Thứ Ba, 3 tháng 9, 2024

DI CHÚC CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH ĐỊNH HƯỚNG CHO CÁCH MẠNG VIỆT NAM HÔM QUA, HÔM NAY VÀ CHO MAI SAU

 Bản Di chúc thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, sau hơn nửa thế kỷ, càng sáng tỏ giá trị lịch sử và tầm nhìn thời đại của một bậc thiên tài. Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh soi đường, định hướng cho cách mạng Việt Nam hôm qua, hôm nay và cho mai sau, là ngọn đuốc soi đường cho đất nước ta vững bước đi lên, phát triển bền vững.

Di chúc là tâm nguyện, là ý chí, niềm tin, là tình cảm và trách nhiệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh với Tổ quốc, với Nhân dân, với sự nghiệp cách mạng.
Là người cách mạng, là người mác-xit, thấu hiểu quy luật khách quan của tự nhiên, xã hội và con người, trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận thức và đón nhận quy luật của cuộc sống một cách chủ động, bằng phong thái ung dung tự tại, chuẩn bị cho việc ra đi bằng những lời tâm huyết dặn lại, Người viết: "Tôi để sẵn mấy lời này, phòng khi tôi sẽ đi gặp cụ Các Mác, cụ Lê-nin và các vị cách mạng đàn anh khác, thì đồng bào cả nước, đồng chí trong Đảng và bầu bạn khắp nơi đều khỏi cảm thấy đột ngột".
Mở đầu Di chúc, với tinh thần lạc quan cách mạng, trách nhiệm với Tổ quốc, với Nhân dân, Người tin tưởng chắc chắn thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ và sự thống nhất đất nước. Người khẳng định: "Cuộc chống Mỹ, cứu nước của Nhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ, hy sinh nhiều hơn nữa, song nhất định thắng lợi hoàn toàn. Đó là một điều chắc chắn". Người cũng nêu những công việc dự định làm sau đó. Người viết: "Tôi có ý định đến ngày đó, tôi sẽ đi khắp hai miền Nam Bắc, để chúc mừng đồng bào, cán bộ và chiến sĩ anh hùng, thăm hỏi các cụ phụ lão, các cháu thiếu niên và nhi đồng yêu quý của chúng ta…".
Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là công trình bất hủ về xây dựng Đảng cầm quyền.
Là Người sáng lập, rèn luyện Đảng ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến công tác xây dựng Đảng. Người cho rằng, sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Trong công tác xây dựng Đảng, vấn đề đoàn kết thống nhất trong Đảng là một trong những nguyên tắc cơ bản nhất, là sự vận động và phát triển theo đúng quy luật của Đảng. Đoàn kết thống nhất trong Đảng là cơ sở để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân. Đảng lãnh đạo, Đảng cầm quyền mà không đoàn kết thống nhất thì sự nghiệp cách mạng của dân tộc không thể thắng lợi.
Xây dựng và giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong Đảng luôn được Chủ tịch Hồ Chí Minh coi là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, là nền tảng cho mọi thành công. Đoàn kết thống nhất không chỉ là vấn đề sinh tử của từng tổ chức đảng các cấp, mà còn là sinh mệnh của toàn Đảng, là vấn đề sống còn của cách mạng.
Trong bản thảo Di chúc mà Người dành nhiều tâm huyết để hoàn thành, ngay từ năm 1965, Người đã viết: “TRƯỚC HẾT NÓI VỀ ĐẢNG”, “Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo Nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và dân tộc ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình". Như vậy có thể thấy, đoàn kết thống nhất trong Đảng không chỉ là mối quan tâm lớn hàng đầu của Người mà còn là sự trăn trở khi Người nghĩ về mai sau.
Vì sao Chủ tịch Hồ Chí Minh lại luôn nhấn mạnh vai trò, ý nghĩa quan trọng của đoàn kết thống nhất. Người không chỉ nêu ra yêu cầu phải đoàn kết trong Đảng mà Người còn chỉ rõ sự đoàn kết ấy phải là đoàn kết nhất trí, đoàn kết thống nhất một cách thực chất và phải thể hiện cả trong tư tưởng và hành động. Tư tưởng và hành động phải thống nhất. Không thể bề ngoài là đoàn kết nhưng những khi cần ra một quyết định, một quyết sách thì không có được sự thống nhất hay khi cần thì liên minh nhau, khi không cần thì tìm cách cản trở công việc của nhau. Trong tư tưởng của Người, đoàn kết phải là đoàn kết thống nhất, trước sau như một, tức là phải dựa trên nền tảng đường lối, quan điểm của Đảng và vì lợi ích của cách mạng, Nhân dân và tập thể. Người luôn nhấn mạnh: Đảng tuy có nhiều đảng viên, song khi tiến hành nhiệm vụ cách mạng thì chỉ như một người, trong Đảng không cho phép có tình trạng “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”.
Đảng là tổ chức chính trị cao nhất của Nhân dân, của dân tộc, các đảng viên đều tham gia tổ chức một cách tự giác, tự nguyện. Việc giữ vững và thực hiện nghiêm minh các nguyên tắc của Đảng là trách nhiệm của mỗi đảng viên. Người coi nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản và quan trọng, trong từng tổ chức đảng phải thực hành dân chủ, mở rộng dân chủ, “Phải thực sự mở rộng dân chủ để tất cả đảng viên bày tỏ hết ý kiến của mình”, mọi ý kiến, suy nghĩ của mỗi đảng viên đều phải được bày tỏ, lắng nghe; mọi quyết định quan trọng của tổ chức đều phải được bàn bạc, thảo luận một cách dân chủ. Đoàn kết thống nhất trong Đảng đòi hỏi cán bộ, đảng viên phải thật thà tự phê bình và phê bình, đây chính là một hình thức rèn luyện đảng viên để xây dựng, chỉnh đốn Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh. Bởi theo Người: “Chỉ có đảng chân chính cách mạng và chính quyền thật dân chủ mới dám mạnh dạn tự phê bình, hoan nghênh phê bình và kiên quyết sửa chữa. Do tự phê bình và phê bình… mà chúng ta đoàn kết càng chặt chẽ”. Đây cũng là quy luật phát triển của Đảng Cộng sản nói chung, theo tinh thần của chủ nghĩa Mác - Lênin. Trong Di chúc, Người căn dặn “Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng”.
Để có sự đoàn kết thật sự, không chỉ cần thực hiện đúng nguyên tắc sinh hoạt Đảng mà còn rất cần tình thương yêu, sự đồng cảm và chia sẻ với nhau. Năm 1966, Người bổ sung vào bản thảo Di chúc cụm từ “Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”. Để có sự đoàn kết thống nhất thực sự thì bên cạnh tinh thần, lý trí, trong mỗi cán bộ, đảng viên phải có tình thương yêu đồng chí, có lòng nhân ái, nhân hậu. Trong thực hành công việc không chỉ là đặt ra yêu cầu hoàn thành công việc mà còn phải có sự cảm thông, chia sẻ, giúp đỡ nhau cùng hoàn thành công việc. Vì vậy, để duy trì và bồi đắp đoàn kết thống nhất thì từng tổ chức đảng bên cạnh việc phải chú trọng giáo dục ý thức trách nhiệm, còn phải thường xuyên bồi dưỡng tình thân ái, tình thương yêu cảm thông chia sẻ, tình đồng chí.
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng yếu tố đạo đức trong Đảng, chống lại các căn bệnh “quan liêu”, “tham nhũng, lãng phí”, “xa dân”. Theo Người, Đảng cầm quyền có nhiệm vụ to lớn là lãnh đạo Nhân dân xây dựng xã hội mới, tiến hành “một cuộc chiến đấu khổng lồ”, xóa đi những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, xây dựng những cái mới mẻ, tốt tươi. Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn với 4 chữ "thật": “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của Nhân dân”.
Mỗi đảng viên, nhất là đảng viên giữ trọng trách lãnh đạo phải cương quyết chống chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa cơ hội trong chính bản thân mình. Bởi như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã rút ra: chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa cơ hội chính là căn nguyên của mất đoàn kết thống nhất trong Đảng.
Thấm nhuần tư tưởng và thực hiện Di chúc của Người, những năm qua, Đảng ta luôn coi trọng, giữ gìn và phát huy đoàn kết thống nhất. Nhờ đó, Đảng đã quy tụ và phát huy được sức mạnh toàn dân, tạo nên sức mạnh tổng hợp để hoàn thành nhiệm vụ lãnh đạo đất nước mà Nhân dân tin tưởng giao phó. Trong nhiều kỳ Đại hội Đảng, vấn đề đoàn kết thống nhất đều được nghiêm túc đặt ra, được xem xét, đánh giá một cách toàn diện và sâu sắc.
Trong Di chúc, ngay sau khi nói về Đảng, Hồ Chí Minh nói về đoàn viên và thanh niên. Người viết: "ĐOÀN VIÊN và THANH NIÊN ta nói chung là tốt, mọi việc đều hăng hái xung phong, không ngại khó khăn, có chí tiến thủ". Người căn dặn: "Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa "hồng" vừa "chuyên".
Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết".
55 năm qua, Đảng ta đã quan tâm bồi dưỡng, đào tạo các thế hệ đoàn viên, thanh niên. Nhiều đoàn viên, thanh niên đã thực sự trở thành người kế tục xứng đáng sự nghiệp cách mạng của lớp cha, anh đi trước. Nhiều người đã trở thành cán bộ lãnh đạo, quản lý, cán bộ chuyên môn giỏi; trở thành những trí thức tài năng, những công nhân, những nông dân sản xuất giỏi, những doanh nhân thành đạt… Đảng ta chủ trương xây dựng Đoàn vững mạnh là xây dựng Đảng trước một bước. Tầm nhìn xa của Hồ Chí Minh về xây dựng những lớp người kế tục sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng, của Nhân dân rất rõ ràng. Người luôn thể hiện sự tin tưởng vào thế hệ trẻ, thế hệ tương lai của đất nước. Suốt đời mình, Người luôn dành sự quan tâm, chăm lo đặc biệt cho thanh niên, thiếu niên và nhi đồng. Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, việc chăm lo đào tạo, bồi dưỡng thế hệ trẻ như tâm nguyện của Người trong Di chúc là một việc cực kỳ quan trọng của Đảng, của Nhân dân ta.
Nói về nhân dân lao động, trong Di chúc, Người viết: "NHÂN DÂN LAO ĐỘNG ta ở miền xuôi cũng như miền núi, đã bao đời chịu đựng gian khổ, bị chế độ phong kiến và thực dân áp bức bóc lột, lại kinh qua nhiều năm chiến tranh.
Tuy vậy, Nhân dân ta rất anh hùng, dũng cảm, hăng hái, cần cù. Từ ngày có Đảng, Nhân dân ta luôn luôn đi theo Đảng, rất trung thành với Đảng".
Suốt cuộc đời của Người là chăm lo cho đời sống của Nhân dân. Trong Di chúc, Người căn dặn: "Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của Nhân dân".
Khi viết VỀ VIỆC RIÊNG, Người tâm niệm: "Suốt đời tôi hết lòng hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ Nhân dân. Nay dù phải từ biệt thế giới này, tôi không có gì phải hối hận, chỉ tiếc là tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa".
Ngay cả việc ra đi của Người, Người vẫn còn lo cho nhân dân, khi Người căn dặn: "Sau khi tôi đã qua đời, chớ nên tổ chức điếu phúng linh đình, để khỏi lãng phí thì giờ và tiền bạc của Nhân dân".
Nhân dân luôn trong trái tim của Người, tất cả vì Nhân dân, dành cho Nhân dân. Người viết: "Cuối cùng, tôi để lại muôn vàn tình thân yêu cho toàn dân, toàn Đảng, cho toàn thể bộ đội, cho các cháu thanh niên và nhi đồng".
Đoạn cuối cùng của bản Di chúc thiêng liêng, Người viết: "Điều mong muốn cuối cùng của tôi là: Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới". Sau bao biến cố thăng trầm của một mô hình chủ nghĩa xã hội, chúng ta phải coi đây chính là đặc trưng cơ bản nhất của một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Sau 55 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng ta càng thấy rõ hơn tầm nhìn chiến lược, tư tưởng thiên tài của Người từ cách đây trên nửa thế kỷ đã, đang và sẽ vẫn là ngọn đuốc soi đường, định hướng cho cách mạng Việt Nam. Sau 55 năm thực hiện Di chúc, chúng ta soi xét vào từng lời dặn của Người, tự hào đã làm được nhiều việc, trân trọng những thành quả đã đạt được, nhưng không khỏi đau lòng về những thiếu sót, hạn chế, những tiêu cực đang diễn ra trong xã hội. Trong Đảng vẫn còn sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên.
Bước vào thời kỳ hội nhập quốc tế, trước những tác động của kinh tế thị trường, một bộ phận cán bộ, đảng viên, kể cả cán bộ cấp cao có xu hướng chạy theo chủ nghĩa cá nhân; một số tổ chức Đảng có biểu hiện mất đoàn kết nội bộ, chưa tôn trọng và thực hiện chưa đúng nguyên tắc tập trung dân chủ. Việc tự phê bình và phê bình có nơi trở nên hình thức, có nơi bị lợi dụng để đấu đá, hạ bệ lẫn nhau. Bên cạnh đó, những biểu hiện cơ hội chủ nghĩa, “lợi ích nhóm”, tính cục bộ địa phương có nơi đã xuất hiện và phá hoại sự đoàn kết thống nhất trong Đảng. Ở nhiều nơi, chính người đứng đầu chịu trách nhiệm trước cấp ủy cấp trên và cấp mình về sự đoàn kết thống nhất nội bộ lại chưa thực sự gương mẫu, chưa thấm nhuần ý thức xây dựng khối đoàn kết thống nhất trong nội bộ. Chính vì vậy, việc lựa chọn người đứng đầu có đủ phẩm chất, năng lực, có vai trò tiền phong, gương mẫu là rất quan trọng. Người đứng đầu cấp ủy, chính quyền phải thực sự công bằng, công tâm trong xử lý công việc, phải thực sự là trung tâm quy tụ, đoàn kết của tổ chức đảng, của tập thể cơ quan, đơn vị.
Thực tế cho thấy, đoàn kết thống nhất trong cán bộ lãnh đạo ở cấp càng cao thì tác động, ảnh hưởng đối với Đảng càng mạnh, sức lan tỏa ra xã hội càng lớn. Ngược lại, những người nắm trọng trách lãnh đạo, không có ý thức đoàn kết thống nhất thì không những gây nguy hại mà còn tạo ra những nguy cơ lớn, khó lường cho toàn Đảng.
Trong thời điểm đất nước đang đứng trước những thời cơ, vận hội mới nhưng cũng đầy những thử thách lớn lao, những thành tựu mà toàn Đảng, toàn Dân đạt được qua gần 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước chính là kết quả của sự đoàn kết thống nhất của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, là minh chứng khẳng định sự trưởng thành và vững mạnh của Đảng. Tuy nhiên, trong bối cảnh tình hình thế giới diễn biến phức tạp, khó lường, bên cạnh những thành tựu đạt được, nước ta vẫn đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, phức tạp. Các thế lực thù địch luôn tìm mọi cách, bằng nhiều âm mưu thâm độc, xảo quyệt, kích động chia rẽ nội bộ, gây mất đoàn kết trong Đảng. Chính vì vậy, tăng cường đoàn kết và thống nhất trong Đảng từ Trung ương đến cơ sở là điều tất yếu và cấp thiết trong giai đoạn hiện nay.
Giờ đây, đoàn kết thống nhất trong Đảng càng phải được xem là một chiến lược lâu dài đối với sự nghiệp cách mạng. Là Đảng duy nhất cầm quyền, Đảng ta càng phải xây dựng, củng cố sự đoàn kết thống nhất, có như vậy thì hệ thống chính trị, các tầng lớp nhân dân, các dân tộc mới đoàn kết xung quanh Đảng. Đoàn kết trong Đảng chính là tấm gương cho cả hệ thống chính trị và là nhân tố quyết định bảo đảm đoàn kết dân tộc.
Trước thềm Đại hội XIV của Đảng, trước thời điểm phải lựa chọn những người thật sự xứng đáng, thật sự có tài, thật sự có đức, thật sự có tâm, thật sự có tầm để đảm nhận những trọng trách lãnh đạo đất nước, thì hơn bao giờ hết, chúng ta càng phải phát huy truyền thống đoàn kết thống nhất. Đây là trách nhiệm lớn, mà trước hết là của tập thể, cá nhân lãnh đạo từ Trung ương đến từng cơ sở. Mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ giữ trọng trách lãnh đạo từ cấp cao đến cấp cơ sở phải thực sự thực hiện nghiêm lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Di chúc: “Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”./.
St

NGHIÊN CỨU VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM "KHÁNG CHIẾN TOÀN DÂN, TOÀN DIỆN" TRONG CHIẾN TRANH BẢO VỆ TỔ QUỐC

 Quan điểm “Kháng chiến toàn dân, toàn diện” là nội dung cốt lõi trong tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh. Việc vận dụng đúng đắn, sáng tạo quan điểm trên vào thực tiễn là một trong những nguyên nhân cơ bản nhất dẫn tới thắng lợi vĩ đại của hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Chiến tranh bảo vệ Tổ quốc (nếu xảy ra), quan điểm trên vẫn còn nguyên giá trị, cần được nghiên cứu, vận dụng có hiệu quả trong thực tiễn.

Quan điểm “Kháng chiến toàn dân, toàn diện” trong tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh là sự phát triển lý luận quân sự của chủ nghĩa Mác – Lênin; tiếp thu có chọn lọc những giá trị tinh hoa quân sự thế giới; kết hợp với kinh nghiệm của Đảng ta và nhân dân ta trong suốt tiến trình cách mạng Việt Nam. Nắm vững nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử, am hiểu sâu sắc truyền thống, kinh nghiệm đấu tranh chống ngoại xâm của dân tộc: “Cả nước một lòng, toàn dân đánh giặc”, “trăm họ là binh”, “giặc đến nhà, đàn bà cũng đánh”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định đúng vai trò quyết định của nhân dân trong đấu tranh giành chính quyền cũng như trong chiến tranh giải phóng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “chiến tranh giải phóng hay chiến tranh bảo vệ Tổ quốc của Việt Nam đều là chiến tranh nhân dân, một cuộc chiến tranh cách mạng thực sự “của dân, do dân và vì dân””1. Người cũng chỉ ra rằng, chiến tranh nhân dân toàn dân phải gắn với chiến tranh nhân dân toàn diện: “Trước kia, chỉ có quân đội đánh nhau ở tiền tuyến và trên mặt đất hay trên mặt nước, nên người ta gọi là bình diện chiến tranh. Ngày nay đánh nhau ở cả trên không và cả ở tiền tuyến cũng như ở hậu phương, nên người ta gọi là lập thể chiến tranh. Trước kia, chỉ đánh nhau về một mặt quân sự nhưng ngày nay đánh nhau về đủ mọi mặt quân sự, kinh tế, chính trị, tư tưởng nên người ta gọi là toàn diện chiến tranh”2. “…Chiến tranh ngày nay phức tạp và hết sức khó khăn. Không dùng toàn lực của nhân dân về đủ mọi mặt để ứng phó, không thể thắng lợi được”3.
Việc vận dụng quan điểm “Kháng chiến toàn dân, toàn diện” của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc được thể hiện rõ trong phương châm chỉ đạo chiến tranh của Đảng về quán triệt tư tưởng chiến lược tiến công, tiến hành chiến tranh nhân dân toàn dân, toàn diện; đánh địch trên các môi trường, tập trung nỗ lực đánh địch trên chiến trường (hướng chiến lược), địa bàn, khu vực trọng điểm; thu hẹp không gian, rút ngắn thời gian chiến tranh; vừa chiến đấu vừa xây dựng, dựa vào sức mình là chính, ra sức tranh thủ các điều kiện quốc tế thuận lợi trong hoàn cảnh mới, tạo sức mạnh tổng hợp, đánh bại ý chí xâm lược của địch, kết thúc chiến tranh trong điều kiện có lợi. Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XIII) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới cũng khẳng định: kiên trì đường lối quốc phòng toàn dân, chiến tranh nhân dân; bởi lẽ, một nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, một cuộc chiến tranh nhân dân đích thực thì không một thế lực nào có thể đánh bại được.
Chiến tranh bảo vệ Tổ quốc (nếu xảy ra), phần nhiều chúng ta phải chống lại kẻ thù xâm lược có tiềm lực quân sự, kinh tế, khoa học và công nghệ lớn hơn gấp nhiều lần; sử dụng nhiều phương thức, biện pháp chiến tranh tinh vi, hiện đại trên tất cả các lĩnh vực, v.v. Vì vậy, để có sức mạnh tổng hợp vượt lên trên sức mạnh của đối phương, giành thắng lợi cuối cùng, chúng ta phải dựa vào dân, phát huy sức mạnh của nhân dân. Kháng chiến toàn dân, toàn diện phản ánh quy luật cơ bản nhất, bao trùm nhất để giành thắng lợi; là nội dung thể hiện tập trung nhất nghệ thuật tổ chức, động viên, phối hợp các lực lượng, các hình thức và phương pháp đấu tranh, tạo nên sức mạnh tổng hợp lớn hơn địch, dám đánh và quyết thắng địch. Kháng chiến toàn dân, toàn diện là sự kế thừa và phát huy truyền thống toàn dân đánh giặc của dân tộc Việt Nam “toàn dân chung sức, cả nước chung lòng”, là nghệ thuật tạo nên sức mạnh tổng hợp trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc.
Vận dụng quan điểm “Kháng chiến toàn dân”
Từ thực tiễn cho thấy, hiện nay và trong thời gian tới, cho dù đất nước ta có sự phát triển hơn trước nhiều lần, đời sống của nhân dân được nâng cao, thế và lực của đất nước được tăng cường hơn bao giờ hết, thì so với các nước phát triển, nhất là các nước lớn vẫn còn khoảng cách khá xa, thậm chí có mặt còn tụt hậu so với mặt bằng chung của khu vực và thế giới. Trong bối cảnh ấy, nếu đất nước phải đối mặt với một cuộc chiến tranh xâm lược của kẻ thù, chúng ta vẫn phải “lấy nhỏ thắng lớn”, “lấy ít địch nhiều”, phải dựa vào sức mạnh của toàn dân để đánh thắng những đội quân xâm lược mạnh hơn ta gấp nhiều lần.
Đó là cuộc kháng chiến toàn dân trong điều kiện mới của đất nước với nhiều yếu tố rất thuận lợi. Lực lượng tiến hành kháng chiến là lực lượng toàn dân, thực hiện toàn dân đánh giặc với tất cả các phương thức, trên tất cả các lĩnh vực, địa bàn, diễn ra ở mọi không gian, thời gian. Toàn dân đánh giặc khiến quân địch không thể tạo ra một mặt trận cố định để đối phó với quân và dân ta, ở đâu có người Việt Nam giác ngộ cách mạng, dù là trong nước hay ngoài nước, thì ở đó có mặt trận đánh địch, với sự tham gia đông đảo của mọi tầng lớp nhân dân, có tính tổ chức khoa học, trình độ và năng lực mọi mặt của quần chúng ngày càng cao.
Kháng chiến toàn dân trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc hiện nay có sự phát triển mới. Trước hết, ta đánh địch bằng sức mạnh của một dân tộc đã giành được độc lập, đất nước thống nhất, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Đó là sức mạnh của toàn dân làm chủ đất nước, có lực lượng vũ trang nhân dân ba thứ quân lớn mạnh làm nòng cốt; trong điều kiện thế và lực của đất nước ngày càng được nâng cao; nền kinh tế nước ta là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế sâu rộng,… sẽ tạo ra nhiều thuận lợi trong phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế để động viên nhân tài, vật lực cho chiến tranh.
Tuy nhiên, kháng chiến toàn dân bảo vệ Tổ quốc sẽ phải đối đầu với chiến tranh xâm lược có sử dụng vũ khí công nghệ cao, chiến sự sẽ diễn biến hết sức quyết liệt, phức tạp, với cường độ và sức sát thương, hủy diệt lớn,… tác động mạnh đến tư tưởng, tâm lý của quân và dân ta. Vì vậy, chúng ta phải có sự chuẩn bị một cách chủ động, đầy đủ và toàn diện cho mọi lực lượng để có đủ sức mạnh đánh thắng địch trong mọi tình huống.
Vận dụng quan điểm “Kháng chiến toàn diện”
Chiến tranh là cuộc thử thách toàn diện đối với toàn bộ sức mạnh vật chất và tinh thần của đất nước. Chỉ có tiến hành kháng chiến toàn diện, chúng ta mới phát huy được chỗ mạnh, sở trường của ta là chiến tranh chính nghĩa; đánh giặc về mọi mặt ngay trên đất nước ta và cả nơi xuất phát tiến công xâm lược của địch. Kháng chiến toàn diện được tiến hành trên nhiều lĩnh vực, bao gồm: đấu tranh vũ trang; đấu tranh chính trị; đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, văn hóa; đấu tranh kinh tế; đấu tranh ngoại giao;... trong đó, đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính trị giữ vai trò quyết định đến thắng lợi của cuộc chiến tranh.
Đấu tranh vũ trang là hình thức cơ bản, giữ vai trò trực tiếp quyết định trong việc tiêu hao, tiêu diệt lực lượng địch. Đấu tranh vũ trang trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc phải kế thừa, phát huy truyền thống và kinh nghiệm của dân tộc, tinh hoa quân sự thế giới; đặc biệt là truyền thống, kinh nghiệm trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc vừa qua để vận dụng sáng tạo trong điều kiện mới. Vì vậy, phải chọn đúng hình thức và phương pháp tác chiến; xác định quy mô, cách tổ chức và sử dụng lực lượng thích hợp. Đấu tranh vũ trang phối hợp cùng các mặt trận khác giành thắng lợi trong chiến tranh nhưng phải có lợi nhất về mặt chính trị để ổn định, xây dựng đất nước sau chiến tranh. Cùng với nhiệm vụ tiêu diệt lực lượng quân sự của địch từ ngoài vào, dập tắt bạo loạn ly khai từ bên trong, đấu tranh vũ trang còn có nhiệm vụ bảo vệ vững chắc các mục tiêu chiến lược, làm chỗ dựa cho các mặt trận đấu tranh khác và làm chỗ dựa cho quần chúng nhân dân đấu tranh chính trị. Phải kết hợp chặt chẽ tác chiến phòng thủ, phòng ngự với tiến công, phản công, lấy phản công, tiến công làm chính, phòng thủ, phòng ngự là rất quan trọng; kết hợp đánh nhỏ, đánh vừa với tạo thời cơ đánh lớn bằng nhiều hình thức, biện pháp và loại hình tác chiến; kết hợp chặt chẽ giữa chiến tranh nhân dân địa phương với chiến tranh bằng các binh đoàn chủ lực ngay từ đầu và trong suốt quá trình chiến tranh. Các lực lượng vũ trang phải tinh, gọn, mạnh, cơ động nhanh, có sức chiến đấu cao, khi thực hành tác chiến phải chọn đúng hướng tiến công, nhất là hướng tiến công chiến lược.
Đấu tranh chính trị là hình thức đấu tranh cơ bản của đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc, là phương pháp đấu tranh của đông đảo quần chúng nhân dân không vũ trang. Đấu tranh chính trị giữ vị trí hết sức quan trọng, là sở trường của ta và là chỗ yếu chí mạng của địch, vì cuộc chiến tranh ta tiến hành là chính nghĩa. Đây cũng là một phương thức tiến công địch và là cơ sở phát triển của đấu tranh vũ trang. Đấu tranh chính trị nêu cao giá trị nhân bản, nhân văn và chính nghĩa của ta, vạch trần bản chất xâm lược phi nghĩa và tội ác của địch. Đẩy mạnh đấu tranh trên mặt trận chính trị thì mới đập tan được mọi luận điệu xuyên tạc, kích động, lừa gạt và chia rẽ của kẻ thù; mở rộng và củng cố được khối đại đoàn kết toàn dân tộc, làm cho địch ngày càng bị cô lập, phân hóa và suy yếu về chính trị, tạo thuận lợi cho đấu tranh vũ trang và các mặt đấu tranh khác giành thắng lợi.
Chiến tranh ngày nay càng gắn bó chặt chẽ với chính trị, do vũ khí công nghệ cao có thể tạo ra “siêu sát thương”, gây sức ép về chính trị, ngoại giao, kinh tế, tài chính, răn đe quân sự hoặc chiến tranh thông tin, v.v. Trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ngày nay, cần phải tăng cường tuyên truyền, giáo dục làm cho toàn dân hiểu rõ bản chất chiến tranh xâm lược của kẻ thù, vạch trần bộ mặt “tự do”, “dân chủ”, “nhân quyền” giả hiệu, cùng những luận điệu tuyên truyền xuyên tạc của chúng. Đồng thời, khơi dậy trong nhân dân truyền thống quật cường, bất khuất chống giặc ngoại xâm, ý chí độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, lòng căm thù giặc sâu sắc, v.v. Muốn vậy phải đẩy mạnh xây dựng Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị ngày càng trong sạch vững mạnh, không ngừng củng cố và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, làm cho toàn dân tin Đảng, yêu nước, gắn bó với chế độ.
Quan điểm “Kháng chiến toàn dân, toàn diện” của Chủ tịch Hồ Chí Minh là sự kế thừa xuất sắc truyền thống quân sự của dân tộc, tinh hoa quân sự của nhân loại và đã trở thành nền tảng tư tưởng cho đường lối quân sự của Đảng và là ngọn đuốc soi đường cho hoạt động quân sự và đấu tranh vũ trang của nhân dân ta giành thắng lợi vẻ vang. Vì vậy, việc nghiên cứu, vận dụng tư tưởng đó vào sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc là vấn đề quan trọng, cấp thiết. Nội hàm bài viết mới là những nghiên cứu bước đầu, trân trọng trao đổi cùng bạn đọc./.
St

Biểu tượng của độc lập, tinh thần dân tộc, lòng yêu nước và ý chí kiên cường.

 

"Đối với cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài nói chung, cộng đồng người Việt Nam ở Trung Quốc nói riêng, Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là biểu tượng của độc lập, của tinh thần dân tộc, tinh thần yêu nước, ý chí bất khuất kiên cường". Đây là những chia sẻ chân thành của Tiến sĩ Nguyễn Thị Lan, Chủ tịch Hội người Việt Nam tại Trùng Khánh - Tứ Xuyên.

Theo Tiến sĩ Nguyễn Thị Lan, trong cuộc đời hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dành cả cuộc đời cao đẹp hiến dâng cho sự nghiệp vẻ vang giải phóng dân tộc, đưa đất nước hướng tới độc lập, tự do, sánh vai với các cường quốc năm châu. Vì vậy, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài luôn dành cho Chủ tịch Hồ Chí Minh và quê hương đất nước một tình cảm vô cùng sâu đậm, tha thiết. Dẫu có đi đâu, ở đâu, làm gì, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài luôn đau đáu trong tim hình ảnh Bác, hình ảnh quê hương Việt Nam thân yêu, một lòng hướng về Tổ quốc. Như câu nói Bác đã từng khẳng định: “Quê hương nghĩa nặng tình cao. Năm mươi năm ấy biết bao nhiêu tình”.

Sinh thời, Bác Hồ rất quan tâm đến cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, đồng thời cũng là người đặt nền tảng vững chắc cho mối liên kết giữa người Việt Nam ở trong và ngoài nước. Từ góc nhìn của người đã hơn 13 năm sống ở nước ngoài, Tiến sĩ Nguyễn Thị Lan đánh giá Đảng và Nhà nước Việt Nam hiện nay đã có những chính sách mang tính tiếp nối truyền thống, phù hợp, đúng đắn và nhất quán về người Việt Nam ở nước ngoài, đồng thời có vai trò quan trọng trong việc kết nối kiều bào với đồng bào trong nước.

Theo Tiến sĩ Nguyễn Thị Lan, nhờ có sự quan tâm đặc biệt của Đảng và Nhà nước Việt Nam và đường lối chính sách phù hợp giúp bà con kiều bào ở nước ngoài an tâm sinh sống, làm việc và học tập tại nước sở tại, ngày càng có những cái nhìn tích cực hơn, thêm tin tưởng và tự hào về quê hương, hướng về đất nước. Cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài nói chung, cộng đồng người Việt Nam ở Trung Quốc nói riêng, vô cùng trân trọng sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đã luôn dành tình cảm, cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho bà con kiều bào, tăng cường sự gắn bó giữa kiều bào với quê hương, phục vụ sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, góp phần phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, khơi dậy mạnh mẽ và nuôi dưỡng lòng tự hào dân tộc, nâng cao tình cảm và trách nhiệm của kiều bào đóng góp vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. 

Theo Tiến sĩ Nguyễn Thị Lan, cộng đồng người Việt Nam ở Trung Quốc không chỉ đóng góp tích cực vào sự phát triển của sở tại mà còn góp phần quan trọng vào việc thúc đẩy quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và Trung Quốc. Với sự gần gũi về địa lý và văn hóa, Trung Quốc là một trong những đất nước có đông đảo người Việt sinh sống, hiện tại số lượng người Việt Nam sinh sống, làm việc và du học ở Trung Quốc ngày càng tăng (khoảng trên 500.000 người).

Người Việt tại Trung Quốc phần lớn hiện có cuộc sống tương đối ổn định, ngày càng có điều kiện phát triển tốt hơn, trong đó nhiều người đã làm việc cho các tập đoàn, công ty lớn của Trung Quốc. Sau một thời gian tích lũy kinh nghiệm, nhiều người mong muốn trở về nước để tìm kiếm cơ hội phát triển tốt hơn và đóng góp thiết thực cho quê hương, trở thành "lực đẩy" quan trọng trong công cuộc xây dựng đất nước phồn vinh.

Cộng đồng người Việt Nam ở Trung Quốc luôn ý thức rõ về vai trò cầu nối của bản thân trong việc thúc đẩy hơn nữa quan hệ Việt - Trung, không ngừng phát huy những lợi thế riêng của bản thân, làm đầu mối quan trọng trong việc kết nối chuyển giao khoa học công nghệ, kết nối kinh tế, thương mại, quảng bá hàng hóa, sản phẩm của Việt Nam tại nước sở tại, cũng như đầu tư phát triển các dự án kinh tế giữa Việt Nam và Trung Quốc. Trong quá trình sinh sống và học tập tại Trung Quốc, việc kiều bào hòa nhập tốt vào xã hội sở tại, thường xuyên tiếp xúc với người Trung Quốc và tham gia các chương trình trao đổi giao lưu văn hóa, giáo dục, xúc tiến thương mại… cũng là trực tiếp đóng góp tích cực vào việc thúc đẩy giao lưu văn hóa, tăng cường tình hữu nghị giữa nhân dân hai nước Việt - Trung. 

Là một trong số gần 600 đại biểu đại diện cho cộng đồng người Việt Nam trên toàn thế giới về nước dự Hội nghị người Việt Nam ở nước ngoài toàn thế giới lần thứ 4 và Diễn đàn Trí thức và Chuyên gia người Việt Nam ở nước ngoài năm 2024, bà Nguyễn Thị Lan bày tỏ vinh dự và gửi lời cảm ơn tới Ban lãnh đạo Ủy ban nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài - Bộ Ngoại giao, các cơ quan trong nước đã tổ chức hội nghị, cũng như sự quan tâm của Đảng, Nhà nước đối với cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài.

Bà nhấn mạnh, dù ở bất cứ nơi đâu, đồng bào luôn hướng về Tổ quốc, gắn bó máu thịt với cội nguồn dân tộc. Hội nghị người Việt Nam ở nước ngoài toàn thế giới lần thứ 4 và Diễn đàn Trí thức và Chuyên gia người Việt Nam ở nước ngoài năm 2024 là cơ hội quý báu cho bà con người Việt ở nước ngoài cập nhật thông tin về tình hình quê hương đất nước, hiểu biết hơn nữa về công tác người Việt ở nước ngoài của Đảng và Nhà nước, qua đó gợi mở cho kiều bào hướng đi mới, yêu cầu mới cũng như cách làm mới để đóng góp thiết thực hơn nữa vào công cuộc xây dựng đất nước chung của mỗi người con Việt Nam.

Xây dựng nền nếp văn hóa phê bình tích cực.

 

Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ để lại cho dân tộc Việt Nam một sự nghiệp cách mạng vĩ đại mà còn truyền tải những giá trị đạo đức và tư tưởng sâu sắc qua Di chúc của Người.

Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, viết vào những năm cuối đời, không chỉ phản ánh sự trải nghiệm phong phú của một nhà lãnh đạo lỗi lạc mà còn chứa đựng những nguyên tắc cơ bản để xây dựng và duy trì sự trong sạch, hiệu quả của Đảng và Nhà nước. Trong đó, nguyên tắc tự phê bình và phê bình nổi bật như một phương tiện thiết yếu để nâng cao phẩm chất của đội ngũ cán bộ, đảng viên và toàn bộ hệ thống chính trị.

Nguyên tắc tự phê bình và phê bình mà Bác đề ra không chỉ là một phương pháp quản lý mà còn là một phần thiết yếu trong việc xây dựng Đảng và Nhà nước trong sạch và mạnh mẽ. Người căn dặn: “Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng. Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau".

Theo Người, tự phê bình là quá trình mà mỗi cá nhân cần phải tự nhìn nhận, đánh giá và sửa chữa những khuyết điểm, thiếu sót của chính mình. Điều này giúp mỗi người không ngừng hoàn thiện bản thân, đồng thời duy trì sự chính trực và đạo đức cách mạng.

Phê bình, ngược lại, là việc các đồng chí, đồng nghiệp góp ý, nhắc nhở và giúp đỡ nhau để khắc phục những hạn chế, nâng cao hiệu quả công tác và phẩm chất cá nhân. Phê bình cần được thực hiện một cách công tâm, xây dựng và mang tính xây dựng, không phải chỉ trích đơn thuần. Nguyên tắc tự phê bình và phê bình có vai trò quan trọng trong việc duy trì sự đoàn kết, đồng thuận trong tổ chức, đồng thời nâng cao hiệu quả công tác và phát triển cá nhân.

Khi mọi người trong tổ chức sẵn sàng tự phê bình và tiếp nhận phê bình một cách nghiêm túc, nó giúp loại bỏ những khuyết điểm, sai sót và tạo ra một môi trường làm việc công bằng, dân chủ. Thời gian qua, công tác tự phê bình và phê bình trong nhiều tổ chức cơ sở đảng làm chưa được tốt. Chính vì vậy, đã có những tổ chức đảng, đảng viên, nhất là các đồng chí giữ vai trò chủ chốt vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, thoái hóa về tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức buộc phải xử lý kỷ luật từ khiển trách đến khai trừ ra khỏi Đảng.

Việc để xảy ra những tổ chức đảng, đảng viên vi phạm, một phần là bởi trong sinh hoạt Đảng đã có sự e ngại va chạm giữa các đảng viên, e ngại bị phân biệt đối xử giữa cấp trên và cấp dưới. Nhiều cá nhân ngại phê bình vì sợ mất lòng, hoặc sợ nhận được phản ứng tiêu cực từ phía đồng chí của mình. Chính từ việc e ngại va chạm đã làm cho vũ khí tự phê bình và phê bình mất tác dụng, làm giảm sức chiến đấu của các tổ chức đảng. Để khắc phục tình trạng này, các tổ chức đảng cần xây dựng nền nếp văn hóa phê bình tích cực, trong đó việc phê bình phải được coi là một cơ hội để cải thiện, không phải là sự chỉ trích cá nhân. Các lãnh đạo, cán bộ chủ chốt cần loại bỏ tính tự ái cá nhân, tạo điều kiện để mọi người có thể thoải mái bày tỏ ý kiến, nhận xét, góp ý mà không sợ bị “để ý”, bị phân biệt đối xử.

Một vấn đề nữa là sự thiếu công bằng trong phê bình. Đôi khi, việc phê bình không được thực hiện công bằng hoặc thiếu khách quan, dẫn đến hiệu quả không như mong đợi. Chẳng hạn như trong cuộc sống, công tác, không ưa người này, người kia thì tìm đủ mọi cách để phê bình, mặc dù chất lượng công tác, chuyên môn nghiệp vụ của người bị phê bình vẫn tốt. Phê bình kiểu “sợi tóc chẻ tư” khiến cho người bị phê bình cảm thấy không thuyết phục. Do đó, trong phê bình cũng cần có sự giám sát và đánh giá quá trình phê bình, bảo đảm cho mọi ý kiến đều được thể hiện một cách vô tư, khách quan và công bằng.

Cùng với hai vấn đề nêu trên, hiện nay trong các tổ chức đảng còn xuất hiện hiện tượng thực hiện nguyên tắc tự phê bình và phê bình theo kiểu hình thức, hoặc thiếu sự nghiêm túc. Nghĩa là chỉ thực hiện phê bình kiểu chiếu lệ, qua loa đại khái, nhất là thực hiện nguyên tắc phê bình mỗi khi kiểm tra định kỳ đối với cán bộ chủ chốt. Vì thế, có thể người được phê bình có sai phạm mà không biết mình sai. Điều này cần được khắc phục bằng cách nâng cao nhận thức và yêu cầu từ cấp trên, đồng thời tạo ra cơ chế kiểm tra và đánh giá để bảo đảm cho nguyên tắc này được thực hiện một cách nghiêm túc và hiệu quả. Khi người được phê bình đã thiếu tự giác trong tự phê bình lại nhận được việc phê bình kiểu hình thức thì vi phạm sẽ chồng lên vi phạm và âm ỉ kéo dài.

Để duy trì và thực hiện nghiêm nguyên tắc tự phê bình và phê bình, cần phải có sự cam kết từ các cấp lãnh đạo và toàn thể cán bộ, đảng viên. Theo đó, cần thực hiện tốt một số biện pháp sau:

Một là, tạo môi trường dân chủ và cởi mở. Đây chính là điều kiện tiên quyết để thực hiện hiệu quả nguyên tắc tự phê bình và phê bình. Các tổ chức cần xây dựng không khí nơi mà mọi ý kiến và góp ý đều được lắng nghe một cách nghiêm túc. Lãnh đạo cần phải gương mẫu, khuyến khích việc phê bình và tiếp nhận phê bình một cách tích cực. Điều này giúp giảm bớt sự e ngại, ngại va chạm của các thành viên khi đưa ra ý kiến và nhận xét.

Hai là, xây dựng quy chế và quy trình cụ thể về thực hiện tự phê bình và phê bình. Các quy chế này cần phải được phổ biến và hiểu rõ ở tất cả cán bộ, đảng viên. Quy trình phê bình cần được thực hiện định kỳ, cụ thể và công khai để bảo đảm tính minh bạch và công bằng. Quy trình này cũng cần quy định rõ ràng về cách tiếp nhận và xử lý các ý kiến phê bình, nhằm bảo đảm  rằng mọi góp ý đều được xem xét một cách nghiêm túc và công bằng.

Ba là, tăng cường công tác đào tạo và tuyên truyền về tầm quan trọng của tự phê bình và phê bình là rất cần thiết. Đào tạo giúp nâng cao nhận thức và kỹ năng thực hiện nguyên tắc này cho mọi cán bộ, đảng viên. Tuyên truyền về những lợi ích của việc thực hiện tự phê bình và phê bình cũng giúp xây dựng nhận thức và thúc đẩy sự tham gia tích cực từ mọi người. Các khóa đào tạo nên được tổ chức thường xuyên và cập nhật theo tình hình thực tiễn.

Bốn là, xử lý nghiêm minh và kịp thời những vi phạm nguyên tắc tự phê bình và phê bình. Việc này không chỉ giúp duy trì kỷ luật mà còn tạo động lực cho việc thực hiện nguyên tắc một cách triệt để. Các biện pháp xử lý cần phải công khai và minh bạch, đồng thời phù hợp với mức độ vi phạm.

Chúng ta có thể thấy, nguyên tắc tự phê bình và phê bình theo tinh thần Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một nguyên tắc quan trọng của Đảng Cộng sản cầm quyền, đồng thời là một giá trị văn hóa, đạo đức cần được duy trì và lan tỏa rộng rãi. Tự phê bình và phê bình là phương thức thiết yếu để rèn luyện và củng cố đội ngũ đảng viên, là vũ khí để Đảng tự làm trong sạch mình và thể hiện phẩm chất cầm quyền của Đảng.

Để thực hiện tốt nguyên tắc này, cần có quyết tâm, cam kết thực sự và sự nỗ lực, quyết liệt từ Ban Chấp hành Trung ương đến tổ chức cơ sở đảng và các đảng viên. Việc thực hiện nguyên tắc cần phải được tiến hành thường xuyên, liên tục như “rửa mặt hằng ngày”. Có như vậy, từng đảng viên mới có thể giữ được sự trong sạch, liêm khiết, từng tổ chức đảng đến toàn Đảng mới giữ gìn được sức chiến đấu và phẩm chất, làm sâu sắc hơn vai trò lãnh đạo của mình.

Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Sự kết tinh của trí tuệ uyên bác, nhân cách cao đẹp.

 

ản Di chúc được Chủ tịch Hồ Chí Minh viết trong một thời gian dài, từ năm 1965 đến năm 1969, là một bản tổng kết sâu sắc, toàn diện kinh nghiệm, quá trình chỉ đạo cách mạng, những trải nghiệm, đường hướng phát triển tương lai của dân tộc.

Thủ tướng Phạm Văn Đồng, một người học trò xuất sắc, một cộng sự gần gũi và thân thiết của Bác đã viết về những trăn trở đầy tâm huyết, sự cẩn trọng, cân nhắc đầy trách nhiệm của người cộng sản, vị lãnh tụ vĩ đại Hồ Chí Minh khi soạn thảo “Tài liệu tuyệt đối bí mật” này: “Lúc gần tuổi “cổ lai hy”, thì phải nghĩ tới những gì cần căn dặn lại những người sẽ kế tục sự nghiệp của mình. Chắc rằng Bác Hồ của chúng ta đã suy nghĩ rất nhiều về việc này. Bác đã đi thăm Côn Sơn, đây là một cuộc hành hương đến nơi ở cuối cùng của Nguyễn Trãi. Lúc bắt tay vào công việc cực kỳ trọng yếu này, Bác đã trải qua bao nhiêu trăn trở, ôn lại cuộc đời gắn với vận mệnh của dân, của nước, đầy sóng gió nhưng cũng đầy thắng lợi, đồng thời nhìn về tương lai với lòng tin sâu sắc vào những thế hệ sắp tới”.

Như bài viết “Di chúc của đồng chí Hồ Chí Minh” ký tên Người quan sát đăng trên tạp chí Thời mới, số 38, ra ngày 24-9-1969 đã nhận định: “Sức mạnh của những người cộng sản là ở chỗ họ nhìn thấy được những sự kiện trong một tương lai lịch sử rộng lớn. Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh một lần nữa khẳng định điều đó. Người viết: “Cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ, hy sinh nhiều hơn nữa, song nhất định thắng lợi hoàn toàn, đó là một điều chắc chắn”. Trong nội dung cốt lõi của Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dự báo, đã nhìn thấy trước và đề cập đến những công việc cần thiết phải thực hiện để xây dựng lại một nước Việt Nam đàng hoàng hơn, to đẹp hơn trong tương lai: Chỉnh đốn Đảng; bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau; kế hoạch xây dựng lại thành phố, làng mạc, chăm sóc đời sống của các tầng lớp nhân dân…

Không chỉ trong lời nói, câu viết, Bác luôn quan tâm, gần gũi nhân dân bằng những hành động cụ thể thiết thực. Trong Di chúc, Bác đặc biệt quan tâm đến con người và những “công việc với con người”.

Trước hết, thể hiện khát vọng và niềm tin tất thắng về cuộc chiến đấu chính nghĩa của nhân dân Việt Nam, Bác “có ý định đến ngày đó” sẽ đi khắp hai miền Nam Bắc chúc mừng đồng bào và chiến sĩ cả nước, và thay mặt nhân dân Việt Nam “đi thăm và cảm ơn” bè bạn quốc tế đã “tận tình ủng hộ và giúp đỡ” cuộc kháng chiến của nhân dân ta. Bác chỉ rõ Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân lao động ở miền núi cũng như miền xuôi; và đề cập đến từng đối tượng cụ thể, đó là những người đã dũng cảm hy sinh một phần xương máu của mình; những liệt sĩ, cha mẹ, vợ con của thương binh, liệt sĩ; những chiến sĩ trẻ, phụ nữ, thanh niên xung phong…

Di chúc ngời sáng tư tưởng yêu thương con người, được Bác nêu lên và vận động mọi người cùng thực hiện suốt cả cuộc đời. Đồng thời, cũng nêu một tấm gương về phép xử thế rất nhân văn của nhà văn hóa lớn, của vị lãnh tụ tận tụy, hy sinh vì nước, vì dân, không một chút riêng tư.

Luyện giỏi, rèn nghiêm, mừng ngày hội lớn

 

ến Sư đoàn 316 (Quân khu 2), chúng tôi rất ấn tượng với sự miệt mài huấn luyện điều lệnh đội ngũ của cán bộ, chiến sĩ để chuẩn bị tham gia lễ diễu binh, diễu hành kỷ niệm 80 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam, 35 năm Ngày hội Quốc phòng toàn dân.

Dù thời tiết đã vào Thu, tiết trời vùng Trung du vẫn nắng nóng. Đã gần 10 giờ trưa, trên sân vận động của Sư đoàn, các chiến sĩ vẫn thực hành luyện tập các động tác kỹ thuật cá nhân theo nhịp hô và tiếng còi to rõ của người chỉ huy. Trung tá Nguyễn Thế Thắng, Phó tham mưu trưởng Trung đoàn 98 được giao làm Khối trưởng sĩ quan đang duy trì luyện tập. Trung tá Thắng tổ chức chia nhỏ đội hình; tập đều, xếp thành hàng xung quanh đường băng sân vận động; tập luyện cách đánh tay, đưa chân được ke bằng sợi dây nhằm đảm bảo đúng động tác, kỹ thuật, nhanh, mạnh, dứt khoát. Trên người cán bộ, chiến sĩ ướt đẫm mồ hôi, nhưng ai nấy đều giữ nét mặt tươi vui, phấn khởi.

Luyện giỏi, rèn nghiêm, mừng ngày hội lớn
Các chiến sĩ luyện tập ke chân. 

Binh nhì Lò Văn Quỳnh, dân tộc Thái, nhà ở xã Tà Hộc, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La, chiến sĩ Đại đội 14, Trung đoàn 98 chia sẻ: "Tôi vừa nhập ngũ đầu năm nay, trải qua 6 tháng rèn luyện đã giúp tôi phần nào hiểu được công việc, nhiệm vụ của người chiến sĩ. Đợt này tôi thật vinh dự được lựa chọn tham gia luyện tập điều lệnh đội ngũ chuẩn bị cho Lễ diễu binh, diễu hành kỷ niệm 80 năm thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam. Tuy có vất vả, nhưng các chiến sĩ ai cũng vui vẻ, phấn khởi và rất vinh dự vì trong đời quân ngũ không phải ai cũng được tham gia sự kiện quan trọng này".

Luyện giỏi, rèn nghiêm, mừng ngày hội lớn
Các chiến sĩ tập luyện động tác đi nghiêm. 

Theo Phòng Tham mưu, Sư đoàn 316, tham gia lễ diễu binh, diễu hành kỷ niệm 80 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam, 35 năm Ngày hội Quốc phòng toàn dân, theo kế hoạch của Bộ Quốc phòng giao, Quân khu 2 đảm nhiệm 5 khối điều lệnh đội ngũ, sẽ có 4 khối đi, 1 khối đứng gồm: Khối cờ Đảng, cờ Tổ quốc; khối Hồng kỳ; khối Sĩ quan Quân khu 2; khối Dân quân miền Bắc và 1 khối đứng sĩ quan. Quân số mỗi khối đi chính thức 100 người, xếp hàng dọc 10, hàng ngang 10 và hàng quân kỳ, chỉ huy nên quá trình luyện tập mỗi khối được biên chế từ 110 người đến 120 người/khối.

Trước khi tập trung luyện tập, Sư đoàn 316 và các đơn vị tổ chức rà soát, thẩm định thêm về lý lịch chính trị của gia đình, bản thân; tiến hành khám tuyển sức khỏe, kiểm tra kỹ chiều cao, cân nặng, các bệnh mãn tính, bệnh ngoài da. Cơ quan hậu cần Sư đoàn 316 bố trí nơi ăn nghỉ gọn gàng, sạch đẹp tại các Tiểu đoàn trực thuộc; làm tốt công tác nuôi dưỡng bộ đội, đảm bảo đầy đủ chế độ, tiêu chuẩn, nước uống tại bãi tập, có lực lượng quân y sẵn sàng hỗ trợ, giúp đỡ khi có vấn đề về sức khỏe. Các chế độ nền nếp được duy trì thực hiện chặt chẽ, nghiêm túc.

Luyện giỏi, rèn nghiêm, mừng ngày hội lớn
Các chiến sĩ luyện tập ke tay. 

Đại tá Nguyễn Tiến Dũng, Phó sư đoàn trưởng, Tham mưu trưởng Sư đoàn 316 cho biết: "Huấn luyện điều lệnh đội ngũ tham gia Lễ diễu binh, diễu hành kỷ niệm 80 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam, 35 năm Ngày hội Quốc phòng toàn dân là nhiệm vụ chính trị có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Do vậy, Đảng ủy, chỉ huy Sư đoàn đã lựa chọn những cán bộ tiêu biểu nhất để tham gia quản lý, huấn luyện bộ đội; chỉ đạo quan tâm bảo đảm tốt đời sống vật chất, tinh thần; tổ chức phát động đợt thi đua cao điểm động viên khích lệ cán bộ, chiến sĩ tích cực tham gia đạt kết quả cao nhất, góp phần vào thành công của ngày hội lớn của toàn quân, toàn dân".

Quân đội chủ động ứng phó với bão Yagi và các hình thái thời tiết cực đoan

 

Nhằm chủ động ứng phó với bão Yagi, Cục Cứu hộ - Cứu nạn (Bộ Tổng Tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam) vừa có Công điện gửi các Quân khu: 1, 2, 3, 4, 5, 7, 9; Quân chủng: Hải quân, Phòng không - Không quân; Bộ tư lệnh: Bộ đội Biên phòng, Cảnh sát biển, Thủ đô Hà Nội; Quân đoàn 12, 3, 4; Binh chủng: Pháo binh, Đặc công, Tăng thiết giáp, Công binh, Thông tin liên lạc, Hóa học; Binh đoàn: 11, 12, 15, 16, 18.

Theo bản tin của Trung tâm Dự báo khí tượng thủy văn Quốc gia, hiện nay bão Yagi đang hoạt động ở vùng biển phía Đông đảo Luzon (Philippines). Dự báo khoảng chiều 3-9 bão Yagi đi vào Biển Đông (cơn bão số 3), trong khoảng từ ngày 4 đến 6-9, bão số 3 trên vùng biển Đông Bắc Biển Đông, gió mạnh tối đa lên tới cấp 12, giật cấp 15. Ngoài ra khu vực Nam bộ, Tây Nguyên xảy ra mưa vừa, mưa to, cục bộ có nơi mưa rất to; nguy cơ xảy ra lũ quét, sạt lở đất và ngập úng tại các khu vực trũng, thấp.

Quân đội chủ động ứng phó với bão Yagi và các hình thái thời tiết cực đoan
Bộ đội Biên phòng tỉnh Nam Định hỗ trợ ngư dân đưa phương tiện thuyền đánh cá nhỏ lên bờ để ứng phó bão.

Để chủ động ứng phó với diễn biến của bão trên Biển Đông và mưa lớn có thể gây ra lũ quét, sạt lở đất, ngập lụt vùng trũng thấp, khu đô thị tại vùng núi phía Bắc, khu vực Nam Bộ và Tây Nguyên, Cục Cứu hộ - Cứu nạn đề nghị các đơn vị quân đội thực hiện một số nội dung sau:

Duy trì nghiêm chế độ trực, theo dõi nắm chắc tình hình thời tiết, khí tượng, thủy văn. Phối hợp với chính quyền địa phương kiểm tra, vận động tuyên truyền, hướng dẫn người dân các biện pháp chủ động ứng phó; chủ động điều động lực lượng, phương tiện, di dời người và tài sản ra khỏi khu vực nguy hiểm.

Bộ tư lệnh Quân khu: 1, 2, 3, 4, 5, 7, 9; Bộ tư lệnh Thủ đô Hà Nội chỉ đạo Bộ Chỉ huy Quân sự các tỉnh, thành phố (quận, huyện) nắm chắc tình hình di chuyển của bão Yagi, mưa lớn khu vực Nam Bộ và Tây Nguyên; rà soát, bổ sung các kế hoạch, phương án; tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương, phối hợp với các đơn vị đứng chân trên địa bàn sẵn sàng lực lượng, phương tiện xử lý kịp thời, hiệu quả các tình huống; bảo đảm an toàn tuyệt đối lực lượng, phương tiện khi đi làm nhiệm vụ.

Quân đội chủ động ứng phó với bão Yagi và các hình thái thời tiết cực đoan
 Ngư dân Nam Định chủ động đưa thuyền lên bờ trước khi thời tiết có diễn biến phức tạp.

Bộ tư lệnh Bộ đội Biên phòng chỉ đạo Bộ chỉ huy Bộ đội Biên phòng các tỉnh, thành phố ven biển từ Quảng Ninh đến Bình Thuận phối hợp với Bộ Chỉ huy Quân sự các tỉnh, thành phố và các cơ quan chức năng quản lý chặt chẽ các phương tiện ra khơi, tổ chức kiểm đếm, thông báo kịp thời cho chủ các phương tiện, thuyền trưởng các tàu, thuyền đang hoạt động trên biển biết vị trí, hướng di chuyển và diễn biến của bão Yagi để chủ động phòng tránh, thoát ra hoặc không di chuyển vào khu vực nguy hiểm, thường xuyên duy trì thông tin liên lạc, sẵn sàng xử lý kịp thời các tình huống có thể xảy ra.

Quân chủng Hải quân, Bộ tư lệnh Cảnh sát biển chỉ đạo các đơn vị bảo đảm an toàn cho các phương tiện đang hoạt động trên biển; sẵn sàng lực lượng, phương tiện tham gia cứu hộ, cứu nạn khi có yêu cầu.

Quân chủng Phòng không - Không quân, Binh đoàn 18 sẵn sàng lực lượng, phương tiện bay tìm kiếm cứu nạn khi có lệnh của Bộ Quốc phòng.

Bộ tư lệnh các Quân đoàn, Binh chủng, Binh đoàn có biện pháp bảo đảm an toàn doanh trại, kho tàng; chủ động phối hợp với cấp ủy, chính quyền địa phương sẵn sàng lực lượng, phương tiện ứng phó với mưa lớn, lũ ống, lũ quét, ngập lụt, sạt lở đất trên địa bàn, hỗ trợ nhân dân khắc phục hậu quả.

Các đơn vị tổ chức triển khai thực hiện và báo cáo về Bộ Tổng Tham mưu (qua Cục Cứu hộ - Cứu nạn) để giúp Bộ theo dõi, chỉ đạo.