Thứ Sáu, 7 tháng 8, 2020

Giá trị vững bền của chủ nghĩa Mác trong thời đại ngày nay

 

Giá trị vững bền của chủ nghĩa Mác trong thời đại ngày nay

Nghiên cứu lịch sử tư tưởng nhân loại chúng ta thấy rằng, không một tư tưởng nào, học thuyết nào về lịch sử có thể sánh kịp với chủ nghĩa Mác về phương diện khoa học và cách mạng. Bằng việc phát hiện ra những quy luật khách quan của sự vận động, biến đổi của toàn bộ thế giới vật chất và lịch sử loài người, lần đầu tiên trong lịch sử tư tưởng nhân loại, C.Mác đã chỉ ra cho giai cấp vô sản và nhân loại tiến bộ toàn thế giới con đường và biện pháp hiện thực để tự giải phóng khỏi ách áp bức, bóc lột, bất công và xây dựng một chế độ xã hội mới – xã hội cộng sản chủ nghĩa, mà giai đoạn đầu là chế độ xã hội chủ nghĩa, hướng đến sự giải phóng triệt để và phát triển toàn diện con người. 

Nói một cách khái quát, chủ nghĩa Mác là học thuyết về sự giải phóng và phát triển. Chủ nghĩa ấy hướng đến sự giải phóng triệt để con người khỏi mọi sự nô dịch, áp bức bóc lột, sự hạn chế trong các quan hệ xã hội và hướng đến sự giải phóng triệt để con người. Chủ nghĩa ấy được xây dựng trên cơ sở kế thừa các thành tựu nhận thức khoa học của lịch sử tư tưởng nhân loại vàchỉ ra được những quy luật chi phối toàn bộ sự vận động và phát triển của thế giới vật chất nói chung và lịch sử xã hội nói riêng, chấm dứt mọi sai lầm của chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo, chủ nghĩa duy vật siêu hình trong giải thích các hiện tượng xã hội và lịch sử. Chủ nghĩa Máccũng đóng góp vô cùng quý giá vào sự phát triển củatriết học, kinh tế chính trị học, chủ nghĩa cộng sản khoa học và nhiều khoa học khác, trở thành nền tảng lý luận có ý nghĩa phương pháp luận to lớn trong việc phát triển tư duy và nhận thức của nhân loại. Lần đầu tiên chủ nghĩa ấy cung cấp phương pháp luận khoa học trong nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người. Nó góp phần thay đổi căn bản tư duy của nhân loại trong việc thay đổi, cải tạo thế giới, hướng đến việc xây dựng một thế giới của con người, cho con người, vì con người. Ở đó, sự phát triển của mỗi người là tiền đề cho sự phát triển và tự do của tất cả mọi người. Vì vậy, chủ nghĩa ấy, đồng thời bao hàm tính cách mạng. Tính khoa học và cách mạng đã làm nên những giá trị bền vững của chủ nghĩa Mác và sức sống mạnh mẽ trong thời đại của chúng ta.

Vận dụng, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta xác định tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo đấu tranh phản bác có hiệu quả, kịp thời các quan điểm sai trái, thù địch. Đa dạng hóa hình thức đấu tranh bảo vệ nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Nâng cao chất lượng thực hiện cơ chế phối hợp và trao đổi thông tin, chủ động nắm bắt âm mưu, thủ đoạn, phương thức chống phá của các thế lực thù địch, đối tượng cơ hội chính trị; chú trọng xây dựng luận cứ đấu tranh phản bác các luận điệu sai trái, xuyên tạc; tạo sự thống nhất trong phối hợp giữa các cơ quan, ngành có liên quan. Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn cán bộ để cập nhật về nội dung và phương pháp đấu tranh; có cơ chế, chế độ phù hợp cho đội ngũ giảng viên lý luận chính trị. Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, bảo đảm kinh phí hoạt động và hiện đại hóa các trang thiết bị, phương tiện kỹ thuật.

 

VỀ VIỆC GS NGÔ BẢO CHÂU THẮC MẮC VIỆC CẤM BÁN HÀNG TRÊN VỈA HÈ CỦA HÀ NỘI, ĐÀ NẴNG VÀ MỘT SỐ ĐỊA PHƯƠNG

      Chia sẻ trên facebook Chau Ngo, giáo sư toán học Ngô Bảo Châu thắc mắc về lệnh cấm hàng quán vỉa hè của Hà Nội, Đà Nẵng và một số địa phương: 

"Tôi không hiểu lệnh cấm ăn uống vỉa hè để chống dịch. Hầu như chắc chắn không gian đóng kín, thiếu đối lưu không khí, mới là môi trường thuận lợi cho virus corona lây lan, nhất là khi có đông người ăn uống. 

Nới lỏng hạn chế ăn uống vỉa hè là cách để các quán ăn bình dân có thể sống sót qua mùa dịch. Vỉa hè có gió và có nhiều không gian hơn để tuân thủ quy định các bàn ăn phải giãn cách nhau ít nhất 1m." 

Ngắn gọn thế này thôi: Xin thưa giáo sư là vỉa hè ở Việt Nam nó khác ở bên Tây ạ! 

Yêu nước ST.

Ý THỨC CÁ NHÂN TRONG VIỆC PHÒNG CHỐNG COVID 19

Những ngày gần đây, cả nước dường như nín thở khi tình hình dịch bệnh lại bùng phát với diễn biến phức tạp sau gần 100 ngày không có ca nhiễm mới trong cộng đồng. Ngày 25/7, Việt Nam chính thức ghi nhận bệnh nhân thứ 416 tại Đà Nẵng dương tính với COVID 19 chủng mới, mở đầu cho đợt bùng phát dịch lần thứ hai.

BIỆN PHÁP XỬ LÍ ĐƠN TỐ CÁO NẶC DANH CHÔNG PHÁ CÔNG TÁC NHÂN SỰ

Đến hẹn lại lên, thời điểm các cấp tổ chức đại hội đảng, bầu cử, sắp xếp nhân sự trong các cơ quan, tổ chức, một trong các thủ đoạn mà các thế lực thù địch, phần tử cơ hội chính trị, bất mãn chế độ triệt để sử dụng để chống phá vấn đề nhân sự là “đơn tố cáo nặc danh”.

Liên Xô đã giúp đỡ gì cho Việt Nam trước và sau sự kiện ngày 14-3-1988?

 Đầu tháng 2 năm 1988, máy bay trinh sát Tu-142 của không quân hải quân Liên Xô đóng quân ở Cam Ranh đã cung cấp các hình ảnh, thông tin trinh sát về các đội tàu chiến của Hải quân Trung Quốc tiến về phía nam biển Đông.Một khóa huấn luyện bay biển cấp tốc đã được tổ chức cho phi công Su-22M của Trung đoàn không quân 923 với giáo viên dạy bay đến từ Trung tâm bay thử 929 Akhturbinsk của không quân Xô Viết.Trước khi sự kiện 14-3 xảy ra thì một phần Trung đoàn 923 cơ động vào sân bay Thanh Sơn, Phan Rang. Ngày 10-3-1988, chuyến Su-22UM đầu tiên trên máy bay số hiệu 8515 do phi công Vũ Xuân Cương, trung đoàn phó trung đoàn 923, bay kèm bởi phi công Liên Xô ra Trường Sa đã được thực hiện.Tiếp tục, các chuyến bay ra Trường Sa với biên đội 8 chiếc Su-22M cũng đã được phi công Liên Xô huấn luyện và kèm cặp cho các phi công Việt Nam. Một tháng sau sự kiện ngày 14-3-1988, biên đội 8 chiếc Su-22M đầu tiên bay ra Trường Sa đã hoàn thành nhiệm vụ yểm trợ cho 35 lính công binh trên đá Len Đao đang bị tàu chiến Trung Quốc bao vây uy hiếp.

Đến tháng 6-1988, các chuyến bay tuần tra có mang v.ũ k.h.í đã được Không quân Việt Nam thực hiện thành thục tới vị trí của đảo An Bang.

Liên Xô còn hỗ trợ cho Việt Nam xây dựng nền tảng lực lượng không quân hải quân khi tổ chức viện trợ và huấn luyện cán bộ Việt Nam sử dụng máy bay săn ngầm Be-12 và Ka-28. (Tuy nhiên sau này Be-12 sử dụng không có hiệu quả nên được trả về cho Liên Xô)

Trước khi tan rã, Liên Xô đã viện trợ cho Việt Nam một trung đoàn Su-22M gồm đầy đủ 40 máy bay cùng một lượng lớn tên lửa không-đối-đất Kh-23. Có thể thấy Liên Xô hoàn toàn không làm ngơ đối với đồng minh như những gì báo chí phương Tây bình luận khi nói về cuộc hải chiến ngắn ngủi năm 1988 ở Trường Sa./.

 

 

Thứ Năm, 6 tháng 8, 2020

Vô cùng thương tiếc Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu (kỳ 1): "Tắm gội phải từ trên đầu xuống"

 

Có lẽ cho đến bây giờ, khi cuộc chiến đấu chống "giặc nội xâm" được đẩy lên đến cao trào với nhiều nghị quyết, kế hoạch, ban chỉ đạo..., được ban hành, thành lập, thì quảng đại quần chúng và các thế hệ đảng viên mới thấm thía được tầm quan trọng của nó.

Nhưng trong thời điểm ấy, giữa muôn vàn khó khăn giai đoạn đầu thời kỳ Đổi mới, sau một chặng đường dài người ta chỉ quen nghe những từ "vinh quang, vĩ đại" về Đảng cầm quyền, thì nghị quyết ấy đã để lại một dấu ấn to lớn trong lịch sử xây dựng Đảng. Sau chiến tranh, lần đầu tiên một nghị quyết của Đảng nêu rõ: "Trong Đảng đang bộc lộ một số yếu kém: sự suy thoái về tư tưởng chính trị; tình trạng tham nhũng, quan liêu, lãng phí của một bộ phận cán bộ, đảng viên có chiều hướng phát triển nghiêm trọng hơn".

Và nghị quyết nêu bật yêu cầu: "Mở rộng dân chủ, khuyến khích tranh luận thẳng thắn; tôn trọng, tập hợp và xem xét để tiếp thu hết ý kiến đúng đắn của các cấp ủy viên và đảng viên trước khi quyết định... Khi có ý kiến khác nhau phải thảo luận kỹ, đối với những vấn đề quan trọng phải biểu quyết; khi cần, phải điều tra, khảo sát, làm thí điểm rồi kết luận. Khi đã có kết luận thì mọi người phải nói và làm theo kết luận; đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu số sẽ có quyền báo cáo lên cấp trên".

Trong trí nhớ của ông Vũ Quốc Hùng, để thực hiện nghị quyết nêu trên, trung ương đã thành lập ban chỉ đạo, thực hiện ráo riết, quyết liệt và rất bài bản. "Sinh hoạt Đảng không phải sinh hoạt câu lạc bộ. Tắm gội phải từ trên đầu xuống chứ không phải từ ngang thắt lưng" - ông Hùng nêu lại tinh thần của tổng bí thư khi đó. "Kiểm điểm các thành viên Bộ Chính trị rất nghiêm túc, từng người tự viết kiểm điểm rồi đứng lên đọc, sau đó các thành viên khác góp ý. Có cuộc kiểm điểm Bộ Chính trị họp tới 10 ngày, tôi được biết các đồng chí góp ý rất thẳng thắn không chỉ về thực hiện chức năng nhiệm vụ được giao mà còn về lối sống, quan hệ gia đình, xã hội" - ông Hùng kể.

Khởi động một cuộc chỉnh đốn Đảng quy mô lớn như vậy, chính bản thân Tổng bí thư Lê Khả Phiêu cũng phải đương đầu với rất nhiều sức ép. Đến thời điểm này, sau một khoảng thời gian chống "giặc nội xâm", chúng ta mới hiểu được mức độ khó khăn, nguy hiểm, nhưng vào thời điểm đó không phải ai cũng hiểu và chia sẻ được với người khởi xướng cuộc cách mạng mới này.

"Với những yêu cầu giải trình với cá nhân mình, thậm chí có những cáo buộc, Tổng bí thư Lê Khả Phiêu rất bình tĩnh tiếp nhận, ông không tự thanh minh mà đề nghị các cơ quan chức năng tìm hiểu, kết luận rõ ràng. Tôi thực sự quý trọng phẩm chất, sự bản lĩnh của anh Phiêu. Đối với các vụ việc kiểm tra, kỷ luật với người khác, anh khách quan, không thiên vị" - ông Hùng bày tỏ.


Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu: "Dân che chở mới tồn tại được"

 

Nếu tính từ thời điểm nhập ngũ đến khi được bầu làm ủy viên Trung ương Đảng (1950 - 1991), ông Phiêu hơn 40 năm liên tục phục vụ trong quân đội, phần lớn thời gian trực tiếp chiến đấu và chỉ huy tại các chiến trường. Những người nghiên cứu lịch sử chiến tranh không thể không biết đến tên tuổi ông Phiêu. Đó là Tết Mậu Thân 1968, trung đoàn trưởng kiêm chính ủy trung đoàn 9 Lê Khả Phiêu chỉ đạo chiến đấu 25 ngày đêm ác liệt giữa kinh thành Huế. Đó là chủ nhiệm chính trị Quân khu 9, rồi chủ nhiệm chính trị Quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia Lê Khả Phiêu...

Năm 2008, nhân kỷ niệm 40 năm "Mậu Thân 1968", mở đầu cuộc trò chuyện dài về sự kiện lịch sử này, ông Phiêu đã đọc tặng tôi mấy câu thơ: "Giờ xuất quân đã điểm chúng ta thề/ Tổ quốc kính yêu, vì Người ta xông tới/ Kính thưa Bác, chúng con vào trận cuối...". Ông tâm sự với chúng tôi nhiều điều về kinh nghiệm đánh giá ta - địch, về xây dựng "thế trận lòng dân", về sức mạnh Việt Nam, về phẩm chất của người chỉ huy, lãnh đạo.

"Điều lớn nhất trong đời tôi học được là phải gắn bó rất chặt chẽ với nhân dân. Những người hoạt động cách mạng, các bậc tiền bối trước kia cũng sống trong lòng nhân dân, được dân bảo vệ, che chở nên mới tồn tại được. Tôi đi bộ đội từ năm 17 tuổi, vào chiến trường, tham gia đội quân chủ lực. Từ trên rừng núi xuống đồng bằng. Khi địch đi càn, người dân lại đưa xuống hầm bảo vệ. Sống với dân như là máu thịt rồi. Tôi không bao giờ quên điều này" - ông Phiêu nhấn mạnh.

Theo tin từ Ban Bảo vệ, chăm sóc sức khỏe cán bộ trung ương, nguyên Tổng bí thư Lê Khả Phiêu sau một thời gian lâm bệnh, mặc dù được Đảng, Nhà nước, tập thể các giáo sư, bác sĩ tận tình cứu chữa, gia đình hết lòng chăm sóc nhưng do tuổi cao sức yếu, ông đã từ trần vào hồi 2h52 hôm qua 7-8 tại Hà Nội.

Lễ viếng, lễ truy điệu, lễ an táng nguyên Tổng bí thư Lê Khả Phiêu sẽ được thông báo sớm.

Thượng tướng Lê Khả Phiêu, sinh ngày 27-12-1931, tại xã Đông Khê, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Ông từng kinh qua nhiều vị trí công tác trong quân đội, đảm nhiệm chức vụ chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam, được bầu làm tổng bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Ông làm tổng bí thư từ tháng 12-1997 đến tháng 4-2001.

 

Ông Lê Khả Phiêu nói về chống tham nhũng

* "Chúng ta cứ ngồi mà nói thật thà với nhau là tham nhũng vẫn phổ biến, trầm trọng. Có những vụ tôi biết, anh Sáu Dân (tên thường gọi của cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt - PV) biết mà không khui được. Nó thành dây che chắn nhau, thậm chí cả bên ngoài che chắn (chứ không chỉ trong nước).

Đây đúng là một cuộc đấu tranh quyết liệt. Muốn giành thắng lợi trong cuộc chiến này thì Đảng phải tự xem lại mình, Nhà nước phải xem lại mình".

* "Trong cuộc chiến ấy, tôi muốn nhắc lại rằng ta phải gắn với xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước. Không thể (theo cách) lâu lâu phát hiện một vụ, có thể to hơn những vụ trước, lại đem ra xử lý mà không làm rốt ráo từ bên trong".

* "Mình phải hết sức cảnh giác. Phải luôn răn mình là đầy tớ của dân. Tôi nói thật có chuyện họ đến biếu tiền, năm nghìn, mười nghìn (đô) chứ không ít đâu.

Lúc tôi còn thường trực (Thường trực Bộ Chính trị - PV) đã có rồi, lúc làm tổng bí thư càng có. Đối với tôi, họ đến đút tiền không dám đưa thẳng đâu. Thường là có bó hoa xong để cái gói trên bàn rồi về. Mở ra thấy có năm nghìn, mười nghìn tôi gọi anh Hoan (ông Trần Đình Hoan, khi ấy là chánh Văn phòng Trung ương Đảng - PV) và cậu Dần (ông Nguyễn Giáp Dần, thư ký nguyên Tổng bí thư Lê Khả Phiêu - PV) lên, nói: "Cái này của ông A, ông B... Giao các cậu mời các ông đó lên xem thái độ thế nào. Tại sao lại có phong bì thế này? Đồng chí tổng bí thư nhắc như thế là không được, từ nay trở đi không được làm thế".

Vậy mà có ông trả lời rằng "đồng chí Phiêu không nhận thì tôi xin biếu các anh". Cả cậu Dần, anh Hoan về báo cáo lại tôi. Thế thì không được rồi. Tôi phải gọi lên cảnh cáo".

* "Cái chính là anh phải thấm nhuần lời dạy của Bác Hồ "cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư", giữ mình trong sáng mới chỉ đạo được. Ngay hồi phát động thực hiện Nghị quyết 6 (lần 2) tại hội nghị toàn quốc, tôi đã nói hết các vụ việc (dù không nêu tên) với yêu cầu các anh cán bộ đứng đầu phải hết sức cảnh giác. Anh em ở dưới nghe rất ủng hộ.

Mà không chỉ bản thân đâu, nhất là với gia đình cũng phải dặn dò cẩn thận, bởi kẻ xấu có nhiều thủ đoạn lắm. Vợ con anh phải giữ, nếu không nó tấn công rất ghê. Tấn công con có, tấn công vợ có. Đánh vào bếp, đánh từ phía sau. Phải đề cao cảnh giác!".

 

Củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh; giữ gìn an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội

 Thực hiện tốt Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Tăng cường quốc phòng, an ninh, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, bảo đảm ổn định chính trị - xã hội và môi trường hòa bình để xây dựng, bảo vệ đất nước; không bị bất ngờ trong mọi tình huống. Ngày nay trước sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 tác động sâu rộng đến mọi lĩnh vực đời sống xã hội đang là động lực hình thành xã hội thông tin, thế giới phẳng, nền sản xuất thông minh, kinh tế tri thức, thúc đẩy quá trình cải cách, đổi mới, sáng tạo và tái cấu trúc ở mọi quốc gia, dân tộc, khu vực và thế giới. Tuy nhiên, thế giới hiện nay cũng đang tiềm ẩn nhiều nguy cơ và thách thức. Các nước lớn điều chỉnh chiến lược, vừa hợp tác, thỏa hiệp, vừa cạnh tranh, đấu tranh kiềm chế lẫn nhau quyết liệt, giành vị thế và lợi ích gây ra tình hình phức tạp ở nhiều khu vực và nhiều nước. Xung đột dân tộc, tôn giáo, khủng bố quốc tế, chiến tranh cục bộ, chiến tranh kinh tế, thương mại, chiến tranh mạng, các hoạt động can thiệp, lật đổ, tranh chấp chủ quyền, lãnh thổ, tài nguyên… diễn ra dưới những hình thức mới, ngày càng gay gắt hơn.

          Trong bối cảnh quốc tế và khu vực có nhiều phức tạp, chúng ta phải kiên quyết, kiên trì đấu tranh giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo đảm quốc phòng, an ninh và trật tự, an toàn xã hội. Phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ công cuộc đổi mới, sự nhiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội.

          Đấu tranh làm thất bại âm mưu “diễn biến hòa bình) há hoại, gây rối, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, bước đầu đối phó có hiệu quả với mối đe dọa an ninh phi truyền thống, kiềm chế được tốc độ gia tăng tội phạm. Tuy nhiên, các thế lực thù địch luôn tìm cách đẩy mạnh chiến lược “diễn biến hòa bình”, tăng cường sử dụng các biện pháp “tấn công mềm”, tập trung làm chuyển biến về chính trị tư tưởng, đạo đức, lối sống, thúc đẩy quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; kích động, chia rẽ, đòi “phi chính trị hóa Quân đội”; hạ thấp, phủ nhận vai trò, uy tín lãnh đạo của Đảng nhằm xóa bỏ mục tiêu con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong thời điểm hiện nay, chúng ta đang tổ chức đại hội đảng các cấp, hướng tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, các thế lực thù địch tập trung chống phá quyết liệt hơn, với nhiều hình thức mới, thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt. Những diễn biến của thế giới, khu vực và trong nước đã và đang đem lại cả thuận lợi và thời cơ, khó khăn và thách thức đan xen, đặt ra những yêu cầu mới đối với sự nghiệp quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đất nước ta có thêm những thuận lợi, thời cơ trong giữ vững hòa bình, ổn định, hợp tác, phát triển, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh. Đây chính là thời điểm tốt cho chúng ta phát huy lợi thế, tính ưu việt của chế độ, sự thông minh, tính năng động, sáng tạo, khát vọng vươn lên của con người, dân tộc Việt Nam để đi tắt, đón đầu, huy động cao độ nguồn lực, phát huy sức mạnh tổng hợp vào sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Chúng ta có điều kiện để lựa chọn những sách lược hợp lý, không bị chi phối trong quan hệ quốc tế, giảm sức ép của các nước lớn; đẩy mạnh quan hệ hợp tác trong các vấn đề địa chiến lược để kiềm chế, đẩy lùi âm mưu, hành động vi phạm chủ quyền, lãnh thổ, sự chống phá của các thế lực thù địch nhằm can thiệp công việc nội bộ, thực hiện “diễn biến hòa bình” phá hoại chế độ xã hội chủ nghĩa. Mục tiêu trọng yếu của quốc phòng, an ninh xác định củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia, ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và toàn dân, trong đó Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là nòng cốt.

          Tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh; xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân vững chắc. Chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ vững chắc biên giới và chủ quyền biển, đảo, vùng trời của Tổ quốc; đồng thời giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển bền vững đất nước. Giải quyết những bất đồng, tranh chấp bằng giải pháp hòa bình trên cơ sở tôn trọng luật pháp quốc tế. Kết hợp chặt chẽ kinh tế, văn hóa, xã hội với quốc phòng, an ninh và quốc phòng, an ninh với kinh tế, văn hóa, xã hội trong từng chiến lược, qui hoạch phát triển kinh tế  - xã hội. Kết hợp chặt chẽ giữa quốc phòng, an ninh và đối ngoại; tăng cường hợp tác quốc tế về quốc phòng, an ninh. Xây dựng thế trận lòng dân, xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, ưu tiên hiện đại hóa một số quân chủng, binh chủng, lực lượng; vững mạnh về chính trị, nâng cao chất lượng tổng hợp sức mạnh chiến đấu, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân. Tăng cường nguồn lực cho quốc phòng, an ninh. Tích cực chủ động chuẩn bị lực lượng đủ mạnh và các kế hoạch, phương án tác chiến cụ thể, khoa học, sẵn sàng bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh của Tổ quốc trong mọi tình huống. Nâng cao chất lượng dự báo tình hình. Kiên quyết giữ vững ổn định chính trị, ổn định kinh tế - xã hội trong mọi tình huống.

Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là nhiệm vụ của cán bộ, đảng viên

Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh với những quan điểm sai trái, thù địch là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và mọi tầng lớp nhân dân. Trong đó, đội ngũ cán bộ, đảng viên là lực lượng tiên phong. Để đấu tranh, bảo vệ thành công nền tảng tư tưởng của Đảng, trước hết phải bảo vệ vững chắc nội bộ. Nội bộ đoàn kết, không dao động, không "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" thì thế lực thù địch dù có nhiều âm mưu, thủ đoạn xảo quyệt đến mấy cũng khó bề làm lung lạc ý chí, niềm tin của quần chúng nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ. Vì thế, việc đầu tiên là cần có biện pháp đấu tranh, khắc phục thực trạng một bộ phận cán bộ, đảng viên, kể cả cán bộ lãnh đạo, quản lý không chỉ phai nhạt lý tưởng mà còn thiếu niềm tin vào con đường xã hội chủ nghĩa.

Quá trình "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong mỗi cá nhân, tổ chức thường bắt đầu từ mất niềm tin, mất phương hướng, từ bỏ lý tưởng, mục tiêu cách mạng, tiến tới du nhập tư tưởng, lý luận phi mác-xít, sẵn sàng "trở cờ" phản bội, đưa đất nước đi theo hướng khác, con đường khác phi xã hội chủ nghĩa. Thực tế là nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa vẫn tồn tại trong cả nhận thức và hành động của một số người. Nhận thức đó có thể bắt nguồn từ những vấn đề còn chưa tỏ tường về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, kết hợp với sự xuất hiện những thế mạnh của chủ nghĩa tư bản hiện đại trong quá trình toàn cầu hóa. Những điều đó đã tác động mạnh tới nhận thức của một số người, trong đó có một số văn nghệ sĩ, trí thức, làm cho nhận thức của họ trở nên mông lung, như người "đứng giữa ngã ba đường".

Để bảo vệ hiệu quả nền tảng tư tưởng của Đảng, thì toàn Đảng, toàn dân, toàn quân cần kiên trì tiến hành cuộc đấu tranh phê phán triệt để hệ tư tưởng tư sản, tư tưởng xã hội dân chủ, chủ nghĩa thực dụng tồn tại trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. Tiếp tục khẳng định chế độ và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn là con đường duy nhất đúng, bởi nó vừa thể hiện tính cách mạng triệt để, vừa phù hợp với quy luật phát triển của tự nhiên và xã hội. Bên cạnh đó, cần có biện pháp thiết thực củng cố và phát triển mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước với các tổ chức trong hệ thống chính trị, hệ thống chính trị xã hội và nhân dân. Phê phán, bác bỏ các quan điểm, tư tưởng và ý đồ thực hiện chế độ đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập. Phát hiện, xử lý kịp thời những âm mưu phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng từ các thế lực thù địch, vạch mặt những phần tử cơ hội chính trị, ngăn chặn những hành vi xuyên tạc chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước, ngăn chặn sự chia rẽ mối đoàn kết gắn bó giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân và lực lượng vũ trang. Phải tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý, điều hành của Nhà nước, cụ thể là của bộ máy chính quyền các cấp; xử lý đúng đắn những mâu thuẫn nội bộ trong các tầng lớp nhân dân, không để tích tụ, tạo tâm lý bất bình và các "điểm nóng" về an ninh trật tự trong xã hội. Đồng thời đẩy mạnh việc đấu tranh, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, phai nhạt lý tưởng, chủ nghĩa cơ hội, thực dụng trong đội ngũ cán bộ, đảng viên. Quyết tâm làm trong sạch từ nhận thức đến hành động của đội ngũ cán bộ, đảng viên-đội ngũ vừa là đối tượng, vừa là chủ thể của phòng, chống "tự diễn biến", "tự chuyển hóa", để tạo cơ sở nền tảng đấu tranh hiệu quả với âm mưu, thủ đoạn hoạt động "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch./.

 


Lên án các hành vi phe cánh - Xây tập thể đoàn kết

Trong bài viết ngày 26-4-2020 về công tác chuẩn bị nhân sự Đại hội XIII của Đảng, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã chỉ đạo khá rõ nét cách thức để tạo nên một tập thể đoàn kết: “Phải trên cơ sở xác định rõ tiêu chuẩn, tiêu chí để đánh giá đúng cán bộ, lựa chọn đúng người, sắp xếp đúng việc, bố trí đúng chỗ, tạo ra một ê-kíp, một tập thể thật sự "ăn ý", đoàn kết, thống nhất, có sức mạnh”. Tổng Bí thư cũng rất lưu ý việc phải chống cho được “tư tưởng cục bộ, địa phương, thân quen, "cánh hẩu", "lợi ích nhóm"; tránh cách làm giản đơn, tùy tiện, vô nguyên tắc…” để không được nhân danh “cơ cấu” mà vận dụng sai lệch làm giảm sức mạnh tổ chức.

Phe cánh cũng là một tập thể người. Nhưng nó là một tập thể chung mục đích của nhóm. Người cầm đầu phe cánh thường là người có chức quyền, và phe cánh vận hành theo kiểu phi nguyên tắc, ràng buộc lỏng lẻo. 

Tuy cũng là một tập thể người, song trái ngược với phe cánh - tổ chức Đảng là nơi tập hợp những đảng viên chân chính, những người luôn đặt lợi ích chung của tập thể, của cộng đồng lên trên lợi ích cá nhân. Trong tổ chức Đảng, mọi hoạt động tiến hành theo các nguyên tắc chặt chẽ nhằm bảo đảm chế độ lãnh đạo tập thể, vì lợi ích chung.

Nhận diện rõ sự khác biệt ấy để thêm quyết tâm chống cho được phe cánh, xây dựng những tập thể mạnh; trước mắt là trong quá trình chuẩn bị nhân sự đại hội Đảng các cấp.

 


đấu tranh với những hành vi lợi dụng góp ý, phản biện để gây rối

Góp ý, phản biện xã hội là kênh quan trọng giúp đường lối, chủ trương, chính sách ban hành được đúng đắn và đi nhanh vào cuộc sống. Thế nhưng cũng có người đã lợi dụng góp ý, phản biện để gây nhiễu thông tin, tạo ra những mâu thuẫn, gây rối trong xã hội.

Đã thành thông lệ, trước mỗi kỳ đại hội đảng các cấp hoặc bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND các cấp, các thế lực thù địch lại tăng cường những hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước ta, đẩy mạnh âm mưu lôi kéo cán bộ, gây chia rẽ, mất đoàn kết nội bộ Đảng; tình trạng đơn, thư tố cáo, phát tán thông tin không đúng sự thật dưới mọi hình thức với nhiều mục đích khác nhau diễn ra ngày càng tinh vi, đa dạng, phức tạp. Điều đáng tiếc là một số người nhẹ dạ cả tin đã vô tình mắc vào những cái “bẫy” này. Lợi dụng về quyền dân chủ trong các cuộc họp, trong việc góp ý với các tổ chức Đảng, các cơ quan quản lý nhà nước, không ít người thổi phồng, xuyên tạc, bịa đặt đời tư cá nhân, nhằm bôi nhọ thanh danh, uy tín của đồng chí, đồng đội, lãnh đạo các cấp, các cơ quan, tổ chức Đảng, địa phương, đơn vị, doanh nghiệp; gây hoài nghi, hoang mang trong dư luận, làm giảm sút lòng tin của nhân dân vào Đảng và chế độ. Lợi dụng việc góp ý vào dự thảo văn kiện đại hội đảng các cấp, đã có người thổi phồng, bóp méo, xuyên tạc, bịa đặt về những hạn chế, yếu kém của địa phương, bộ, ngành, cơ quan, đơn vị nhằm phủ nhận những thành tựu, để có thể hạn chế người ủng hộ bằng lá phiếu trong đại hội. Cũng có người lợi dụng việc một số cán bộ, đảng viên vi phạm kỷ luật, pháp luật và việc xử lý của các cơ quan chức năng để kích động, suy đoán nhằm chia rẽ nội bộ, hình thành “phe nhóm chống đối nhau” trong nội bộ các tổ chức Đảng, các cơ quan, địa phương, đơn vị. Nguy hiểm hơn, một số đối tượng vì tư lợi hẹp hòi và động cơ chính trị lại lợi dụng danh nghĩa góp ý, phản biện để gây sự nghi ngờ, gieo rắc thù hận và chia rẽ mối đoàn kết trong nội bộ từng cơ quan, đơn vị. Chúng sử dụng mọi chiêu trò, mánh khóe, lợi dụng các trang blog, web cá nhân, mạng xã hội để thổi tung ra những thông tin nhạy cảm, khó kiểm chứng, nhằm thu hút sự hiếu kỳ của quần chúng, gây nhiễu loạn dư luận.

Để đối phó với sự chống phá, xuyên tạc của các thế lực thù địch và các phần tử cơ hội, phản động trước thềm đại hội đảng các cấp và phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, mỗi cán bộ, đảng viên cần nâng cao tinh thần cảnh giác và khả năng “miễn dịch”. Các cấp ủy Đảng cần chủ động thông tin đúng đắn, chính xác về các vấn đề liên quan đến công tác tổ chức đại hội đảng các cấp. Công khai, minh bạch thông tin về những chủ trương, chính sách trong giải quyết các vấn đề bức xúc, nhất là những vấn đề có tính nhạy cảm trước thềm đại hội đảng ở cấp mình. Đây là vấn đề rất quan trọng, không nên để những thông tin giả, tin đồn thất thiệt lan truyền và hoành hành trong cộng đồng xã hội rồi mới tìm cách khắc phục theo kiểu “chạy theo” tình hình. Thông tin càng cởi mở, việc kết nối thông tin trong xã hội tới mọi người dân luôn thông suốt thì càng có điều kiện để phòng, chống tin giả, tin xấu độc, bảo đảm thông tin chính thống giữ vững vai trò chủ đạo, định hướng dư luận.

Các cơ quan, đơn vị cần tăng cường công tác quản lý nội bộ, kịp thời đấu tranh và xử lý đối với những cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; kịp thời phát hiện, ngăn chặn những phần tử cơ hội, bất mãn chính trị đưa ra thông tin tuyên truyền chống phá, xuyên tạc, hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng. Làm cho mọi người trong cơ quan, đơn vị, tổ chức có điều kiện thẩm định, đánh giá các thông tin, từ đó chủ động phản bác những thông tin sai lệch; tránh tự mình trở thành “con rối”, tiếp tay cho kẻ xấu trục lợi, cho các thế lực thù địch tuyên truyền xuyên tạc, hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng, chống phá đại hội đảng các cấp. Thực tế cho thấy, để ngăn chặn hiệu quả việc “góp ý”, “phản biện” có nội dung gây rối, các tổ chức Đảng có thẩm quyền phải nâng cao trách nhiệm, giải quyết đơn, thư tố cáo một cách công tâm, khách quan, kịp thời, đúng nguyên tắc, phương châm, quy trình, thủ tục theo quy định của Đảng. Kiên quyết sàng lọc, không để lọt vào cấp ủy khóa mới những người bản lĩnh chính trị không vững vàng; phẩm chất, năng lực, uy tín giảm sút; thiếu gương mẫu, mất đoàn kết, cục bộ, bè phái, cơ hội; có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; "chạy" chức, "chạy" quyền, tham nhũng, tiêu cực, “lợi ích nhóm”; vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ và quy định về những điều đảng viên không được làm. Trường hợp nhận thấy người gửi “tâm thư”, “góp ý”, “phản biện” có dụng ý xấu, cần phải làm rõ động cơ, mục đích để có biện pháp xử lý phù hợp. Đã đến lúc phải xây dựng cơ sở pháp lý bảo đảm cho việc thực hiện phản biện xã hội và góp ý một cách đúng đắn, có hiệu quả. Phản biện xã hội là điều bắt buộc phải thực hiện một cách nghiêm túc, công khai đối với các dự án pháp luật, các chương trình, kế hoạch, dự án phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa, an ninh, quốc phòng của Đảng và Nhà nước. Thế nhưng, cũng phải có chế tài xử lý việc lợi dụng góp ý, phản biện để gây rối xã hội.

 


Xây dựng phong cách người đứng đầu theo tư tưởng của Bác Hồ

Xây dựng phong cách người đứng đầu theo tư tưởng của Bác Hồ

Phong cách của Hồ Chí Minh là một bộ phận quan trọng trong toàn bộ di sản vô giá mà Bác để lại cho Đảng và dân tộc ta. Việc nghiên cứu, học tập, vận dụng phong cách Hồ Chí Minh, trong đó có phong cách lãnh đạo của người đứng đầu, góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ có đức, có tài. Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương sáng về phong cách lãnh đạo sâu sát. Chỉ tính trong 10 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Miền Bắc (1955 - 1965), mặc dù tuổi đã cao, công việc bộn bề, nhưng Bác Hồ đã đi thăm trên 700 địa điểm ở các địa phương, nông trường, xí nghiệp, đơn vị bộ đội, hợp tác xã nông nghiệp… từ miền núi đến hải đảo để thăm hỏi đồng bào, chiến sỹ, xem xét tình hình, kiểm tra công việc. Phong cách lãnh đạo của người đứng đầu bao gồm tổng hợp các biện pháp, phương pháp, cách thức riêng, tiêu biểu mà người đứng đầu sử dụng hàng ngày để thực hiện nhiệm vụ lãnh đạo của mình. Phong cách được quy định bởi chức năng, nhiệm vụ, phẩm chất, tri thức, điều kiện chính trị, điều kiện sống của người đứng đầu. Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu, nhắc nhở về phong cách của người đứng đầu là: Phong cách dân chủ, nhưng quyết đoán; lãnh đạo sát sao, quyết đoán, khéo dùng người, trọng dụng người, cách mạng, khoa học, năng động, sáng tạo. Các nội dung này được thể hiện cụ thể như sau:Một là, phong cách dân chủ nhưng quyết đoán: Bác Hồ yêu cầu người đứng đầu cơ quan, đơn vị, tổ chức phải: “Gom góp mọi ý kiến rời rạc, lẻ tẻ của quần chúng, rồi phân tích nó, nghiên cứu nó, sắp xếp nó thành những ý kiến có tính hệ thống. Rồi đem nó tuyên truyền, giải thích cho quần chúng, làm nó thành ý kiến của quần chúng, và làm cho quần chúng giữ vững và thực hành ý kiến đó”. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra rằng: Một người dù có tài giỏi đến đâu, cũng không thể nắm được hết mọi mặt của một vấn đề, cũng không thể biết hết được mọi việc trong đơn vị cũng như đời sống của xã hội. Do đó, cần có cách làm việc tập thể để phát huy trí tuệ của tập thể, trí tuệ của đông đảo quần chúng nhân dân nhằm hoàn thành nhiệm vụ của một tập thể, một địa phương, mà nếu chỉ riêng người cán bộ lãnh đạo, quản lý thì không làm nổi. Tập thể lãnh đạo là dân chủ. Cá nhân phụ trách là nêu cao trách nhiệm của người đứng đầu, người quản lý; có ý thức tập thể cao, tạo ra bầu không khí làm việc dân chủ, tôn trọng và lắng nghe ý kiến tập thể, phát huy trí tuệ tập thể, nhưng không có tính quyết đoán, không dám chịu trách nhiệm cá nhân trước tập thể thì không có những kịp thời, đáp ứng yêu cầu và công việc không thể tiến triển được. Hàng ngày Bác Hồ đọc báo, đọc thư của đồng bào gửi đến, thấy những ý kiến hay, cần tiếp thu, những việc cần giải quyết Người đều dùng bút đỏ đóng khung lại, chuyển đến cơ quan có trách nhiệm yêu cầu nghiên cứu giải quyết. Lãnh đạo sâu sát sẽ nâng cao tính khách quan, minh bạch, tăng cường được công tác kiểm tra, giám sát, từ đó kiểm soát tốt hơn việc thực thi quyền lực, kiểm tra, giám sát chặt chẽ sử dụng tài sản của Nhà nước, của nhân dân, góp phần phòng, chống tham nhũng, lãng phí có hiệu quả. Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu dựa vào quần chúng nhân dân để giám sát, kiểm tra, nhằm loại trừ các hành vi trục lợi, tham ô, biến của công thành của riêng…Hai là, phong cách khéo dụng người, trọng dụng người tài: Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định: Việc dùng người phải hợp lý, đúng năng lực và sở trường của họ, đúng người, đúng việc, chớ “dùng thợ mộc làm nghề thợ rèn” và phải cho họ hiểu rõ mọi mặt các công việc họ phải phụ trách. Dùng người mà không đúng công việc sẽ không chạy, không được việc, làm thui chột nhân tài, có hại cho Đảng và cũng thể hiện sự yếu kém trong công tác cán bộ của Đảng. Ba là, phong cách cách mạng, khoa học, năng động, sáng tạo: Theo Bác Hồ, cán bộ lãnh đạo, quản lý, phải là người vừa “hồng” vừa “chuyên”, có đạo đức cách mạng, có tinh thần anh dũng, gương mẫu, chịu đựng gian khổ, hy sinh và có năng  lực thực thi nhiệm vụ được giao. Để có tri thức khoa học, người đứng đầu phải chịu khó học tập, nghiên cứu để nâng cao trình độ về chính trị, văn hóa, nghiệp vụ. Nếu chủ quan, tự mãn, ít nghiên cứu lý luận và thực tiễn nên gặp thuận lợi dễ lạc quan, gặp thành công sớm phải căn bệnh kiêu ngạo, khi gặp khó khăn thì dễ lúng túng, bị động, dẫn đến bi quan, dao động, lập trường cách mạng không vững. Bác Hồ nhắc nhở: “Học hỏi là việc phải tiếp tục, suốt đời. Suốt đời phải gắn lý luận với công tác thực tế. Không ai có thể tự cho mình đã biết đủ rồi, biết hết rồi. Thế giới ngày ngày thay đổi mới, nhân dân càng tiến bộ, cho nên chúng ta phải tiếp tục học và hành để tiến bộ kịp nhân dân”. Trong bối cảnh hiện nay, việc xây dựng phong cách lãnh đạo của người đứng đầu có ý nghĩa quan trọng góp phần truyền cảm hứng, tạo niềm tin và động lực cho cán bộ, đảng viên tích cực tham gia, nêu cao trách nhiệm trong công tác và cuộc sống, tạo sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong nhân dân. Để xây dựng phong cách người đứng đầu, trong điều kiện mới, chúng ta cần tập trung thực hiện các giải pháp cơ bản, như tăng cường giáo dục, rèn luyện, xây dựng phong cách làm việc, phong cách lãnh đạo, khơi dậy ý thức tự giác, tinh thần học hỏi thường xuyên trong cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu các cấp, các ngành; giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; tăng cường công tác quản lý cán bộ, đảng viên; xây dựng các quy định về đạo đức công vụ, phong cách làm việc, phong cách lãnh đạo, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát… Thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng, thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII và các chuyên đề về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh gắn với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, ‘tự chuyển hóa” trong nội bộ, đòi hỏi cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu các cấp phải vừa “hồng”, vừa “chuyên”, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ được giao. Muốn vậy, mỗi cán bộ, đảng viên, đặc biệt là người đứng đầu phải gương mẫu, không ngừng học tập, tu dưỡng, rèn luyện, trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh./.

 


Những ai phản bác chủ nghĩa Mác – Lênin, những ai hồ nghi, tráo trở về cái gọi là sự “phù hợp” của chủ nghĩa Mác - Lênin với phương Đông hay phương Tây một cách máy móc, phiến diện, thì hãy cùng trao đổi.

Chủ nghĩa Mác - Lênin đối với lịch sử phát triển của cách mạng thế giới và Việt Nam thể hiện sự cần thiết, sự phù hợp, vai trò cơ sở, nền tảng tư tưởng lý luận, kim chỉ nam cho hành động cách mạng. Có thể khái quát ở những điểm chủ yếu dưới đây:

Sự vận động, phát triển từ thời cổ đại đến nay của nhân loại và của lịch sử dân tộc Việt Nam là bằng chứng rõ ràng chứng tỏ rằng, học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin là khoa học, đúng đắn và phản ánh chính xác, khách quan lịch sử vận động, phát triển tiến bộ của toàn thể nhân loại, trong đó có dân tộc Việt Nam. Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội là cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin để tiếp cận nghiên cứu, giải thích, dự báo sự phát triển mang tính lịch sử - tự nhiên của xã hội loài người nói chung, mỗi dân tộc nói riêng, trong đó có sự phát triển của lịch sử dân tộc Việt Nam. Học thuyết đó đã chỉ rõ:

- Lịch sử phát triển của loài người là lịch sử phát triển và thay thế nhau của các hình thái kinh tế - xã hội, trong đó sự phát triển của quan hệ sản xuất theo hướng tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất là cơ sở, trên đó xây dựng nên kiến trúc thượng tầng thích hợp.

- Lịch sử loài người đã và đang trải qua 5 hình thái kinh tế - xã hội, là quy luật chung của sự phát triển của xã hội loài người; còn mỗi quốc gia dân tộc có thể bỏ qua một hay một vài hình thái nào đó trong điều kiện lịch sử - cụ thể của thời đại và dân tộc. Việt Nam bỏ qua sự phát triển hình thái kinh tế - xã hội chiếm hữu nô lệ và hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa là một tất yếu lịch sử khách quan không thể phủ nhận .

Như vậy, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin không chỉ đơn thuần giải phẫu các hình thái kinh tế - xã hội, mà còn phân tích làm nổi bật lên bản chất, quy luật vận động, những mâu thuẫn của chúng và dự báo sự sụp đổ tất yếu, sự thay thế giữa chúng với nhau hoặc tuần tự hoặc nhảy vọt một cách biện chứng, theo quy luật. Một cách lịch sử - tự nhiên, cũng như từ chế độ cộng sản nguyên thủy nhân loại bước lên chế độ chiếm hữu nô lệ rồi chế độ phong kiến tới chủ nghĩa tư bản, thì sau hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa ấy phải là một hình thái kinh tế - xã hội mới tiến bộ hơn, đó chính là cộng sản chủ nghĩa, mà giai đoạn đầu là xã hội chủ nghĩa. Đó là một tất yếu lịch sử, hợp quy luật khách quan mà khoa học mácxít đã chỉ ra. (CÒN NỮA)

 

 


Thi đua ái quốc theo tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Thi đua ái quốc theo tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Bổn phận của người dân Việt Nam, bất kỳ sĩ, nông, công, thương, binh; bất kỳ làm việc gì, đều cần phải thi đua nhau: Làm cho mau, làm cho tốt, làm cho nhiều…”. Năm 1948, trong bối cảnh cam go, quyết liệt của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, để khích lệ, động viên toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta tiến hành thắng lợi cuộc kháng chiến trường kỳ, toàn dân, toàn diện, theo sáng kiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày 27/3/1948, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ra Chỉ thị phát động phong trào thi đua ái quốc, trong đó xác định “Mục đích thi đua ái quốc là làm sao cho kháng chiến mau thắng lợi, kiến thiết chóng thành công”.

Ngày 11/6/1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra Lời kêu gọi thi đua ái quốc, phát động phong trào thi đua yêu nước trên toàn quốc và chỉ rõ: “Bổn phận của người dân Việt Nam, bất kỳ sĩ, nông, công, thương, binh; bất kỳ làm việc gì, đều cần phải thi đua nhau: Làm cho mau, làm cho tốt, làm cho nhiều… Thi đua ái quốc sẽ ăn sâu, lan rộng khắp mọi mặt và mọi tầng lớp nhân dân, và sẽ giúp ta dẹp tan mọi nỗi khó khăn và mọi âm mưu của địch để đi đến thắng lợi cuối cùng”.

Lời kêu gọi thi đua ái quốc của Chủ tịch Hồ Chí Minh được truyền đi như lời hiệu triệu, thôi thúc đồng bào và chiến sĩ cả nước đoàn kết một lòng, phát huy ý chí tự lực, tự cường, lòng tự hào, tự tôn dân tộc, vượt qua mọi hy sinh, gian khổ, ra sức thi đua, đóng góp sức người, sức của vào sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và dân tộc, cũng như trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Từ đây, phong trào thi đua yêu nước do Chủ tịch Hồ Chí Minh khởi xướng, phát động và tổ chức thực hiện ngày càng phát triển, gắn liền với lịch sử và thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Ngày 11 tháng 6 hằng năm, ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi thi đua ái quốc trở thành ngày truyền thống thi đua yêu nước ở nước ta.

Tiếp tục phát huy vai trò to lớn của phong trào thi đua yêu nước, sau khi đất nước thống nhất, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, nhất là trong hơn 30 năm tiến hành công cuộc đổi mới, tư tưởng thi đua yêu nước Hồ Chí Minh ngày càng được vận dụng sáng tạo, linh hoạt với nội dung cụ thể, thiết thực, hình thức phong phú trên mọi lĩnh vực, ở các cấp, các ngành, từ Trung ương đến địa phương. Thấm nhuần tư tưởng về thi đua yêu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh, thực hiện lời dạy của Bác: “Thi đua là yêu nước, yêu nước thì phải thi đua và những người thi đua là những người yêu nước nhất”, “Thi đua khen thưởng là động lực và là biện pháp quan trọng để xây dựng con người mới”; “Thi đua là thực hiện tốt công việc hàng ngày”… Hơn 70 năm qua, thực hiện tư tưởng thi đua yêu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh, dưới sự lãnh đạo của Đảng, phong trào thi đua yêu nước ở nước ta đã góp phần to lớn vào công cuộc giải phóng dân tộc, bảo tồn, phục hưng và phát triển đất nước XHCN đồng thời cũng để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý báu cho sự nghiệp công nghiệp hóa- hiện đại hóa và hội nhập quốc tế hiện nay.

Tuy nhiên, chúng ta cũng không quên những “gương mờ” trong phong trào thi đua đã từng được nhắc tới làm ảnh hưởng đến thành tích chung. Đã có thời gian, người ta nhắc nhiều tới “bệnh thành tích”, “hão danh”, thậm chí là “chạy” các hình thức khen thưởng. Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng từng thẳng thắn chỉ ra những hạn chế, khuyết điểm trong phong trào thi đua và công tác khen thưởng. Phong trào thi đua tuy phát triển sâu rộng nhưng chưa toàn diện; nhiều nơi còn mang tính hình thức, chưa gắn kết chặt chẽ với nhiệm vụ chính trị. Việc suy tôn, phong tặng danh hiệu thi đua và hình thức khen thưởng còn có biểu hiện nể nang, dễ dãi, còn để xảy ra tình trạng “chạy thành tích”, “chạy khen thưởng”, “chạy huân chương”; khen thưởng đối với người lao động trực tiếp sản xuất, nông dân, công nhân tuy đã được quan tâm nhưng còn ít. Việc phát hiện, bồi dưỡng, tổng kết và nhân rộng điển hình tiên tiến hiệu quả chưa cao; công tác tuyên truyền thiếu đồng bộ, sinh động, thuyết phục, làm hạn chế động lực phấn đấu của tập thể, cá nhân. Những hạn chế, khuyết điểm đó cần được nghiêm túc rút kinh nghiệm và kịp thời khắc phục.

Để thực hiện tốt công tác thi đua gắn chặt với công tác khen thưởng, nhằm ghi nhận, biểu dương, tôn vinh công trạng và khuyến khích bằng lợi ích vật chất đối với cá nhân, tập thể có thành tích trong phong trào thi đua, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chỉ thị và ngày càng hoàn thiện các chủ trương, chính sách, pháp luật và bộ máy làm công tác thi đua khen thưởng. Ngày 4/3/2008, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành quyết định về việc lấy ngày 11/6 hằng năm là Ngày Thi đua yêu nước. Đây là dịp để đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước gắn với việc triển khai sâu rộng việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay nhằm nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp ủy Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức đoàn thể và Nhân dân đối với công tác tổ chức, vận động và hưởng ứng phong trào thi đua yêu nước trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế.

Thấm nhuần tư tưởng thi đua của Chủ tịch Hồ Chí Minh và thực hiện lời dạy của Người “càng khó khăn, càng phải thi đua”, thi đua - khen thưởng là động lực phát triển, là biện pháp quan trọng để xây dựng con người mới. Thi đua yêu nước phải được tiến hành thường xuyên liên tục hằng ngày, từ đó đòi hỏi chúng ta càng nỗ lực hơn tiếp tục đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước và đổi mới công tác thi đua khen thưởng, tạo sự đồng bộ, nhịp nhàng trong việc tổ chức thực hiện, đồng thời khắc phục những hạn chế, thiếu sót để thi đua thực sự trở thành động lực to lớn của toàn Đảng, toàn dân góp phần thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội theo tinh thần của Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XII đã đề ra./.

 


Đấu tranh, ngăn chặn bệnh khoe mẽ

Đấu tranh, ngăn chặn bệnh khoe mẽ

Khoe mẽ, hiểu nôm na là việc khoe khoang, phô bày vẻ hình thức bề ngoài. Đương nhiên, muốn khoe được thì phải có gì đó để khoe. Ở góc độ tích cực, ý thức và hành động khoe khoang có tác dụng tạo nguồn động lực thúc đẩy việc tự khẳng định mình. “Đẹp đẽ phô ra, xấu xa đậy lại”; “y phục xứng kỳ đức”… những câu dân dã ấy là phương châm sống, ứng xử, tu dưỡng bản thân, và cũng là cách để mỗi cá nhân suy nghĩ khi hòa mình vào tập thể, cộng đồng. Nhận diện bệnh khoe mẽ không quá khó. Từ lâu, cha ông ta đã có nhiều đúc kết sâu sắc để chỉ những người mắc căn bệnh này: “Ăn như rồng cuốn, nói như rồng leo, làm như mèo mửa”; “thùng rỗng kêu to”, “làm ít, xít ra nhiều”…Ngoài xã hội, dễ thấy bệnh khoe mẽ biểu hiện qua những hành vi chơi trội, chơi ngông khoe tiền, khoe của, khoe nhà cửa, ô tô sang; là những phát ngôn, hành vi “không giống ai”… một cách quá mức, thậm chí kệch cỡm. Là cái gắn liền với những gì bộc lộ bên ngoài mỗi người, nên trong cơ quan, đơn vị, không quá khó để nhận biết bệnh khoe mẽ. Nhẹ thì “chỉ tôi là nhất” lăng xăng chỗ này, chỗ kia nhưng khi cấp trên giao việc cụ thể, thì làm gì cũng sai, cũng hỏng. Đó cũng có khi là những người bằng cấp nhiều và sáng choang, nhưng được giao đảm nhận công việc đúng chuyên môn bằng cấp, thì lúng túng như gà mắc tóc, kết quả tạo ra lại đầy tối tăm. Nặng hơn, thì là kiểu tìm mọi cách né trách nhiệm thuộc chức trách của mình thông qua đổ lỗi cho người khác, cho nguyên nhân khách quan; thậm chí “làm láo, báo cáo hay” v.v...

Nhận diện không khó, nhưng suốt quá trình phát triển của Đảng và Nhà nước ta, căn bệnh này vẫn tồn tại và gây tác hại không nhỏ cho các tổ chức, cơ quan, đơn vị. Đã “chỉ có tôi là nhất” - người mắc bệnh này chỉ chăm chăm nghĩ đến mình, tìm cách “đánh bóng” mình chứ không bao giờ coi việc chăm lo xây dựng một tập thể vững mạnh, đoàn kết. Anh ta thường nói rất chung chung (để giấu dốt và tránh va chạm); thậm chí nói “một đằng, làm một nẻo”, còn hành động thì tách rời những sinh hoạt thông thường của cơ quan, đơn vị. Khi "bằng cấp có thật nhưng trình độ không thật" lại cộng thêm bệnh háo danh - đương nhiên người mắc bệnh này phải tìm mọi cách che chắn cho khỏi lộ sự kém cỏi, dốt nát. Hình ảnh dễ thấy là im lặng trong cuộc họp nhưng “nổ” rất kêu ngoài cuộc họp, bất chấp nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng…Sự kém cỏi về tài nhưng mắc bệnh khoe mẽ thường có các cấp độ bệnh: Nhẹ thì né trách nhiệm, không giữ được tư cách tiền phong gương mẫu của người đảng viên. Nặng hơn một chút là tìm cách tập hợp, lôi kéo những người ủng hộ mình để hưởng ứng, tán dương. Nếu trong lòng đầy ắp tham vọng quyền lực, thì chăm chăm thì thụt gặp người này, vận động người kia kết thành phe nhóm; rồi sử dụng các thủ đoạn tung tin sau lưng, “ném đá giấu tay” để vu oan, bôi xấu thủ trưởng mình, nhằm thỏa giấc mơ quyền lực. Cán bộ có chức vụ cao trong đơn vị mà mắc bệnh này, chắc chắn tập thể nơi đó khó mà có được sự bình yên, đoàn kết thật sự vì mục tiêu chung.

Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” viết năm 1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rất rõ 8 căn bệnh do thứ “vi trùng rất độc” là chủ nghĩa cá nhân gây ra đối với mỗi cán bộ, đảng viên. Trong đó, những căn bệnh như bệnh lười biếng, bệnh kiêu ngạo, bệnh hiếu danh, óc lãnh tụ - đều ít nhiều liên quan chặt chẽ tới bệnh khoe mẽ. Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ cũng chỉ đích danh những biểu hiện suy thoái gắn liền với bệnh khoe mẽ: “Né tránh trách nhiệm, thiếu trách nhiệm, làm việc qua loa, đại khái, kém hiệu quả… không làm tròn chức trách, nhiệm vụ được giao” (biểu hiện suy thoái về tư tưởng, chính trị). “Cá nhân chủ nghĩa, sống ích kỷ, thực dụng, cơ hội, vụ lợi; chỉ lo thu vén cá nhân, không quan tâm đến lợi ích tập thể; ganh ghét, đố kỵ, so bì, tị nạnh, không muốn người khác hơn mình… Mắc bệnh "thành tích", háo danh, phô trương, che giấu khuyết điểm, thổi phồng thành tích, "đánh bóng" tên tuổi; thích được đề cao, ca ngợi” (biểu hiện về suy thoái đạo đức, lối sống). Những đảng viên mắc bệnh khoe mẽ và suy thoái như vậy, nếu được đưa vào làm lãnh đạo cơ quan, đơn vị, rõ ràng chỉ hại nhiều hơn lợi. Bởi thế, ngày 26-4-2020, trong bài viết của mình về công tác chuẩn bị nhân sự Đại hội XIII của Đảng, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã lưu ý tới yêu cầu phải trong sáng, công tâm, khách quan, đặc biệt là phải rất tỉnh táo, tinh tường trong lựa chọn cán bộ: “Đừng thấy đỏ tưởng là chín", đừng chỉ thấy "cái mã bên ngoài, nó che đậy cái sơ sài bên trong". Là con người, đương nhiên ai cũng có khiếm khuyết ít, nhiều. Cán bộ, đảng viên cũng không ngoài quy luật chung này. Song cán bộ, đảng viên khác với người thường ở chỗ phải luôn tu dưỡng nhằm hoàn thiện bản thân, luôn nêu cao vai trò tiền phong, đạo đức gương mẫu. Muốn vậy, phải luôn soi mình trước lý tưởng cao đẹp của Đảng Cộng sản Việt Nam và dũng cảm nhìn thẳng vào hạn chế của mình để khắc phục, sửa chữa. Chữa trị và đẩy lùi căn bệnh khoe mẽ, háo danh cũng trên nguyên lý này. “Liều thuốc” đặc trị lâu dài không gì khác là luôn công khai, dân chủ và giữ vững các nguyên tắc của Đảng về công tác cán bộ; từ đó chọn lựa ra những cán bộ lãnh đạo là người có bản lĩnh chính trị vững vàng, có nhiệt huyết, làm việc có hiệu quả, có "sản phẩm" cụ thể, rõ rệt; dám nghĩ, dám nói, dám làm và dám chịu trách nhiệm.

 


CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI




Sự nghiệp đổi mới đất nước do Đảng ta lãnh đạo đã giành được những thành quả to lớn. Thời kỳ đầu đổi mới, công tác tư tưởng luôn đứng trước những vấn đề gay gắt. Song, công tác tư tưởng và những người làm công tác tư tưởng đã cùng toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta từng bước tháo gỡ những khó khăn trong tư duy lý luận rồi đến những vận dụng thực tiễn. Nhờ vậy công tác tư tưởng đã góp phần quan trọng vào thành quả của sự nghiệp đổi mới.

NẠN ĐÓI NĂM 1945...SẢN PHẨM CỦA CHẾ ĐỘ PHONG KIẾN, SẢN PHẨM CỦA THỰC DÂN, PHÁT XÍT DÀNH CHO ĐẤT NƯỚC TA. LÀ SỰ THẬT ĐAU LÒNG CỦA MỘT ĐẤT NƯỚC MẤT ĐỘC LẬP, TỰ CHỦ, TỰ DO, MẤT QUYỀN CON NGƯỜI...


Công trình nghiên cứu về nạn đói năm 1945 của GS Văn Tạo, nguyên Viện trưởng Viện Sử học Việt Nam và GS Furuta Moto (người Nhật) chỉ rõ: chính sách vơ vét thóc gạo của phát xít Nhật và thực dân Pháp lúc bấy giờ cùng với thiên tai, mất mùa ở nhiều tỉnh đồng bằng Bắc Bộ là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến thảm cảnh trên.
Tháng 10/1940, khi đặt chân đến Đông Dương, Nhật thi hành hàng loạt chính sách đánh vào nền kinh tế: buộc thực dân Pháp phải ký kết nhiều hiệp ước yêu cầu cung cấp lương thực, giao nộp lúa, gạo cho Nhật hàng năm; cấm vận chuyển lương thực từ Nam ra Bắc, hạn chế chuyên chở tự do, chỉ cho chở dưới 50 cân gạo trong một tỉnh; bắt người dân nhổ lúa trồng đay, dành ruộng trồng lạc.
Trong khi Nhật vơ vét cho chiến tranh thì Pháp dự trữ lương thực phòng khi quân Đồng minh chưa tới,phải đánh Nhật hoặc dùng cho cuộc tái xâm lược Việt Nam. Thuế đinh, thuế điền, tô tức trở thành những chiếc thòng lọng buộc vào cổ nông dân.
Năm 1944, Việt Nam bị mất mùa nhưng Pháp và chính quyền phong kiến vẫn phải cung cấp cho Nhật hơn 900.000 tấn gạo để nuôi chiến tranh phát xít và làm nguyên liệu để người Pháp nấu rượu, cùng thóc dùng đốt lò thay cho than đá. Hàng chục nghìn mẫu ngô bị phá, hàng triệu tấn thóc bị thu nộp. Theo thống kê, năm 1940, diện tích trồng đay là 5.000 ha nhưng đến năm 1944 đã tăng lên 45.000 ha.
Nhật cấm vận chuyển lúa từ miền Nam ra, vơ vét thóc ở miền Bắc khiến giá thóc, gạo tăng vọt.Năm 1943, một tạ gạo giá chính thức là 31 đồng, giá chợ đen là 57 đồng; năm 1944 tăng lên 40 đồng, giá chợ đen là 350 đồng, nhưng đến đầu năm 1945 thì giá chính thức vọt lên 53 đồng còn giá chợ đen từ 700-800 đồng. Giá gạo “phi nước đại” khiến người dân không đủ sức mua, phải chịu cảnh chết đói.
Tháng 9/1944, lụt vỡ đê La Giang (Hà Tĩnh), đê sông Cả (Nghệ An) làm cho nạn đói diễn ra trầm trọng hơn.Theo những người dân trải qua nạn đói khủng khiếp ở Tây Lương (Tiền Hải, Thái Bình) thì vụ mùa năm 1944, lúa trên các cánh đồng rộng hàng trăm mẫu đều bị “rù” (rầy phá hoại), chết trắng, chết vàng. Cả mẫu ruộng không thu nổi vài chục cân thóc mẩy.
Nạn đói đã diễn ra ở 32 tỉnh miền Bắc và Bắc Trung Bộ, từ Quảng Trị trở ra. Trọng điểm là các tỉnh đồng bằng, nơi dân số tập trung đông, có nhiều ruộng, như Thái Bình, Nam Định, Hải Phòng, Thanh Hóa. Cái đói không buông tha ai, trọng tâm là những người dân nghèo, người lao động, đặc biệt là nông dân không có ruộng đất chuyên đi làm thuê và nông dân ít ruộng đất.
Để chống lại cái đói, cái chết cận kề, người dân ăn từ rau dại, đến củ chuối, vỏ cây, giết cả trâu bò, chó mèo; dân chài thì ăn củ nâu, cá chết. Khi không còn gì ăn thì họ ngồi chờ chết, để người nhà mang đi chôn hoặc chết ở bờ bụi khi đi kiếm ăn. Cái chết đến từ từ, thảm khốc, dày vò cả thể xác lẫn tinh thần. Cái đói khiến cha bỏ con, chồng bỏ vợ, tình người đứt đoạn, đi xin ăn không được thì cướp giật. Ở các vùng quê, hàng nghìn hộ gia đình chết cả nhà, nhiều dòng họ chỉ một vài người sống sót.
Tháng 3/1945, nạn đói lên đến đỉnh điểm. Lũ lượt người ngược, kẻ xuôi chạy đói đến các thành phố lớn, họ bán cơ nghiệp để lấy tiền đi đường. Người dân Hà Nội khi ấy đã phát động Ngày cứu đói, lập trại tế bần phát cháo. Người sắp chết thì được đưa về trại Giáp Bát, còn người chết đói thì xác chất đầy xe bò đem đi “hất xuống hố như hất rác” tại nghĩa trang Hợp Thiện (Hai Bà Trưng).
Mục sư Lê Văn Thái, nguyên Hội trưởng Hội thánh Tin lành Việt Nam thời kỳ 1942-1960 viết lại: “Tôi thường nghe tiếng rên xiết của những người sắp chết, thấy những đống thịt quằn quại gần những xác chết, nơi này 5-3 xác chết, chỗ khác từng đống người sống nằm lẫn với người chết. Trên những đoàn xe bò đầy những xác chết, mỗi xe chỉ phủ một chiếc chiếu, trong những cái hầm mấy trăm xác chết mới lấp một lần. Một vài lá cải thối trong đống rác, một vài hột cơm đổ bên cạnh vò nước gạo thì họ kéo nhau từng lũ đến tranh cướp”.
“Họ đi thành rặng dài bất tuyệt gồm cả gia đình, già lão có, trẻ con có, đàn ông có, đàn bà có, người nào người nấy rúm người dưới sự nghèo khổ, toàn thân lõa lồ, gầy guộc, giơ xương ra và run rẩy. Ngay cả đến những thiếu nữ tuổi dậy thì, đáng lẽ hết sức e thẹn cũng thế. Thỉnh thoảng họ dừng lại để vuốt mắt cho một người trong bọn họ đã ngã và không bao giờ dậy được nữa, hay để lột miếng giẻ rách không biết gọi là gì cho đúng hãy còn che thân người đó”, tác giả Vespy viết trong một bức thư vào tháng 4/1945.
Giữa lúc nạn đói lên đến đỉnh điểm thì ngày 9/3/1945, Nhật đảo chính Pháp. Mặt trận Việt Minh phát động nhân dân phá hàng trăm kho thóc của Nhật để cứu đói. Phong trào diễn ra sôi nổi khắp nơi khiến nạn đói phần nào được đẩy lui. Nông dân bắt đầu trở về quê tiếp tục sản xuất. Đến vụ chiêm (tháng 6) có gạo mới, mức sống thay đổi đột ngột lại khiến nhiều người chết vì ăn quá no. Môi trường bị ô nhiễm nặng bởi xác chết không được xử lý và trải qua cơn đói lâu dài kéo theo dịch tả và dịch sốt vàng da lại giết thêm nhiều người ở Bắc Giang, Cao Bằng.
Nhiều làng xã chết 50-80% dân số, nhiều gia đình, dòng họ chết không còn ai.. Làng Sơn Thọ, xã Thụy Anh (Thái Thụy, Thái Bình) có hơn 1.000 người thì chết đói mất 956 người. Chỉ trong 5 tháng, số người chết đói toàn tỉnh lên đến 280.000 người, chiếm 25% dân số Thái Bình khi đó. Lịch sử đảng bộ Hà Sơn Bình cũ ghi rõ: “Trong nạn đói năm 1945, khoảng 8 vạn người (gần 10% dân số trong tỉnh) chết đói, nhiều nơi xóm làng xơ xác tiêu điều, nhất là ở những nơi nghề thủ công bị đình đốn. Làng La Cả (Hoài Đức) số người chết đói hơn 2.000/4.800 dân, có 147 gia đình chết không còn một ai. Làng La Khê (Hoài Đức) có 2.100 người thì 1.200 người chết đói, bằng 57% số dân”.
Tháng 5/1945, bảy tháng sau khi nạn đói bùng nổ tại miền Bắc, tòa khâm sai tại Hà Nội lệnh cho các tỉnh miền Bắc phúc trình về tổn thất. Có 20 tỉnh báo cáo số người chết vì đói và chết bệnh là 400.000, chỉ tính miền Bắc. Số liệu nghiên cứu trong cuốn Nạn đói năm 1945 ở Việt Nam – Những chứng tích lịch sử của GS Văn Tạo thống kê: “Riêng tỉnh Thái Bình, nơi nạn đói diễn ra trầm trọng nhất, đã được Ban lịch sử tỉnh điều tra, con số tương đối sát thực tế là cả tỉnh chết đói mất 280.000 người. Chỉ tính số người chết đói ở Thái Bình cùng với Nam Định hơn 210.000 người, Ninh Bình 38.000, Hà Nam chết 50.000 thì số người chết đói đã lên đến hơn 580.000. Như vậy, con số 2 triệu người Việt Nam chết đói trong 32 tỉnh cũ tính từ Quảng Trị trở ra và hai thành phố lớn Hà Nội, Hải Phòng là gần với sự thực”.
So sánh nạn đói năm 1945 ở Việt Nam với tổn thất của các cuộc chiến tranh Pháp – Đức, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Nạn đói nguy hiểm hơn nạn chiến tranh. Thí dụ trong 6 năm chiến tranh, nước Pháp chết một triệu người, nước Đức chết chừng 3 triệu. Thế mà nạn đói nửa năm ở Bắc Bộ, ta đã chết hơn 2 triệu người”.
Hơn 70 năm trôi qua, những chứng tích lịch sử về nạn đói năm xưa không còn nhiều, ngoài những nấm mồ tập thể sâu dưới lòng đất lạnh. Những nhân chứng từng đi qua tai họa lịch sử ấy thì ghi nhớ nỗi đau thương sâu trong tâm, mỗi lần nhắc đến chỉ biết rưng rưng nước mắt
ST