Thứ Hai, 3 tháng 8, 2020
CHỦ ĐỘNG ĐẤU TRANH CHỐNG ‘DIỄN BIẾN HÒA BÌNH”
Không thể phủ nhận thành quả dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam
CHỦ QUAN TRONG PHÒNG CHỐNG DỊCH COVID-19 LÀ TỰ SÁT
VẠCH TRẦN THỦ ĐOẠN CHỐNG PHÁ CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH TRONG VIỆC LẤY Ý KIẾN ĐÓNG GÓP CHO ĐẠI HỘI XIII CỦA ĐẢNG
CÓ CÒN XỨNG DANH?
GIỮ VỮNG “THẾ TRẬN LÒNG DÂN” CHÚNG TA SẼ CHIẾN THẮNG
Vậy là điều không ai mong muốn lại xảy ra: Đại dịch Covid-19 hoành hành trở lại tại nhiều địa phương, trong đó có những thành phố lớn. Điều đáng lo ngại là chủng virus SARS-CoV-2 lần này là chủng mới so với các chủng đã tồn tại ở nước ta, lây lan nhanh hơn và chưa xác định nguồn lây nhiễm F0.
Tuy vậy, chúng ta có niềm tin sẽ ngăn chặn, đẩy lùi đợt dịch mới. Sự lạc quan xuất phát từ kinh nghiệm ngăn ngừa thành công Covid-19 trong suốt thời gian qua. Đồng thời, các cơ quan chức năng lên kịch bản cho một đợt dịch mới bùng phát và đã sẵn sàng các biện pháp ứng phó. Rất khẩn trương và quyết liệt, cả hệ thống chính trị ngay lập tức kích hoạt trở lại các biện pháp phòng, chống dịch (PCD) Covid-19. Nhiều đơn vị, cơ quan công sở, nhất là đơn vị quân đội đã đi đầu thực hiện các biện pháp PCD, như: Khai báo y tế và cách ly những người đi về từ vùng dịch, không tập trung đông người, đeo khẩu trang khi ra ngoài, khử khuẩn môi trường, rửa tay thường xuyên...
Sự cảnh giác cao độ, với tinh thần “chống dịch như chống giặc” của cả đất nước vẫn còn nguyên, giúp chúng ta nhanh chóng chuyển trạng thái bình thường sang giai đoạn chống dịch mới một cách nhanh chóng. Chính sự linh hoạt trong ứng biến vốn là đặc trưng của văn hóa Việt Nam từng giúp dân tộc ta vượt lên những khó khăn, thách thức của thiên tai, địch họa trước đây; nay lại tiếp tục phát huy trong giai đoạn chống dịch Covid-19 đầy khó khăn trước mắt.
Giữa hai đợt dịch là 99 ngày không có ca lây nhiễm trong cộng đồng, nhịp sống bước đầu trở lại bình thường, không khỏi tạo ra tâm lý chủ quan ở một bộ phận người dân. Ở Hà Nội, TP Hồ Chí Minh khi xuất hiện những ca bệnh lây nhiễm từ Đà Nẵng nhưng nhiều người ra đường không hề đeo khẩu trang, vẫn tập trung đông người như không có chuyện gì xảy ra. Đúng là chưa có yêu cầu cách ly xã hội nhưng khi chưa xét nghiệm trên diện rộng tất cả đối tượng đi qua vùng dịch, chưa khoanh vùng, cách ly, dập dịch triệt để thì không thể chủ quan.
Mỗi cá nhân, rộng ra là cộng đồng chắc chắn từng mắc phải sai lầm từ sự chủ quan, ngủ quên trên chiến thắng. Nếu chúng ta đã xem đại dịch Covid-19 là một thứ giặc thì không thể lơ là bất cứ giây phút nào nếu không muốn trả giá đắt. Để chiến thắng chỉ có cách phát huy mặt mạnh của cá tính dân tộc. Đó là tăng cường cố kết cộng đồng xây dựng thế trận “chiến tranh nhân dân” toàn diện, mỗi người phải có ý thức vì cộng đồng, chấp nhận sự thay đổi nếp sống, sinh hoạt, thậm chí hy sinh quyền lợi để mang lại chiến thắng chung trong cuộc chiến cam go chống Covid-19. Đồng thời, cần trừng trị nghiêm khắc những hành vi vi phạm pháp luật và đạo lý cản trở, gây hại cho công tác PCD, như: Khai báo y tế gian dối, trốn cách ly, tiếp tay cho những đối tượng nhập cảnh trái phép...
Chúng ta từng xúc động, khâm phục trước nỗ lực vượt khó của các lực lượng trên tuyến đầu; tình nghĩa đồng bào đùm bọc, giúp đỡ nhau ở đợt dịch trước. Hơn lúc nào hết, chúng ta cần xây dựng lại “thế trận lòng dân” để mỗi người dân là một chiến sĩ trên mặt trận chống dịch bệnh, tin tưởng sự lãnh đạo của Đảng, sự điều hành của Chính phủ. Thành công trong ngăn chặn, đẩy lùi đợt dịch mới trước hết là bảo đảm sức khỏe, tính mạng của người dân./.
Hải Đăng st
LẠI NHỮNG CHIÊU TRÒ KHIẾU NẠI, TỐ CÁO KIỂU "NÉM ĐÁ GIẤU TAY" TRƯỚC THỀM ĐẠI HỘI
Việc giải quyết khiếu nại, tố cáo luôn được các cơ quan chức năng quan tâm, bảo đảm dân chủ, kịp thời và thực hiện theo đúng quy định. Việc khiếu nại, tố cáo với động cơ và mục đích trong sáng, mang tinh thần xây dựng sẽ giúp bộ máy được trong sạch, góp phần lựa chọn được những cán bộ có đức có tài, thể hiện được vai trò giám sát của người dân đối với hoạt động của các cơ quan công quyền, đó là điều nên làm và rất cần thiết.
Cay cú, khó chịu khi thấy đất nước thành công, hớn hở, vui mừng khi thấy đất nước gặp khó khăn
Sai lầm ngoại giao kiểu mới của Trung Quốc về Biển Đông
Sai lầm ngoại giao kiểu mới của Trung Quốc về Biển Đông
Việc Trung Quốc liên tục dùng ngoại giao theo kiểu “khẩu chiến” với các quốc gia về Biển Đông trong bối cảnh nước này đuối lý càng khiến uy tín của Bắc Kinh suy giảm trầm trọng.
Hôm 30-7, Đại sứ Úc tại Ấn Độ Barry O’Farrell khi trả lời hãng tin ANI (Ấn Độ) đã nói Úc tiếp tục bày tỏ quan ngại sâu sắc trước hành động của Trung Quốc (TQ) ở Biển Đông, điều mà đại sứ Úc gọi là “gây bất ổn và có thể làm leo thang căng thẳng” ở vùng biển vừa giàu tài nguyên, vừa là tuyến hàng hải quan trọng. Đại sứ Úc cũng nhắc lại sự kiện hôm 23-7 nước này đã gửi công hàm lên tổng thư ký Liên Hợp Quốc (LHQ) để bác bỏ hầu hết yêu sách, trong đó có “đường lưỡi bò”, của TQ ở Biển Đông vì vi phạm Công ước LHQ về Luật Biển (UNCLOS) năm 1982. Ông O’Farrell đồng thời đề nghị TQ phải kiềm chế cách hành xử của họ.
Phát biểu của ông O’Farrell ngay lập tức khơi mào một cuộc “khẩu chiến” với Đại sứ TQ tại Ấn Độ Tôn Vệ Đông (Sun Weidong). Trên trang Twitter cá nhân, ông Tôn phản pháo đại sứ Úc, đồng thời cho rằng TQ có chủ quyền lãnh thổ, những lợi ích và quyền hàng hải tại Biển Đông phù hợp với luật pháp quốc tế, trong đó có UNCLOS. “Các nhận xét của đại sứ Úc tại Ấn Độ về vấn đề Biển Đông đã không đúng với những gì diễn ra trên thực tế. Chủ quyền lãnh thổ, các quyền hàng hải và những lợi ích của TQ hoàn toàn phù hợp với luật pháp quốc tế, bao gồm UNCLOS. Ở đây, rất rõ ràng rằng ai mới chính là người bảo vệ hòa bình và ổn định, còn ai mới chính là người gây bất ổn và kích động leo thang căng thẳng tại khu vực” - ông Tôn viết.
Dù không đề cập trực tiếp nhưng trong bối cảnh hiện nay và diễn biến ở Biển Đông suốt thời gian qua, có thể thấy phát ngôn của ông Tôn nhằm vào chỉ trích Mỹ và các quốc gia đồng minh, đối tác Mỹ đã công khai chống lại yêu sách của TQ, như Úc.
Đáp lại lời của ông Tôn, Đại sứ Úc O’Farrell viết: “Cám ơn ngài đại sứ TQ tại Ấn Độ. Tôi hy vọng rằng tới đây ngài sẽ tuân thủ phán quyết của Tòa Trọng tài năm 2016 về vụ kiện Biển Đông - phán quyết cuối cùng và có tính ràng buộc theo luật quốc tế, đồng thời (TQ cũng hãy) kiềm chế các hành động làm thay đổi hiện trạng khu vực”.
Có thể thấy Đại sứ O’Farrell mượn chính lý lẽ của TQ - Bắc Kinh tuân theo luật quốc tế - để yêu cầu TQ thực hiện đúng trách nhiệm của một thành viên UNCLOS, trong đó có việc thừa nhận và thực thi phán quyết 2016. Tuy nhiên, Đại sứ TQ Tôn Vệ Đông ngay lập tức lặp lại quan điểm của Bắc Kinh theo đuổi lâu nay: “Bác bỏ phán quyết. Bắc Kinh ngay từ những ngày đầu vụ kiện đã ra chính sách bốn không: Không tham gia, không công nhận thẩm quyền của tòa, không chấp nhận và không thi hành phán quyết”. Chính sách này nằm trong trận chiến pháp lý của TQ với các nước, trở thành chỗ dựa cho các nhà ngoại giao Bắc Kinh đối phó công luận.
Phải thừa nhận một thực tế đã có vài quốc gia lo sợ khi bị TQ dọa nạt. Từ đó, họ có chủ trương hòa hiếu, im lặng trước cách hành xử phi pháp của TQ, thậm chí có xu hướng chấp nhận “gác tranh chấp, cùng khai thác” ngay trong chính vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của họ. Tuy nhiên, bức tranh tổng thể diễn ra lại khiến TQ rơi vào rủi ro bị cô lập và trừng phạt bởi một tập thể lớn hơn.
Thứ nhất, các cuộc “khẩu chiến” của TQ đang trở thành tâm điểm, thu hút sự quan tâm ngày càng đông của công luận về Biển Đông, điều vốn không có lợi cho TQ khi nước này một mực giữ chủ trương “Biển Đông là chuyện nội bộ giữa TQ và các quốc gia ASEAN”. Hiện nay, ý đồ cô lập ASEAN và “bẻ từng chiếc đũa” đã phá sản. Trong khi có rất ít quốc gia ủng hộ hoặc chấp nhận im lặng trước yêu sách phi pháp của TQ và họ chủ yếu là các quốc gia kém phát triển thì số lượng các nước công khai chống TQ ngày càng nhiều và đều là các cường quốc đóng vai trò then chốt trong phát triển kinh tế của chính quyền Tập Cận Bình. Rõ ràng nhất là Mỹ và các đồng minh, đối tác lớn như Nhật Bản, Úc, Ấn Độ, các nước EU.
Thứ hai, TQ đang ngày càng đuối lý trong các cuộc “khẩu chiến”. Là thành viên của UNCLOS, TQ lại công khai chống lại quyết định rất mạch lạc và thuyết phục của Tòa Trọng tài. Trong khi đó, yêu sách “đường lưỡi bò”, dưới sức lan tỏa của truyền thông, nay đã lộ rõ bản chất mơ hồ và không có cơ sở pháp lý. Các học giả, chuyên gia TQ, thậm chí là thẩm phán (người TQ) của tòa án quốc tế về luật biển, đã cố gắng giải thích “đường lưỡi bò” bằng nhiều cách khác nhau. Tuy nhiên, không có một phương án nào thuyết phục được cộng đồng quốc tế. TQ dùng nhiều chiêu trò, điển hình là rải bản đồ “đường lưỡi bò” vào các tạp chí khoa học tự nhiên, phim ảnh... nhưng nhanh chóng bị dư luận phát hiện. Tất cả góp phần làm lộ rõ bản chất phi pháp của “đường lưỡi bò” và sự đuối lý của chính quyền TQ. Sự gai góc, trịch thượng, bất chấp lý lẽ của TQ trong các cuộc “khẩu chiến” tạo nên một bầu không khí bất an, nhiều rủi ro trong bang giao; kích động chủ nghĩa dân tộc tại các quốc gia khác vốn không thể chấp nhận bị TQ dọa nạt.
Nó tạo ra tâm lý chung trong cộng đồng quốc tế: Chống TQ, tránh né TQ hoặc chí ít là hạn chế làm ăn với TQ. Giới đầu tư bắt đầu tháo chạy khỏi nền kinh tế lớn thứ hai thế giới vì liên tục dính vào các cuộc đối đầu với Mỹ và nay là với các nền kinh tế lớn thân Mỹ. Cạnh đó, giới quan sát tin rằng sẽ có nhiều quốc gia hơn, dù không phải là bên tranh chấp ở Biển Đông, sẽ đệ trình công hàm bác bỏ yêu sách của TQ lên LHQ.
PHÁT HUY VAI TRÒ QUẦN CHÚNG CHẶN ĐỨNG HIỆN TƯỢNGVƯỢT BIÊN TRÁI PHÉP VÀO VIỆT NAM
KHÔNG LƠ LÀ TRƯỚC DỊCH BỆNH COVID-19
Cảnh giác với hoạt động núp bóng tự do xuất bản chống phá Nhà nước
.
Mới đây, Hiệp
hội các nhà xuất bản quốc tế đã trao giải thưởng Vonte năm 2020 cho Nhà xuất
bản Tự do. Nhà xuất bản này thực chất là một tổ chức mới được thành lập cách
đây hơn 1 năm, chuyên xuất bản các ấn phẩm lợi dụng chiêu bài “dân chủ”, “nhân
quyền” để chống phá Nhà nước Việt Nam. Tuyên bố thành lập vào ngày 14-2-2019,
Nhà xuất bản Tự do tiến hành một số hoạt động chính là xuất bản in và phát hành
các ấn phẩm có nội dung kích động, bạo lực chống đối Nhà nước.
Mặc dù là một
tổ chức tự xưng không lợi nhuận, nhưng số đối tượng cầm đầu vẫn công khai hình
thức bán sách với giá khá cao. Một số ấn phẩm được phát tán theo hình thức cho,
tặng sách in miễn phí, các bản sách điện tử của tổ chức này được đăng tải trên
mạng Internet. Nhà xuất bản Tự do ra đời với mục đích để phục vụ nhu cầu của
một bộ phận chống đối, bất mãn trong xã hội. Những ấn phẩm của các đối tượng
chủ yếu nói về các bất mãn cá nhân, tiêu cực, thậm chí là giả tạo tình huống,
cảm xúc để đánh lừa cộng đồng bằng những ngôn từ mĩ miều.
Một số ấn phẩm
vi phạm của Nhà xuất bản Tự do đã công khai trên website như “Chính trị bình
dân”, “Cẩm nang nuôi tù”, “Phản kháng phi bạo lực” đã ảnh hưởng không nhỏ đến
tình hình chính trị, xã hội tại Việt Nam. Nhiều ấn phẩm của Nhà xuất bản Tự do
tập trung vào tuyên truyền, kích động, lôi kéo lực lượng tham gia biểu tình,
gây rối an ninh trật tự.
Các thành phần
tham gia vào Nhà xuất bản Tự do đăng tải các thông tin hòng định hướng Việt Nam
phát triển xã hội dân sự theo tiêu chí phương Tây, vu cáo Việt Nam vi phạm dân
chủ, nhân quyền để tìm kiếm sự hậu thuẫn của các chính giới nước ngoài can
thiệp vào nội bộ của Việt Nam, tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động móc
nối, tạo dựng lực lượng chống đối. Nhà xuất bản Tự do kêu gọi một số quốc gia
gây áp lực với Việt Nam trên cơ sở luật Magnitsky. Nhiều ấn phẩm được Nhà xuất
bản Tự do phát hành là của các đối tượng lộng ngôn, xuyên tạc sự thật, đường
lối, chính sách, pháp luật của Việt Nam, tạo ra sự hiểu nhầm, gây ảnh hưởng đến
uy tín, danh dự của Việt Nam trên trường quốc tế.
Tiến sĩ Nguyễn
Anh Vũ, Giám đốc Nhà xuất bản Văn học, bình luận: “Có thể thấy rõ động cơ từ
phía Nhà xuất bản Tự do cố tình gây dựng một đơn vị làm đối trọng với các nhà
xuất bản chính thống trong nước, tuyên truyền, quảng bá những xuất bản phẩm gây
nguy hại, kích động, hoang mang trong dư luận, thậm chí là bôi nhọ và vu cáo
nhằm mục đích chung là chống phá thể chế của Nhà nước ta, nhất là trong thời
điểm Đại hội Đảng đang chuẩn bị diễn ra”.
Trong hơn 1 năm qua, Nhà xuất bản Tự do
đã phát tán hàng chục nghìn cuốn sách là các ấn phẩm đen. Nhà văn Nguyễn Văn
Thọ cho rằng, sự nguy hại của việc này đối với Nhà nước và xã hội Việt Nam là
rất lớn: “Dân trí thì có nhiều tầng, trí thức tỉnh táo thì họ sẽ nhìn theo
chiều dài xuyên suốt của lịch sử, nhận ra được cái hay và không hay, nhưng còn
có một bộ phận dân chúng với nhận thức, tri thức hạn chế thì đây là vấn đề rất
nguy hiểm. Đặc biệt đối với giới trẻ, họ là những người hăng hái, muốn thay
đổi, muốn cách mạng thì những tài liệu đó có thể sẽ làm họ xao động. Còn đối
với tầng lớp cựu binh đã trải qua cuộc chiến tranh dài đằng đẵng thì không gì
có thể bôi nhọ được mục đích của những cuộc kháng chiến vĩ đại”. Bên cạnh đó,
văn học nghệ thuật là một trong những lĩnh vực các thế lực thù địch, phản động
cùng những phần tử cơ hội thường xuyên lợi dụng để chống phá nước ta. Thông qua
tác phẩm văn chương, các quan điểm cực đoan, lệch lạc, cách tiếp cận phiến diện
và mơ hồ theo phương thức “mưa dầm thấm lâu” rất dễ tác động tới nhận thức, dễ
khiến cho người đọc đi từ nhầm lẫn, ngộ nhận, nghi ngờ đến bất mãn, và theo
chân các thế lực phản động.
Tuy nhiên,
việc nhận diện tư tưởng phản động là không dễ vì nó ẩn khuất trong những vỏ bọc
văn học, nghệ thuật, và những câu chuyện có thật trộn lẫn với những sáng tác hư
cấu. Nhà văn Nguyễn Văn Thọ nêu quan điểm: “Sáng tác văn chương là để tôn vinh
cái đẹp để phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc. Thế nhưng, có những đối tượng tự
cho mình là văn nghệ sĩ lại “quên” mất điều này, một số trường hợp có biểu hiện
cực đoan, chỉ tập trung tô đậm mặt đen tối, tiêu cực của cuộc sống hiện tại,
thậm chí xuyên tạc, bóp méo lịch sử hoặc bị các thế lực thù địch lôi kéo đã
sáng tác và truyền bá các tác phẩm độc hại, đi ngược với lợi ích của nhân dân,
của đất nước”.
Việc các thế
lực thù địch lợi dụng các ấn phẩm văn học để truyền bá tư tưởng chống phá không
phải là điều gì xa lạ. Nhiều ý kiến cho rằng, vào thời điểm Việt Nam đang chuẩn
bị bước vào Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, các hành động này sẽ còn ráo
riết hơn. Theo ông Nguyễn Anh Vũ, Giám đốc NXB Văn học, chúng ta sẽ còn phải
đối mặt với nhiều thủ đoạn của các thế lực thù địch trong giai đoạn này: “Bên
cạnh phương thức trực tiếp như in ấn tài liệu, vận động để kích động những phần
tử đang có sẵn tư tưởng chống phá sự nghiệp cách mạng của chúng ta thì còn rất
nhiều hình thức thông qua ứng dụng, phương tiện công nghệ thông tin hiện nay.
Tôi nghĩ rằng, chúng ta cũng cần có thêm lực lượng để tập trung vào việc ngăn
chặn này”.
Cùng với nỗ
lực của các ban, ngành chức năng nhằm ngăn chặn các âm mưu của hoạt động chống
phá, việc mỗi người dân tự tạo sức đề kháng cũng rất cần thiết. Việc cảnh giác,
tỉnh táo nhận diện những nội dung xấu độc được lồng ghép ẩn sau lớp vỏ bọc là
tác phẩm văn học nghệ thuật, cùng cộng đồng lên án các hành vi của đối tượng
núp bóng tự do xuất bản, tự do sáng tác để phát tán thông tin sai lệch chính là
góp phần đấu tranh làm thất bại âm mưu chống phá của các thế lực thù địch.
Chủ
lực
;
Cần nhận diện đúng các vấn đề về chủ quyền Biển Đông
Vấn đề Biển Đông luôn “nóng” không chỉ riêng
với các quốc gia có chủ quyền tại đây mà còn là sự kiện được cộng đồng quốc tế
quan tâm. Đồng thời, đây cũng chính là mảnh đất để các thế lực thù địch, bất
mãn, cơ hội chính trị lợi dụng để xuyên tạc, kích động chống phá Đảng, Nhà
nước.
Gần đây, trên mạng xã
hội, các tổ chức khủng bố, phản động như “Việt Tân”, “Đảng Dân chủ nhân dân”,
“Đảng Vì dân”, “Chính phủ Quốc gia Việt Nam lâm thời” tăng cường các hoạt động
chống phá Đảng, Nhà nước ta.
Một số chiêu trò điển
hình như: Lấy cớ việc Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ bác bỏ yêu sách chủ quyền trên Biển
Đông để tán dương, ca tụng và đòi thả tự do cho các đối tượng có hành vi chống
Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam như Lê Đình Lượng, Nguyễn Năng Tĩnh, Nguyễn Văn
Hóa, Trần Hoàng Phúc… Khuếch trương “thành tích chống Cộng”, họ tự cho mình có
vai trò trong việc hướng lái nhân dân chống lại âm mưu và hành động của Trung
Quốc tại Biển Đông, qua đó xuyên tạc quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về
vấn đề Biển Đông, cổ súy cho việc “bài Trung, thân Mỹ”.
Từ thực tiễn trên, chúng ta cần có cách nhìn nhận đúng đắn vấn đề này. Trước hết, mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt đối xử, mọi hành vi phạm tội đều phải bị xử lý theo luật định, trong đó có hành vi chống Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. Lợi dụng cái gọi là “tự do ngôn luận”, các thế lực thù địch thường chụp mũ đối tượng phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia thành “tù nhân lương tâm”, từ đó kêu gọi, gây sức ép đòi thả tự do. Các đối tượng đăng tải, chia sẻ các bài viết, video, hình ảnh có nội dung tuyên truyền, xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, phỉ báng chính quyền nhân dân; xuyên tạc lịch sử, bôi nhọ lãnh tụ, chế độ XHCN, xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Cho nên, các đối tượng phạm tội phải bị xử theo luật định, không thể quy chụp thành “tù nhân lương tâm”, việc kêu gọi thả tự do cho các đối tượng trên hoàn toàn vô lý, lố bịch.
Thứ hai, quan điểm của
Việt Nam về giải quyết vấn đề Biển Đông là rõ ràng, nhất quán. Nghị quyết Ðại
hội XII của Ðảng khẳng định: “...Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững
chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; giữ vững
môi trường hoà bình, ổn định để phát triển đất nước; bảo đảm an ninh quốc gia,
giữ gìn trật tự, an toàn xã hội.
Mở rộng và đưa vào
chiều sâu các quan hệ đối ngoại; tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, thực
hiện hiệu quả hội nhập quốc tế trong điều kiện mới, tiếp tục nâng cao vị thế và
uy tín của đất nước trên trường quốc tế”.
Thực hiện tư tưởng Hồ
Chí Minh về “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, trước những thách thức của thời cuộc,
chúng ta luôn quán triệt và vận dụng sáng tạo, phù hợp tư tưởng ấy của Bác; lấy
việc giữ vững nguyên tắc độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, bảo vệ, giữ vững
chủ quyền quốc gia, trong đó có chủ quyền của Việt Nam tại Biển Đông.
Thực tiễn đã chứng
minh, trong bối cảnh Trung Quốc thường xuyên có các hành động xâm phạm quyền,
chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông, Đảng, Nhà nước ta đã chủ trương giải
quyết thông qua thương lượng hoà bình trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền,
toàn vẹn lãnh thổ, phù hợp với luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước về Luật
Biển năm 1982 của Liên hợp quốc, Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển
Đông (DOC), nhằm tìm kiếm một giải pháp cơ bản và lâu dài, đáp ứng lợi ích
chính đáng của các bên, tiến tới xây dựng Biển Đông thành vùng biển hòa bình,
hợp tác và phát triển.
Thực tế cho thấy, bằng
chủ trương giải quyết các vấn đề liên quan chủ quyền ở Biển Ðông thông qua biện
pháp hoà bình trên tinh thần hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau, tuân thủ luật
pháp quốc tế, nhất là Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, Việt Nam đã
đạt được nhiều kết quả thoả thuận quan trọng với các nước trong khu vực và giữ
vững chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc.
Thứ ba, việc Bộ Ngoại
giao Mỹ và một số nước khác lên tiếng công khai phản đối Trung Quốc, ủng hộ
Việt Nam về tình hình Biển Ðông. Đây là vấn đề Việt Nam và các quốc gia có chủ
quyền trên Biển Đông cũng như cộng đồng quốc tế hoan nghênh. Tuy nhiên, các thế
lực thù địch, phản động đã lợi dụng sự kiện trên để kích động Việt Nam theo Mỹ,
chống Trung Quốc.
Về vấn đề này cần quán
triệt sâu sắc quan điểm đối tác, đối tượng của Đảng, đó là: “Những ai tôn trọng
độc lập, chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác bình đẳng,
cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác; bất kỳ thế lực nào có âm mưu và hành
động chống phá mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
đều là đối tượng của chúng ta.
Mặt khác, trong tình
hình diễn biến nhanh chóng và phức tạp hiện nay, cần có cách nhìn biện chứng:
Trong mỗi đối tượng vẫn có thể có mặt cần tranh thủ, hợp tác; trong mỗi đối tác
có thể có mặt mâu thuẫn với lợi ích của ta cần phải đấu tranh”. Xác định đúng
đối tượng, đối tác của Việt Nam là vấn đề hết sức quan trọng, là cơ sở để đề ra
đường lối đối nội, đối ngoại cùng với chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đây cũng là một vấn đề khá “nhạy cảm” trong quan hệ quốc tế.
Nhưng không phải vì
thế mà chúng ta né tránh, để rồi rơi vào trạng thái mơ hồ, mất cảnh giác, mất
tính chiến đấu và khó có thể vạch ra chủ trương, chiến lược, sách lược đúng đắn
trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đối với vấn đề tranh chấp trên Biển Ðông hiện
nay cũng vậy, chúng ta phải đặc biệt tỉnh táo trước chiêu bài của các phần tử
thù địch, phản động. Cảnh giác không thể trở thành con bài chính trị, nhất là
của các nước lớn, điều đó sẽ hết sức nguy hiểm cho lợi ích quốc gia, dân tộc.
Thứ tư, âm mưu và hành
động độc chiếm Biển Ðông của Trung Quốc là hết sức rõ ràng, đòi hỏi chúng ta
phải luôn đấu tranh mạnh mẽ, bền bỉ, không khoan nhượng, sử dụng biện pháp hòa
bình, theo luật pháp quốc tế. Giữ vững môi trường hoà bình, ổn định để phát
triển đất nước, giữ vững mối đoàn kết, bang giao với tất cả các nước; không để
xảy ra xung đột, chiến tranh.
Việt Nam không để lệ
thuộc về kinh tế; không để bị cô lập, chi phối về chính trị; không để bị lôi
kéo đi theo nước này để chống lại nước khác; không để đối đầu về quân sự, không
tham gia liên minh quân sự, không liên kết với nước này để chống nước kia,
không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống
lại nước khác, không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ
quốc tế.
Chúng ta kiên quyết,
kiên trì, khôn khéo, không khiêu khích, không mắc mưu khiêu khích; kiềm chế,
không để nước ngoài lấn chiếm và tránh không để xảy ra xung đột, đụng độ. Vì
vậy, quan điểm “bài Trung, thân Mỹ” hoàn toàn không có trong đường lối đối
ngoại hay trong quan điểm giải quyết vấn đề Biển Đông của Đảng, Nhà nước ta.
Giá trị của hòa bình
được đổi bằng biết bao xương máu của các thế hệ ông cha. Do đó, chúng ta phải
biết trân trọng, nâng niu, giữ gìn. Dân tộc Việt Nam yêu chuộng hòa bình, hơn
lúc nào hết chúng ta thấu hiểu nỗi đau mà chiến tranh gây ra. Do đó, chúng ta
bằng mọi biện pháp duy trì hoà bình, ổn định để phát triển; trường hợp chiến
tranh là bất khả kháng để tự vệ nhằm bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và
toàn vẹn lãnh thổ.
Thực tiễn cho thấy,
mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch hòng gây mất ổn định, mất đoàn
kết trong nước và quốc tế, làm tổn hại lợi ích quốc gia, dân tộc. Do vậy, mỗi
người dân cần tỉnh táo, bình tĩnh, không để kẻ xấu lợi dụng lôi kéo, kích động;
cần thực hiện nghiêm đường lối, chủ trương, quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà
nước về vấn đề Biển Đông, góp phần xây dựng và bảo vệ vững chắc biển, đảo của
Tổ quốc.
Chủ lực - Theo CAND
NHIỀU NƯỚC BÁC BỎ YÊU SÁCH CỦA TRUNG QUỐC Ở BIỂN ĐÔNG
Cho tới nay, hầu hết các quốc gia Đông Nam Á hải đảo gồm Indonesia,
Malaysia, Philippine và Brunei đã lên tiếng bày tỏ lập trường về vấn đề Biển
Đông, trong đó khẳng định Công ước Liên Hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS) năm 1982
và luật pháp quốc tế phải được sử dụng để làm cơ sở đàm phán liên quan đến Biển
Đông.
Trong Công hàm số
20/026 ngày 23-7 vừa qua được gửi lên Liên Hợp quốc (LHQ) bác bỏ mọi yêu sách
chủ quyền của Trung Quốc tại Biển Đông, Australia nhấn mạnh “không có cơ sở
pháp lý” cho các yêu sách chủ quyền của Trung Quốc tại vùng biển này, bao gồm
cả những yêu sách liên quan tới các công trình đảo nhân tạo trên các bãi cạn
nhỏ hoặc bãi đá ngầm.
Có thể nói, văn kiện
ngoại giao mà Australia cho lưu hành tại LHQ là động thái đáng chú ý tiếp sau
một loạt phản ứng của các quốc gia trong khu vực trong bối cảnh Trung Quốc ngày
càng thể hiện sự khiêu khích ngang ngược với các hành động trên thực địa tại
Biển Đông. Đáng chú ý, công hàm của Chính phủ Australia cũng khẳng định không
chấp nhận tuyên bố của Trung Quốc trong công hàm gửi LHQ ngày 17-4-2020, nói
rằng “các yêu sách chủ quyền của nước này đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa được cộng đồng quốc tế công nhận”.
Thậm chí, các chiến
lược gia quốc phòng cao cấp của Australia đã thúc giục Thủ tướng Scott Morrison
bật đèn xanh cho các hoạt động tự do hàng hải của các tàu chiến Australia ở
Biển Đông sau khi Australia tuyên bố các yêu sách biển của Trung Quốc trong vùng
biển này là bất hợp pháp. Trước đó Anh, Pháp và Liên minh châu Âu cũng đã bày
tỏ lập trường ủng hộ tự do hàng hải trên tuyến đường biển huyết mạch này và cho
biết sẵn sàng cử các tàu chiến tham gia hoặc tự thực hiện Các hoạt động duy trì
tự do hàng hải (FONOP) do Mỹ khởi xướng trong vùng biển đang tiềm ẩn nhiều nguy
cơ xung đột này.
Khi ra tuyên bố về lập
trường của Washington đối với những yêu sách của Trung Quốc tại Biển Đông,
Ngoại trưởng Mỹ Mike Pompeo đã khẳng định Mỹ ủng hộ khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình
Dương tự do và mở rộng, theo đó coi “các tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc đối
với các tài nguyên ở ngoài khơi trên hầu khắp Biển Đông là hoàn toàn bất hợp
pháp”.
Cho tới nay Mỹ đã tiếp
tục mở rộng hoạt động của các tàu và máy bay ở Biển Đông. Nhiều máy bay trinh
sát như RC-135, E-8C và P-8A đã bay vào khu vực này gần như liên tục trong
tháng 6 và 7. Các máy bay ném bom B-1B và B-52H cũng bay qua Biển Đông nhiều
lần. Cả trước lẫn sau khi tuyên bố mới được đưa ra, Hải quân Mỹ đã cử 2 tàu sân
bay đi qua khu vực này và một ngày sau đó, họ đã tiến hành FONOP lần thứ 23
trong khu vực kể từ khi Tổng thống Donald Trump lên nắm quyền (trong toàn bộ
nhiệm kỳ của chính quyền cựu Tổng thống Obama, Mỹ chỉ thực hiện 4 FONOP). Mỹ
cũng tuyên bố sẽ tăng cường hỗ trợ an ninh cho các nước Đông Nam Á có tuyên bố
chủ quyền, cung cấp cho họ radar và các trang thiết bị khác để giám sát các
vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của họ một cách hiệu quả hơn.
Giới phân tích nhận
định, trong những tháng tới, Mỹ có khả năng sẽ gia tăng tần suất các FONOP cũng
như các nhiệm vụ khác nhằm tăng cường sự hiện diện của mình ở biển. Ngoài ra,
bằng việc tuyên bố rằng các hành động của Trung Quốc là bất hợp pháp,
Washington đã mở đường cho việc áp đặt các biện pháp trừng phạt nhằm vào các
công dân và công ty Trung Quốc áp dụng chính sách của Bắc Kinh ở biển Đông.
Điều này nếu thành sự thực sẽ đẩy căng thẳng Mỹ - Trung lên một cấp độ mới và
Biển Đông sẽ trở thành tâm điểm thực sự của căng thẳng này.
Tại Hội nghị Quan chức
cao cấp Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF) diễn ra ngày 21-7 theo hình thức trực
tuyến, Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ phụ trách các vấn đề Đông Á và Thái Bình Dương,
ông David Stilwel đã tái khẳng định cam kết của Washington ủng hộ xây dựng Bộ Quy
tắc ứng xử ở Biển Đông (COC). Các cuộc đàm phán này - vốn được khởi động từ năm
2002 - vẫn chưa đi tới kết quả cuối cùng. Theo nguyên tắc đồng thuận, cả 10
nước ASEAN đều phải đạt được sự nhất trí trước khi có quyết định và không thể
chối bỏ rằng sức ảnh hưởng của Trung Quốc đối với riêng lẻ từng quốc gia trong
khối đã ảnh hưởng đến việc các bên cùng nhất trí về COC.
Ngoài ra, cho đến nay,
Trung Quốc vẫn liên tục mô tả Mỹ là bên can thiệp vào tranh chấp và tự cho rằng
mình đang phối hợp tốt với ASEAN thông qua tiến trình xây dựng COC. Tuy nhiên
với việc Trung Quốc không ngừng xâm phạm vùng biển của Indonesia, Malaysia,
Philippines và Việt Nam trong năm qua, câu chuyện này không thuyết phục được
bất kỳ bên nào ở Đông Nam Á.
Tại Hội nghị Cấp cao
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) lần thứ 36 vào tháng 6-2020, đã ra đời
một tuyên bố chung chưa từng có tiền lệ. Tuyên bố chung của các nhà lãnh đạo
ASEAN khẳng định Công ước LHQ về Luật Biển (UNCLOS) 1982 là “cơ sở cho việc xác
định các quyền lợi trên biển, quyền chủ quyền, quyền tài phán và các lợi ích
hợp pháp đối với các khu vực trên biển”. Việc các quốc gia Đông Nam Á đã làm là
truyền đạt tới Bắc Kinh lập trường rõ ràng và có nguyên tắc rằng việc họ kêu
gọi tuân thủ luật pháp quốc tế không có nghĩa là họ đang hành động liên thủ với
Mỹ gây sức ép với Trung Quốc trong cuộc cạnh tranh của hai nước lớn này mà là
bảo vệ các quyền chủ quyền và quyền lợi trên biển hợp pháp.
Các diễn đạt mới này
rõ ràng và cụ thể hơn, đã xác tín những sự đề cập của ASEAN về việc “bảo vệ
luật pháp quốc tế, trong đó có UNCLOS” trong các thông cáo, văn kiện trước đó
và để có ý nghĩa về lâu dài, ngôn từ này cần được đưa vào các văn kiện của
ASEAN trong tương lai. Và trong khi các bên có thể đạt được một tiến triển gì
đó trong cuộc đàm phán COC, mọi hành động cố tình làm thay đổi hiện trạng, tạo
sự đã rồi sẽ càng đẩy căng thẳng trên Biển Đông đi xa hơn đến một kịch bản
không mong đợi.
Chủ lực
VIỆT NAM SẼ DẬP ĐƯỢC ĐỢT DỊCH COVID MỚI
Theo tờ báo The Diplomat của Mỹ, ngày 29-7 cho hay, mặc dù đã đối phó
thành công với COVID-19 ngay từ ngày đầu tiên, Việt Nam vẫn đang trong cuộc
chiến chống lại đại dịch. Việt Nam dự kiến sẽ có thể duy trì động lực chiến đấu
chống lại virus trước khi vaccine được phân phối.
Ngay cả khi làn sóng
tiếp theo đến, Việt Nam vẫn có thể đối phó với nó một cách hiệu quả như đã làm
trong những tháng qua. Tờ báo đã rất thực tế khi có cái nhìn lạc quan về tình
hình COVID-19 ở Việt Nam trong thời điểm hiện tại.
Việt Nam hiện đang đối mặt với nguy cơ của một làn sóng COVID-19
tiếp theo. Điều này đã xảy ra ở nhiều quốc gia khác. Tuy nhiên, Việt Nam có thể
sẽ kiểm soát được tiếp theo, nhờ kinh nghiệm và sự cải thiện của các thiết bị y
tế cần thiết, The Diplomat nhận định.
Việt Nam có nhiều kinh nghiệm trong việc chiến đấu chống lại đại
dịch, không chỉ COVID-19. Việt Nam từng trải qua dịch hô hấp cấp (SARS) năm
2003 và trở thành quốc gia đầu tiên kiểm soát nó. Liên quan đến COVID-19, Việt
Nam đã công bố 2 trường hợp đầu tiên (một người đàn ông Trung Quốc đi từ Vũ Hán
và con trai) vào ngày 30-1-2020, sớm hơn hầu hết các nước trong khu vực, đặc
biệt là ở Đông Nam Á.
Bị đại dịch tấn công sớm khiến Việt Nam nhận thức rõ hơn về tầm quan trọng của việc ngăn chặn sự lây lan. Chính phủ Việt Nam đã thực hiện các biện pháp sớm để ngăn chặn sự lây lan của COVID-19 và đã kiểm soát thành công trước đó. Kinh nghiệm đối phó với 2 đợt dịch trước cũng có thể hữu ích cho Việt Nam trong việc giải quyết các ca dương tính mới nhất ở Đà Nẵng. Nhờ sự phối hợp hiệu quả, các biện pháp y tế công cộng như truy tìm dấu vết tích cực, cách ly bắt buộc và khử trùng bề mặt đã được thực hiện ngay lập tức.
Gần đây, khi trường hợp thứ 416 được báo cáo - trường hợp lây
nhiễm cộng đồng đầu tiên sau 99 ngày - chính quyền địa phương của Đà Nẵng cũng
xử lý theo mô hình giống như Hà Nội đã làm trước đây. Chỉ thị 16 về giãn cách
xã hội đã được ban hành, cấm tụ tập hơn 2 người ở những nơi công cộng; các
chiến dịch sàng lọc và khử trùng hàng loạt đã được tiến hành và số lượng người
ra vào Đà Nẵng bị hạn chế rất nhiều.
Điều quan trọng, The Diplomat cho rằng, lần này, vì đã chiến đấu
chống lại đại dịch trong nửa năm, Việt Nam được trang bị các thiết bị tốt hơn,
điều cần thiết để chống lại làn sóng COVID-19 tiếp theo.
Trước đó, Việt Nam đã giải quyết đại dịch với ngân sách khá eo
hẹp. Hiện tại, mặc dù ngân sách y tế vẫn còn hạn chế, nhưng thiết bị y tế của
Việt Nam đã dần được cải thiện, cho phép thực hiện các hoạt động kiểm soát hiệu
quả hơn trên quy mô lớn hơn để chống lại virus.
Nhận thức của cộng đồng cũng được nâng cao hơn. Nhận thức được
coi là một trong những yếu tố chính trong việc đẩy lùi COVID-19 trước đây.
Người dân đang sử dụng các ứng dụng di động như NCOVI và Bluezone, được phát
triển với sự chỉ đạo của cơ quan nhà nước, để cập nhật tình trạng sức khỏe
thường xuyên để chính quyền địa phương có thể theo dõi chặt chẽ tình hình đại
dịch và ứng phó kịp thời. Bên cạnh đó, các ứng dụng này cũng giúp người dùng
biết những trường hợp dương tính mới được phát hiện gần đây và làm thế nào để
giữ sức khỏe giữa đại dịch, những thông tin cần thiết cho họ để tránh bị lây
nhiễm.Với khả năng bùng phát tiếp theo, Bộ Thông tin và Truyền thông có thể
phối hợp với các cơ quan liên quan khác để sớm cập nhật ứng dụng với nhiều chức
năng hơn.
Chủ lực - Theo The Diplomat
