Thực tiễn những thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong 90 năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng đã chứng minh rằng: Nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng Cộng sản Việt Nam là chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Những thành tựu đạt được trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ đất nước, nhất là trong gần 40 năm đổi mới, hội nhập quốc tế sâu rộng chính là nhờ sự kiên định, nắm vững và vận dụng sáng tạo, đúng đắn chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong thực tiễn, đáp ứng yêu cầu phát triển bức thiết của cách mạng Việt Nam và phù hợp với quy luật phát triển của thời đại.
Trong giai đoạn hiện nay, tình hình thế giới, khu vực và trong nước có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường, đã tác động trực tiếp, tiêu cực đến công tác bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội; đặc biệt là từ sau sự kiện sụp đổ của mô hình xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu, các thế lực thù địch, phản động, chống đối trong và ngoài nước đã coi đây là một cơ hội thuận lợi cùng với việc lợi dụng những hạn chế, thiếu sót của chính chúng ta trong tổ chức thực hiện đường lối chính trị của Đảng để ráo riết đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền, phá hoại tư tưởng, chống Đảng, Nhà nước ta với dã tâm là xóa bỏ nền tảng tư tưởng chủ nghĩa xã hội và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta, hoạt động đó đã gây ra không ít hệ lụy, hậu quả trên các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại của đất nước.
Trước yêu cầu cấp thiết của thời cuộc, ngày 22/10/2018, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 35-NQ/TW về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”. Nghị quyết khẳng định: “Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là bảo vệ Đảng, Cương lĩnh chính trị, đường lối của Đảng; bảo vệ nhân dân, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; bảo vệ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; giữ gìn môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước”. Đây là một nội dung “cơ bản, hệ trọng, sống còn” của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng nhằm đáp ứng yêu cầu cấp bách của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, của cả hệ thống chính trị; là công việc tự giác, thường xuyên của cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và đoàn thể chính trị - xã hội các cấp; của từng địa phương, cơ quan, đơn vị, của từng cán bộ, đảng viên, trước hết là người đứng đầu. Theo đó, nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch không của riêng một đơn vị hay cá nhân nào, mà là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội trong đó có thế hệ trẻ Việt Nam – lực lượng dự bị hùng hậu của cách mạng nước ta.
Nhận thức sâu sắc vị trí, tầm quan trọng của nhiệm bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các luận điệu sai trái, thù địch nhất là những những thông tin xuyên tạc, sai sự thật trên mạng xã hội, thời gian qua, Thế hệ trẻ đã tham gia xây dựng các trang thông tin điện tử, cổng thông tin, các trang mạng xã hội dưới sự hướng dẫn của Trung ương Đoàn, Trung ương Hội Liên hiệp thanh niên Việt Nam, theo đó, các tỉnh, thành Đoàn và Ủy ban Hội tỉnh, thành phố; các Đoàn trực thuộc và các Ủy ban Hội trực thuộc tương đương cấp tỉnh đã xây dựng và vận hành cổng thông tin điện tử, 100% tổ chức đoàn từ Trung ương đến cơ sở (gồm 67 đầu mối trực thuộc, hơn 1.400 đơn vị đoàn cấp huyện, hơn 11.000 đơn vị đoàn cấp xã) đã triển khai xây dựng, vận hành trang Facebook tuyên truyền; ứng dụng tiện ích cộng nghệ Bigdata,real-time để thống kê các lượt tương tác và nắm bắt dư luận xã hội; đổi mới phương thức tuyên truyền thông qua việc thường xuyên sử dụng các phim ngắn đồ họa, bản đồ tư duy triển khai các nội dung tuyên truyền, giáo dục;... Nhiều tuyến tin bài sắc bén đấu tranh, phản bác với các tin đồn, luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch đã được đăng tải trên mạng xã hội; bước đầu có sự kết nối, phối hợp giữa các lực lượng trong chia sẻ thông tin tích cực, đấu tranh, gỡ bỏ các tài khoản mạng xã hội xấu độc, đảm bảo giữ vững tình hình an ninh trật tự trên địa bàn.
Thế hệ trẻ đã tích cực triển khai nhiều giải pháp đồng bộ nhằm đấu tranh, ngăn chặn, chủ động phòng chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, bước đầu đạt những kết quả quan trọng. Các cấp bộ Đoàn đã tích cực tham mưu cho các cấp ủy, chỉ huy các cấp, triển khai các mô hình, công trình, phần việc thanh niên xung kích đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, tham gia đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch trên không gian mạng như thành lập Câu lạc bộ lý luận trẻ, Câu lạc bộ bút chiến, đấu tranh phản bác; câu lạc bộ truyền thông; thường xuyên nắm bắt tình hình, định hướng dư luận xã hội trong đoàn viên thanh niên; kịp thời cung cấp những thông tin chính xác, minh bạch theo các nguồn tin chính thống; tổ chức sinh hoạt chính trị, tọa đàm, diễn đàn đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch; đồng thời đẩy mạnh cuộc vận động “Mỗi ngày một tin tốt, mỗi tuần một câu chuyện đẹp”, tuyên truyền gương người tốt, việc tốt, những câu chuyện hay, hình ảnh đẹp, thông tin tích cực của tuổi trẻ Việt Nam trên các phương tiện truyền thông, các trang mạng xã hội nhằm góp phần đẩy lùi thông tin xấu độc, hướng đoàn viên thanh niên đến với các giá trị chân - thiện - mỹ trong học tập, công tác, chiến đấu.
Đoàn viên thanh niên đã phát huy vai trò xung kích bảo vệ nền tảng của Đảng, đấu tranh phản bác thông tin xấu độc trên không gian mạng khi trực tiếp tham mưu cho Ban Chỉ đạo Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới của đơn vị đấu tranh và làm thất bại nhiều âm mưu phá hoại, nhằm lật đổ chính quyền của hàng chục tổ chức phản động trong và ngoài nước; ngăn chặn, vô hiệu hóa trên các đợt kêu gọi, kích động biểu tình; xây dựng và tổ chức các kế hoạch đấu tranh phản bác gắn với các vụ việc được dư luận quan tâm để ổn định tình hình, trấn áp thông tin tiêu cực; tham gia chính danh và trực diện với tư cách cộng tác viên đăng tải hàng trăm nghìn bài viết đấu tranh phản bác các thông tin bịa đặt, sai sự thật, xuyên tạc, vu cáo của các thế lực thù địch chống phá các sự kiện chính trị của Đảng, Nhà nước… trên các website, trang blog, mạng xã hội, tạp chí, đầu báo chính thống trong và ngoài lực lượng, góp phần nâng cao chất lượng công tác đấu tranh, phản bác trên không gian mạng.
Trong giai đoạn hiện nay, “xây dựng nền hành chính nhà nước phục vụ nhân dân, dân chủ, pháp quyền, chuyên nghiệp, hiện đại, trong sạch, vững mạnh, công khai, minh bạch”(35) được Đảng ta xác định là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, then chốt trong tiến trình xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Lực lượng chủ công thực thi nhiệm vụ nêu trên chỉ có thể là đội ngũ cán bộ, công chức hành chính.
Cán bộ hành chính gồm những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ trong các cơ quan của Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở Trung ương, ở các tỉnh thành trực thuộc Trung ương, ở huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh, như chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh và cấp huyện; những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ trong thường trực hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân, bí thư, phó bí thư đảng ủy; người đứng đầu trong các cơ quan của Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở xã, phường, thị trấn, như chủ tịch, phó chủ tịch hội đồng nhân dân; chủ tịch, phó chủ tịch ủy ban nhân dân, chủ tịch ủy ban Mặt trận Tổ quốc, bí thư đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, chủ tịch hội liên hiệp phụ nữ, chủ tịch hội nông dân và chủ tịch hội cựu chiến binh.
Công chức hành chính gồm những người được tuyển dụng, bổ nhiệm vào một ngạch công chức hoặc được giao giữ một chức vụ thường xuyên trong các cơ quan nhà nước ở Trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện, như cán sự, chuyên viên làm việc trong các sở thuộc ủy ban nhân dân cấp tỉnh, các phòng thuộc ủy ban nhân dân cấp huyện; những người được tuyển dụng, được giao giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc ủy ban nhân dân cấp xã, gồm có các chức danh: Chỉ huy trưởng quân sự, văn phòng - thống kê, địa chính - xây dựng, tài chính - kế toán, tư pháp - hộ tịch, văn hóa - xã hội.
Yêu cầu đặt ra đối với việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nói chung, cán bộ, công chức hành chính nói riêng hiện nay là phải: “Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, phục vụ nhân dân và sự phát triển của đất nước...; có cơ chế lựa chọn, đào tạo, thu hút, trọng dụng nhân tài, khuyến khích bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách và quyết liệt trong hành động vì lợi ích chung”(36). Một trong những giải pháp quan trọng, hiệu quả để hiện thực hóa yêu cầu nói trên là phải tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính; hướng tới xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới.
Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính là hoạt động có định hướng, có tổ chức, thông qua các phương pháp và bằng các hình thức phù hợp, hướng tới cung cấp, trang bị cho đội ngũ cán bộ, công chức hành chính những tri thức, hiểu biết về chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ nói chung, những kiến thức pháp luật cụ thể, cần thiết, liên quan đến hoạt động công vụ nói riêng; qua đó, góp phần nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, kiến thức pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức hành chính.
Sự vận dụng giá trị quan điểm Hồ Chí Minh về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức vào thực tiễn xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính ở nước ta hiện nay thể hiện trên những điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, phải xác định cụ thể, rõ ràng mục đích đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ, công chức hành chính.
Mục đích là cái mà cả quá trình đào tạo, bồi dưỡng phải hướng tới và là kết quả cuối cùng mà công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính phải đạt được. Nghị định số 101/2017/NĐ-CP, ngày 1-9-2017, của Chính phủ về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức quy định mục tiêu đào tạo, bồi dưỡng là trang bị kiến thức, kỹ năng, phương pháp thực hiện nhiệm vụ trong hoạt động công vụ của cán bộ, công chức và hoạt động nghề nghiệp của viên chức, góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức chuyên nghiệp, có phẩm chất đạo đức tốt, có bản lĩnh chính trị và năng lực, đáp ứng yêu cầu phục vụ nhân dân, sự nghiệp phát triển của đất nước.
Mục đích của đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính là cung cấp, trang bị cho đội ngũ cán bộ, công chức hành chính những phẩm chất đạo đức cách mạng, tri thức, hiểu biết về chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ nói chung, những kiến thức pháp luật cụ thể, cần thiết, liên quan đến hoạt động công vụ nói riêng; góp phần nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, kiến thức pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức hành chính. Nếu như trên bình diện chung, Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy: “Học để làm việc, làm người, làm cán bộ. Học để phụng sự đoàn thể, giai cấp và nhân dân, Tổ quốc và nhân loại”; thì cụ thể hóa lời dạy của Người vào hoạt động đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức hành chính trong giai đoạn hiện nay, mục đích đó chính là: Xây dựng được đội ngũ cán bộ, công chức có đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, phục vụ nhân dân và sự phát triển của đất nước; dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách và quyết liệt trong hành động vì lợi ích chung.
Thứ hai, phải nâng cao năng lực đào tạo, bồi dưỡng của các chủ thể tham gia đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính.
Chất lượng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính, trước hết, phụ thuộc vào năng lực đào tạo, bồi dưỡng, nhận thức về chức năng, nhiệm vụ và ý thức trách nhiệm của các chủ thể tham gia công tác đào tạo, bồi dưỡng, cụ thể là các cơ sở giáo dục có chức năng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức hành chính. Các cơ sở giáo dục cần xúc tiến mạnh mẽ sự chuẩn bị về cơ sở vật chất (giảng đường, thư viện, phòng đọc, trang thiết bị công nghệ thông tin, kết nối mạng internet...), các chương trình đào tạo, bồi dưỡng chuẩn, thiết thực, phù hợp với nhu cầu của từng nhóm đối tượng cán bộ, công chức hành chính; xây dựng được đội ngũ giảng viên, chuyên gia có chất lượng chuyên môn cao, có kỹ năng sư phạm và tâm huyết; sẵn sàng để thực hiện nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính. Xây dựng đội ngũ cán bộ, giảng viên, chuyên gia có uy tín, chất lượng, trình độ chuyên môn cao, có kỹ năng nghiệp vụ sư phạm giỏi, có đạo đức nghề nghiệp, tâm huyết với công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính phải được coi là nhiệm vụ thường xuyên, có tầm chiến lược của các cơ sở giáo dục; với tinh thần “không cốt nhiều, chỉ cốt tinh”, để thực hiện lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về “cốt thiết thực, chu đáo hơn tham nhiều”.
Nhân viên Trung tâm Phục vụ Hành chính công tỉnh Quảng Ninh hướng dẫn người dân và doanh nghiệp dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, 4_Ảnh: Tư liệu
Thứ ba, đối với đội ngũ cán bộ, công chức hành chính, cần chuẩn bị năng lực nhận thức, các điều kiện vật chất, tinh thần khác để sẵn sàng lĩnh hội kiến thức chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ, tri thức pháp luật cần thiết cho hoạt động chuyên môn, đáp ứng yêu cầu công vụ.
Chất lượng, hiệu quả của công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính không chỉ phụ thuộc vào chủ thể, mà còn phụ thuộc phần lớn vào chính đội ngũ cán bộ, công chức hành chính. Các nhà giáo, chuyên gia dù có giỏi đến mấy, đáp ứng được mọi yêu cầu, nhưng nếu không nhận được sự hợp tác chủ động, tích cực từ phía đội ngũ cán bộ, công chức hành chính, thì không thể có được chất lượng, hiệu quả đào tạo, bồi dưỡng như mong muốn. Mỗi cán bộ, công chức hành chính cần phải chủ động, tự giác, tích cực tham gia các khóa đào tạo, bồi dưỡng, xuất phát từ nhu cầu lĩnh hội nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ, hiểu biết pháp luật.
Bên cạnh đó, mỗi cán bộ, công chức hành chính cần thường xuyên cập nhật thông tin về lĩnh vực chuyên môn của bản thân, chủ động tìm hiểu các chính sách, văn bản pháp luật mới, nhất là những văn bản pháp luật liên quan đến lĩnh vực chuyên môn đang đảm trách; nghĩa là phải phát huy tinh thần tự học như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: Việc học phải lấy tự học làm cốt. Một mặt, nếu một cán bộ, công chức hành chính, dù đã tốt nghiệp kỹ sư, cử nhân, mà dừng lại, tự hài lòng, thỏa mãn với tấm bằng đại học của mình thì sẽ nhanh chóng trở nên lạc hậu trước những thay đổi nhanh chóng của thực tiễn đời sống. Mặt khác, mỗi cán bộ, công chức hành chính cũng cần thường xuyên rèn luyện các kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức chuyên môn, hiểu biết pháp luật vào quá trình thực thi công vụ, giải quyết nhiệm vụ được giao.
Thư tư, tiếp tục đổi mới nội dung đào tạo, bồi dưỡng toàn diện cho đội ngũ cán bộ, công chức hành chính.
Ngoài những nội dung có tính chất chuyên biệt, chuyên sâu về lĩnh vực chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ của từng nhóm đối tượng cán bộ, công chức hành chính, còn cần phải chú trọng đào tạo, bồi dưỡng cao cấp lý luận chính trị, trung cấp lý luận chính trị; bồi dưỡng các kỹ năng lãnh đạo, quản lý; bồi dưỡng nội dung quản lý nhà nước trên các lĩnh vực; bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, an ninh; bồi dưỡng ngoại ngữ, tin học; đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức hành chính thuộc các cấp, các ngành phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ, nhu cầu và công tác quy hoạch cán bộ của Đảng, Nhà nước, các cơ quan hữu quan.
Các cơ sở giáo dục có chức năng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức hành chính cần tập trung xây dựng các bộ giáo trình, tài liệu tham khảo riêng cho từng nhóm đối tượng cán bộ, công chức hành chính; bảo đảm độ sâu cần thiết về kiến thức chuyên môn, chuyên ngành, các kỹ năng nghiệp vụ, những kiến thức pháp luật phù hợp cho từng nhóm đối tượng. Khi thiết kế nội dung chương trình đào tạo, bồi dưỡng cần căn cứ vào nhu cầu thông tin, kiến thức của từng đối tượng cán bộ, công chức hành chính; bổ sung, cập nhật kịp thời những vấn đề mới về chuyên môn, nghiệp vụ, các văn bản, chính sách, pháp luật mới vào nội dung đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ, công chức hành chính. Quá trình triển khai nội dung các môn học, học phần phải gắn lý luận với thực tiễn hành chính công vụ sinh động, tránh lý luận suông, khô khan, giáo điều, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: Phải gắn liền lý luận với công tác thực tế. Nội dung bồi dưỡng cũng cấn chú trọng trang bị cho đội ngũ cán bộ, công chức hành chính các kiến thức về phương pháp, kỹ năng thực hành công vụ, về áp dụng kiến thức pháp luật vào thực tiễn công vụ.
Thứ năm, đổi mới phương pháp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức hành chính.
Đây là vấn đề cần được các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, các nhà giáo, chuyên gia đặc biệt quan tâm. Mặc dù trong những năm qua, các chủ thể đào tạo, bồi dưỡng ở nước ta đã áp dụng nhiều giải pháp nhằm đổi mới phương pháp đào tạo, bồi dưỡng; song, kết quả vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của Nhà nước và xã hội. Để tạo ra bước đột phá trong việc đổi mới phương pháp đào tạo, bồi dưỡng, các cơ sở giáo dục cần tập trung thực hiện có hiệu quả các giải pháp nhằm hướng trọng tâm của quá trình đào tạo, bồi dưỡng vào đội ngũ cán bộ, công chức hành chính, phát huy tính chủ động, tích cực, sáng tạo, tạo động lực cho họ đầu tư nhiều thời gian cho việc tự học. Muốn vậy, trước hết, cần kết hợp hài hòa giữa phương pháp thuyết trình truyền thống với phương pháp giảng dạy tích cực, như: nêu vấn đề, kết hợp giảng lý thuyết với việc nêu ra các tình huống và bài tập trắc nghiệm... Đội ngũ thầy, cô giáo hạn chế sử dụng phương pháp thuyết trình theo lối độc thoại một chiều; tăng cường các phương pháp đối thoại, thảo luận nhóm theo các chủ đề chuyên môn, phương pháp nêu tình huống, sự kiện thực tế để lôi cuốn cán bộ, công chức hành chính tích cực tranh luận, thảo luận, tìm ra hướng giải quyết hợp lý nhất... Chủ động chuyển mạnh từ “lấy người dạy làm trung tâm” sang phương pháp “lấy người học làm trung tâm”. Trong thời đại bùng nổ thông tin hiện nay, để nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng, mỗi giảng viên, chuyên gia cần ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy; mỗi cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cần xây dựng hệ thống thư viện điện tử, tạo cho cán bộ, công chức hành chính khả năng tiếp cận công nghệ hiện đại phục vụ hiệu quả cho việc học tập.
Các cơ sở giáo dục có chức năng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức hành chính cần triển khai tổng kết, đánh giá ưu điểm, nhược điểm của các phương pháp đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ, công chức hành chính; từ đó, tìm ra các phương pháp phù hợp với từng nhóm đối tượng. Cần có sự phân loại nội dung đào tạo, bồi dưỡng gắn với đặc thù của từng nhóm đối tượng cán bộ, công chức hành chính để sử dụng phương pháp đào tạo, bồi dưỡng phù hợp; tránh sự lãng phí, tốn kém không cần thiết về thời gian, công sức, tiền của.
Tư tưởng, quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về huấn luyện, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức nói chung, cán bộ, công chức hành chính nói riêng rất cụ thể, thiết thực và vẫn còn nguyên giá trị đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính ở nước ta hiện nay. Vận dụng giá trị quan điểm của Người về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức vào thực tiễn xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính ở nước ta hiện nay đòi hỏi phải chú trọng thực hiện kỹ lưỡng từng mắt khâu, yếu tố của hoạt động đào tạo, bồi dưỡng, từ việc xác định mục đích, chủ thể, đối tượng đào tạo, bồi dưỡng cho tới xây dựng nội dung, lựa chọn phương pháp đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính. Chỉ khi đó, chúng ta mới có thể xây dựng được đội ngũ cán bộ, công chức hành chính có đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, phục vụ nhân dân và sự phát triển của đất nước; dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách và quyết liệt trong hành động vì lợi ích chung... như Đại hội XIII của Đảng đã đề ra./.
Từ
hiện tượng cá biệt quy kết thành bản chất tuy là thủ đoạn không mới,
nhưng vô cùng nguy hiểm. Những thế lực sử dụng thủ đoạn này hoặc là
thiếu hiểu biết về việc xem xét bản chất của sự việc (trường hợp này
không nhiều), hoặc là cố tình lờ đi nguyên tắc xem xét, đánh giá bản
chất của sự việc từ những hiện tượng đơn lẻ (trường hợp này là nhiều).
Do đó, họ đã quy kết, đồng nhất hiện tượng với bản chất. Đây thực chất
là thủ đoạn xuyên tạc, thổi phồng kiểu “vơ đũa cả nắm” với mưu đồ chống
phá. Dễ dàng nhận thấy mục đích đằng sau thủ đoạn này là các thế lực thù
địch muốn quy chụp, vu cáo những sai lầm, hạn chế của Đảng và Nhà nước
ta từ những vụ, việc cụ thể, cá biệt thành hiện tượng phổ biến, có tính
quy luật nhằm làm trầm trọng hơn vấn đề, khoét sâu thêm những khuyết tật
đã có. Mục đích sâu xa của thủ đoạn này là nhằm hạ thấp năng lực lãnh
đạo, quản lý của Đảng và Nhà nước ta, cổ xúy và thúc đẩy tình trạng phản
đối, khiếu kiện, chống phá Đảng, Nhà nước, chính quyền của một bộ phận
nhân dân kém hiểu biết, bản lĩnh chính trị không vững vàng; từ đó mưu
toan hướng lái sự phát triển của Việt Nam theo con đường mà các thế lực
thù địch, phản động, cơ hội chính trị cho là “tối ưu nhất” - con đường
phát triển tư bản chủ nghĩa.
Có
thể thấy rõ sự phiến diện, sai lầm trong cách quy kết đó. Chúng ta
không phủ nhận những sai lầm, hạn chế, khuyết điểm từ những hiện tượng
mà các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị đã đưa ra, song
điều nguy hại là ở chỗ nó đã bị xuyên tạc, bóp méo qua lăng kính chủ
quan với mưu đồ chống phá nguy hiểm. Ví như, từ sự quy chụp sự sụp đổ
của chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và các nước Đông Âu mà quy kết
là sự “cáo chung” của lý luận về chủ nghĩa xã hội của chủ nghĩa Mác -
Lê-nin. Mặc dù Liên Xô và các nước Đông Âu là những nước tiêu biểu về
xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện thực ở thế kỷ XX, nhưng sự sụp đổ không
phải là sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa với tính cách là hình thái kinh
tế - xã hội mà loài người hướng đến. Nguyên nhân của sự sụp đổ đó không
phải là do những sai lầm cố hữu của chủ nghĩa Mác mà “bắt nguồn từ chủ
nghĩa giáo điều và xét lại trong đường lối chính trị, tư tưởng và tổ
chức của Đảng cầm quyền, cùng sự phản bội của một số người lãnh đạo cao
nhất ở đó đối với những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê-nin”(13).
Hơn nữa còn do cả sự phản bội của một số lãnh đạo cấp cao của Đảng Cộng
sản Liên Xô lúc bấy giờ đúng như lời thú nhận của M.X. Goóc-ba-chốp
được A.P. Sê-vi-a-kin công bố trong cuốn sách nổi tiếng “Bí ẩn diệt vong
của Liên Xô - lịch sử những âm mưu và phản bội năm 1945 - 1991”. Đó là:
“Mục tiêu của toàn bộ cuộc đời tôi là tiêu diệt chủ nghĩa cộng sản.
Chính vì để đạt được mục tiêu này, tôi đã sử dụng địa vị của mình trong
Đảng và trong Nhà nước. Khi trực tiếp làm quen với phương Tây, tôi đã
hiểu rằng tôi không thể từ bỏ mục tiêu chống cộng sản đặt ra. Và để đạt
được nó, tôi đã phải thay đổi toàn bộ Ban Chấp hành Đảng Cộng sản Liên
Xô và Xô-viết tối cao cũng như Ban Lãnh đạo ở tất cả các nước Cộng hòa.
Tôi đã tìm kiếm những người ủng hộ để hiện thực hóa mục tiêu đó, trong
số này đặc biệt có A.Ya-kốp-lép, Sê-vát-nát-de...”(14).
Từ
tình trạng suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ
phận cán bộ, đảng viên, nhất là tình trạng tham nhũng mà các thế lực thù
địch, phản động quy kết cả đội ngũ cán bộ, đảng viên của nước ta thoái
hóa, biến chất hay Đảng ta không có khả năng đấu tranh chống tham nhũng,
Đảng chỉ dám đánh “con tôm, con tép”. Thực tiễn cho thấy, chúng ta
không thể phủ nhận tình trạng suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên trong những năm gần đây có những
biểu hiện ngày càng nghiêm trọng, nhưng số cán bộ, đảng viên vi phạm
chỉ chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong tổng số cán bộ, đảng viên trên cả nước.
Ngoài những cán bộ có biểu hiện tiêu cực, có rất nhiều cán bộ, đảng viên
luôn vững vàng về bản lĩnh chính trị, nêu cao trách nhiệm cống hiến vì
xã hội, vì cộng đồng và có đóng góp to lớn cho sự phát triển của đất
nước, được nhân dân tin tưởng, yêu mến và tôn vinh. Những thành tựu to
lớn và có ý nghĩa lịch sử của đất nước, thời gian qua không thể không kể
đến sự đóng góp của đội ngũ cán bộ, đảng viên trong cả nước. Họ không
chỉ lãnh đạo, quản lý đất nước, mà thực sự còn là cầu nối giữa nhân dân
với Đảng, Nhà nước, là nơi gửi gắm niềm tin yêu, sự tôn trọng của nhân
dân.
Trước
tình trạng phát triển kinh tế - xã hội của đất nước còn nhiều hạn chế,
tăng trưởng kinh tế còn chậm, các thế lực thù địch quy kết rằng, Đảng
Cộng sản Việt Nam đã mất vai trò lãnh đạo, đường lối đổi mới của Việt
Nam không thành công. Đó thực chất là những luận điệu chủ quan, duy ý
chí, thể hiện rõ mưu đồ quy chụp. Để đánh giá đúng vai trò lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam hay kết quả của công cuộc đổi mới đất nước, cần
có cái nhìn khách quan, công tâm, trên tinh thần khoa học, biện chứng
mới thấy rõ hết được. Chúng ta không phủ nhận rằng, hiện nay Việt Nam
vẫn còn là một nước đang phát triển, mức độ tăng trưởng thấp hơn so với
các nước trong khu vực và trên thế giới, nhưng nhìn lại cả chặng đường
đã đi qua, nhất là từ khi đổi mới đến nay, chúng ta mới thấy hết được
những bước phát triển vượt bậc của đất nước. Điều này đã được đồng chí
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Việc thực hiện đường lối đổi
mới đã đem lại những chuyển biến rõ rệt, hết sức sâu sắc và tích cực ở
Việt Nam: kinh tế phát triển, lực lượng sản xuất được tăng cường; nghèo
đói giảm nhanh, liên tục; đời sống nhân dân được cải thiện, nhiều vấn đề
xã hội được giải quyết; chính trị, xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh
được bảo đảm; đối ngoại và hội nhập quốc tế ngày càng được mở rộng; thế
và lực của quốc gia được tăng cường; niềm tin của nhân dân vào sự lãnh
đạo của Đảng được củng cố”(15). Đó là những bằng chứng thuyết
phục để khẳng định vai trò lãnh đạo to lớn của Đảng Cộng sản Việt Nam,
khẳng định đường lối đổi mới của Việt Nam là hoàn toàn đúng đắn, vừa phù
hợp với quy luật khách quan, vừa đáp ứng yêu cầu, nguyện vọng chính
đáng của nhân dân. Đây cũng chính là căn cứ thực tiễn sinh động để phản
bác những thủ đoạn chống phá tinh vi của các thế lực thù địch, trong đó
có thủ đoạn quy kết những hiện tượng đơn lẻ, cá biệt thành bản chất.
Thủ
đoạn chống phá quy kết những hiện tượng cá biệt thành bản chất tuy
không mới, nhưng cũng không thể xem nhẹ, coi thường vì nó dễ khiến người
khác hiểu sai, gây tâm lý hoang mang, mất niềm tin. Do đó, cần có những
biện pháp hợp lý để đấu tranh ngăn chặn.
Một là,
cần nâng cao tinh thần cảnh giác cho nhân dân trước các luận điệu xuyên
tạc của các thế lực thù địch, phản động và cơ hội chính trị. Các tổ
chức đảng, chính quyền, đoàn thể phải không ngừng tuyên truyền, giúp
nhân dân nhận diện rõ thủ đoạn tinh vi, nguy hiểm của các thế lực thù
địch khi quy kết những hiện tượng cá biệt thành bản chất để tránh bị các
thế lực lôi kéo, mua chuộc, kích động. Ngoài ra, cần động viên, khích
lệ, hướng dẫn nhân dân tham gia đấu tranh phản bác những âm mưu, thủ
đoạn chống phá của các thế lực thù địch bằng điều kiện, khả năng của
mình nhằm nâng cao “sức đề kháng” trước những hoạt động chống phá tinh
vi của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị.
Cán bộ, chiến sĩ Công an nhân dân
huyện Si Ma Cai, tỉnh Lào Cai tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp
luật, nâng cao tinh thần cảnh giác cho nhân dân trước các luận điệu
xuyên tạc của các thế lực thù địch
_Nguồn: congan.laocai.gov.vn
Hai là,
tiếp tục phát huy vai trò của báo chí, truyền thông trong việc tuyên
truyền, lan tỏa những kết quả tích cực trong phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước để, một mặt, “lấy cái đẹp dẹp cái xấu”; mặt khác, từng
bước pha loãng những thông tin xấu, độc, có nội dung xuyên tạc, quy
chụp, võ đoán để các thông tin tích cực chiếm ưu thế trên báo chí,
truyền thông, mạng xã hội. Ngoài ra, trước những vụ, việc có dấu hiệu bị
quy chụp, xuyên tạc, các cơ quan báo chí, truyền thông cần phát huy vai
trò trong việc định hướng tư tưởng cho nhân dân theo những luồng thông
tin chính thống, tránh để các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính
trị chiếm lĩnh thông tin, dẫn dắt dư luận theo ý muốn chủ quan để dễ bề
thực hiện mưu đồ chống phá.
Ba là,
cần chủ động có những biện pháp phù hợp để đấu tranh nhằm vô hiệu hóa
các thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch. Căn cứ vào vai trò,
nhiệm vụ của các lực lượng chuyên trách, nòng cốt để xây dựng những
phương án đấu tranh phù hợp với thủ đoạn quy chụp từ những hiện tượng cá
biệt thành bản chất. Với lực lượng tuyên giáo các cấp, cần phát huy vai
trò trong việc tuyên truyền, vận động nhân dân nâng cao tinh thần cảnh
giác trước các luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch. Với đội ngũ
chuyên gia, cần đẩy mạnh nghiên cứu, cung cấp các luận cứ khoa học sắc
bén, thuyết phục để phản bác những âm mưu, thủ đoạn chống phá. Với lực
lượng xung kích (công an, quân đội, thanh niên...) cần thực hiện đồng
bộ, quyết liệt các biện pháp kỹ thuật để bóc gỡ, ngăn chặn, xử lý những
thủ đoạn chống phá; đồng thời, tăng cường đấu tranh trên không gian
mạng, mở rộng mạng lưới đấu tranh trong nhân dân để quy tụ và phát huy
sức mạnh tổng lực.
Từhiện
tượng cá biệt quy kết thành bản chất là một trong những thủ đoạn tinh
vi mà các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị thường xuyên
thực hiện nhằm chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa mà
nhân dân ta đang xây dựng. Nhận diện bản chất của thủ đoạn đó để nâng
cao tinh thần cảnh giác, ý thức trách nhiệm là cách mỗi chúng ta đấu
tranh với những thủ đoạn chống phá đó, góp phần bảo vệ Đảng, bảo vệ chế
độ, củng cố niềm tin của nhân dân vào sự nghiệp đổi mới và phát triển
đất nước trong giai đoạn hiện nay./.
Chống
phá Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang xây
dựng là mục tiêu lâu dài, xuyên suốt của các thế lực thù địch, phản
động, cơ hội chính trị. Để thực hiện mục tiêu đó, các thế lực chống phá
thường theo dõi rất sát diễn biến về tình hình chính trị, kinh tế, xã
hội của nước ta. Do vậy, mỗi khi có vấn đề nào đó xảy ra hay có hiện
tượng nào đó phát sinh, các thế lực nhanh chóng quy kết, chụp mũ để nâng
cao quan điểm, thổi phồng, bóp méo sự thật. Đó là bản chất của thủ đoạn
quy kết các hiện tượng cá biệt thành bản chất rồi lớn tiếng quy chụp,
rêu rao nhằm tạo sự chú ý của dư luận, dọn đường cho các thế lực thù
địch, phản động, cơ hội chính trị thực hiện các mưu đồ chống phá.
Theo
quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, hiện tượng là phạm trù chỉ sự
biểu hiện ra bên ngoài của các sự vật; còn bản chất là phạm trù chỉ sự
tổng hợp tất cả những mặt, những mối liên hệ tất nhiên, tương đối ổn
định bên trong sự vật, quy định sự vận động và phát triển của sự vật.
Hiện tượng và bản chất là một cặp phạm trù có mối quan hệ biện chứng,
trong đó bản chất luôn luôn được bộc lộ qua hiện tượng, còn hiện tượng
nào cũng là sự biểu hiện của bản chất ở mức độ nhất định; không có bản
chất tồn tại thuần túy ngoài hiện tượng, đồng thời cũng không có hiện
tượng nào mà không biểu hiện bản chất. Nhấn mạnh sự thống nhất này, V.I.
Lê-nin chỉ rõ: “Bản chất hiện ra. Hiện tượng là có tính bản chất”(1).
Vì
bản chất là cái tất nhiên, tương đối ổn định bên trong sự vật, quy định
sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng là cái không ổn định,
không quyết định sự vận động, phát triển của sự vật. Do vậy, nhận thức
không chỉ dừng lại ở hiện tượng, mà phải tiến đến bản chất của sự vật.
Điều này cũng được V.I. Lê-nin chỉ rõ như sau: “Cái không bản chất, cái
bề ngoài, cái trên mặt, thường biến mất, không bám “chắc”, không “ngồi
vững” bằng bản chất”(2). Luận điểm này có ý nghĩa phương pháp
luận quan trọng trong việc nhận thức bản chất của sự vật. Đó là, không
thể xuất phát từ những hiện tượng cá biệt, đơn lẻ mà quy kết là bản chất
của sự vật bởi đây là biểu hiện của bệnh chủ quan, duy ý chí của chủ
thể nhận thức.
Ấy
vậy mà, thời gian qua, những kẻ phản động, cơ hội chính trị hoặc do
thiếu hiểu biết, hoặc cố tình lờ đi những nguyên tắc phương pháp luận
trong nhận thức bản chất của sự vật nên thường xuyên dùng chiêu bài quy
chụp hiện tượng cá biệt thành bản chất. Điển hình như những sự việc sau:
Một là,xuất
phát từ sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô mà
quy kết cho sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội với tính cách là một học
thuyết khoa học.
Năm
1991, chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô sau hơn 74 năm ra đời đã sụp
đổ, kéo theo sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội ở các nước Đông Âu.
Đây được coi là “chấn động chính trị khủng khiếp nhất thế kỷ XX” và là
cái cớ để các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị lên tiếng
quy chụp, phủ nhận lý luận về chủ nghĩa xã hội của chủ nghĩa Mác -
Lê-nin là ảo tưởng, sai lầm. Họ rêu rao rằng, sự sụp đổ của chủ nghĩa xã
hội ở Liên Xô và Đông Âu là do sự lạc hậu, lỗi thời của bản thân chủ
nghĩa Mác vì “Chủ nghĩa xã hội mà Mác nêu ra chỉ là một lý tưởng, một
chủ nghĩa xã hội “không tưởng”, không bao giờ thực hiện được”(3);
“chủ nghĩa Mác - Lê-nin đưa ra các nguyên tắc “đấu tranh giai cấp”,
“tập trung dân chủ” là cổ vũ cho bạo lực, cho chiến tranh, cho độc
quyền, độc đoán, thủ tiêu dân chủ”(4)(?!)... Những luận điệu
nguy hiểm đó được tung ra khắp nơi trên thế giới với mưu mô phủ nhận lý
luận về chủ nghĩa xã hội của chủ nghĩa Mác, từ đó kêu gọi các nước không
nên đi theo con đường phát triển chủ nghĩa xã hội. Đối với Việt Nam,
một số thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị ở nước ngoài đã lên
tiếng quy chụp “Việt Nam đang bế tắc không chỉ về kinh tế, mà còn về
tinh thần. Không ai còn tin vào chủ nghĩa Mác nữa”(5); hay
con đường xã hội chủ nghĩa mà nhân dân Việt Nam đang xây dựng chính là
“một khúc cong của lịch sử, là đoạn vòng vèo đầy đau khổ đi lên chủ
nghĩa tư bản”(6). Từ đó, các phần tử cơ hội chính trị lên
tiếng kêu gọi Việt Nam cần “tránh chỗ tối, tìm chỗ sáng”, “tránh con
đường đau khổ” mà các nước xã hội chủ nghĩa, như Liên Xô, Đông Âu đã đi
qua để phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa!
Hai là,từ
tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một
bộ phận cán bộ, đảng viên mà quy kết cả đội ngũ cán bộ, đảng viên “thoái
hóa”, “biến chất”
Tình
trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ
phận cán bộ, đảng viên cũng được coi là một cái cớ để các thế lực nắm
lấy nhằm thổi phồng, quy chụp đội ngũ cán bộ, đảng viên ở nước ta. Từ
hiện tượng một số cán bộ, đảng viên có biểu hiện vi phạm, bị xử lý kỷ
luật, các thế lực thù địch, cơ hội chính trị lớn tiếng quy chụp rằng đội
ngũ cán bộ, đảng viên ở Việt Nam hiện nay đã “thoái hóa về tư tưởng,
suy đồi về phẩm chất đạo đức, lối sống, không giữ được “cần, kiệm, liêm,
chính, chí công vô tư” như lời dạy của Bác Hồ”(7).
Gần
đây, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị còn triệt để lợi
dụng tình trạng tham nhũng của một bộ phận cán bộ, đảng viên để quy
chụp đó là một “quốc nạn không có thuốc chữa”. Họ hàm hồ cho rằng, tình
trạng đó bắt nguồn từ nguyên nhân tất yếu là chế độ một đảng duy nhất ở
Việt Nam và cáo buộc tham nhũng là “căn bệnh nan y, kinh niên của chế độ
độc Đảng cầm quyền”(8). Ngoài ra, các thế lực phản động còn
đồng nhất toàn bộ Đảng Cộng sản với một số đảng viên, cán bộ tham nhũng,
thoái hóa, biến chất và lên tiếng rêu rao “Đảng không còn là Đảng do Hồ
Chí Minh sáng lập, Đảng không còn mang bản chất cách mạng của giai cấp
công nhân, của nhân dân lao động, của dân tộc”(9).
Từ
những lập luận kiểu quy chụp hiện tượng thành bản chất nêu trên, các
thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị còn rêu rao rằng: “Đảng
Cộng sản Việt Nam không thể đấu tranh chống tham nhũng, suy thoái thành
công vì Đảng cũng suy thoái, tham nhũng”(10). Những phần tử
phản động đã ra sức bài xích chế độ một đảng của Việt Nam, lên tiếng kêu
gọi Việt Nam phải đi theo con đường đa đảng, tam quyền phân lập vì “Chỉ
có thể chống tham nhũng khi thực hiện thể chế “tam quyền phân lập” để
kiểm soát quyền lực”(11). Nguy hại hơn, các thế lực thù địch
còn võ đoán bằng những luận điệu hết sức thâm hiểm: “Trước tình hình
cai trị độc tài, không hiệu quả của Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam,
nhân dân không thể chịu đựng được nữa, đang đứng lên để chống đối những
sai lầm đó, đứng lên đòi nhân phẩm, nhân quyền dân chủ. Càng ngày càng
có nhiều người đấu tranh, người trước, kẻ sau, càng ngày càng đông”(12)!
Ba là,xuất
phát từ những hạn chế trong phát triển kinh tế - xã hội của đất nước mà
quy kết Đảng Cộng sản Việt Nam “mất hết vai trò lãnh đạo”.
Trong
thời gian qua, từ những hạn chế của công cuộc đổi mới, nhất là mục tiêu
cơ bản trở thành nước công nghiệp vào năm 2020 mà Việt Nam đặt ra cách
đây nhiều năm đã không đạt được, các thế lực thù địch lên tiếng đổ lỗi
cho Đảng ta lãnh đạo đất nước không hiệu quả. Trên nhiều diễn đàn, nhất
là mạng xã hội, với danh nghĩa đứng về phía nhân dân, các phần tử cơ hội
chính trị đã lớn tiếng rêu rao “Đảng Cộng sản Việt Nam đã hết vai trò
lãnh đạo” và lên tiếng khuyên Việt Nam cần phải đi theo mô hình “xã hội
dân chủ”, thực hiện chính sách “đa nguyên chính trị”, “đa đảng đối lập”!
Gần
đây, lợi dụng tình hình dịch bệnh COVID-19 có nhiều diễn biến phức tạp,
trên các kênh truyền thông và mạng xã hội của lực lượng phản động nước
ngoài quy chụp rằng “Việt Nam đã mất khả năng phòng, chống dịch” hay
“Đảng Cộng sản Việt Nam đã không thể chống đỡ trước cơn bão dịch”...
Những luận điệu này được rêu rao khắp nơi hòng làm giảm sút uy tín và
phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, làm xói mòn niềm tin của nhân dân
vào vai trò, vị thế và uy tín của Đảng.
Mục
tiêu của thủ đoạn “thao túng tâm lý” dù xem xét dưới góc độ nào: Tâm lý
hay chính trị, trước mắt hay lâu dài, ngấm ngầm hay công khai đều mang
tính chất phản nhân văn, đi ngược lại những giá trị tốt đẹp của con
người. Thực chất đó là một trong những thủ đoạn của cuộc chiến tranh tâm
lý, cuộc chiến chống lại con người.
Để
phòng, chống có hiệu quả thủ đoạn này, giải pháp hàng đầu là quan tâm
xây dựng sự vững vàng về tâm lý cho cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân
dân. “Vững vàng tâm lý” thể hiện ở kiến thức, quan điểm và niềm tin vào
Đảng, Nhà nước và chế độ; là khả năng kịp thời nhận diện, phản bác
thông tin xấu độc, bịa đặt, thủ đoạn tuyên truyền chính trị của kẻ thù;
khả năng nắm vững quan điểm chính trị trong ứng xử các vấn đề xã hội.
“Vững vàng tâm lý” hoàn toàn khác với các hiện tượng “đứng ngoài chính
trị”, “thờ ơ chính trị”.
Từ
thủ đoạn “thao túng tâm lý”, các thế lực thù địch luôn tiến công vào
những nơi mà ý thức của con người mù mờ nhất, tập trung chủ yếu vào lĩnh
vực tâm lý xã hội và tâm lý cá nhân, đánh vào những nhu cầu, mong muốn,
ước vọng không được thỏa mãn của con người. Để có được sự “vững vàng
tâm lý”, cần hạn chế, thu hẹp đến mức nhỏ nhất những “mảnh đất màu mỡ”
cho thủ đoạn này.
Thực
tế cho thấy, nếu không tích cực ngăn chặn, bài trừ tệ nạn và tiêu cực
xã hội, làm lành mạnh môi trường xã hội hiện nay thì các nọc độc “thao
túng tâm lý” sẽ lan truyền hết sức nhanh chóng. Đây chính là cơ hội cho
thế lực thù địch, phản động lợi dụng, gieo rắc sự hoài nghi, dao động,
hoang mang, bi quan, mất niềm tin trong nhân dân. Chúng đang chờ đợi quá
trình “tự tha hóa”, “tự biến chất”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
trong một bộ phận cán bộ, đảng viên để tiếp tục gia tăng những tác động
“thao túng tâm lý”.
Trong
bối cảnh thời đại thông tin bùng nổ hiện nay, cần chủ động, kịp thời
cung cấp, định hướng, kiểm soát thông tin và định hướng dư luận xã hội.
Việc chậm trễ thông tin và sự thiếu chủ động trong việc định hướng dư
luận xã hội đã làm nảy sinh ở quần chúng nhân dân những biểu hiện bất
lợi về tâm lý, tư tưởng; ở mức độ đơn giản là những đồn đoán tùy tiện,
ảnh hưởng đến an ninh trật tự xã hội, làm giảm lòng tin của nhân dân vào
luật pháp và bộ máy công quyền; ở mức độ phức tạp còn làm cho một số
người có thái độ ngờ vực, thậm chí thay đổi quan điểm chính trị.
Vì
vậy, trước những sự kiện về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội... nhất
là những sự kiện phức tạp, nhạy cảm thu hút sự quan tâm đặc biệt của dư
luận xã hội, các cơ quan chức năng cần thông tin kịp thời, chính xác
cho công chúng và định hướng suy nghĩ, hành động theo hướng có lợi cho
Đảng, Nhà nước và nhân dân.
Việc
làm cần thiết hiện nay là nâng cao hiệu lực, hiệu quả kiểm soát, quản
lý thông tin, phòng, chống tin giả, tin đồn, thông tin xấu độc trên
không gian mạng. Phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chức năng trong việc
kiểm tra, xác minh, điều tra, truy vết và xác định các hành vi, đối
tượng vi phạm các quy định về thông tin sai trái, xuyên tạc để xử lý
nghiêm theo quy định của pháp luật.
Giải
pháp căn cơ là chăm lo xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh. Ngày nay,
khi mục tiêu "đầu độc" và chiếm lĩnh tâm hồn con người đang và sẽ là
mục tiêu chủ yếu của các thế lực thù địch, phản động thông qua thủ đoạn
“thao túng tâm lý” thì việc xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh càng
có ý nghĩa quan trọng. Môi trường văn hóa lành mạnh đủ sức chống lại
những tác động của thủ đoạn “thao túng tâm lý” cần phải tạo được những
rung động, những trạng thái cảm xúc tích cực ở đội ngũ cán bộ, đảng viên
và người dân về đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước cũng như
những giá trị ưu việt của chế độ XHCN.
Cùng
với đó, xây dựng lòng tự hào của mỗi người dân về nền văn hóa truyền
thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, quán triệt và thực hiện tốt lời chỉ
dẫn của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc tổ
chức ngày 24/11/2021
tại Hà Nội: “Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, văn minh gắn liền
với đấu tranh không khoan nhượng với cái xấu, cái ác, phi văn hóa, phản
văn hóa; bảo vệ những giá trị chân-thiện-mỹ.
Nâng
cao đời sống văn hóa của nhân dân; xây dựng đời sống văn hóa vui tươi,
lành mạnh, hạnh phúc; khắc phục sự chênh lệch về trình độ phát triển và
hưởng thụ văn hóa giữa các vùng, miền của đất nước”. Xây dựng chính sách
phù hợp để khuyến khích tổ chức, cá nhân đầu tư, sản xuất các sản phẩm
có giá trị văn hóa, tinh thần phục vụ nhu cầu của nhân dân theo phương
châm “lấy xây để chống”, “lấy cái đẹp dẹp cái xấu”, "lấy tích cực để đẩy
lùi tiêu cực".
Một là,
tác động đến nhận thức, quan điểm, lập trường chính trị. Do triệt để
lợi dụng tính tò mò, tâm lý “thích giật gân” và các quy luật thuần tâm
lý như: Cảm nhiễm, a dua, ám thị, bắt chước... thủ đoạn “thao túng tâm
lý” dễ tác động đến nhận thức của một bộ phận cán bộ, đảng viên và quần
chúng nhân dân. Trước những thông tin xuyên tạc, bịa đặt đến dồn dập,
những phân tích, bình luận xuất hiện như “nấm mọc sau mưa” dễ đưa người
khác vào trạng thái hỗn loạn thông tin. Trạng thái đó khiến nhận thức
của con người có thể đi từ phân vân đến hoài nghi, mơ hồ, từ đó dễ làm
xói mòn quan điểm, lập trường chính trị.
Hai là,
tác động đến cảm xúc, thái độ và niềm tin. Thông tin xuyên tạc, bịa đặt
thường liên quan trực tiếp đến nhu cầu, lợi ích, nguyện vọng của người
dân và lợi dụng tác động của dư luận xã hội nên thủ đoạn “thao túng tâm
lý” dễ tác động đến cảm xúc, thái độ, niềm tin của quần chúng nhân dân.
Dưới tác động của thủ đoạn “thao túng tâm lý”, thái độ của con người có
thể chuyển biến từ hoài nghi, hoang mang, dao động đến bất bình, phẫn
nộ, phản đối, thậm chí là chống đối, bất hợp tác, mất niềm tin.
Ba là,
tác động đến hành vi, hành động. Khi đã kiểm soát được nhận thức, cảm
xúc, thái độ, thủ đoạn “thao túng tâm lý” còn trực tiếp kích thích, thúc
đẩy những hành vi, hành động tiêu cực của con người. Các thế lực thù
địch, phản động thường xuyên tổ chức đăng tải, tán phát các thông tin,
tài liệu, hình ảnh, video phỏng vấn theo hướng kích động những nhân sĩ,
trí thức trong nước có tư tưởng bất mãn chính trị. Đối với quần chúng
nhân dân, chúng triệt để lợi dụng bộ phận thiếu hiểu biết, thiếu thông
tin hoặc bị kẻ xấu lôi kéo, mua chuộc, nhất là dân tộc ít người, đồng
bào tôn giáo nhẹ dạ, cả tin bị chúng kích động, lừa gạt, thúc ép buộc
tham gia các cuộc tụ tập gây rối, biểu tình, tạo thành “lực lượng đối
trọng”, gây áp lực với hệ thống chính trị các cấp.
Với
mục tiêu làm mục ruỗng tâm lý xã hội, đảo lộn đời sống tâm lý, tinh
thần của nhân dân, các thế lực thù địch, phản động sử dụng nhiều chiêu
trò, thủ đoạn tinh vi, ở mọi lúc, mọi nơi, len lỏi vào từng người, từng
nhóm xã hội nhằm “lung lạc” nhận thức, “gặm nhấm” tình cảm, điều khiển ý
chí và hành động, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. “Thao túng
tâm lý” là một thủ đoạn điển hình như vậy.
“Thao
túng tâm lý” là cách thức tác động tâm lý nhằm ảnh hưởng, chi phối,
kiểm soát nhận thức, cảm xúc, hành vi của người khác theo một mục đích
nào đó. Nhờ triệt để lợi dụng các quy luật, đặc điểm tâm lý, cách thức
này có thể kiểm soát, điều khiển tâm lý con người diễn biến theo chiều
hướng nhất định. Cơ chế “thao túng tâm lý” diễn ra theo nhiều kênh tác
động khác nhau, nhưng phổ biến nhất vẫn là kênh thông tin. Bằng số
lượng, nội dung và cách đưa thông tin đến người tiếp nhận, có thể kiểm
soát, điều khiển được nhận thức, cảm xúc, hành vi của người đó.
Ở
nước ta, theo thống kê, đến nay có khoảng 77 triệu người dùng mạng xã
hội (MXH), tương đương 78,1% dân số, chiếm 97,8% dân số từ 13 tuổi trở
lên, trong đó người dùng Facebook là 70,4 triệu người. Theo đó, các thế
lực thù địch, phản động triệt để lợi dụng cơ chế “thao túng tâm lý” và
đặc tính của MXH để thao túng, kiểm soát tâm trí con người. Có thể chỉ
ra một số cách thức của thủ đoạn “thao túng tâm lý” mà các thế lực thù
địch, phản động đã và đang tiến hành.
Đưa
thông tin sai sự thật, xuyên tạc, bịa đặt. Thông qua các trang web,
blog, các trang MXH như: Facebook, Zalo, YouTube, TikTok... chúng ra sức
tuyên truyền, bịa đặt về các phe phái trong Đảng, nhất là lợi dụng công
cuộc đấu tranh chống tham nhũng để xuyên tạc, hòng hạ uy tín của cán
bộ, phá vỡ khối đoàn kết trong Đảng, sự đồng thuận của xã hội, chia rẽ
Đảng với nhân dân. Chúng thường xuyên dựng chuyện, thổi phồng những sai
lầm, thiếu sót của một số cán bộ, đảng viên, qua đó gây hoang mang, tạo
bức xúc trong dư luận xã hội, kích động người dân gây rối an ninh, trật
tự, an toàn xã hội.
Giả
mạo thông tin. Chúng lập những tài khoản giả mạo trên MXH, website giả
mạo các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, lãnh đạo một số bộ, ngành, địa
phương, những người có uy tín, nhân vật nổi tiếng trong xã hội, qua đó
đưa tin bịa đặt, gieo rắc sự hoài nghi trong xã hội, nhất là trước những
vấn đề nhạy cảm.
Lèo
lái thông tin. Chúng sử dụng các website, dịch vụ thư điện tử (e-mail)
và các trang MXH để lèo lái thông tin. Cách thức tiến hành của chúng
thường là tổng hợp tin tức từ các báo chính thống để tạo ra sự khách
quan, sau đó cài những thông tin xấu độc theo tỷ lệ tăng dần cả về số
lượng và mức độ bịa đặt, bóp méo sự thật. Cùng với đó là những phân
tích, bình luận tưởng như khách quan nhưng thực chất là tạo ra “bẫy
thông tin” khiến người tiếp nhận dễ bị dẫn dắt theo mưu đồ xấu của
chúng.
Tung
tin đồn, gây kích động, chia rẽ. Lợi dụng những sự kiện nhạy cảm liên
quan đến các vấn đề phân định biên giới, lãnh thổ, tranh chấp Biển Đông,
ô nhiễm môi trường, hay những vấn đề liên quan đến công tác phòng,
chống tham nhũng, công tác cán bộ... chúng tung tin thất thiệt trên các
trang MXH gây hoang mang trong dư luận, tạo nên sự hiểu nhầm của người
dân, sự hoài nghi vào cấp ủy, chính quyền các cấp. Các tin đồn tác động
mạnh vào cảm xúc, kích động những nhóm đối tượng thiếu hiểu biết hoặc
hiểu biết chưa đầy đủ để tạo sức mạnh chống phá.
Với âm mưu thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” nhằm xóa bỏ
vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và chế độ chính trị ở nước ta, các
thế lực thù địch dùng mọi thủ đoạn chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng. Một
trong những luận điệu tinh vi mà chúng thường sử dụng là đối lập tư tưởng Hồ
Chí Minh với Chủ nghĩa Mác-Lênin nhằm phá hủy gốc rễ nền tảng tư tưởng của
Đảng. Vì thế, chống lại luận điệu xuyên tạc này là một nội dung căn cốt trong
cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng và phản bác các quan điểm sai
trái, thù địch hiện nay.
Thời gian qua, các thế lực
thù địch, phần tử cơ hội chính trị ở trong và ngoài nước ra sức chống phá,
xuyên tạc rằng, không có nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa;
kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa là những yếu tố đối lập nhau,
loại trừ nhau; gán ghép định hướng xã hội chủ nghĩa với kinh tế thị trường là
chủ quan, duy ý chí, không có cơ sở khoa học, không thuyết phục, làm nảy sinh
nhiều mâu thuẫn; nếu bỏ “cái đuôi” định hướng xã hội chủ nghĩa thì nền kinh tế
đất nước còn phát triển nhanh hơn, đạt được kết quả còn lớn hơn nhiều.
Trong
thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, các thế lực thù địch, phản động và
cơ hội chính trị ráo riết gia tăng chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng ta nhằm
chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc; gây mất ổn định chính trị -
xã hội, tạo cớ can thiệp, kích động bạo loạn lật đổ, thúc đẩy “tự diễn biến”,
“tự chuyển hóa”, hòng xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng và lật đổ chế độ xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam.
Nhận thức sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh cũng là một cách phòng ngừa sự suy thoái về tư tưởng chính trị
Chủ tịch Hồ Chí Minh là trường hợp hiện hữu của lịch sử khi đã “trở thành huyền thoại ngay từ khi còn sống” và thời gian càng lùi xa, sức sống và giá trị trong tư tưởng của Người càng tỏa sáng.
Việc luận giải sức sống bất hủ của tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ giúp chúng ta hiểu rõ hơn, vững tin hơn vào nền tảng tư tưởng của Đảng mà tự thân những giá trị to lớn trong tư tưởng của Người là sự phủ nhận hữu hiệu đối với các ý kiến lệch lạc, xuyên tạc Hồ Chí Minh của các phần tử cơ hội chính trị. Mặt khác, việc khẳng định những giá trị trường tồn trong tư tưởng Hồ Chí Minh cũng là một cách giúp cán bộ, đảng viên phòng, chống sự suy thoái về tư tưởng chính trị và những biểu hiện lười nhác, xem nhẹ việc học tập tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
Thế kỷ 20 đầy bão tố đã khép lại cùng với sự đóng góp của nhiều vĩ nhân, trong đó có Hồ Chí Minh. Điều làm nên sức mạnh và sức sống của tư tưởng Hồ Chí Minh chính là những đặc tính tiêu biểu toát lên từ tư tưởng của Người.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nói chuyện với học sinh Trường Nghệ thuật sân khấu Trung ương ở Khu Văn công Mai Dịch, Hà Nội. Ảnh tư liệu
1. Nội dung căn cốt trong tư tưởng Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, phù hợp với quy luật phát triển của thời đại.
Khát vọng tự do là đặc tính của con người nên khi chủ nghĩa thực dân đẩy vô số dân tộc vào vòng nô lệ, cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc là xu thế tất yếu của thời đại. Ra đi tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh trở thành đại diện của các dân tộc bị áp bức đấu tranh cho quyền được làm người, quyền được sống trong bình đẳng và tự do.
Được trang bị phương pháp luận khoa học của Chủ nghĩa Mác-Lênin và bằng trải nghiệm thực tiễn, Hồ Chí Minh đưa ra những phát kiến ở tầm thời đại về con đường cứu nước và phương hướng dựng nước của dân tộc Việt Nam: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản” và “chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”.
Hồ Chí Minh có hệ thống quan điểm hết sức sáng tạo về phương thức giải phóng, đó là cách mạng thuộc địa phải tiến hành một cách chủ động, sáng tạo, không thụ động trông chờ vào cách mạng chính quốc và sẽ thành công trước cách mạng chính quốc. Thực hiện tư tưởng của Người, dân tộc Việt Nam không chỉ giành được độc lập, tự do mà thắng lợi của nhân dân Việt Nam còn góp phần làm tan vỡ hệ thống thuộc địa trên quy mô toàn thế giới. Vì thế, Hồ Chí Minh được mệnh danh là người đã đẩy bánh xe lịch sử theo hướng tiến bộ. Nhà bác học người Anh Béctơrăng Rútxen đã viết: “Sự nghiệp vô tư và quên mình của Chủ tịch Hồ Chí Minh cho nền độc lập và thống nhất của Việt Nam suốt hơn nửa thế kỷ nay đã làm cho Người trở thành không những là lãnh tụ của dân tộc Việt Nam mà còn là kiến trúc sư nổi tiếng của thế giới đã thoát khỏi chủ nghĩa thực dân”.
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh kết tinh những giá trị vĩnh hằng của nhân loại là hòa bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội.
Thế giới tôn vinh Hồ Chí Minh là Nhà văn hóa hòa bình bởi Người luôn nỗ lực giải quyết xung đột với dân tộc khác bằng con đường đối thoại văn hóa, khi buộc phải tự vệ thì Người chủ động hạn chế không gian chiến tranh ở Việt Nam để bảo vệ hòa bình khu vực và thế giới. Hồ Chí Minh rất yêu chuộng hòa bình nhưng đó phải là hòa bình thực sự-hòa bình trong độc lập, tự do bởi đúng như Người đã tuyên bố: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”.
Với Hồ Chí Minh, độc lập, tự do không chỉ là mục tiêu chính trị mà còn là giá trị đạo đức. Một con người yêu nước, một dân tộc có lòng tự tôn sẽ không cam tâm sống cuộc đời nô lệ. Khi thế giới còn đầy rẫy sự bất công, tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” của Hồ Chí Minh đã trở thành chân lý lớn của thời đại.
3. Tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện khát vọng đoàn kết và hợp tác hữu nghị giữa các dân tộc.
Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh là người Việt Nam đầu tiên khẳng định: “Cách mệnh An Nam cũng là một bộ phận trong cách mạng thế giới. Ai làm cách mệnh trên thế giới đều là đồng chí của dân An Nam”. Có thể coi đây là khởi phát của chiến lược đoàn kết quốc tế của Người. Cần nhấn mạnh rằng, chiến lược ấy ra đời không chỉ vì mục tiêu chính trị mà còn xuất phát từ tình cảm đồng loại: “Quan sơn muôn dặm một nhà/ Vì trong bốn biển đều là anh em”. Tình cảm ấy ở người cộng sản Nguyễn Ái Quốc hết sức sâu đậm nên từ năm 1923, nhà thơ Xô viết Ôxip Manđenxtam đã cảm nhận: “Qua phong thái thanh cao, trong giọng nói trầm ấm của Nguyễn Ái Quốc, chúng ta như nghe thấy được ngày mai, như thấy sự yên tĩnh mênh mông của tình hữu ái toàn thế giới”.
Khi Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tuyên bố: Việt Nam sẵn sàng “làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai”. Người không ngừng giáo dục nhân dân về tình hữu nghị, về đạo lý “giúp bạn là tự giúp mình”. “Chiến tranh lạnh” đẩy các quốc gia vào thế “đối đầu” nhưng Hồ Chí Minh vẫn kiên trì khẳng định: “Các nước dù chế độ xã hội khác nhau và hình thái ý thức khác nhau cũng đều có thể chung sống hòa bình được”. Hồ Chí Minh là người luôn tìm cách quy tụ thay cho loại trừ, luôn nỗ lực tìm ra “mẫu số chung” chứ không “khoét sâu” sự khác biệt. Với tinh thần “tìm sự thống nhất trong đa dạng”, Hồ Chí Minh không chỉ là người có tư duy quốc tế hiện đại, tinh thần khoan dung văn hóa mà còn là đại sứ của Việt Nam trên toàn cầu.
4. Tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện tinh thần đổi mới và hội nhập-xu thế lớn của thời đại ngày nay.
Hồ Chí Minh là người đặc biệt nhạy bén với cái mới. Người định nghĩa cách mạng cũng từ góc độ này: “Cách mệnh là phá cái cũ đổi ra cái mới, phá cái xấu đổi ra cái tốt”. Trung thành với Chủ nghĩa Mác nhưng Người vẫn đặt câu hỏi: “Mác đã xây dựng học thuyết của mình trên một triết lý nhất định của lịch sử, nhưng lịch sử nào? Lịch sử châu Âu. Mà châu Âu là gì? Đó chưa phải là toàn thể nhân loại”. Từ nhận thức đó, Hồ Chí Minh không chỉ vận dụng mà còn phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin bằng một loạt luận điểm mới, phù hợp với cách mạng Việt Nam. Lãnh đạo công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, Người căn dặn cán bộ tuyệt đối không được giáo điều, bảo thủ. Trong "Di chúc" để lại, mặc dù không trực tiếp sử dụng khái niệm “đổi mới” nhưng Người đã phác thảo một chiến lược đổi mới trên nét lớn và căn dặn: “Đây là một cuộc chiến đấu chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi”. Sự nghiệp đổi mới do Đại hội VI của Đảng đề xướng đã trở lại đúng tinh thần đó và thành tựu do đổi mới mang lại thực sự vĩ đại. Đó là minh chứng cho khả năng dự báo chiến lược của Hồ Chí Minh. Khi thế giới đang phát triển với tốc độ nhanh chưa từng có như hiện nay, tư tưởng đổi mới của Hồ Chí Minh càng trở nên ý nghĩa.
Hồ Chí Minh cũng là người đặt nền móng cho chính sách mở cửa và hội nhập quốc tế của Việt Nam. Ngay khi nhà nước cách mạng mới ra đời và chưa được quốc gia nào công nhận, chủ trương mở cửa, kêu gọi đầu tư đã được Người khẳng định trong “Lời kêu gọi Liên hợp quốc” (tháng 12-1946). Trong thương mại quốc tế, Hồ Chí Minh tuyên bố: “Việt Nam sẽ giao dịch với tất cả các nước nào trên thế giới muốn giao dịch với Việt Nam một cách thật thà”. Ngày nay, hội nhập quốc tế toàn diện đã trở thành xu thế tất yếu nhưng vào thập niên 1940, chủ trương của Hồ Chí Minh về hợp tác kinh tế với các nước có sự khác biệt về ý thức hệ và thể chế chính trị, thực sự là tư duy hết sức mới mẻ, tiến bộ.
5. Tư tưởng văn hóa-đạo đức Hồ Chí Minh không chỉ thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc mà còn để lại hình mẫu về văn hóa làm người.
Với Hồ Chí Minh, văn hóa không phải là cái gì quá cao siêu mà phải trở thành “văn hóa đời sống”, tức là văn hóa phải góp phần loại bỏ những gì lạc hậu, dốt nát, phù hoa, xa xỉ trong tập tục và nâng cao dân trí để mỗi người giải phóng hết “năng lực người” của mình.
Hồ Chí Minh rất sâu sắc khi cho rằng, việc tiếp thu văn hóa nhân loại phải song hành với việc quảng bá văn hóa dân tộc vì ngoài vấn đề lợi ích thì đó còn là sự dâng hiến theo tinh thần “mình đã hưởng cái hay của người thì cũng phải có cái hay cho người ta hưởng”. Hàm chứa những quan điểm hết sức sâu sắc, cho nên, UNESCO đánh giá: Tư tưởng Hồ Chí Minh “là hiện thân của những khát vọng của các dân tộc mong muốn được khẳng định bản sắc văn hóa của mình và mong muốn tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc”.
Hồ Chí Minh còn là nhà tư tưởng đặc biệt quan tâm đến đạo đức. Nói về tầm quan trọng của đạo đức, Hồ Chí Minh luôn khẳng định đạo đức là cái gốc của con người, là sức mạnh của người cách mạng và Đảng cách mạng, là điều kiện để con người vươn tới tài năng, là nhân tố tạo nên sức hấp dẫn của học thuyết cách mạng. Theo Hồ Chí Minh, đạo đức cao nhất chính là suốt đời phấn đấu, hy sinh vì độc lập dân tộc, hạnh phúc của nhân dân và nhân loại.
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh giàu sức thuyết phục không chỉ bởi đặc tính khoa học, nhân văn mà còn vì cuộc đời “trong như ánh sáng” và sự hiến dâng trọn vẹn cho dân, cho nước của Người. Không chỉ nhân dân Việt Nam, các trí tuệ lớn của thời đại cũng đã thừa nhận: "Nói tới một con người mà cả cuộc đời mình đã để lại ân tình sâu nặng cho nhân dân thì không có một ai khác ngoài Hồ Chí Minh". Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức và đạo đức Hồ Chí Minh-mẫu mực điển hình về sự trong sáng, cao thượng, luôn hòa quyện trong nhau và có ý nghĩa thời sự rất lớn đối với một thế giới nhiều nghịch lý hiện nay.
Thế giới ngày càng giàu có và hiện đại nhưng do sự phát tác thái quá của chủ nghĩa cá nhân, sự gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng giữa các tầng lớp và dân tộc, không ít người đã rơi vào khủng hoảng lẽ sống, niềm tin. Điều đó dẫn đến sự gia tăng bạo lực và lối sống lệch lạc của một bộ phận dân chúng. Đến mức, có người dùng cụm từ “dã man trong văn minh” để nói về thế giới hiện đại. Sinh thời, Thủ tướng Ấn Độ Nêru đã kết luận rất đúng rằng: “Thế giới ngày nay đang trải qua một cuộc khủng hoảng... Cái cần bây giờ là tiếp cận hòa bình, hữu nghị và tình bạn. Hồ Chí Minh là biểu tượng cho sự tiếp cận đó”. Tư tưởng nhân văn-đạo đức Hồ Chí Minh với triết lý nhân sinh “chính tâm và thân dân” sẽ đánh thức phần “thiện” trong mỗi con người, giúp họ tìm ra lẽ sống đúng đắn và cách hành xử hợp đạo lý để có được hạnh phúc đích thực.
Năm tháng trôi qua nhưng Hồ Chí Minh “không phải là một kỷ niệm của quá khứ. Người là một con người diệu kỳ cho tất cả mọi thời đại”. Đó là sự đánh giá xác đáng mà nhân loại đã dành cho Bác Hồ của chúng ta.
Thế hệ trẻ là lực lượng xung kích, đi đầu
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhất là trong giai đoạn cách mạng
hiện nay, khi đất nước đang vững bước trên con đường đi lên CNXH. Kể từ sau sự
kiện mô hình xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ, các thế lực
thù địch, phản động, chống đối trong và ngoài nước đã triệt để thực hiện chiến
lược “diễn biến hòa bình” chống phá cách mạng Việt Nam, một trong những thủ đoạn
mà chúng thường xuyên tiến hành là tấn công vào nền tảng tư tưởng, tăng cường
hoạt động xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng, đồng thời tấn công vào niềm
tin của thế hệ trẻ nhằm hướng lái tư tưởng của bộ phận nòng cốt này theo con đường
tư bản chủ nghĩa. Vì vậy, nhiệm vụ quan trọng của thế hệ trẻ Việt Nam là tích cực
tham gia công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đẩy mạnh hoạt động đấu
tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch hiện nay.
Thời gian qua, các thế lực thù địch, phản động
ráo riết đẩy mạnh việc công kích, xuyên tạc vai trò lãnh đạo của Đảng ta trên
nhiều phương tiện truyền thông, nhất là trên internet, các mạng xã hội, như
xuyên tạc rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã hết vai trò lịch sử, không còn đủ khả
năng để lãnh đạo đất nước trong bối cảnh thế giới có nhiều bất ổn, làm cho đất
nước lâm vào tình trạng yếu thế, lạc hậu trước xu hướng bùng nổ thông tin và
cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư diễn ra mạnh mẽ, kết cấu xã hội ở Việt
Nam đã có sự chuyển biến theo hướng đa dạng, nhiều tầng nấc, xu hướng dân chủ hóa
ngày càng được coi trọng.Để tuyên truyền cho luận điệu thâm độc trên, các thế
lực thù địch, phản động đưa ra nhiều lý lẽ mang tính chất tấn công, chống phá
sau: