Thứ Năm, 1 tháng 8, 2024

 GIỮ VỮNG QUAN ĐIỂM KHÁCH QUAN, TOÀN DIỆN, LỊCH SỬ, CỤ THỂ VÀ PHÁT TRIỂN TRONG TÌNH HÌNH HIỆN NAY

Mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam hơn 90 năm qua đều bắt nguồn từ việc Đảng ta luôn kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách mạng.

Đó là sự kiên định và sáng tạo trên cơ sở tính khoa học, tính cách mạng, tính nhân văn, phù hợp với điều kiện của Việt Nam và thời đại. Đặc biệt, Đảng, Nhà nước ta luôn vận dụng nhuần nhuyễn, sáng tạo quan điểm khách quan, toàn diện, lịch sử, cụ thể của Chủ nghĩa Mác-Lênin trong thực tiễn, góp phần xây dựng cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế của đất nước như ngày nay.

Một công cụ sắc bén để phân tích các vấn đề xã hội

Quan điểm khách quan, toàn diện, lịch sử, cụ thể và phát triển là một công cụ sắc bén để phân tích các vấn đề xã hội và tìm ra những giải pháp thích hợp cho từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó cũng là công cụ nhận thức quan trọng để Đảng ta kiên định, vận dụng sáng tạo và phát triển trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam qua các giai đoạn lịch sử.

Quan điểm khách quan yêu cầu trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải phản ánh trung thực sự vật, hiện tượng với tất cả bản chất, những mối quan hệ vốn có của nó; nắm vững và tôn trọng những quy luật khách quan của hiện thực; đồng thời, không rơi vào chủ quan duy ý chí; không được lấy ý chí chủ quan, ý muốn chủ quan, nguyện vọng, tình cảm cá nhân để áp đặt cho thực tế.

Quan điểm toàn diện đòi hỏi phải xem xét toàn diện các mối liên hệ của sự vật, hiện tượng và mối liên hệ giữa các yếu tố, bộ phận cấu thành và những mắt khâu trung gian, gián tiếp của chúng; cả hiện tại, quá khứ và xu hướng phát triển trong tương lai; phải đồng bộ, không cục bộ, phiến diện. Song trong mối liên hệ cụ thể, từng giai đoạn phải nắm đúng trọng tâm, then chốt, phù hợp với nhu cầu thực tiễn, tránh dàn trải, không viển vông, ảo tưởng. Trong quá trình xem xét toàn bộ mối liên hệ, bản chất, quy luật của các sự vật, hiện tượng, phải dự báo được khả năng vận động, phát triển; chống mọi biểu hiện trì trệ, bảo thủ.

Quan điểm lịch sử, cụ thể chỉ rõ trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải xem xét đúng các quá trình, các giai đoạn phát triển của các sự vật, hiện tượng; nhận thức được những thuộc tính, những mối liên hệ tất yếu, bản chất vốn có của sự vật, hiện tượng trong các hoàn cảnh, điều kiện cụ thể. Chỉ ra được mối liên hệ, quy luật khách quan; vị trí, vai trò của từng mối liên hệ quy định sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng. Đồng thời, cần phải đấu tranh chống mọi biểu hiện xa rời thực tiễn với những điều kiện, hoàn cảnh riêng.

Quan điểm phát triển đòi hỏi phải nắm được khuynh hướng phát triển của sự vật, hiện tượng; phải khái quát và làm sáng rõ được xu hướng vận động, phát triển chủ đạo trong cả tự nhiên, xã hội và mỗi con người. Sự phát triển là quá trình biện chứng, có tính chất quanh co, phức tạp, thậm chí có những bước tụt lùi tạm thời, nhưng tất yếu cái mới sẽ ra đời. Do đó, cần phải có niềm tin vào sự tất thắng của cái mới, đấu tranh, loại bỏ mọi lực cản ảnh hưởng sự phát triển của tự nhiên, xã hội và mỗi con người.

Giữ vững quan điểm trong lãnh đạo, quản lý 

Giữ vững quan điểm khách quan, toàn diện, lịch sử, cụ thể và phát triển trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, nhất là trong gần 40 năm đổi mới đất nước, Đảng ta luôn kiên định: Đổi mới phải toàn diện, đồng bộ, có bước đi phù hợp; tôn trọng quy luật khách quan, xuất phát từ thực tiễn, bám sát thực tiễn, coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, tập trung giải quyết kịp thời, hiệu quả những vấn đề do thực tiễn đặt ra. Đảng đề ra chiến lược phát triển tổng thể là: Đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, phát triển nhanh và bền vững đất nước; bảo đảm gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, trong đó: Phát triển kinh tế-xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên.

Đảng ta luôn vận dụng sáng tạo bài học tôn trọng thực tiễn khách quan, quán triệt sâu sắc nguyên tắc kết hợp nhuần nhuyễn giữa lý luận và thực tiễn, giữa kiên định và đổi mới, giữa kế thừa và phát triển để đưa ra những quyết sách sáng suốt, đúng đắn, tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ, có hiệu quả công cuộc đổi mới, hội nhập và phát triển trong giai đoạn mới; quyết tâm khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; thể hiện tầm nhìn và định hướng phát triển đất nước với những bước đi, lộ trình cụ thể đến năm 2025, 2030 và 2045, để phấn đấu đến giữa thế kỷ 21, nước ta trở thành một nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN).

Đặc biệt, trong nhiệm kỳ Đại hội XIII của Đảng, với phương châm “Tiền hô hậu ủng”, “Nhất hô bá ứng”, “Trên dưới đồng lòng”, “Dọc ngang thông suốt”, Đảng, Nhà nước đã quán triệt sâu sắc, lãnh đạo, chỉ đạo, nắm vững và xử lý tốt 4 kiên định, 12 định hướng, 10 mối quan hệ, 3 đột phá chiến lược, 6 nhiệm vụ trọng tâm; phát triển toàn diện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị; hình thành đồng bộ thể chế phát triển nhanh và bền vững đất nước dựa trên các trụ cột: Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam và nền dân chủ XHCN Việt Nam.

Cùng với lãnh đạo phát triển tổng thể các mặt, các lĩnh vực trong tính chỉnh thể, Đảng ta còn đánh giá vị trí, vai trò của từng lĩnh vực, yếu tố làm cơ sở để xác định, xây dựng từng bước đi, lộ trình và giải pháp phù hợp với điều kiện đất nước và xu thế phát triển của thời đại. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, xây dựng và hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển bền vững đất nước, hoàn thiện toàn diện, đồng bộ thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Thúc đẩy ch.uyển đ.ổi s.ố, tăng trưởng xanh, kinh tế tuần hoàn, chú trọng phát triển những ngành, lĩnh vực là thế mạnh của đất nước và của từng vùng, ngành, địa phương.

Thực hiện các đột phá chiến lược, cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh và năng lực nội sinh của nền kinh tế. Tập trung tháo gỡ các điểm nghẽn về thể chế, chính sách; khơi thông các nguồn lực cho phát triển. Đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án chiến lược trọng điểm, quan trọng quốc gia; chú trọng đầu tư phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, tập trung cho vùng “lõi nghèo”, đặc biệt khó khăn, tránh dàn trải, lãng phí.

Phát triển con người toàn diện, con người là trung tâm, chủ thể, là nguồn lực chủ yếu và mục tiêu của phát triển. Phát huy dân chủ XHCN và quyền làm chủ của nhân dân; thực hiện quan điểm “dân là gốc”, “dân là trung tâm” và phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Tạo môi trường sống an toàn, thân thiện, lành mạnh để phát triển trẻ em toàn diện, thực hiện tốt công tác người cao tuổi, thanh niên, bình đẳng giới, vì sự tiến bộ của phụ nữ. Tập trung cải thiện đời sống của đồng bào dân tộc, người dân vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo, vùng khó khăn.

Phát triển toàn diện, đồng bộ các lĩnh vực văn hóa-xã hội, phát triển văn hóa-xã hội ngang tầm với phát triển kinh tế. Phát huy những giá trị tốt đẹp của dân tộc với tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại để văn hóa thực sự là nền tảng tinh thần, nguồn lực nội sinh và động lực đột phá cho phát triển kinh tế-xã hội và hội nhập quốc tế. Thực hiện hiệu quả Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”. Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục-đào tạo và nâng cao hơn nữa vai trò của khoa học-công nghệ, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, gắn với nền kinh tế tri thức, kinh tế số, đô thị thông minh.

Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện gắn với đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, tinh, gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Thực hiện tốt các chính sách khuyến khích và bảo vệ cán bộ “dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách và quyết liệt trong hành động vì lợi ích chung”. Nâng cao hiệu quả công tác dân vận, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận, các tổ chức chính trị-xã hội, doanh nghiệp và người dân, góp phần tạo đồng thuận xã hội, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Chủ động, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia; gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội với củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường, nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại; giữ vững an ninh chính trị, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội. Củng cố, tăng cường thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân vững chắc; xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, ưu tiên hiện đại hóa một số quân chủng, binh chủng, lực lượng, tạo tiền đề vững chắc, phấn đấu đến năm 2030 xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, vững mạnh về chính trị, nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong mọi tình huống. Xây dựng lực lượng dự bị động viên hùng hậu, chất lượng ngày càng cao; xây dựng lực lượng dân quân tự vệ vững mạnh và rộng khắp, coi trọng lực lượng dân quân tự vệ biển và dân quân tự vệ ở các địa phương trọng điểm.

Tích cực phòng ngừa, chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động và các loại tội phạm; giữ vững thế chủ động chiến lược, bảo đảm an ninh, trật tự, không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống, không để hình thành tổ chức chính trị đối lập trong nước. Chủ động đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình”, “bạo loạn lật đổ”, âm mưu “phi chính trị hóa” LLVT; phòng ngừa, ngăn chặn những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; bảo đảm an ninh kinh tế, an ninh thông tin, truyền thông, an ninh mạng và an ninh xã hội. Tăng cường hợp tác quốc tế về quốc phòng, an ninh; chủ động phối hợp với các quốc gia bảo vệ lợi ích quốc gia-dân tộc; xử lý các vấn đề an ninh phi truyền thống, có kế sách ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; chủ động phòng ngừa, phát hiện sớm và triệt tiêu các nhân tố bất lợi, nhất là các nhân tố bên trong có thể gây ra đột biến.

Vận dụng đúng đắn, linh hoạt quan điểm đối tác, đối tượng; triển khai đồng bộ, toàn diện, hiệu quả các hoạt động đối ngoại, hội nhập quốc tế; bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia-dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc, luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi trong quan hệ quốc tế. Kiên trì thực hiện chính sách cân bằng trong quan hệ với các nước lớn; coi trọng phát triển quan hệ hợp tác, hữu nghị, truyền thống với các nước láng giềng; đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ hợp tác song phương với các đối tác, đặc biệt là các đối tác chiến lược, đối tác toàn diện và đối tác quan trọng khác, tạo lợi ích thực chất giữa Việt Nam và các nước; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định và tạo điều kiện thuận lợi, thu hút các nguồn lực để phục vụ phát triển đất nước, củng cố và nâng cao uy tín, vị thế quốc tế của Việt Nam./.

Báo QĐND

LỜI BÁC HỒ DẠY NGÀY NÀY NĂM XƯA


Ngày 01 tháng 8
“Phụ nữ cần phải học tập tiến bộ nhiều hơn nữa”.
Lời dạy trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh được Người nói trong bài phát biểu tại Hội nghị các đại biểu phụ nữ tham gia công tác chính quyền toàn miền Bắc, ngày 01 tháng 8 năm 1960, Báo Nhân dân đăng trên số 2327, ngày 02 tháng 8 năm 1960.
Đây là giai đoạn miền Nam tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, đánh đuổi đế quốc Mỹ và tay sai, nhằm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước; miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Vị trí, vai trò của phụ nữ trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội càng được chú trọng, số lượng phụ nữ công tác trong các cơ quan chính quyền từ trung ương đến cơ sở tăng cao; đặc biệt, trong Quốc hội khóa II có tới 53 đại biểu Quốc hội là nữ. Khẳng định Đảng, Chính phủ và nhân dân ta đã đánh giá cao vị trí, vai trò của phụ nữ và đó cũng là một thắng lợi của sự nghiệp cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Học tập và làm theo lời Bác Hồ dạy: “Phụ nữ cần phải học tập tiến bộ nhiều hơn nữa”, kế thừa và phát huy truyền thống con cháu Bà Trưng, Bà Triệu, các thế hệ phụ nữ Việt Nam đã tích cực học tập, rèn luyện, cống hiến và trưởng thành; từ các phong trào thi đua rộng lớn của phụ nữ Việt Nam qua các thời kỳ, tiêu biểu với các phong trào thi đua “Ba đảm đang”, phong trào “Đồng khởi”… đã xuất hiện nhiều nữ anh hùng dũng cảm trong chiến đấu, hy sinh vì sự nghiệp đấu tranh giải phóng đất nước, cần cù sáng tạo trong lao động sản xuất, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, được lịch sử vinh danh, trở thành niềm tự hào của cả dân tộc, xứng đáng với 8 chữ Vàng Bác Hồ trao tặng: “Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang”.
Trong công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và xu thế toàn cầu hóa, hội nhập, phát triển hiện nay, lời Bác Hồ dạy năm xưa vẫn vẹn nguyên giá trị lý luận và thực tiễn để các thế hệ phụ nữ Việt Nam tiếp tục phát huy truyền thống vẻ vang, ra sức học tập, rèn luyện theo 4 phẩm chất: “Tự tin, tự trọng, trung hậu, đảm đang”, ngày càng có nhiều phụ nữ phấn đấu trở thành chính trị gia, nhà khoa học giỏi, nhà quản lý năng động trên các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Trước yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phương hướng xây dựng quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, phát huy truyền thống vẻ vang của phụ nữ Việt Nam và phẩm chất cao đẹp “Bộ đội Cụ Hồ”, phụ nữ Quân đội tiếp tục nêu cao tinh thần, trách nhiệm, tích cực, chủ động, sáng tạo, vượt mọi khó khăn, học tập, lao động sáng tạo, phấn đấu hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao, xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc để cùng với phụ nữ cả nước thực hiện trọn vẹn lời Bác Hồ dạy năm xưa./
Thích
Bình luận
Gửi
Chia sẻ

ĐEM LẠI HẠNH PHÚC CHO NHÂN DÂN - CÁI GỐC CỦA MỘT ĐẤT NƯỚC HÙNG CƯỜNG


Mục tiêu của cách mạng, lý tưởng phấn đấu của Đảng Cộng sản Việt Nam trong suốt 13 nhiệm kỳ qua luôn là độc lập cho dân tộc, tự do, hạnh phúc cho nhân dân.
Lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta đã minh chứng “dân là gốc,” trọng dân, gần dân, sát dân và thấu hiểu dân sẽ quy tụ được nhân dân, tạo nên sức mạnh to lớn. Mang lại ấm no, hạnh phúc cho dân là cái gốc vững bền cho một đất nước hưng thịnh.
“Mọi việc lợi nên làm cho dân, mọi mối hại nên bỏ”
Trong một lần tuần du ngoại thành, vua Lê Thánh Tông bỗng gặp một cụ già mặc áo rách, đang run cầm cập. Sẵn lòng nhân từ, vua liền cởi áo long bào đang mặc định đưa cho cụ già mặc. Quan hộ giá vội can ngăn. Nhà vua khoát tay nói: “Trẫm biết rồi, trẫm thương dân như chính thương con của trẫm.” Thế rồi, nhà vua liền truyền lệnh mở kho phát chăn chiếu, đồ mặc ấm cùng với lương thực cho dân nghèo khó, cùng các cụ già neo đơn.
“Đế vương phải nuôi dưỡng bằng lòng dân, để đức trùm khắp tám phương, để dân sống no đủ, không còn đói rét, lưu vong nữa. Thương yêu dân là trách nhiệm của quan lại, mọi việc lợi nên làm cho dân, mọi mối hại nên bỏ,” quan niệm ấy theo suốt 37 năm trị vì của vị vua suốt đời vì dân Lê Thánh Tông.
Quốc triều hình luật (Bộ luật Hồng Đức) dưới thời vua Lê Thánh Tông có nhiều quy phạm mang tính nhân đạo, nhân văn sâu sắc, bảo vệ quyền lợi của người dân, những người yếu thế, dễ bị tổn thương trong xã hội, chống lại sự ức hiếp, sách nhiễu của cường hào, quan lại, thể hiện đậm nét tư tưởng “dân là gốc”.
Lo cho dân, bảo vệ sức khỏe, tính mạng của người dân còn nguyên giá trị cho đến ngày hôm nay, là một trong những kinh nghiệm quý báu trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân.
Đại hội XIII của Đảng cũng xác định “Thực hiện tốt chính sách xã hội, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội, an ninh con người, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong quản lý phát triển xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; nâng cao chất lượng cuộc sống và hạnh phúc của nhân dân”.
Đem lại hạnh phúc cho nhân dân
Nhìn từ thời Hồng Đức để thấy ở thời nào cũng vậy, an dân, chăm lo cho dân, đem lại hạnh phúc cho nhân dân là điều căn cốt, là cái gốc vững bền cho một đất nước hùng cường. Mục tiêu của cách mạng, lý tưởng phấn đấu của Đảng Cộng sản Việt Nam trong suốt 13 nhiệm kỳ qua luôn là độc lập cho dân tộc, tự do, hạnh phúc cho nhân dân.
Thành công của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đập tan ách thống trị của thực dân Pháp cũng là bởi để mang lại hạnh phúc cho nhân dân.
Như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Lần đầu tiên trong lịch sử nhân dân ta được hoàn toàn giải phóng: Đã phá tan cái xiềng xích nô lệ thực dân, đã đập đổ cái chế độ thối nát của vua quan phong kiến, đã lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Từ đó dân ta làm chủ nước ta”.
Theo Giáo sư, Tiến sỹ Tạ Ngọc Tấn, Phó Chủ tịch Thường trực Hội đồng Lý luận Trung ương, từ kiếp sống nô lệ, tủi nhục, lầm than, trong cảnh “Non sông thẹn với nước nhà, vua là tượng gỗ, dân là thân trâu,” Cách mạng Tháng Tám không chỉ hồi sinh số phận vốn có của nhân dân trong lịch sử của nhà nước Việt Nam độc lập, mà còn đưa nhân dân lên vị thế chủ nhân thật sự của đất nước, làm chủ vận mệnh của mình, được hưởng các quyền con người, quyền tự do, công bằng như bất kỳ một dân tộc văn minh, tiến bộ nào khác.
Từ cuộc hồi sinh sau Cách mạng Tháng Tám, nhân dân Việt Nam cùng đất nước mình đã bước lên vũ đài chính trị thế giới với một vị thế mới đầy tự hào, vẻ vang.
Chỉ bốn tháng sau ngày Cách mạng thắng lợi, lần đầu tiên, nhân dân được thực hiện quyền làm chủ của mình, cầm lá phiếu để tự tay bầu ra Quốc hội của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, cử ra chính quyền từ cấp xã đến Trung ương.
Từ đây, trên đất nước Việt Nam, “bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân... quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân".
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn gần dân, trọng dân, tất cả vì nhân dân phục vụ.
Với quan điểm mọi quyền lực, lợi ích đều thuộc về nhân dân, Người luôn hướng về nhân dân, đến với dân, hòa mình với nhân dân để hiểu dân, kịp thời có những chủ trương, quyết sách hợp với lòng dân, giải quyết những bức xúc của dân.
Người là tấm gương mẫu mực của người lãnh đạo suốt đời làm công bộc tận tụy, làm đầy tớ trung thành của nhân dân, thấu hiểu cuộc sống của dân và luôn thấu cảm lòng dân.
Từ Hiến pháp đến các văn bản pháp quy, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đều thể hiện nhất quán quan điểm đề cao quyền làm chủ của nhân dân, nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Điều 2 Hiến pháp năm 2013 quy định "Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức".
Tiếp tục quán triệt sâu sắc quan điểm “dân là gốc,” tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng xác định kiên trì thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân thụ hưởng”.
Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ cuộc sống, nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân; lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu.
Bảo đảm hạnh phúc cho nhân dân, trong Văn kiện đã xác định thực hiện tốt chính sách xã hội, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội, an ninh con người, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong quản lý phát triển xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; nâng cao chất lượng cuộc sống và hạnh phúc của nhân dân; xây dựng các cơ chế, chính sách, phát huy tinh thần cống hiến vì đất nước của mọi người dân Việt Nam; phát huy tối đa nhân tố con người - coi con người là trung tâm, chủ thể, là nguồn lực chủ yếu và mục tiêu của sự phát triển.
Nghị quyết Đại hội XIII nhấn mạnh tiếp tục hoàn thiện, cụ thể hóa, thực hiện tốt cơ chế “Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”; đề cao khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, đặc biệt coi trọng chỉ số hạnh phúc của người dân để đánh giá về sự tiến bộ, ưu việt của quốc gia.
Định hướng các chỉ tiêu chủ yếu về phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2021-2025 đều hướng đến chỉ số hạnh phúc: đến năm 2025, GDP bình quân đầu người khoảng 4.700-5.000 USD; tỷ lệ lao động qua đào tạo là 70%; tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị dưới 4%; tỷ lệ nghèo đa chiều duy trì mức giảm 1-1,5% hằng năm; có 10 bác sỹ và 30 giường bệnh/vạn dân; tỷ lệ tham gia bảo hiểm y tế đạt 95% dân số; tuổi thọ trung bình đạt khoảng 74,5 tuổi...
Đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng: Là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao (GDP bình quân đầu người ước đạt khoảng 7.500 USD/năm).
Đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: trở thành nước phát triển, thu nhập cao.
Việc xác định các mục tiêu cụ thể theo các tiêu chí mới thể hiện bước tiến nhận thức của Đảng về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Muốn an dân thì phải làm cho dân an. Muốn nhân dân hạnh phúc thì phải mang lại hạnh phúc cho nhân dân. Hạnh phúc giờ đây không chỉ là cơm no, áo ấm, ai cũng được học hành, mà đa chiều, bao gồm cả vật chất lẫn tinh thần.
Nhìn vào các chỉ số thu nhập bình quân đầu người tăng lên hằng năm, tỷ lệ nghèo đa chiều giảm dần qua từng nhiệm kỳ, hệ thống an sinh xã hội phát triển theo hướng toàn diện, tiến tới bao phủ toàn dân để “không ai bị bỏ lại phía sau,” quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân được bảo vệ, có thể thấy, đây là những minh chứng sinh động cho sự quan tâm của Đảng, Nhà nước.
Trong cuộc chiến chống đại dịch COVID-19, tư tưởng “dân là gốc,” quan điểm “vì dân” một lần nữa được thể hiện rõ khi Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ nhiều lần khẳng định bảo vệ sức khỏe, tính mạng của người dân là trên hết, trước hết.
Giáo sư, Tiến sỹ Phùng Hữu Phú, nguyên Phó Chủ tịch Thường trực Hội đồng Lý luận Trung ương, đánh giá: "Qua quá trình phòng, chống đại dịch COVID-19, chúng ta càng hiểu rõ không phải cứ thu nhập cao, tốc độ tăng trưởng nhanh là sung sướng, mà quan trọng nhất là cuộc sống bình yên và hạnh phúc".
Phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: "Hạnh phúc của con người không phải chỉ ở chỗ nhiều tiền, lắm của, ăn ngon, mặc đẹp, mà còn ở sự phong phú về tâm hồn, được sống giữa tình thương và lòng nhân ái, lẽ phải và công bằng".
Hạnh phúc của nhân dân luôn là mục tiêu phấn đấu của Đảng từ khi thành lập cho đến khi đạt được những thành tựu đặc biệt quan trọng của ngày hôm nay. Và trong tương lai, mục tiêu này tiếp tục là sợi chỉ đỏ xuyên suốt cho sự nghiệp xây dựng Đảng và phát triển đất nước. Bởi, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Ngoài lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân, Đảng ta không có lợi ích gì khác”./.
Tạp chí Tuyên giáo
Có thể là hình ảnh về 3 người và trẻ em
Tất cả cảm xúc:
1

KHEN THƯỞNG SAO CHO THỰC CHẤT


Thời điểm này, các cơ quan, đơn vị đang tổ chức Đại hội Thi đua Quyết thắng giai đoạn 2019-2024. Đây là dịp để tổng kết đánh giá công tác thi đua, biểu dương, khen thưởng những tập thể, cá nhân đạt thành tích xuất sắc trong thực hiện nhiệm vụ; đồng thời nhân rộng, lan tỏa những mô hình hay, cách làm sáng tạo trong phong trào thi đua.
Nếu ví thi đua là gieo trồng thì khen thưởng là gặt hái. Thi đua để tạo động lực cho mọi người cùng phấn đấu đạt được những chỉ tiêu đề ra. Còn khen thưởng là hái “quả ngọt” sau quá trình nỗ lực thực hiện các mặt thi đua.
Trong tâm lý con người, ai cũng thích được khen. Dù chỉ là lời biểu dương đúng lúc, đúng chỗ cũng tạo tinh thần hứng khởi, tự tin cho mỗi người. Hình thức khen tạo ra cảm xúc tích cực, có tác dụng kích thích con người hành động hướng đến những việc làm tốt hơn, hiệu quả hơn. Đi cùng với khen là thưởng. Đó là những lợi ích về vật chất hoặc tinh thần dành cho cá nhân, tập thể được khen. Khen thưởng đúng người, đúng việc chính là biện pháp hữu hiệu để nhân thêm người tốt - việc tốt.
Tuy nhiên, bên cạnh những danh hiệu, phần thưởng dành cho các tập thể, cá nhân xứng đáng, thực tế thời gian qua, ở một số cơ quan, đơn vị vẫn còn tồn tại bất cập trong công tác khen thưởng. Vì muốn được khen thưởng, một số cá nhân, tập thể có động cơ thi đua không lành mạnh, thiếu trong sáng, tìm mọi cách để "đánh bóng" kết quả, nâng cấp thành tích. Có người vì mục đích cá nhân đã “chạy” khen thưởng nhằm đủ tiêu chí xét cân nhắc vị trí mới, nâng lương.
Có trường hợp lợi dụng địa vị công tác để vơ nhận khen thưởng thái quá về mình. Người lại phấn đấu theo “mùa vụ”, được khen rồi thì có biểu hiện làm việc trung bình chủ nghĩa, cầm chừng. Trong khi đó, còn có đơn vị khen thưởng theo kiểu phân bổ đều chỉ tiêu hoặc xoay vòng lần lượt để ai cũng được khen, "hoa thơm mỗi người hưởng một tí". Cách làm này vô hình trung tạo ra tâm lý cào bằng, triệt tiêu động lực phấn đấu thi đua.
Người Việt ta rất coi trọng khen thưởng, coi đó là niềm vinh dự trước cộng đồng, làng xã. “Trăm đồng tiền công không bằng một đồng tiền thưởng” là vậy! Khi khen thưởng thực chất là góp phần tạo "men say" tích cực để mỗi cá nhân, tổ chức tăng thêm niềm tin, động lực rèn luyện, cống hiến và trưởng thành. Ngược lại, khen thưởng thiếu trung thực, không công bằng, chạy theo thành tích, tranh công đổ lỗi không chỉ là hành vi thiếu văn hóa mà còn kéo phong trào thi đua đi xuống, thậm chí gây mất đoàn kết, tạo dư luận xấu trong tập thể.
Để vườn hoa thi đua kết “quả ngọt” thực sự thì người đứng đầu cơ quan, đơn vị phải hết sức công tâm, khách quan, khen thưởng phân minh trên cơ sở đánh giá trung thực kết quả thực hiện nhiệm vụ của cá nhân, tập thể được đề nghị khen thưởng. Các cơ quan, đơn vị phải phát huy dân chủ, công khai bình xét khen thưởng đúng người, đúng việc.
Cùng với đó, mỗi người cần nhận thức sâu sắc ý nghĩa, giá trị của phong trào thi đua, đề cao lòng tự trọng, uy tín, danh dự, tự giác phấn đấu để nhận được hình thức khen thưởng xứng đáng. Việc khen thưởng đúng người, đúng việc sẽ góp phần tạo ra nền tảng văn hóa thi đua lành mạnh, lan tỏa những năng lượng tích cực, giá trị tốt đẹp cho cơ quan, đơn vị./.