủng hoảng về đường lối cứu nước và giai cấp lãnh đạo; dưới sự lãnh đạo của Đảng nhân dân ta từ thân phận nô lệ trở thành người dân một nước độc lập, làm chủ vận mệnh của mình, được hưởng cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Những luận cứ khoa học trên và thực tiễn cuộc đời, sự nghiệp hoạt động cách mạng vì nước, vì dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bác bỏ hoàn toàn luận điệu sai trái của các thế lực thù địch đã quy kết “Hồ Chí Minh thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam là có “tội” với dân tộc, với nhân dân”!



Từ ngày 6-1 đến 7-2-1930, Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản, thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam họp ở Hong Kong (Trung Quốc) dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái Quốc thay mặt cho Quốc tế Cộng sản. Ảnh: TTXVN 

Hai là, về quy luật hình thành Đảng Cộng sản Việt Nam. Các thế lực thù địch ra sức bịa đặt và xuyên tạc rằng “Hồ Chí Minh đưa chủ nghĩa yêu nước vào quy luật hình thành Đảng là trái với quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về đảng cộng sản”. Chúng còn ra điều hiểu biết khi viện dẫn: “chủ nghĩa yêu nước chỉ làm mất bản chất giai cấp công nhân của Đảng”, v.v. Thực chất, đây là những luận điệu nhằm đối lập chủ nghĩa Mác - Lênin với tư tưởng Hồ Chí Minh, phủ nhận tư tưởng Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của thành tố “chủ nghĩa yêu nước” đối với sự ra đời, tồn tại và phát triển của Đảng Cộng sản Việt Nam. Luận điệu đó hoàn toàn vô lý, không có cơ sở khoa học và thực tiễn. Thực vậy, trên cơ sở nắm vững nguyên lý chủ nghĩa Mác - Lênin về xây dựng đảng kiểu mới của giai cấp vô sản, Hồ Chí Minh khẳng định: chủ nghĩa Mác - Lênin là một thành tố quan trọng quyết định sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam, nên “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy”. Đồng thời, Người đã phân tích sâu sắc điều kiện, hoàn cảnh nước ta cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là xã hội thuộc địa nửa phong kiến, giai cấp công nhân Việt Nam mới ra đời, số lượng còn ít, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân tất yếu gắn chặt với phong trào yêu nước. Do vậy, chủ nghĩa Mác - Lênin kết hợp với phong trào công nhân mới là điều kiện “cần” để Đảng ra đời; nhưng để Đảng ta tồn tại, phát triển và giữ vững vai trò đội tiền phong lãnh đạo cách mạng Việt Nam, thì phải có điều kiện “đủ” - đó chính là phong trào yêu nước Việt Nam. Bởi vì, phong trào yêu nước Việt Nam được dẫn dắt bởi chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc; ra đời trước phong trào công nhân, đã đồng hành cùng dân tộc và là phong trào rộng lớn nhất, quy tụ các giai cấp, tầng lớp đấu tranh chống thực dân, đế quốc. Trong bối cảnh ấy, nếu phong trào công nhân không gắn bó với phong trào yêu nước, trở thành nòng cốt trong phong trào yêu nước thì cũng không lãnh đạo và tập hợp được lực lượng đông đảo. Hồ Chí Minh đánh giá đúng vị trí, vai trò và đưa phong trào yêu nước là một thành tố hợp thành không thể thiếu cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là hoàn toàn phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh nước ta. Không chỉ vậy, Người còn khẳng định “Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời cũng là đội tiên phong của dân tộc”. Có nghĩa là, Đảng Cộng sản Việt Nam vừa đại diện cho lợi ích giai cấp, vừa đại diện cho lợi ích dân tộc và Đảng không có lợi ích riêng nào khác. Như vậy, tư tưởng trên của Hồ Chí Minh không hề “trái với quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin”; đồng thời, cũng không “làm giảm bản chất giai cấp công nhân của Đảng ta”. Đó là kết quả của sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin về quy luật hình thành đảng cộng sản ở một nước thuộc địa nửa phong kiến của Hồ Chí Minh. Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã chứng minh, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã lãnh đạo và huy động toàn thể dân tộc Việt Nam đứng lên tiến hành Cách mạng Tháng Tám năm 1945 giành thắng lợi, lập nên nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á, lãnh đạo toàn dân giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ, giải phóng và thống nhất đất nước, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội; lãnh đạo sự nghiệp đổi mới thành công, đạt được những thành tựu vô cùng to lớn, “đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”. Điều đó đã bác bỏ mọi luận điệu mà các thế lực thù địch đã rêu rao, xuyên tạc.

Ba là, về bản chất giai cấp công nhân của Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ luận điểm hết sức sáng tạo của Người: “Đảng Lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, cho nên nó phải là Đảng của dân tộc Việt Nam”, các thế lực thù địch cho rằng “Hồ Chí Minh không phải là cộng sản, mà là người dân tộc chủ nghĩa”, “là cộng sản nửa vời”, v.v. Sự thật là, cách tiếp cận về Đảng của Hồ Chí Minh không những không làm mất đi bản chất giai cấp công nhân của Đảng, mà còn bổ sung, phát triển quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về đảng cộng sản ở một nước thuộc địa, khi mà nhiệm vụ giải phóng dân tộc được đặt lên hàng đầu như ở Việt Nam, thì đảng đó không chỉ của giai cấp công nhân, nhân dân lao động mà còn là của cả dân tộc. Trước hết, Hồ Chí Minh đã nghiên cứu, tiếp thu, vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin với tinh thần cách mạng và phương pháp khoa học, giải quyết đúng đắn, thành công mối quan hệ mật thiết giữa Đảng - giai cấp - dân tộc. Quá trình sáng lập, giáo dục và rèn luyện Đảng ta, Hồ Chí Minh luôn khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân. Bởi vì, chỉ có giai cấp công nhân Việt Nam là giai cấp tiên tiến nhất, có tinh thần cách mạng triệt để nhất, có khả năng lãnh đạo cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam theo con đường cách mạng vô sản đến thắng lợi hoàn toàn. Đồng thời, Người  thấy rõ sức mạnh to lớn của khối đại đoàn kết toàn dân tộc đối với vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân thông qua Đảng Cộng sản Việt Nam. Theo Hồ Chí Minh, sự nghiệp cách mạng không chỉ một hai người, mà của toàn thể dân chúng, Đảng không có lợi ích riêng, mà thống nhất với lợi ích của giai cấp, lợi ích của toàn thể nhân dân và của cả dân tộc. Do đó, Hồ Chí Minh khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc là luận điểm rất sáng tạo, phù hợp với hoàn cảnh cách mạng Việt Nam. Luận điểm ấy không làm giảm bản chất giai cấp công nhân của Đảng, mà trái lại nó làm cho bản chất giai cấp công nhân được củng cố và tăng cường; càng làm cho giai cấp công nhân gắn bó máu thịt với nhân dân và cả dân tộc, làm cho Đảng ta luôn mang trong mình sự thống nhất giữa yếu tố giai cấp và yếu tố dân tộc. Chính điều đó đã làm cho Đảng ta có sức cuốn hút mạnh mẽ các giai cấp, tầng lớp nhân dân, toàn dân tộc vào cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc; tin theo Đảng, bảo vệ Đảng, tạo nền tảng vững chắc cho Đảng lãnh đạo sự nghiệp cách mạng Việt Nam giành thắng lợi. Nhiều học giả phương Tây cũng khẳng định “Hồ Chí Minh là người cộng sản, rất mác - xít, đồng thời rất thấm đượm tinh thần dân tộc chân chính; là một hình mẫu giải quyết vấn đề lợi ích dân tộc và giai cấp một cách nhuần nhuyễn, kỳ tài”. Và thực tiễn đó đã khiến luận điệu xuyên tạc “Hồ Chí Minh là người “dân tộc chủ nghĩa” hay “cộng sản nửa vời” chỉ là hàm hồ, lố bịch.

Phủ nhận, xuyên tạc bản chất khoa học, cách mạng của tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam, sâu xa là xuyên tạc, phủ nhận dẫn đến xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng Việt Nam. Đó là những hành động hết sức nguy hiểm và phản động, đòi hỏi chúng ta cần tỉnh táo nhận rõ mưu đồ và kiên quyết đấu tranh bác bỏ./.

ST.

Phản bác luận điệu xuyên tạc phương châm đấu tranh phòng, chống “giặc nội xâm” của Đảng

Nhằm xuyên tạc chủ trương và kết quả công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ở nước ta, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị đã tung ra nhiều luận điệu xảo trá, thâm độc. Trong đó, luận điệu phủ nhận phương châm: “trên dưới đồng lòng, dọc ngang thông suốt” trong công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực của Đảng là một trọng điểm, cần kiên quyết vạch trần, đấu tranh bác bỏ.

Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, những năm qua, công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực - thứ “giặc nội xâm”, được tiến hành ráo riết, quyết liệt, “không có vùng cấm, không có ngoại lệ”, đạt được nhiều kết quả tích cực, tương đối toàn diện, được nhân dân hoan nghênh, đồng tình, ủng hộ, dư luận quốc tế ghi nhận, đánh giá cao. Là người trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo triển khai cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã sớm nêu ra yêu cầu về sự thống nhất, đồng thuận, quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân, các cấp, các ngành và cả hệ thống chính trị trong cuộc đấu tranh cam go này. Từ thực tiễn đấu tranh và thông qua tác phẩm “Kiên quyết, kiên trì cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, góp phần xây dựng Đảng và Nhà nước ta ngày càng trong sạch, vững mạnh” yêu cầu này đã được đồng chí Tổng Bí thư tổng kết thành phương châm: “trên dưới đồng lòng, dọc ngang thông suốt”.

Theo đó, “Trên dưới đồng lòng” là sự chung sức, đồng lòng của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, của cả hệ thống chính trị trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; là sự đồng thuận từ trên xuống dưới, từ Trung ương đến cơ sở cũng như sự vào cuộc của toàn Đảng, từng tổ chức đến mỗi cán bộ, đảng viên và mỗi người dân thực hiện kiên quyết, kiên trì, không ngừng nghỉ trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Còn “dọc ngang thông suốt” là sự nhất quán về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, sự vào cuộc đồng bộ các cấp, ngành và sự tin tưởng, ủng hộ của nhân dân trong quyết tâm, kiên quyết, kiên trì diệt tận gốc “giặc nội xâm”. Tuy nhiên, ngay sau Tác phẩm được xuất bản, phát hành, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị đã lợi dụng các trang mạng xã hội để tung ra luận điệu rêu rao, xuyên tạc rằng: phương châm “trên dưới đồng lòng, dọc ngang thông suốt” chỉ là khẩu hiệu hô hào một cách sáo rỗng, phi thực tế, mị dân, v.v.

Cần khẳng định rõ, đây là luận điệu hết sức xảo trá, thâm độc của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị, hòng tác động vào tư tưởng, nhận thức, làm suy giảm niềm tin của nhân dân đối với chủ trương, đường lối và các biện pháp đấu tranh phòng, chống “giặc nội xâm” của Đảng và Nhà nước ta, nhằm thực hiện mưu đồ thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Song, thực tiễn cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng của Đảng đã bác bỏ mọi xuyên tạc của các thế lực thù địch.

Trước hết, cần khẳng định rằng, cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng của Đảng nhận được sự đồng tình, ủng hộ của các tầng lớp nhân dân và cán bộ, đảng viên. Nhận rõ nguy cơ tham nhũng đối với sự phát triển của đất nước, sự tồn vong của chế độ, sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm chỉ đạo chống tham ô, lãng phí, quan liêu và chủ nghĩa cá nhân. Người yêu cầu việc chống “giặc nội xâm” vừa phải chủ động phòng ngừa, vừa phải kiên quyết tiến công; phải có sự chuẩn bị, có kế hoạch, có tổ chức thực hiện và có lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát, tiến hành thường xuyên, liên tục, không đánh trống, bỏ dùi; phải có sự quyết tâm cao của người đứng đầu, sự nỗ lực cố gắng quyết tâm của đội ngũ cán bộ các cấp; phải thông qua các cuộc vận động nhằm tổ chức và động viên toàn thể cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân tham gia đấu tranh; phải dựa vào dân, lắng nghe dân. Thấm nhuần tư tưởng đó của Người, những năm qua, nhất là từ Đại hội XI đến nay, Đảng ta đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị, quy chế, quy định về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng nói chung và đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực nói riêng. Đặc biệt, việc thành lập Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng do Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng làm Trưởng Ban đã tạo bước đột phá trong tổ chức thực hiện, đạt nhiều kết quả cụ thể, rõ rệt. Đấu tranh phòng, chống tham nhũng thực sự đã “trở thành phong trào, xu thế không thể đảo ngược”. Nhờ có chủ trương đúng, quyết tâm cao, sự nhất trí, đồng lòng vào cuộc của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân,... nhiều vụ án tham nhũng, kinh tế nghiêm trọng, phức tạp đã được phát hiện, phanh phui và xử lý rất kiên quyết, nghiêm minh, theo đúng quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước, thể hiện rõ quan điểm: không có vùng cấm, không có ngoại lệ, bất kể người đó là ai. Theo số liệu điều tra dư luận xã hội do Ban Tuyên giáo Trung ương thực hiện, có 93% số người được hỏi bày tỏ tin tưởng vào cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng, tiêu cực của Đảng và Nhà nước. Điều đó khẳng định quyết tâm đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực của Đảng được nhân dân đồng tình, ủng hộ, theo đúng tinh thần “trên dưới đồng lòng, dọc ngang thông suốt”.



Hội nghị toàn quốc tổng kết công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực giai đoạn 2012 - 2022, ngày 30/6/2022.
Nguồn: tuyengiao.vn

Thứ haicuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng, tiêu cực có sự vào cuộc quyết liệt các cấp, ngành, cơ quan chức năng. Có thể khẳng định, công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực được Đảng và Nhà nước lãnh đạo, chỉ đạo, thực hiện tích cực, ngày càng được đẩy mạnh, nhất là sau khi các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thành lập Ban Chỉ đạo đối với nhiệm vụ đặc biệt quan trọng này. Điều đó, không chỉ là sự hiện thực hóa phương châm “trên dưới đồng lòng, dọc ngang thông suốt”, mà còn khắc phục tình trạng “trên nóng, dưới lạnh”. Việc thành lập các Ban Chỉ đạo cấp tỉnh về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực có thể được xem như là “cánh tay nối dài của Trung ương” nhằm giải quyết một cách kịp thời những vấn đề tham nhũng, tiêu cực còn tồn đọng kéo dài, gây bức xúc trong dư luận ở địa phương. Đây là việc làm cần thiết, đúng đắn, phù hợp với tình hình thực tế của cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ở nước ta hiện nay và chắc chắn sẽ góp phần tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện quyết liệt, đồng bộ từ Trung ương đến địa phương; tạo sự chuyển biến tích cực, mạnh mẽ hơn nữa trong công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta theo đúng tinh thần mà Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhiều lần nhấn mạnh: “Tiền hô hậu ủng”, “Nhất hô bá ứng”, “Trên dưới đồng lòng”, “Dọc ngang thông suốt”.

Thứ ba, thực tiễn, kết quả cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực những năm qua là minh chứng rõ nhất cho phương châm: “Trên dưới đồng lòng, dọc ngang thông suốt”.  Với quyết tâm chính trị rất cao, sự chỉ đạo quyết liệt của Trung ương, công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực của Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta được thực hiện một cách đồng bộ, quyết liệt, bài bản, hiệu quả và đạt được nhiều kết quả có ý nghĩa quan trọng. Trong 10 năm (2012 - 2022), “các cơ quan tố tụng trong cả nước đã khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm gần 16.000 vụ án tham nhũng, chức vụ, kinh tế với hơn 30.300 bị cáo. Riêng Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng đã đưa vào diện theo dõi, chỉ đạo gần 1.000 vụ án, vụ việc ở 3 cấp độ; trong đó, trực tiếp theo dõi, chỉ đạo 313 vụ án, vụ việc tham nhũng, kinh tế nghiêm trọng, phức tạp, dư luận xã hội quan tâm, đã đưa ra xét xử sơ thẩm 120 vụ án, 1.083 bị cáo, trong đó có 37 cán bộ diện Trung ương quản lý”. “Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ủy ban Kiểm tra Trung ương kỷ luật hơn 170 cán bộ cấp cao diện Trung ương quản lý, trong đó có 33 ủy viên, nguyên ủy viên Trung ương Đảng, hơn 50 sĩ quan cấp tướng trong lực lượng vũ trang. Từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII của Đảng đến nay, đã kỷ luật 50 cán bộ diện Trung ương quản lý, trong đó có 08 Ủy viên, Nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, 20 sĩ quan cấp tướng trong lực lượng vũ trang”. Những con số này cho thấy công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực được Đảng, Nhà nước ta quan tâm chỉ đạo quyết liệt, bài bản, đi vào chiều sâu; có bước tiến mạnh, đạt nhiều kết quả cụ thể rất quan trọng, toàn diện, rõ rệt; đã kiên quyết xử lý nghiêm sai phạm của từng cá nhân, cho dù người đó là ai, bảo đảm công khai, minh bạch.

Sự thực trên không chỉ chứng minh tính đúng đắn của phương châm “trên dưới đồng lòng, dọc ngang thông suốt”, mà còn tạo hiệu ứng tích cực, lan tỏa mạnh mẽ trong toàn xã hội; được cán bộ, đảng viên và nhân dân đồng tình ủng hộ và mong muốn, đòi hỏi cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng, tiêu cực sẽ tiếp tục không ngừng, không nghỉ, kiên quyết, kiên trì chống “giặc nội xâm” đến cùng. Đây là bằng chứng xác đáng nhất khẳng định nỗ lực rất lớn, nói đi đôi với làm của Đảng, Nhà nước trong việc phát hiện, xử lý tham nhũng, tiêu cực, đưa nhiệm vụ đặc biệt quan trọng này không chỉ là tuyên ngôn chính trị mà đã trở thành hành động thực tế. Đồng thời, đập tan mọi luận điệu xuyên tạc, phủ nhận phương châm “trên dưới đồng lòng, dọc ngang thông suốt” chỉ là khẩu hiệu hô hào một cách sáo rỗng, phi thực tế, mị dân trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ở Việt Nam.

Như vậy, phương châm “trên dưới đồng lòng, dọc ngang thông suốt” không chỉ có giá trị định hướng, chỉ đạo, mà còn như một lời hiệu triệu toàn Đảng, toàn dân, toàn quân nhiệt tình ủng hộ và tích cực tham gia cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Qua đó, không chỉ làm trong sạch đội ngũ của Đảng, thu hồi tài sản quốc gia, mà quan trọng hơn là đem lại niềm tin tưởng cho nhân dân, góp phần bảo vệ Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo vệ sự lành mạnh trong các quan hệ xã hội, tạo động lực để đất nước phát triển nhanh và bền vững; đồng thời, đảm bảo cho Đảng ta có sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo, cầm quyền trước yêu cầu, nhiệm vụ mới. Cùng với đó, phương châm “trên dưới đồng lòng, dọc ngang thông suốt” trong đấu tranh phòng, chống “giặc nội xâm” còn có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn, là sự tổng kết thực tiễn phong phú, rút ra những vấn đề có tính lý luận và bài học kinh nghiệm quý để củng cố thêm bản lĩnh, sức mạnh và niềm tin; định hướng giải pháp thực hiện có hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong thời gian tới, cung cấp nhiều luận cứ xác đáng, thuyết phục để đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch về công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ở Việt Nam hiện nay./.

ST.

Hồ Chí Minh thâu thái, kết tinh, lan tỏa những giá trị dân tộc và thời đại

 

1. Hồ Chí Minh là sự kết tinh, tỏa sáng những giá trị dân tộc
Trên nền tảng một lãnh thổ chung, “một tiếng nói chung”, một lối sống mang sắc thái riêng, dân tộc Việt Nam đã tự khẳng định sự tồn tại của mình, bản lĩnh vượt qua mọi thử thách hiểm nghèo, vững vàng tiến lên. Trong hơn 1.000 năm thống trị của phong kiến phương Bắc, qua “Ngô Vương Quyền nối lại quốc thống” (Ngô Quyền xưng vương hiệu 939 sau chiến thắng Bạch Đằng), suốt thời kỳ Đại Việt, những lời thề và quốc hiệu Việt Nam chứa đựng biết bao giá trị về tinh thần quật cường, bất khuất, tự cường, tự chủ, tự lập, sáng tạo. Đó là khí phách “rửa sạch nước thù để nối lại nghiệp xưa họ Hùng”, khẳng định chủ quyền “Lĩnh Nam riêng một triều đình nước ta” (Trưng Trắc). Đó là phụ nữ Lạc Hồng muốn “cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá kình ở biển khơi, đánh đuổi quân Ngô, giành lại giang sơn, cởi ách nô lệ, chứ không chịu khom lưng làm tỳ thiếp người ta” (Bà Triệu). “Đem đại nghĩa để thắng hung tàn. Lấy chí nhân để thay cường bạo... lấy yếu chống mạnh...lấy ít địch nhiều” (Nguyễn Trãi). Lời vua Lê Thánh Tông: “Một thước núi, một tấc sông của ta lẽ nào tự tiện bỏ đi được”. Đó là sự khẳng khái “đầu tôi chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo” (Trần Thủ Độ nói với vua Trần); Trần Quốc Tuấn với nhiệt huyết “Sát Thát”; là đồng thanh “Quyết đánh” trong Hội nghị Diên Hồng (triều Trần với cuộc kháng chiến chống Mông - Nguyên); là lời nói đanh thép “nếu bệ hạ muốn hàng, xin hãy chém đầu tôi đi đã” (Trần Quốc Tuấn); “ta thà làm ma nước Nam, chứ không thèm làm vương đất Bắc (Trần Bình Trọng); là “vua tôi đồng lòng, anh em hòa thuận, cả nước góp sức” (nhà Trần). Đó là ý thức tự chủ với những quốc hiệu như: Vạn Xuân (năm 544, Lý Bí lên ngôi Hoàng đế, tuyên bố dựng nước, đặt quốc hiệu Vạn Xuân), Đại Việt (năm 1054 thời vua Lý Thánh Tông)...

Việt Nam là trường hợp hiếm thấy trong lịch sử thế giới khi đã mất chủ quyền 1.000 năm vẫn giành lại được. Không nhiều nước như Việt Nam, dù kẻ thù quân đông, vũ khí mạnh, nhiều lần xâm lược nước ta nhưng bằng sức mạnh đoàn kết, cả nước chung sức, trí thông minh, sáng tạo, lòng hy sinh quả cảm, chúng ta đều giành thắng lợi: Lý Thường Kiệt hai lần chống Tống thắng lợi (1075, 1077); quân Mông - Nguyên ba lần xâm lược Đại Việt đều bị đánh bại (1285, 1287, 1288); ba trận thủy chiến trên sông Bạch Đằng, đánh tan giặc ngoại xâm, nhấn chìm dã tâm xâm lược của các thế lực bành trướng phương Bắc (Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán năm 938; Lê Hoàn (vua Lê Đại Hành) đại thắng quân Tống năm 981; Trần Quốc Tuấn đánh bại quân Mông - Nguyên năm 1288); v.v..

Hồ Chí Minh đã kế thừa, phát triển các giá trị của dân tộc trong thời đại mới, Người cho rằng, việc cứu nước và giải phóng dân tộc mình không thể dựa vào bất kỳ nước nào, dù đó là Nhật, Anh hay Mỹ. Bởi dựa vào nước đế quốc này để đánh đổ chế độ thực dân kia là cách làm “đuổi hổ cửa trước rước beo cửa sau”. Phải đi ra nước ngoài tìm hiểu, nghiên cứu, khám phá, xem xét các nước họ làm thế nào rồi tự mình tìm ra con “Đường cách mệnh” cho dân tộc mình. Khi bắt gặp lý luận khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh khẳng định, đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta. Với Người, giá trị của chủ nghĩa Mác - Lênin là ở chỗ phương pháp làm việc biện chứng, là cái cẩm nang thần kỳ, là “kim chỉ nam cho hành động, chứ không phải là kinh thánh”.

Hồ Chí Minh là người “tìm đường” (1911-1920), “mở đường” (1920-1930), “dẫn đường” (1930-1945), “thiết kế tương lai” (1945-1969). Giá trị dân tộc được kết tinh ở Người với quyết tâm: Dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập. Dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững nền tự do và độc lập. Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ. Không có gì quý hơn độc lập, tự do, v.v..

Sau khi “tìm đường đi cho dân tộc theo đi” - con đường cách mạng vô sản, Hồ Chí Minh “đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập”. Người cùng cả dân tộc “rũ bùn đứng dậy chói lòa”, “biến người nô lệ thành người tự do”, đem lại quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc cho mỗi người và cả dân tộc, mở ra kỷ nguyên độc lập, tự do. Người vạch ra một lộ trình sau khi nước Việt Nam giành được độc lập sẽ đi theo con đường riêng của mình, xây dựng chế độ dân chủ nhân dân, tiến dần lên CNXH, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Luận điểm sáng tạo về con đường đi lên CNXH ở Việt Nam chưa có tiền lệ trong lịch sử là một kinh nghiệm quý cho các nước có hoàn cảnh như Việt Nam.

Dưới ánh sáng khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh luôn độc lập, tự chủ, đổi mới, sáng tạo với hai điểm cốt yếu sau:

Thứ nhất, Người có cách nhìn “động” về xã hội, về thế giới, về tình hình khách quan, về nhân dân như là cơ sở cho tinh thần đổi mới, sáng tạo. Theo Người, xã hội ngày một phát triển, thế giới ngày càng đổi mới, tình hình khách quan thay đổi hằng giờ hằng phút, nhân dân ngày càng tiến bộ, cho nên tư tưởng, hành động, chủ trương, năng lực, sáng kiến của ta cũng phải thay đổi cho kịp. Mặt khác, chủ trương hôm nay đúng đắn, nhưng vì tình hình khách quan thay đổi nhanh chóng nên có thể hôm sau không hợp thời, quá thời, sai hỏng. Vì vậy, phải tỉnh táo kiểm điểm, bỏ đi những cái cũ kỹ, lạc hậu, lỗi thời để không bị bỏ rơi, không bị những người nhanh nhẹn vượt lên trước, để theo kịp tình thế. Còn “nếu cứ giữ lấy cái kẹp giấy cũ không thay đổi là không đi đến đâu cả”. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Khi tình thế đổi mới, ta đủ gan góc, đủ tinh thần phụ trách để quyết định phương hướng chính trị mới, thay đổi cách thức công tác và đấu tranh, dám bỏ những khẩu hiệu và những nghị quyết đã cũ, không hợp thời, đưa những nghị quyết và khẩu hiệu mới thay vào".

Người dày công nghiên cứu thực tiễn, mục tiêu, nhiệm vụ của đất nước và khả năng thích ứng của con người Việt Nam với từng giai đoạn phát triển. Xã hội càng phát triển thì nhận thức của con người phải thích ứng và phát triển thuận chiều cùng với sự phát triển của xã hội. Người viết: “Xã hội ngày càng tiến, công tác của ta cũng phải ngày càng tiến. Chúng ta phải kháng chiến thắng lợi, phải thực hiện dân chủ mới, phải tiến đến chủ nghĩa xã hội, rồi tiến lên chủ nghĩa cộng sản. Vì vậy, năng lực của ta, sáng kiến của ta, tiến bộ của ta cũng phải luôn luôn phát triển, tiến lên không ngừng. Không tiến, tức là thoái”.

Thứ hai, Hồ Chí Minh hiểu rất rõ hoàn cảnh đặc biệt của nước ta, đất nước hàng nghìn năm dưới chế độ phong kiến, gần trăm năm thuộc địa của chủ nghĩa thực dân, nông nghiệp lạc hậu, khoa học kỹ thuật kém phát triển, công cuộc đổi xã hội cũ thành xã hội mới sẽ vô cùng gian nan, phức tạp, khó hơn nhiều so với việc đánh giặc, thắng đế quốc và phong kiến. Đây là cả một cuộc chiến đấu khổng lồ chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi. Người chỉ rõ: “Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa là một cuộc biến đổi khó khăn nhất và sâu sắc nhất. Chúng ta phải xây dựng một xã hội hoàn toàn mới xưa nay chưa từng có trong lịch sử dân tộc ta. Chúng ta phải thay đổi triệt để những nếp sống, thói quen, ý nghĩ và thành kiến có gốc rễ sâu xa hàng ngàn năm. Chúng ta phải thay đổi quan hệ sản xuất cũ, xóa bỏ giai cấp bóc lột, xây dựng quan hệ sản xuất mới không có bóc lột áp bức”.

Hồ Chí Minh nhìn nhận, khó khăn của cuộc cách mạng XHCN ở Việt Nam bắt đầu từ những đặc điểm, nhiệm vụ trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Không như cách mạng vô sản Nga, sau khi giai cấp vô sản nắm được chính quyền là bước ngay vào thời kỳ quá độ lên CNXH, Việt Nam phải qua chín năm xây dựng chế độ dân chủ nhân dân trong hoàn cảnh vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, chuẩn bị tiền đề chính trị, kinh tế, văn hóa để khi kết thúc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân là bước vào thời kỳ quá độ lên CNXH. Trong hoàn cảnh đó, Hồ Chí Minh đã chỉ ra nội dung, bước đi, biện pháp xây dựng CNXH cho phù hợp với điều kiện cụ thể của nước ta.

Vạch ra con đường đi lên CNXH ở Việt Nam, Hồ Chí Minh bổ sung vào lý luận và thực tiễn CNXH những đặc điểm, bản sắc Việt Nam. Nghiên cứu CNXH trong di sản Hồ Chí Minh, chúng ta dễ dàng nhận ra tư tưởng của Người về đặc trưng, mục tiêu, động lực của CNXH Việt Nam, trong đó phản chiếu ánh sáng của CNXH khoa học theo học thuyết Mác - Lênin nhưng rất Việt Nam, đậm dấu ấn Hồ Chí Minh. Thủ tướng Phạm Văn Đồng viết: “Chủ nghĩa xã hội theo đặc điểm Việt Nam là sự kết thúc thắng lợi hành trình lịch sử của dân tộc mà Hồ Chí Minh đã vạch ra từ đầu thế kỷ, là sự thực hiện trọn vẹn Di chúc của Người, là đỉnh cao của sự nghiệp cách mạng ba cuộc giải phóng của Việt Nam, từ đó chân trời càng mở rộng cho đà tiến cao xa hơn nữa, trên con đường phát triển vô hạn của dân tộc, xã hội và con người”. Xây dựng CNXH theo bản sắc Việt Nam theo lý giải của Thủ tướng Phạm Văn Đồng “là phương hướng, là ý nguyện, là mục tiêu mà Hồ Chí Minh, Đảng ta, nhân dân ta đã lựa chọn. Đối với con người Việt Nam ta, từ những năm 20 của thế kỷ này, ý chí độc lập dân tộc gắn liền với ý chí xã hội chủ nghĩa”.

Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo tiến hành gần được 40 năm. Đảng đề ra mục tiêu của đổi mới là dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, phấn đấu xây dựng một nước Việt Nam hùng cường, phồn vinh, hạnh phúc, sánh vai với các cường quốc năm châu. Thực chất quan điểm của Đảng chính là chủ nghĩa xã hội theo đặc điểm Việt Nam. Phạm Văn Đồng cho rằng: “kết quả cuối cùng của công cuộc đổi mới là tạo ra một xã hội xã hội chủ nghĩa theo đặc điểm Việt Nam, mang đậm dấu ấn thiên tài và cốt cách dân tộc, trong mục tiêu và động lực, trong con đường, bước đi và cách làm”.

2. Hồ Chí Minh kết tinh, tỏa sáng những giá trị thời đại

Giá trị thời đại ở đây trước hết là học thuyết Mác - Lênin, ánh sáng soi đường cách mạng của dân tộc Việt Nam, là tinh hoa văn hóa của nhân loại. Hồ Chí Minh vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin trên nhiều mặt, trên cơ sở đó không chỉ mở đường cho dân tộc mình mà còn mở đường cho cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc của các nước thuộc địa và phụ thuộc trong phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới. Hồ Chí Minh từng bước xác lập một hệ thống tư tưởng với những luận điểm sáng tạo, đúc kết thành quy luật giải phóng và phát triển ở các nước có hoàn cảnh như Việt Nam.

Cống hiến lớn lao của C.Mác, Ph.Ăngghen là xác lập CNXH khoa học, vạch ra quy luật tiến hóa của lịch sử loài người, chỉ ra con đường cách mạng, giải phóng những người bị áp bức trên thế giới. Trên cơ sở vận dụng và phát triển sáng tạo lý luận của C.Mác, cống hiến vĩ đại của V.I.Lênin là lãnh đạo cách mạng vô sản thắng lợi đầu tiên ở nước Nga và tiên đoán làn sóng cách mạng diễn ra ở các nước thuộc địa và phụ thuộc. Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười rọi chiếu ánh sáng tới triệu triệu người trên trái đất. Hồ Chí Minh là số ít trong những “nhân vật huyền thoại” tiếp thu được ánh sáng Tháng Mười, hưởng ứng lời kêu gọi của V.I.Lênin, đưa CNXH khoa học về cho dân tộc mình.

Trong khi truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin về Việt Nam, ngay từ đầu, Hồ Chí Minh đã xác định, Việt Nam không làm cách mạng vô sản kiểu Nga mà làm cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản, đây là con đường duy nhất đúng để cứu nước và giải phóng dân tộc. Người rút ra, muốn thực hiện được sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người thì phải thành lập Đảng kiểu mới theo học thuyết Mác - Lênin. Đảng đó không phải chỉ kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân, mà phải kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Đó chính là quy luật ra đời của Đảng Cộng sản đối với các nước như Việt Nam.

Cống hiến của Hồ Chí Minh mà quốc tế ghi nhận là để lại dấu ấn trong quá trình phát triển của nhân loại vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Nếu V.I.Lênin là bậc thầy trong lên án mạnh mẽ chủ nghĩa đế quốc trên phạm vi thế giới, thì Hồ Chí Minh là lãnh tụ cộng sản viết nhiều, tố cáo sâu sắc tội ác dã man của chủ nghĩa thực dân. Trăn trở về số phận của các dân tộc thuộc địa, Người đưa ra bản án đối với chế độ thực dân Pháp. Đây là tư duy và cách làm cần thiết để thức tỉnh các dân tộc thuộc địa chìm đắm trong áp bức, bóc lột, đè nén của chủ nghĩa thực dân. Hồ Chí Minh nêu cao ngọn cờ và tiên phong trong phong trào giải phóng dân tộc. Đặt ra cho mình sứ mệnh giải phóng dân tộc mình và các dân tộc thuộc địa, Hồ Chí Minh đã góp phần to lớn vào sự nghiệp vẻ vang đó. Người đã hiện thực hóa giá trị về quyền con người trong Tuyên ngôn độc lập của Mỹ và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của cách mạng Pháp, đồng thời mở rộng, nâng cao quyền con người thành quyền của các dân tộc. Quan điểm của Hồ Chí Minh đi trước nghị quyết của Liên hiệp quốc, khi năm 1960 tổ chức này mới tuyên bố trao trả độc lập cho các nước và các dân tộc thuộc địa.

Cách đây 100 năm, nhà thơ Liên Xô Ôxíp Manđenxtam qua cuộc trò chuyện với Nguyễn Ái Quốc, cảm nhận từ phong cách, phong thái của Người, ông viết: “Dáng dấp của con người đang ngồi trước mặt tôi đây, Nguyễn Ái Quốc, cũng đang tỏa ra một cái gì thật lịch thiệp và tế nhị... Từ Nguyễn Ái Quốc đã tỏa ra một thứ văn hóa, không phải là văn hóa Âu châu, mà có lẽ là một nền văn hóa tương lai... Dân An Nam là một dân tộc giản dị và lịch thiệp. Qua phong thái thanh cao, trong giọng nói trầm ấm của Nguyễn Ái Quốc, chúng ta như nghe thấy ngày mai, như thấy sự yên tĩnh mênh mông của tình hữu ái toàn thế giới”. Nghị quyết của UNESCO khẳng định, tư tưởng Hồ Chí Minh là hiện thân cho những khát vọng của các dân tộc trong việc khẳng định bản sắc dân tộc của mình và tiêu biểu cho việc thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau.

Hồ Chí Minh là một nhân vật kiệt xuất của lịch sử bởi những đóng góp của Người vào kiến tạo hòa bình, hòa giải, thúc đẩy và tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc. Phát hiện và khai thác điểm chung mưu cầu hạnh phúc cho loài người, mưu cầu phúc lợi cho xã hội trong chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa Tôn Dật Tiên, Khổng giáo, Thiên Chúa giáo là một tư duy hiếm thấy trong tư tưởng nhân loại. Theo Người, văn hóa Việt Nam là sự kết hợp có chọn lọc văn hóa phương Đông và phương Tây.

Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự tiếp nhận các trào lưu tư tưởng, là giao hòa sự đa dạng, tôn trọng các nền văn hóa, sự kết tinh các giá trị thời đại, mở ra xu hướng trao đổi và đối thoại giữa các nền văn hóa, góp phần thúc đẩy sự xích lại gần nhau của các nền văn hóa, được bạn bè quốc tế thừa nhận. Trong Hội thảo quốc tế tổ chức tại Việt Nam Kỷ niệm 100 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, một đại biểu phát biểu: “Chúng tôi đến đây, có người theo đạo Hồi, có người theo đạo Phật, đạo Tin lành, đạo Thiên Chúa, trước chúng tôi không hiểu nhau, qua hai ngày hội thảo, chúng tôi có thể ngồi lại nói chuyện vui vẻ với nhau, vì chúng tôi có cái chung là lý tưởng Hồ Chí Minh: muốn cho nhân loại được tự do, hạnh phúc”. Tại Hội thảo quốc tế lớn với chủ đề “Hồ Chí Minh - Việt Nam - Hòa bình thế giới”, nhân dân Ấn Độ cảm ơn Việt Nam, ngưỡng mộ Hồ Chí Minh, coi Người là lãnh tụ của Việt Nam và của cả chính họ. Dự hội thảo có khoảng 12.000 người xếp thành hình ảnh Hồ Chí Minh, thành khẩu hiệu “Hồ Chí Minh muôn năm”. Tổng thống Ấn Độ coi kỷ niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là nhiệm vụ quốc tế mà còn là nhiệm vụ của quốc gia Ấn Độ.

Hồ Chí Minh đã tạo nên “chất keo” gắn kết các dân tộc, sợi dây bền chặt nối liền các nền văn hóa. Chính những suy nghĩ, việc làm tiến bộ, tích cực của Người đã xóa bỏ những rào cản của các nền văn hóa khác nhau liên quan đến chủng tộc, màu da, tiếng nói, tôn giáo, thể chế chính trị. Theo Hồ Chí Minh, hòa bình là khát vọng của nhân loại tiến bộ. Chế độ chính trị khác nhau không ngăn cản việc chung sống hòa bình và phấn đấu cho một nền hòa bình bền vững. Người “tin chắc rằng mọi sự phân tranh trên thế giới đều có thể giải quyết bằng cách hòa bình; tin chắc rằng các nước dù chế độ xã hội khác nhau và hình thái ý thức khác nhau cũng đều có thể chung sống hòa bình được”. Hồ Chí Minh chỉ ra giải pháp thiết lập một nền hòa bình bền vững trên thế giới là mỗi dân tộc cần có ý thức và trách nhiệm về giá trị cao quý của hòa bình và bằng mọi cách để có được hòa bình. Các nước, nhất là những nước lớn, cần có thái độ hợp tác chân thành, giải quyết mâu thuẫn bằng thương lượng hòa bình, không đe dọa và dùng vũ lực, không có thái độ “cá lớn nuốt cá bé”. Tổ chức UNESCO tôn vinh Hồ Chí Minh là nhà văn hóa kiệt xuất, đề cao việc thúc đẩy các nền văn hóa xích lại gần nhau. Trong trao đổi và đối thoại văn hóa, Hồ Chí Minh đã tạo ra một công cụ hữu hiệu để kiến tạo hòa bình. Câu nói nổi tiếng: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do!” có giá trị toàn cầu vì nó khẳng định khát vọng về những giá trị chung của nhân loại; đoàn kết thế giới theo tinh thần “bốn phương vô sản, bốn biển đều là anh em”; là tình hữu nghị, hữu ái giữa nhân dân các nước; là thái độ và tấm lòng vị tha, nhân văn, nhân đạo cao cả, v.v..

Hồ Chí Minh yêu Tổ quốc và đồng bào mình, cũng yêu nhân dân và Tổ quốc các nước. Người quý trọng sinh mệnh của người Việt Nam cũng như sinh mệnh của người nước khác. Trong ngày thực dân Pháp nổ súng gây hấn ở Nam Bộ, trở lại xâm lược Việt Nam (23-9-1945), cùng với việc phê phán một số người Pháp gây nên cuộc xung đột đổ máu giữa hai bên, Hồ Chí Minh “nghiêng mình trước anh hồn những chiến sĩ và đồng bào Việt Nam, đã vì Tổ quốc mà hy sinh tính mệnh”. Người “cũng ngậm ngùi thương xót cho những người Pháp đã tử vong. Than ôi, trước lòng bác ái, thì máu Pháp hay máu Việt cũng đều là máu, người Pháp hay người Việt cũng đều là người”.

Khi Hồ Chí Minh qua đời, Đảng Cộng sản Mỹ trong điện chia buồn đã viết những lời hết sức cảm động: “Nhân loại đã mất một vị lãnh tụ cách mạng vĩ đại, một người thầy mácxít - lêninnít xuất sắc mà tấm lòng ưu ái đầy thi vị mong muốn một thế giới tốt đẹp có hương hoa tươi thắm và tiếng cười náo nức của trẻ em đã thấm nhuần vào chủ nghĩa nhân đạo toàn diện của cuộc đời mà Người đã sống, thấm nhuần vào những việc kỳ diệu mà Người đã làm và sự nghiệp trọn đời Người đã phục vụ. Tên tuổi của đồng chí Hồ Chí Minh sẽ mãi mãi gắn bó với những hành động cao cả nhất và những ước mơ cao quý nhất của nhân loại nhằm thực hiện một khối cộng đồng anh em thực sự của nhân dân các nước được hưởng quyền bình đẳng và được thỏa mãn đầy đủ về những nhu cầu vật chất và tinh thần của mình, một thế giới không có chiến tranh, không có sự tàn bạo, nghèo khổ và phân biệt đối xử”. Một đại biểu Mỹ phát biểu trong Hội thảo quốc tế Kỷ niệm 100 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Nếu chủ nghĩa cộng sản như chủ nghĩa cộng sản Hồ Chí Minh thì cũng chấp nhận được”.

Bạn bè thế giới, học giả quốc tế đã nói lên những điều chúng ta cần nói về Hồ Chí Minh - người kết tinh, tỏa sáng những giá trị trường tồn của thời đại. Đúng như ngài Rômét Chanđra, Chủ tịch Hội đồng hòa bình thế giới đã viết: “Bất cứ nơi nào chiến đấu cho độc lập tự do, ở đó có Hồ Chí Minh và ngọn cờ Hồ Chí Minh bay cao. Bất cứ ở đâu chiến đấu cho hòa bình và công lý, ở đó có Hồ Chí Minh và ngọn cờ Hồ Chí Minh bay cao. Ở bất cứ đâu nhân dân chiến đấu cho một thế giới mới, chống lại đói nghèo, ở đó có Hồ Chí Minh và ngọn cờ Hồ Chí Minh bay cao”./.

ST.