Thứ Hai, 14 tháng 9, 2020

Bài học Đại đoàn kết từ Cách mạng Tháng Tám

 

Tháng Tám mùa Thu lịch sử cách đây 75 năm, dưới sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, cả dân tộc Việt Nam, không phân biệt giàu nghèo, nam, nữ, già trẻ, dân tộc, tôn giáo, triệu người như một, nhất tề vùng lên tiến hành cuộc Tổng khởi nghĩa đập tan ách thống trị của thực dân, phong kiến giành chính quyền về tay nhân dân.

Với thắng lợi vĩ đại của của cách mạng Tháng Tám-1945, Việt Nam không chỉ là nước đi tiên phong trong phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc trến thế giới, mà còn mở ra kỷ nguyên mới cho dân tộc Việt Nam-kỷ nguyên độc lập, tự do và tiến lên CNXH ở một nước thuộc địa, nửa phong kiến.

Thời gian xa dần, nhưng chúng ta vẫn nhìn rõ tầm vóc vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Cách mạng Tháng Tám lật đổ nền quân chủ mấy mươi thế kỷ, đã đánh tan xiềng xích thực dân gần 100 năm, đã đưa chính quyền lại cho nhân dân, đã xây dựng nền tảng cho nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, độc lập tự do, hạnh phúc. Đó là một cuộc thay đổi cực kỳ to lớn trong lịch sử của nước ta”. Thành quả lớn nhất của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là đã xây dựng Nhà nước cách mạng kiểu mới ở Việt Nam, với đặc trưng nổi bật của Nhà nước cách mạng kiểu mới đó là Nhà nước dân chủ, Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Thắng lợi của cách mạng tháng Tám là biểu tượng tuyệt vời của sức mạnh Việt Nam… sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc của ý chí bản lĩnh và trí tuệ con người Việt Nam, kết tinh truyền thống kiên cường, bất khuất của hàng nghìn năm giữ nước .

 75 năm trôi qua, những bài học quý báu của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 vẫn còn nguyên giá trị trong công cuộc xây dựng, phát triển đất nước. Đặc biệt là bài học về công tác tư tưởng của Đảng tạo nên sự thống nhất nhận thức và hành động của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, trên cơ sở một đường lối chính trị đúng đắn và tinh thần tự lực, tự cường, độc lập, tự chủ và sáng tạo. Bài học của thành công chính là ở chỗ Đảng tạo được niềm tin tuyệt đối vào lý tưởng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, mọi đảng viên đều tạo được niềm tin về sự hy sinh, đạo đức trong sáng của mình đối với quần chúng, không có niềm tin đó thì cách mạng không thể thành công. Cùng với đó là bài học về dự báo và tận dụng thời cơ. Đảng ta đã thấu triệt bài học đó và đặc biệt, đã vận dụng thành công trong những giai đoạn lịch sử không thể nào quên của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, cũng như trong thời kỳ xây dựng và phát triển đất nước.

Nhất là, sau 35 năm đổi mới, bài học phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc đã đưa thế và lực của đất nước, sức mạnh tổng hợp quốc gia, uy tín quốc tế của đất nước ngày càng được nâng cao, tạo ra những tiền đề quan trọng để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, bài học phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vẫn còn nguyên giá trị. Để tạo động lực và bảo đảm tăng cường sức mạnh khối đại đoàn kết dân tộc, trước hết phải tiếp tục đẩy mạnh đường lối đổi mới và hội nhập quốc tế; thực hành dân chủ rộng rãi gắn với tăng cường kỷ cương; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại; nêu cao ý chí độc lập, tự chủ, chủ động, tích cực hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, phát huy cao độ nội lực, tranh thủ ngoại lực, trong đó nguồn lực nội sinh, nhất là nguồn lực con người là quan trọng nhất.

Thứ hai, tiếp tục phát triển nhanh và bền vững đất nước; gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, trong đó phát triển kinh tế xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt.

Thứ ba, khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, khát vọng phát triển và sức mạnh đại đoàn kết dân tộc; phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và của nền văn hóa, con người Việt Nam; bồi dưỡng sức dân; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, thu hút trọng dụng nhân tài, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, ứng dụng mạnh mẽ khoa học công nghệ, nhất là những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, tạo động lực mới cho phát triển nhanh và bền vững đất nước.

Thứ tư, qua bức tranh toàn cảnh tình hình thế giới và trong nước có cả thuận lợi, thời cơ và khó khăn, thách thức đan xen, đặt ra nhiều vấn đề mới, yêu cầu mới nặng nề, phức tạp hơn đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đặc biệt là những thách thức về bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ. Trước tình hình đó, đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục nâng cao chất lượng hiệu quả hoạt động đối ngoại, hội nhập quốc tế, tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh, kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, biển đảo; giữ vững môi trường hòa bình ổn định để phát triển đất nước.

Thứ năm, hiện nay vị thế của nước ta cả về chính trị - an ninh lẫn kinh tế có nhiều thuận lợi, thậm chí cả trong công cuộc chống dịch bệnh COVID-19, nhiều nước trên thế giới, kể cả các nước lớn, đều coi trọng vai trò và vị thế của Việt Nam. Bởi vậy, chúng ta phải vận dụng và coi trọng vai trò và vị thế mà chúng ta đã có.

Bác Hồ đã từng khẳng định “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”. Bài học về sức mạnh đại đoàn kết dân tộc vĩ đại đó sau 75 năm bắt nguồn từ cách mạng tháng Tám, đến hai cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc vẫn còn nguyên giá trị.

Bài học sức mạnh dân tộc, sức mạnh toàn dân đặt vào niềm tin sự lãnh đạo có ý nghĩa quan trọng trong thời điểm hiện nay, khi toàn Đảng toàn dân, toàn quân ta đang chào mừng Đại hội Đảng cấp, chuẩn bị tiến hành đại hội Đảng XIII của Đảng. Cách mạng tháng Tám là sự mở đầu tốt đẹp, tiến trình lịch sử dân tộc phải không ngừng được bồi đắp mới là sự nối tiếp xứng đáng của Cách mạng tháng Tám vĩ đại.

Nguồn: ST

'Tự diễn biến', 'tự chuyển hóa' - hệ quả của bản lĩnh chính trị không vững vàng

 

Thực tế đã chứng minh bản lĩnh chính trị của đội ngũ cán bộ, đảng viên là một trong những nhân tố có ý nghĩa quyết định đến thành bại của mỗi Đảng nói chung và Đảng Cộng sản Việt Nam nói riêng.

BẢN LĨNH CHÍNH TRỊ PHẢI THỰC SỰ VỮNG VÀNG

Theo Đại Từ điển tiếng Việt, bản lĩnh là khả năng và ý chí kiên định của con người trước mọi hoàn cảnh. Đối với mỗi cán bộ, đảng viên bản lĩnh chính trị là tố chất không thể thiếu, mang tính quyết định tạo nên sự kiên định, khả năng độc lập, tự chủ trong hành động.

Bản lĩnh chính trị của người cán bộ, đảng viên được cấu thành và chịu tác động bởi nhiều yếu tố, như: trình độ lý luận chính trị; quan điểm, lập trường chính trị; phẩm chất chính trị; năng lực chính trị; dũng khí chính trị… Bởi vậy, để bản lĩnh chính trị thực sự vững vàng, đạt đến trình độ cao, có khả năng tự quyết định một cách độc lập, sáng tạo, làm chủ hành vi chính trị của bản thân, người cán bộ, đảng viên phải trải qua quá trình rèn luyện, tu dưỡng, phấn đấu thường xuyên, kiên trì và bền bỉ.

Trước những bước ngoặt hay những tình huống nhạy cảm, phức tạp về chính trị, cán bộ, đảng viên có bản lĩnh chính trị vững vàng sẽ không nao núng, không chao đảo, ngả nghiêng mà luôn giữ vững lập trường, làm chủ tư duy của bản thân, có những quyết định chính xác để thực hiện tốt nhất nhiệm vụ được giao. Thực tế đã chứng minh bản lĩnh chính trị của đội ngũ cán bộ, đảng viên là một trong những nhân tố có ý nghĩa quyết định đến thành bại của mỗi Đảng nói chung và Đảng Cộng sản Việt Nam nói riêng. Ý thức rõ về điều đó nên trong nhiều văn kiện, đặc biệt Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng nhấn mạnh nhiệm vụ: “Nâng cao bản lĩnh chính trị, trí tuệ, tính chiến đấu của toàn Đảng và của mỗi cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp; không dao động trước bất kỳ tình huống nào”(1).

Thực tiễn đã khẳng định, trong suốt hành trình hơn 90 năm xây dựng, chiến đấu, trưởng thành và lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn giữ vững bản lĩnh chính trị, bản chất cách mạng và khoa học; kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn và ngày càng lớn mạnh. Sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng là nhân tố quyết định đưa đất nước ta, nhân dân ta tiến lên giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác, lập nên những kỳ tích lịch sử trong thế kỷ XX và 20 năm đầu thế kỷ XXI.

Trước những tác động tiêu cực từ mặt trái của cơ chế thị trường, mở cửa hội nhập và âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, về cơ bản toàn Đảng, toàn dân ta có sức “đề kháng” tốt, bản lĩnh chính trị luôn vững vàng, nhận thức đúng về bản chất cách mạng, khoa học và kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tích cực, chủ động tham gia vào cuộc đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, làm thất mọi bại âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” hòng chống phá cách mạng Việt Nam.

Tuy nhiên, chúng ta phải thẳng thắn nhìn nhận, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta vấp phải không ít hạn chế, khuyết điểm, đặc biệt là trong công tác xây dựng Đảng… Trước những tác động tiêu cực, một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên đã nao núng, chao đảo, ngả nghiêng, thậm chí thay đổi hẳn về quan điểm, tư tưởng lập trường. Do không làm chủ bản thân nên không ít cán bộ, đảng viên đã có những quyết định, hành động sai trái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.

Chỉ tính từ đầu nhiệm kỳ đến nay, Đảng ta đã thi hành kỷ luật hơn 100 cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý. Số ít cán bộ, đảng viên, trong đó có người từng giữ những chức vụ quan trọng của Đảng và Nhà nước, một thời được trọng dụng nay “trở cờ” quay lưng với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân.

Điển hình phải nhắc tới là trường hợp Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Đình Cống. Khi còn công tác vị giáo sư này luôn phấn đấu vì mục tiêu lý tưởng của Đảng và trở thành Nhà giáo Nhân dân, một chuyên gia đầu ngành đóng góp nhiều công sức cho công tác nghiên cứu khoa học và đào tạo trong lĩnh vực xây dựng. Nhưng do bản lĩnh chính trị thiếu vững vàng mà sau khi nghỉ hưu, thay vì đóng góp một phần nào công sức, trí tuệ vào sự nghiệp giáo dục - đào tạo, là tấm gương sáng để con cháu noi theo, chỉ vì những ích kỷ cá nhân, lại thêm bị kẻ xấu kích động, lôi kéo, ông đã lên mạng xã hội tuyên bố rời bỏ Đảng, sau nữa là liên tục viết bài tuyên truyền xuyên tạc chống phá Đảng, Nhà nước… Tương tự là trường hợp ông Chu Hảo, nguyên Thứ trưởng Bộ Khoa học - Công nghệ. Sau khi nghỉ hưu, ông Chu Hảo chuyển sang công tác ở Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam với cương vị là Tổng Biên tập, Giám đốc Nhà xuất bản Tri thức. Là một đảng viên lâu năm, gia đình có truyền thống cách mạng, từng giữ nhiều chức vụ quan trọng của Đảng và Nhà nước nhưng ông Chu Hảo đã có những vi phạm rất nghiêm trọng. Ngoài cho xuất bản 5 cuốn sách có nội dung sai phạm về chính trị tư tưởng, trái quan điểm, chủ trương đường lối của Đảng, cơ quan chức năng đã thẩm định, kết luận và xử lý cấm phát hành, qua báo chí, mạng xã hội và thực tiễn ông Chu Hảo còn nói, viết và làm trái với Cương lĩnh chính trị, Điều lệ, Nghị quyết, chỉ thị của Đảng và pháp luật của Nhà nước.v.v.

Tuy tính chất, mức độ ở từng vụ việc, ở từng đối tượng khác nhau nhưng nguyên nhân cơ bản, chủ quan, lớn nhất khiến một bộ phận cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là do bản lĩnh chính trị không vững vàng. Bản thân từng đồng chí thiếu tu dưỡng, rèn luyện nên đã dẫn đến nói, viết và làm trái quan điểm, đường lối của Đảng. Đứng trước các vấn đề, nhất là những vấn đề nhạy cảm, phức tạp trong đời sống xã hội, họ đã thiếu kiên định, thiếu sáng suốt, lựa chọn sai đường hướng, phương pháp tư duy dẫn tới sai lầm trong hành động và “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Hay nói một cách khác, thoái hóa, biến chất, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là hệ quả tất yếu của bản lĩnh chính trị không vững vàng. Vấn đề này cũng đã được Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII chỉ ra là: “Do bản thân những cán bộ, đảng viên đó thiếu tu dưỡng, rèn luyện; lập trường tư tưởng không vững vàng, hoang mang, dao động trước những tác động từ bên ngoài;…” .

PHẢI THƯỜNG XUYÊN NÊU CAO Ý THỨC RÈN LUYỆN, TU DƯỠNG

Trong bối cảnh hiện nay, có rất nhiều yếu tố tác động, ảnh hưởng đến bản lĩnh chính trị của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Đáng chú ý là từ mặt trái của cơ chế thị trường, tác động xấu từ các quan điểm sai trái, từ sự kích động, lôi kéo, móc nối của các thế lực thù địch. Đúng như nhận định của Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII: “Các thế lực thù địch, phản động đẩy mạnh thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, lợi dụng các vấn đề dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo và những yếu kém, sơ hở, mất cảnh giác của ta để xuyên tạc, bóp méo tình hình; cổ xúy cho lối sống hưởng thụ, thực dụng, ích kỷ, cá nhân chủ nghĩa”. Đồng thời, chúng còn “cấu kết với các phần tử cơ hội và bất mãn chính trị hoạt động ráo riết, chống phá cách mạng ngày càng tinh vi, nguy hiểm hơn”. Đặc biệt, chúng tìm mọi phương kế tuyên truyền xuyên tạc, phủ nhận mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH; phủ nhận bản chất cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; gieo rắc vào cán bộ, đảng viên tư tưởng hoài nghi về mục tiêu lý tưởng, con đường đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn.

Bài học đắt giá rút ra từ thực trạng như đã nêu trên là mọi cán bộ, đảng viên dù đảm nhiệm công việc gì, trên cương vị nào, trọng trách gì cũng phải thường xuyên nêu cao ý thức rèn luyện, tu dưỡng. Chỉ có thông qua tự rèn luyện, tu dưỡng phấn đấu mỗi cán bộ, đảng viên mới không ngừng bồi đắp nâng cao bản lĩnh chính trị, tăng cường “sức đề kháng”, khả năng “miễn dịch” cho bản thân trước mọi tác động tiêu cực từ bên ngoài.

Bản lĩnh chính trị vững vàng là một phẩm chất quyết định sự sống còn và thành công của mỗi cán bộ, đảng viên cũng như của toàn Đảng.

Để không thoái hóa, biến chất, không “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” cán bộ, đảng viên phải có bản lĩnh chính trị thật sự kiên định, vững vàng. Dưới góc nhìn chính trị tư tưởng, sự vững vàng về bản lĩnh, ý chí, niềm tin có vai trò rất quan trọng quyết định “sức đề kháng”, khả năng “miễn dịch” của mỗi cán bộ, đảng viên. Bản lĩnh chính trị vững vàng là một phẩm chất quyết định sự sống còn và thành công của mỗi cán bộ, đảng viên cũng như của toàn Đảng. Bản lĩnh chính trị không phải tự nhiên mà có, không phải có được trong một sớm một chiều, mà đó là sản phẩm của quá trình giáo dục, bồi dưỡng, học tập, nghiên cứu, rèn luyện thường xuyên, kiên trì và bền bỉ. Những tác động xấu từ mặt trái của xã hội, từ các quan điểm sai trái, thù địch, nhất là trên không gian mạng là không hề nhỏ. Hằng ngày, hằng giờ những tư tưởng, quan điểm sai trái, những yếu tố tiêu cực len lỏi vào mọi ngõ ngách của đời sống xã hội, tác động đến mọi đối tượng. Để hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực đến bản lĩnh chính trị đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên và toàn Đảng ta phải có những giải pháp đồng bộ, thống nhất và quyết liệt.

Một trong những giải pháp quan trọng hàng đầu đó là phải coi trọng đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác giáo dục chính trị tư tưởng. Đây là nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài nhằm củng cố và tăng cường bản lĩnh chính trị trong Đảng, bồi đắp lý tưởng cách mạng, củng cố niềm tin khoa học, tạo sự thống nhất cao cả về ý chí và hành động trong toàn Đảng để thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ chính trị của đất nước trong từng giai đoạn. Quan trọng là vậy nhưng trên thực tế thời gian qua không ít cấp ủy, cán bộ lãnh đạo các cấp nhận thức chưa đúng, chưa thống nhất, nên chưa thấy hết trách nhiệm của mình với công tác giáo dục chính trị tư tưởng. Do đó, muốn đổi mới, nâng cao chất lượng công tác giáo dục chính trị tư tưởng thì trước tiên phải đổi mới nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên về vai trò, vị trí của công tác này. Trên cơ sở thống nhất nhận thức, mỗi tổ chức đảng và từng cán bộ, đảng viên cần xác định đây là trách nhiệm chính trị của mình.

Mặt khác, việc tiến hành công tác giáo dục chính trị tư tưởng, duy trì chế độ học tập, sinh hoạt chính trị ở không ít địa phương, cơ sở lâu nay vẫn nặng về hình thức. Vấn đề đặt ra đối với mỗi tổ chức Đảng hiện nay là phải đổi mới mạnh mẽ về phương pháp tiến hành công tác giáo dục chính trị tư tưởng theo hướng phù hợp với từng đối tượng, phù hợp môi trường, điều kiện công tác của cán bộ, đảng viên, có chiều sâu, khoa học và hiệu quả thiết thực. Công tác giáo dục chính trị tư tưởng, công tác tuyên truyền phải tập trung làm cho mọi cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp hiểu rõ bản chất cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo trong đường lối lãnh đạo của Đảng ta.

Hiệu quả công tác giáo dục chính trị tư tưởng được thể hiện tập trung ở chất lượng xây dựng và tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng. Công tác giáo dục chính trị tư tưởng của Đảng phải tập trung cao độ vào xây dựng ý thức, niềm tin và cổ vũ, khích lệ ý chí, quyết tâm của cán bộ, đảng viên và nhân dân để đưa nghị quyết của Đảng đi vào cuộc sống. Hiệu quả thực hiện nghị quyết của Đảng trên thực tế đó chính là thước đo bản lĩnh chính trị của đội ngũ cán bộ, đảng viên và toàn Đảng. Cơ sở nền tảng cho sự vững vàng bản lĩnh chính trị của đội ngũ cán bộ, đảng viên là sự kết hợp giữa trình độ lý luận, trình độ chuyên môn nghiệp vụ với kinh nghiệm rút ra từ hoạt động thực tiễn. Để có bản lĩnh chính trị thực sự vững vàng, từng cán bộ, đảng viên vừa phải tích cực học tập, nghiên cứu nâng cao trình độ lý luận, chuyên môn nghiệp vụ, vừa phải lăn lộn vào phong trào hành động cách mạng để thử lửa, tôi luyện, tu dưỡng, phấn đấu. Không chỉ có khả năng và “sức đề kháng” tốt, trên cơ sở bản lĩnh chính trị vững vàng, mỗi cán bộ, đảng viên cần phải chủ động, tích cực tham gia đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, góp phần làm thất bại âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong thời kỳ mới./.

_________________________

(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, H, 2016, tr.199.

Theo Phùng Kim Lân/Tạp chí Tuyên giáo

 

VIỆT NAM LÀ QUỐC GIA ĐÁNG SỐNG NHẤT THẾ GIỚI


Hiện nay, trên báo Mỹ có đưa tin dư luận thế giới đánh giá Việt Nam là một trong 30 quốc gia đáng sống nhất.

Họ bảo, Việt Nam có nhiều cái mạnh rất đáng quý, như an ninh thuộc vào loại tốt hàng đầu. Điều đó thực tế cho thấy đúng là như vậy. Việt Nam là nước coi trọng an ninh quốc gia, an ninh xã hội, không cho phép và không dung túng bất cứ ai làm trái pháp luật, xâm phạm tự do của người khác, gây rối trật tự xã hội, nói xấu nước khác, sắc tộc khác.

Họ khen người Việt Nam thân thiện, hào hiệp, cởi mở. Đó là bản chất của người Việt Nam rồi. Nếu đi sâu hơn, bạn sẽ thấy tính hào hiệp của người Việt Nam còn đẹp hơn những gì bạn đã biết. Bạn có tin không, một chị nông dân ở Hà Tĩnh tham gia bắn máy bay thời kháng chiến chống Mỹ, có lần bắt được một phi công Mỹ. Nhà chị chỉ nuôi được một con gà thôi. Nhưng nghe bảo tụi Mỹ không quen ăn cực nên chị đã làm thịt con gà đem cho thằng giặc lái Mỹ ăn.

Sau chiến tranh, một đoàn sĩ quan Mỹ sang Việt Nam thăm lại chiến trường cũ ở Long An. Vì nơi đó ngày trước có một đêm Quân Giải phóng đã diệt một bãi xe tăng Mỹ một cách chớp nhoáng. Ngày đó, bộ đội ta và cả nhân dân hi sinh cũng không ít. Cho nên, hôm đoàn đến thì nhiều gia đình ở xung quanh địa điểm trên đang làm “giỗ hội”, tức là giỗ nhiều người cùng một lúc. Anh Sáu Khâm, sư đoàn trưởng sư 9 ngày trước, dẫn đoàn đi. Gặp đoàn, bà con niềm nở chào đón như bạn bè, không có vẻ gì thù oán cả, lại còn vui vẻ mời đoàn ở lại “ăn” giỗ. Anh Sáu Khâm cảm ơn và từ chối, vì trưa rồi, nắng lên, sợ bạn mệt. Đoàn ra đi được một đoạn thì thấy đàng sau có nhiều người dân hối hả chạy theo. Tưởng gì, hóa ra họ đem bánh trái tới tặng đoàn. Nhiều người Mỹ trong đoàn ứa nước mắt.

Thế giới lại khen giá sinh hoạt ở Việt Nam rẻ, thức ăn ngon. Người nước ngoài làm việc ở Việt Nam cảm thấy rất thoải mái, lương cao mà tốn kém ít, nên họ dành dụm được nhiều.

Họ còn khen Việt Nam là nước có nền văn hóa phong phú, rất hấp dẫn. Đi xem các lễ hội Việt Nam rất vui và hiểu biết được nhiều điều.

Họ lại khen người dân Việt Nam rất đoàn kết, trên dưới một lòng, cả nước đồng lòng, cho nên trước mọi biến cố, Việt Nam đều vượt qua. Cụ thể như hiện nay, qua trận đại dịch Covid-19, Việt Nam đứng hàng đầu thế giới về khả năng chống dịch. Chẳng những thế, người Việt Nam còn tỏ ra hào hiệp khi cưu mang nhau vượt qua khó khăn, giúp đỡ các nước bằng các phương tiện y tế của chính mình làm ra, cứu chữa tận tình cho bệnh nhân người nước ngoài bị bệnh ở Việt Nam, khiến họ rất cảm động.

Chúng ta rất mừng vì Đất nước được người ta ngợi khen như thế. Dĩ nhiên, chúng ta không thể tự mãn, mà còn phải cố gắng thật nhiều để cho Đất nước ngày càng hoàn hảo hơn, người Việt Nam ngày càng được bạn bè yêu mến sâu sắc hơn. Rất tiếc, hiện nay lại có một nhóm người Việt Nam lạc lõng, họ siêng nói xấu Đất nước quá, nhất là nói xấu vô căn cứ. Nhìn thiên hạ khen ngợi Việt Nam, không biết họ có thấy ngượng không?

Ở đời, tệ nhất là chửi cha, mắng mẹ. Nhưng bôi nhọ Đất nước mình, xúc phạm nhân dân mình thì còn tệ hơn gấp trăm lần. Người tử tế không ai làm như thế.

Hoàng Xuân Huy

ĐOÀN KẾT THỐNG NHẤT LÀ SỨC MẠNH CỦA ĐẢNG

    Ngay từ khi mới thành lập cũng như trong các thời kỳ khác nhau của cách mạng, sự đoàn kết, thống nhất là vấn đề sống còn của cách mạng, là cơ sở để thống nhất giai cấp, là điều kiện để thống nhất toàn dân và đưa cách mạng đến thắng lợi, là một nguyên tắc cơ bản có vị trí hàng đầu trong tổ chức và hoạt động của Đảng. Đồng thời, Đảng coi sự chia rẽ trong nội bộ Đảng là tội ác lớn nhất đối với Đảng. Vì vậy, cán bộ, đảng viên phải là những người đi đầu trong việc thực hiện nguyên tắc đoàn kết, thống nhất. Từ khi mới ra đời, Đảng đã gắn bó với dân tộc, hòa mình cùng dân tộc, sinh tồn trong dân tộc. Tập hợp trong hàng ngũ của Đảng là những người xuất thân từ nhiều giai cấp và tầng lớp khác nhau, chủ yếu là công nhân và nông dân, nhưng đều chung lý tưởng, mục tiêu và lợi ích. Lý tưởng đó là giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Mục tiêu đó là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, là dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Lợi ích đó là phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, ngoài ra Đảng không có lợi ích riêng tư nào khác. Chính lý tưởng chung, mục tiêu chung và lợi ích chung là cơ sở của sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng. Đoàn kết, thống nhất thực sự là động lực chủ yếu của sự phát triển của Đảng. Thống nhất là cơ bản, các hình thức đấu tranh nội bộ mang tính chất xây dựng, góp phần quan trọng củng cố và tăng cường đoàn kết, thống nhất trong Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Đoàn kết, thống nhất là một yêu cầu cơ bản, một nguyên tắc tổ chức và hoạt động quan trọng hàng đầu của Đảng, quyết định sức mạnh của Đảng, nhằm bảo đảm giành được những thắng lợi to lớn. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định sức mạnh to lớn của đoàn kết qua thực tiễn cách mạng nước ta: “Đoàn kết là một lực lượng vô địch. Lực lượng đoàn kết đã giúp Cách mạng Tháng Tám thành công. Lực lượng đoàn kết đã giúp kháng chiến thắng lợi. Lực lượng đoàn kết sẽ động viên nhân dân từ Bắc đến Nam đấu tranh để thực hiện hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ trong cả nước”. Trong các tác phẩm của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh có tới hàng trăm bài nói và bài viết về đoàn kết. Tư tưởng đoàn kết nổi bật của Người là: “Đoàn kết làm ra sức mạnh”; “Đoàn kết là sức mạnh của chúng ta. Đoàn kết là thắng lợi của chúng ta”, “Đoàn kết là sức mạnh, là then chốt của thành công”. Phân tích toàn diện, sâu sắc tầm quan trọng của sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Đoàn kết là sức mạnh của chúng ta. Đoàn kết chặt chẽ, thì chúng ta nhất định có thể khắc phục mọi khó khăn, phát triển mọi thuận lợi và làm trọn nhiệm vụ nhân dân giao phó cho chúng ta”. “Toàn Đảng, toàn dân đồng sức đồng lòng thì khó khăn gì cũng nhất định khắc phục được”. Đoàn kết, thống nhất trong Đảng không phải là “đoàn kết một chiều”, “bằng mặt mà không bằng lòng”,... mà đoàn kết, thống nhất trong Đảng phải là một chiến lược lâu dài, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt đường lối cách mạng Việt Nam, đoàn kết phải trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin, có lý, có tình, bằng tình cảm cách mạng trong sáng, tình thương yêu đồng chí, đồng bào.

                                                                                                                            Chủ lực

HỌC THUYẾT MÁC-LÊNIN VỀ HÌNH THÁI KINH TẾ- XÃ HỘI LÀ KHOA HỌC, ĐÚNG ĐẮN

 

    Sự vận động, phát triển từ thời cổ đại đến nay của nhân loại và của lịch sử dân tộc Việt Nam là bằng chứng rõ ràng chứng tỏ rằng, học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin là khoa học, đúng đắn và phản ánh chính xác, khách quan lịch sử vận động, phát triển tiến bộ của toàn thể nhân loại, trong đó có dân tộc Việt Nam. Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội là cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin để tiếp cận nghiên cứu, giải thích, dự báo sự phát triển mang tính lịch sử - tự nhiên của xã hội loài người nói chung, mỗi dân tộc nói riêng, trong đó có sự phát triển của lịch sử dân tộc Việt Nam. Học thuyết đó đã chỉ rõ:

    - Lịch sử phát triển của loài người là lịch sử phát triển và thay thế nhau của các hình thái kinh tế - xã hội, trong đó sự phát triển của quan hệ sản xuất theo hướng tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất là cơ sở, trên đó xây dựng nên kiến trúc thượng tầng thích hợp.

    - Lịch sử loài người đã và đang trải qua 5 hình thái kinh tế - xã hội, là quy luật chung của sự phát triển của xã hội loài người; còn mỗi quốc gia dân tộc có thể bỏ qua một hay một vài hình thái nào đó trong điều kiện lịch sử - cụ thể của thời đại và dân tộc. Việt Nam bỏ qua sự phát triển hình thái kinh tế - xã hội chiếm hữu nô lệ và hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa là một tất yếu lịch sử khách quan không thể phủ nhận.

    Như vậy, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin không chỉ đơn thuần giải phẫu các hình thái kinh tế - xã hội, mà còn phân tích làm nổi bật lên bản chất, quy luật vận động, những mâu thuẫn của chúng và dự báo sự sụp đổ tất yếu, sự thay thế giữa chúng với nhau hoặc tuần tự hoặc nhảy vọt một cách biện chứng theo quy luật. Một cách lịch sử - tự nhiên, cũng như từ chế độ cộng sản nguyên thủy nhân loại bước lên chế độ chiếm hữu nô lệ rồi chế độ phong kiến tới chủ nghĩa tư bản, thì sau hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa ấy phải là một hình thái kinh tế - xã hội mới tiến bộ hơn, đó chính là cộng sản chủ nghĩa, mà giai đoạn đầu là XHCN. Đó là một tất yếu lịch sử, hợp quy luật khách quan mà khoa học mácxít đã chỉ ra.

    nghĩa Mác - Lênin vì là khoa học và cách mạng triệt để nên nó giải quyết tất cả những vấn đề đặt ra của lịch sử , những yêu cầu tiến bộ của nhân loại cần lao, dù ở phương Đông hay phương Tây, như chính giá trị đích thực của bản thân nó. Thực tế lịch sử cho thấy, từ khi hình thành, phát triển và được xác lập vào cuối thế kỷ XIX, hệ thống các tư tưởng, quan điểm và những nguyên lý, quy luật kinh tế - xã hội mà hệ thống khoa học đó phát hiện ngày càng được chứng minh bằng thực tiễn cuộc sống, được thừa nhận rộng rãi và trở thành nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động cách mạng của giai cấp công nhân toàn thế giới, là vũ khí lý luận sắc bén của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên các châu lục và của các đảng tiên phong, chân chính của giai cấp đó, không kể ở Việt Nam hay bất cứ quốc gia, dân tộc nào hay ở châu lục nào.

                                                                                                                                         Chủ lực

Quyet tam phong chong tham nhung cua Dang ta

Đảng Cộng sản Việt Nam và quyết tâm chính trị trong phòng, chống tham nhũng

          Sự thật từ hiệu quả và sự chuyển biến mạnh mẽ trong cuộc chiến chống “giặc nội xâm” ở Việt Nam thời gian qua, điển hình là vụ án AVG cùng nhiều vụ án trọng điểm do Trung ương chỉ đạo vừa qua là dẫn chứng sinh động bác bỏ luận điệu sai trái đó.
        Họ cho rằng: Tham nhũng là căn bệnh kinh niên của chế độ độc đảng cầm quyền vì “Đảng vừa đá bóng, vừa thổi còi”; vì xã hội thiếu dân chủ nên không thể chống tham nhũng thành công; đã nhiều lần phát động chống tham nhũng, nhưng đều không thành công, tệ nạn lại càng gia tăng... Từ đó, họ kết luận cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng (PCTN) của Đảng Cộng sản Việt Nam không thể thành công.
       Cần phải khẳng định rằng, những luận điệu trên không có cơ sở khoa học và hoàn toàn sai lầm về mặt lý luận và thực tiễn. Lịch sử Việt Nam và thế giới cho thấy, bất kỳ quốc gia, dân tộc nào muốn tồn tại, phát triển đều phải có chính đảng của mình hoặc phải chọn lấy chính đảng thích hợp với mình. Sự lựa chọn ấy chỉ được coi là đúng đắn, khi một mặt phải bắt nguồn sâu xa từ thực tiễn đất nước, từ truyền thống của dân tộc, từ ước vọng tha thiết của nhân dân; mặt khác, phải phù hợp với quy luật phát triển khách quan của xã hội, với xu thế vận động tất yếu của nhân loại tiến bộ. Theo đó, rõ ràng tệ tham nhũng không phải là những hiện tượng phản ảnh bản chất của chế độ. Nó cũng không phải là những căn bệnh nảy sinh do chế độ một đảng lãnh đạo dẫn đến mất dân chủ như một số người vẫn thường rêu rao.
Quốc gia dân tộc nào cũng vậy, trong từng thời điểm đều do một đảng cầm quyền. Khi đảng nào cầm quyền thì người đứng đầu và các chức vụ quan trọng của chính quyền nhà nước đều là người của đảng đó; đường lối, chủ trương của đảng cầm quyền sẽ chi phối đường lối, chính sách của quốc gia. Dù là chế độ một đảng cầm quyền hay đa đảng thay nhau cầm quyền thì nạn tham nhũng, suy thoái vẫn xảy ra, kể cả các nước phát triển có hệ thống pháp luật khá hoàn chỉnh, có trình độ quản lý kinh tế, xã hội cao.
         Đảng Cộng sản Việt Nam, từ khi ra đời, lãnh đạo cuộc đấu tranh giành chính quyền, cán bộ, đảng viên của Đảng tuyệt đại đa số đều là những nhà cách mạng tự nguyện từ bỏ lợi ích bản thân, xả thân chiến đấu hy sinh vì sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc. Nhiều tấm gương hy sinh oanh liệt của các nhà lãnh đạo, các cán bộ, đảng viên, mãi mãi lưu danh trong lịch sử vẻ vang của Đảng và dân tộc. Tuy nhiên, ngay từ đó, trong cuộc đấu tranh một sống, một chết dưới ách thống trị tàn bạo của chính quyền thực dân phong kiến, cũng đã có những người không chịu nổi thử thách gian nguy, tự rời bỏ hàng ngũ cách mạng, thậm chí đầu hàng địch, phản bội cách mạng. Những người thiếu kiên trung với cách mạng, có biểu hiện dao động, cầu an, Đảng đã thải loại họ. Nhưng đó chỉ là những trường hợp hết sức cá biệt. Đảng không vì thế mà yếu đi. Đảng càng trong sạch và ngày càng phát triển vững mạnh, được các tầng lớp nhân dân tin tưởng, tôn vinh vai trò lãnh đạo và tình nguyện chiến đấu dưới ngọn cờ vinh quang của Đảng.
          Ở Việt Nam, thời kỳ kháng chiến chống thực dân, đế quốc đã xuất hiện và phủ định đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập như một tất yếu khách quan. Năm 1945, Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện đã lãnh đạo nhân dân đứng lên khởi nghĩa, giành chính quyền, thiết lập nên Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đảng đặt quyền lợi quốc gia, dân tộc lên trên hết, nên trong những ngày đầu gìn giữ chính quyền và độc lập dân tộc, Đảng đã tuyên bố tự giải tán, mở rộng Chính phủ dân tộc với sự tham gia của nhiều đảng phái đối lập, như: Việt Quốc (Việt Nam Quốc dân đảng); Việt Cách (Việt Nam Cách mạng Đồng minh hội)… Nhưng, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, các tổ chức đảng phái hoặc phản động “bán nước, cầu vinh”, hoặc không đưa ra được đường lối đúng đắn, không vì lợi ích của quốc gia, dân tộc nên lần lượt bị chính nhân dân loại bỏ.  Khi quân Tưởng Giới Thạch rút khỏi Việt Nam, hai đảng này cũng cuốn gói chạy theo. Được sự tiếp tay của đế quốc Mỹ, nhiều đảng phái đã được chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm thành lập ở miền Nam Việt Nam. Song, do mục đích chính trị của những đảng phái này là phá hoại tổng tuyển cử, thống nhất nước nhà, đi ngược lại lợi ích của nhân dân lao động nên nhân dân Việt Nam đã đoàn kết đấu tranh loại bỏ những đảng phái chính trị đó. Cũng có một thời kỳ khá dài, bên cạnh Đảng Cộng sản Việt Nam đã tồn tại hai đảng khác là Đảng Dân chủ Việt Nam và Đảng Xã hội Việt Nam. Tuy nhiên, cả hai đảng này chưa bao giờ đối lập với Đảng Cộng sản Việt Nam, mà đều ủng hộ, thừa nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và sau này hoàn toàn tự nguyện giải tán. 
        Có một thực tế, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH) và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa (XHCN), biết bao cán bộ, đảng viên ngày đêm ở nơi xa xôi biển đảo, biên cương canh giữ chủ quyền đất nước; nhiều cán bộ, đảng viên dũng cảm chiến đấu trên mặt trận thầm lặng, giữ gìn an ninh chính trị và cuộc sống yên bình cho nhân dân; những cán bộ, đảng viên trực tiếp sản xuất vất vả trong nhà máy, trên đồng ruộng; những cán bộ, đảng viên lao động trí óc ngày đêm miệt mài nghiên cứu, sáng tạo... đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp chung, không tính toán thiệt hơn, không đòi hỏi sự ưu ái cho riêng mình.
        Thời gian qua, công tác đấu tranh PCTN, suy thoái ở Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đạt những kết quả bước đầu quan trọng cả trong nhận thức và hành động. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, thể chế quản lý kinh tế-xã hội và PCTN tiếp tục được xây dựng, hoàn thiện và thực hiện tương đối đồng bộ, toàn diện. Đảng Cộng sản Việt Nam đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị về công tác đấu tranh PCTN; đồng thời Quốc hội, Chính phủ cụ thể hóa nghị quyết, chỉ thị của Đảng thành chính sách, pháp luật của Nhà nước, góp phần đấu tranh đẩy lùi tình trạng tham nhũng, suy thoái. Công tác thông tin, tuyên truyền, giáo dục về PCTN được quan tâm, vai trò của báo chí trong PCTN bước đầu được phát huy, tạo sự chuyển biến về nhận thức và hành động của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và nhân dân. Vai trò, trách nhiệm, sức chiến đấu của cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, người đứng đầu cơ quan, đơn vị trong PCTN được nâng lên.
        Việc xây dựng và tổ chức thực hiện các cơ chế, chính sách về công tác tổ chức, cán bộ để PCTN được quan tâm. Cải cách hành chính công khai, minh bạch trong hoạt động của các cơ quan, tổ chức, đơn vị được tập trung lãnh đạo, chỉ đạo và đạt những kết quả tích cực. Việc minh bạch tài sản, thu nhập của cán bộ, đảng viên đã được coi trọng thực hiện. Công tác kiểm tra, giám sát, phát hiện, xử lý các hành vi tham nhũng, lãng phí, suy thoái được đẩy mạnh, tạo chuyển biến rõ nét. Tổ chức và hoạt động của cơ quan, đơn vị chuyên trách về PCTN từng bước được kiện toàn, phát huy hiệu quả.
Nhiều vụ việc, vụ án tham nhũng được phát hiện, xử lý nghiêm minh, nhất là những vụ án nghiêm trọng được Ban chỉ đạo Trung ương về PCTN chỉ đạo điều tra, truy tố, xét xử nghiêm minh; bước đầu khắc phục tình trạng án treo về tội phạm tham nhũng; từng bước chú trọng công tác thu hồi tài sản tham nhũng. Tính từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XII đến nay, với 11 hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã diễn ra, trong đó có đến 5 Hội nghị Trung ương (6, 7, 8, 9 và 11) có nội dung xử lý, kỷ luật cán bộ sai phạm, gần 60.000 cán bộ, đảng viên đã bị xử lý kỷ luật. Trong số 70 cán bộ cao cấp thuộc diện Trung ương quản lý bị xử lý kỷ luật có cả Ủy viên Bộ Chính trị; Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng; nguyên Phó thủ tướng; bộ trưởng và nguyên bộ trưởng; bí thư tỉnh ủy; nguyên bí thư tỉnh ủy...
         Đảng Cộng sản Việt Nam, một chính đảng duy nhất lãnh đạo cách mạng Việt Nam đã và đang không ngừng xây dựng và phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân trên thực tế trong nền chính trị nhất nguyên. Nền chính trị nhất nguyên ở Việt Nam là do nhân dân Việt Nam lựa chọn từ chính thực tiễn đấu tranh giải phóng dân tộc và sự nghiệp xây dựng CNXH. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự nghiệp cách mạng ở Việt Nam đã đem lại những quyền cơ bản nhất cho quốc gia, dân tộc và toàn thể nhân dân lao động Việt Nam. Đó là độc lập, tự do cho dân tộc; là quyền tự quyết dân tộc, quyền bình đẳng với mọi quốc gia khác trong việc lựa chọn con đường phát triển của mình; là quyền tự do lập hiến và lập pháp, lựa chọn và xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; là quyền bình đẳng giữa các dân tộc, giữa các thành phần kinh tế; quyền tự do làm giàu theo pháp luật, phát huy dân chủ gắn liền với giữ vững kỷ cương xã hội; là sự tiến bộ trong giáo dục, văn hóa, xã hội, khoa học và công nghệ nhằm mục tiêu vì sự tiến bộ và phát triển toàn diện của con người… Những thành tựu không thể phủ nhận đó đã khẳng định và ngày càng củng cố vững chắc hơn vai trò lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp cách mạng của dân tộc.
         Như thế, luận chứng vì xã hội Việt Nam thiếu dân chủ do Đảng Cộng sản Việt Nam độc tôn lãnh đạo nên không thể chống tham nhũng thành công là thiếu căn cứ, không thuyết phục. Cần có cách đánh giá khách quan cả mặt làm được và mặt chưa làm được của cuộc đấu tranh chống tham nhũng những năm vừa qua, kể từ Nghị quyết Trung ương 4, khóa XI đến nay. Rõ ràng, mấy năm gần đây, tệ nạn tham nhũng chưa bị đẩy lùi, nhưng đã ngăn chặn được sự lây lan. Điều đó nói lên, cuộc đấu tranh PCTN vừa qua tuy chuyển biến chậm, chưa đạt mục tiêu, yêu cầu đề ra, nhưng đã có kết quả buớc đầu. Đó là điều không thể phủ nhận. Viện dẫn một luận chứng không đúng sự thật để kết luận rằng, cuộc đấu tranh PCTN hiện nay của Đảng Cộng sản Việt Nam trong điều kiện đảng cầm quyền, độc tôn lãnh đạo cách mạng Việt Nam không thể thành công là điều phi lý.
        Cũng cần khách quan khẳng định rằng, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam cũng có lúc phạm phải sai lầm, khuyết điểm; nhưng với bản chất của một đảng chân chính, một đảng cách mạng do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, giáo dục và rèn luyện, Đảng đã sớm nhận ra khuyết điểm và chủ động đưa ra các chủ trương, giải pháp khắc phục hiệu quả. Hiện nay, trong đấu tranh PCTN, Nghị quyết Trung ương 4, khóa XII đã nhận diện rất cụ thể những biểu hiện suy thoái, xác định mục tiêu, quan điểm, các nhóm giải pháp và việc tổ chức thực hiện. Qua đó thể hiện Đảng xác định quyết tâm chính trị, cả xã hội có sự chuyển mình, cả hệ thống chính trị cùng toàn dân, toàn quân quyết tâm vào cuộc đấu tranh PCTN.
       Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn: “Còn những việc làm, mà chưa làm được thì xin đồng bào nguyên lượng. Vì nếu có nấu cơm cũng 15 phút mới chín, huống chi là sửa chữa cả một nước đã 80 năm nô lệ, người tốt có, người xấu có, một đám ruộng có lúa lại có cỏ, muốn nhổ cỏ thì cũng vài ba giờ mới xong”(1). Theo đó, cuộc đấu tranh PCTN của Đảng Cộng sản Việt Nam cũng như việc “nhổ cỏ” đòi hỏi phải có thời gian, không thể một sớm, một chiều có thể khắc phục triệt để tệ tham nhũng. Với quyết tâm chính trị cao của Đảng và hệ thống chính trị, cùng sự đồng lòng, đoàn kết, đồng thuận của nhân dân, cuộc chiến chống tham nhũng, lãng phí dù còn nhiều khó khăn, vất vả, nhưng chúng ta tin rằng sự nghiệp ấy sẽ ngày càng thành công!

Cang lo muu do chong pha nha nuoc VN

Càng lộ rõ mưu đồ chống phá Nhà nước Việt Nam

       Tôi đọc bài “Màn kịch vụng về trên sân khấu chính trị hải ngoại” trên mục “Làm thất bại chiến lược “diễn biến hòa bình” của Báo Quân đội nhân dân trên internet. Là người đã có hơn 30 năm sống và làm việc trên đất Mỹ, hiểu về nhân quyền ở đất nước này và một số nước đã có dịp tiếp cận, tôi đồng tình với cách đặt vấn đề và lập luận 
      Trước Tết Nguyên đán Canh Tý 2020, khachs quan nhìn nhận, so với nhiều quốc gia trên thế giới, những tiến bộ về bảo đảm quyền con người ở Việt Nam khá rõ nét. Có lẽ vì thiếu thiện chí với Việt Nam mà cái gọi là "Mạng lưới nhân quyền Việt Nam" và một số tổ chức phi chính phủ ở Mỹ thường đội lốt “bảo vệ nhân quyền” để thực hiện những việc làm và lời nói không chính xác, gây khó khăn cho thúc đẩy nhân quyền ở Việt Nam... Hành động trao "giải thưởng nhân quyền" cho những kẻ vi phạm pháp luật đã và đang thụ án tù tại Việt Nam đúng là một trò hề... Thực chất, đây vẫn là chiêu trò kích động những người thiếu bản lĩnh, kém hiểu biết nhằm chống phá Việt Nam. Cùng với việc báo chí, truyền thông lên tiếng phản bác, định hướng dư luận..., theo tôi, thông qua kênh ngoại giao, Chính phủ Việt Nam cần có biện pháp đấu tranh, lên án mạnh mẽ những hành động này.

       Hành động trao cái gọi là "giải thưởng nhân quyền" cho một số nhân vật đã và đang bị tòa án kết tội "tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam" hoặc “hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân” của cái gọi là "Mạng lưới nhân quyền Việt Nam" là trái với công ước và nguyên tắc quốc tế. Tại Điều 2, Hiến chương Liên hợp quốc năm 1945 đã quy định về nguyên tắc cấm can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác. Sau đó, tại Nghị quyết 2625 năm 1970 của Đại hội đồng Liên hợp quốc, nguyên tắc cấm can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác tiếp tục được ghi nhận rõ ràng hơn.
Pháp luật của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng quy định rõ các cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự nước ngoài, cơ quan đại diện của tổ chức quốc tế tại Việt Nam và thành viên của những cơ quan đó phải: Tôn trọng pháp luật và phong tục, tập quán của Việt Nam; không can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam. Như vậy có thể thấy hành động lợi dụng nhân quyền của cái gọi là "Mạng lưới nhân quyền Việt Nam" đã vi phạm nghiêm trọng công ước và nguyên tắc quốc tế về cấm can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác, vi phạm trắng trợn pháp luật Việt Nam.

Dap tat ngay nhung tin don ac y

Dập tắt ngay những tin đồn ác ý!

        Tối 19-3, cư dân mạng xôn xao bàn tán, thậm chí có người tỏ ra hoang mang lo lắng khi trên mạng xã hội (MXH) xuất hiện tin đồn TP Hà Nội sẽ thực hiện phong tỏa từ 24 giờ 19-3. Một trong những lý do xuất phát từ tin đồn này là có đối tượng lợi dụng ý kiến của lãnh đạo TP Hà Nội đưa ra khuyến nghị người dân trong thời điểm dịch Covid-19 đang bùng phát nên hạn chế ra đường khi không cần thiết, không tụ tập đông người ở nhà hàng, vũ trường, quán cà phê… nhằm góp phần bảo vệ sức khỏe, gia đình và cộng đồng.
      Trước tin đồn thất thiệt đó, sáng qua (20-3), trả lời phỏng vấn Đài Truyền hình Việt Nam, Chủ tịch UBND TP Hà Nội Nguyễn Đức Chung, Trưởng ban chỉ đạo công tác phòng, chống dịch Covid-19 TP Hà Nội chính thức bác bỏ thông tin trên; đồng thời khẳng định Hà Nội đang kiểm soát tốt các diễn biến của dịch Covid-19. Những thông tin có liên quan đến dịch bệnh đều được Ban chỉ đạo của thành phố cập nhật và thông tin thường xuyên, liên tục, công khai, minh bạch để mọi người dân được biết và chung tay góp sức cùng với các cấp chính quyền chủ động phòng, chống dịch. Thành phố tiếp tục thực hiện quyết liệt các biện pháp tối ưu để bảo đảm an toàn sức khỏe và tính mạng của người dân; giảm đến mức tối đa sự lan truyền của dịch trên địa bàn; bảo đảm đủ nguồn cung cấp lương thực, thực phẩm, hàng hóa cho người dân Thủ đô trong mọi tình huống.
         Việc người đứng đầu chính quyền Thủ đô kịp thời lên tiếng bác bỏ tin đồn phong tỏa Hà Nội là rất kịp thời, đúng lúc, được dư luận hoan nghênh, đồng tình, ủng hộ. Động thái này thêm một lần khẳng định, Đảng bộ, chính quyền và các cơ quan, lực lượng chức năng của Hà Nội đã, đang và sẽ làm hết sức mình vì sự an toàn, sức khỏe, tính mạng của nhân dân. Hơn ai hết, những người “đứng mũi chịu sào” của thành phố luôn thấu hiểu rằng, phòng ngừa, kiểm soát chặt chẽ, hiệu quả dịch Covid-19 trên địa bàn Thủ đô là góp phần bảo vệ “đầu não” Trung ương, bảo vệ “trái tim” của cả nước. Vì vậy, Hà Nội phải luôn chủ động thực hiện mọi biện pháp quyết liệt, hữu hiệu để giảm tới mức thấp nhất thiệt hại từ đại dịch nguy hiểm này.
        Những ngày qua, công luận đã nhiều lần lên tiếng, bóc mẽ những đối tượng đưa tin giả, tin sai sự thật, tung tin thất thiệt về dịch Covid-19 trên MXH khiến nhiều người dân hoang mang, gây bất ổn tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Tính đến ngày 14-3, cơ quan chức năng trong cả nước đã xác minh, làm việc với 654 trường hợp đưa tin sai sự thật, xử phạt hành chính hơn 146 đối tượng. Trong số đó, Công an TP Hà Nội đã lập hồ sơ xử lý 44 đối tượng có hành vi đăng tin, bài sai sự thật về dịch Covid-19 trên MXH, xử phạt hành chính gần 200 triệu đồng. Như vậy, tỷ lệ đối tượng trên địa bàn Hà Nội tung tin thất thiệt bị xử phạt chiếm gần 30% số đối tượng vi phạm trong cả nước. Con số này phần nào cho thấy Hà Nội là “mảnh đất màu mỡ” cho nhiều đối tượng bất chấp lương tâm, đạo lý, pháp luật để phao tin đồn nhảm về dịch bệnh, làm vẩn đục môi trường thông tin, gây bất an lòng người và phân tâm dư luận xã hội.
         Có thể nhiều đối tượng tung tin giả, tin sai sự thật trên MXH chỉ nhằm câu like, câu view, thích được nhiều người biết đến để được nổi tiếng theo kiểu “đốt đền”; cũng có kẻ cố ý phao tin thất thiệt nhằm lôi kéo, kích động “tâm lý đám đông” khiến nhiều người phải đổ xô đi mua sắm, tích trữ hàng hóa rồi tranh thủ trục lợi. Nhiều chuyên gia tâm lý cho rằng, việc hàng nghìn người dân sáng 7-3 kéo nhau ùn ùn đến các chợ, cửa hàng, siêu thị, trung tâm thương mại để mua sắm, tích trữ lương thực, thực phẩm, gây ra cảnh náo loạn chưa từng thấy ở nhiều địa điểm kinh doanh là có “bàn tay vô hình” của những kẻ đầu cơ, trục lợi. Thậm chí có cả đối tượng cơ hội chính trị, bất mãn lợi dụng thời điểm dịch Covid-19 đang hoành hành để tung tin thất thiệt nhằm chống phá sự lãnh đạo, điều hành của Đảng bộ, chính quyền và các cơ quan chức năng TP Hà Nội.
Dù có động cơ, mục đích, lý do gì, việc tung tin giả, sai sự thật trong thời điểm dịch bệnh hiện nay đều phải phê phán kịch liệt và xử lý kiên quyết, triệt để những đối tượng vi phạm. Như nhiều người từng nhận định, virus gây ra dịch Covid-19 rất nguy hại, nhưng cũng không nguy hại bằng những virus tin giả trên MXH do tốc độ lây lan của nó khủng khiếp gấp bội lần virus SARS-CoV-2.
Trong hoàn cảnh đất nước gặp thiên tai, dịch bệnh, trách nhiệm của mỗi chúng ta không dừng lại ở việc đồng lòng đấu tranh, lên án, tẩy chay những virus tin giả đang hằng giờ, hằng ngày xuất hiện tràn lan trên MXH mà cần phải đề cao ý thức, bổn phận, nghĩa vụ công dân trong việc tiếp nhận, sàng lọc, thu nạp những thông tin trung thực, tích cực, lành mạnh, nhân văn trên không gian mạng. Mặt khác, để góp phần thắng lợi trong “cuộc chiến” đẩy lùi dịch Covid-19, mọi người, trước hết là cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức phải trở thành những “chiến sĩ thông tin” làm tốt vai trò chia sẻ, nhân rộng, lan truyền những tin tức chính thống, tin cậy, chính xác từ Trung ương Đảng, Chính phủ, Bộ Y tế, các cơ quan chức năng và những người có trách nhiệm, góp phần làm cho những thông tin tốt, thông tin tích cực có khả năng chi phối, lấn át những thông tin xấu, thông tin tiêu cực. 
        “Cuộc chiến” phòng, chống đại dịch Covid-19 ở nước ta nói chung, ở Hà Nội nói riêng đang vào thời điểm cam go, quyết liệt. Từ những kết quả bước đầu đã đạt được, cùng với những giải pháp đồng bộ, mạnh mẽ, sáng tạo, sát tình hình thực tế, chúng ta đã, đang kiểm soát tốt tình hình dịch bệnh và có đủ khả năng, nguồn lực, kinh nghiệm để chiến đấu với “giặc Covid-19”. Do vậy, bên cạnh sự nỗ lực vào cuộc khẩn trương, quyết liệt của các cấp, các ngành từ Trung ương tới cơ sở, sự đồng lòng, chung tay góp sức của mỗi người dân chính là tạo nên sức mạnh tổng hợp để biến thành “vũ khí” sắc bén nhằm sớm loại trừ dịch bệnh này ra khỏi đời sống xã hội.

Giu gin ban sac VH bao ve nen tang tu tuong tinh than XH


Giữ gìn bản sắc văn hóa-bảo vệ nền tảng tinh thần xã hội

      Năm 1991, Liên bang Xô viết chính thức sụp đổ. Đó là mất mát vô cùng lớn lao đối với phong trào cộng sản trên toàn thế giới. Tuy nhiên, đó cũng là bài học kinh nghiệm rất có giá trị đối với những đất nước tiếp tục vững bước tiến lên theo con đường CNXH như Việt Nam. Một trong những bài học kinh nghiệm rút ra từ việc Liên bang Xô viết sụp đổ là sự xâm thực về văn hóa, dẫn tới thay đổi về nền tảng tinh thần xã hội.
       năm 1958, Liên Xô và Hoa Kỳ thống nhất việc tổ chức hai cuộc triển lãm tại thành phố New York và thủ đô Moscow nhằm thúc đẩy giao lưu văn hóa và sự hiểu biết lẫn nhau. Đây được coi là một sự kiện gây chấn động thế giới, bởi hai quốc gia siêu cường Liên Xô và Hoa Kỳ đối nghịch về nền tảng chính trị và có những khác biệt rất lớn về văn hóa. Sau này, triển lãm của Liên Xô tại thành phố New York không được đề cập nhiều nhưng triển lãm của Hoa Kỳ lại gây tiếng vang đáng kể.
       Tại công viên Sokolniki ở thủ đô Moscow, Hoa Kỳ đã quảng bá văn hóa, công nghệ cũng như các sản phẩm tiêu dùng, từ ô tô, đồ uống đến nghệ thuật, thời trang và kiến trúc. Nhiều nhà tài trợ và doanh nghiệp lớn nổi tiếng của xứ cờ hoa, như: Disney, Dixie Cup Inc, IBM, Pepsi… đều có gian hàng trưng bày sản phẩm. Ngày 24-7-1959, trước khi triển lãm Moscow chính thức khai mạc, Phó tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon đã mời nhà lãnh đạo Liên Xô Nikita Khrushchev tham quan các gian hàng. Họ dừng lại trước một căn bếp-nơi trở thành “hiện trường” cho cuộc tranh luận nổi tiếng trong chiến tranh Lạnh. Căn bếp này do các nhà thiết kế Hoa Kỳ dựng lên với đầy đủ tiện nghi, như: Máy rửa bát, lò nướng bánh mì, máy xay sinh tố… dường như là để “khoe” mọi người dân Mỹ đều có thể sở hữu căn bếp như thế. Lãnh đạo Liên Xô tỏ ý không vừa lòng, nói rằng các gia đình Liên Xô cũng có những thứ này. Cuộc tranh luận bắt đầu, chủ đề được mở rộng đến các vấn đề chính trị như chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa tư bản (CNTB), chiến tranh hạt nhân... Ngày hôm sau, "Cuộc tranh luận trong bếp" là tin tức xuất hiện trên trang nhất của các tờ báo ở Hoa Kỳ. Và điều thú vị nhất của “Cuộc tranh luận trong bếp” là sau khi nó kết thúc, Nixon và Khrushchev cùng uống Pepsi. Một nhiếp ảnh gia đã bắt được khoảnh khắc Nixon và Khrushchev đứng cạnh nhau trong khi nhà lãnh đạo Liên Xô thưởng thức nước ngọt có ga của một thương hiệu… phương Tây.
        Cùng các cuộc chiến về chính trị, ngoại giao, văn hóa là mũi nhọn được các thế lực thù địch phương Tây sử dụng nhằm tiêu diệt nhà nước Nga Xô viết. Dưới thời nhà lãnh đạo Khrushchev, các thế lực chống cộng và chính quyền phương Tây căn cứ vào tình hình đã tăng cường thực thi “diễn biến hòa bình”, âm mưu phương Tây hóa, phân hóa Liên Xô. Đến thời Tổng thống Hoa Kỳ Ronald Reagan (hai nhiệm kỳ-1981-1989), Chính phủ Hoa Kỳ càng đẩy mạnh chủ trương ngoại giao cân bằng, thẩm thấu tư tưởng, văn hóa với Liên Xô và các nước Đông Âu qua truyền bá quan điểm phương Tây về tự do, nhân quyền với hạt nhân là lợi ích cá nhân. Reagan cho rằng, trong cuộc đấu tranh giữa CNTB và CNXH, nhân tố quyết định cuối cùng không phải là đọ sức đạn hạt nhân và tên lửa mà là cuộc đọ sức của ý chí và tư tưởng.           Ở chiều ngược lại, Tổng bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô khi đó là Mikhail Gorbachev lại ra sức cổ súy cho cái gọi là tư duy mới chính trị quốc tế. Lợi dụng thời cơ đó, các thế lực chống cộng ở phương Tây tài trợ cho một số cơ quan nghiên cứu lập phương án đánh vào những tình cảm nhân dân Liên Xô dành cho Lênin và Stalin. Các tác phẩm chống Lênin, Stalin xuất hiện đầy rẫy trên báo, đài phát thanh, đài truyền hình, phim ảnh... Họ kích động nhân dân Liên Xô đề nghị mai táng thi hài Lênin. Phương Tây còn ca tụng tư duy cải tổ của Gorbachev, nhằm làm suy yếu và hủy bỏ uy tín của Đảng Cộng sản Liên Xô, của chế độ xã hội chủ nghĩa (XHCN), tuyên truyền cho cái gọi là cuộc sống tươi đẹp ở phương Tây và tính ưu việt của chế độ tư bản. Phương Tây rất chú trọng dùng lối sống tiêu dùng để tác động và ảnh hưởng đến đông đảo người dân Liên Xô, đặc biệt là lứa tuổi thanh niên.
        Sau này, tổng kết về “thắng lợi” của chiến lược “diễn biến hòa bình” đối với Liên Xô và Đông Âu, năm 1988, cựu Tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon đã xuất bản cuốn sách “1999-Chiến thắng không cần chiến tranh”. Trong đó, R.Nixon xác định: “Mặt trận tư tưởng là mặt trận quyết định nhất, toàn bộ vũ khí của chúng ta, các hoạt động mậu dịch, viện trợ, quan hệ kinh tế sẽ không đi đến đâu, nếu chúng ta thất bại trên mặt trận tư tưởng!".
        Từ năm 1959, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra, cùng với âm mưu xâm lăng nước ta bằng quân sự, các nước đế quốc còn thực hiện âm mưu xóa bỏ những giá trị truyền thống, tinh hoa văn hóa tốt đẹp của dân tộc ta. Cuộc đấu tranh này ở nước ta, theo thời gian, theo sự phát triển của xã hội ngày càng diễn ra rất phức tạp, gay go và quyết liệt.
       Nguy cơ “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực văn hóa-tư tưởng diễn ra từ hai góc độ: Hoạt động chống phá của các thế lực thù địch và xu hướng “tự chuyển hóa” của những đối tượng yếu kém bản lĩnh chính trị trước sự biến động của xã hội.
      Ở góc độ chống phá của các thế lực thù địch, biểu hiện rõ nét nhất là hoạt động xuyên tạc, bôi đen giá trị văn hóa, đạo đức, lối sống XHCN, ra sức du nhập văn hóa, đạo đức, lối sống tư sản thực dụng, trụy lạc, tôn thờ đồng tiền là trên hết, sống ích kỷ, phi đạo đức. Cùng đó, các thế lực thù địch luôn khuyến khích khuynh hướng đòi văn hóa, văn nghệ hoạt động độc lập với chính trị, phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng, phủ nhận sự quản lý của Nhà nước đối với lĩnh vực này.
Trong nhiều năm qua, đã có không ít văn nghệ sĩ lạc đường, từ bỏ lợi ích của quốc gia, dân tộc, chuyển sang sáng tác theo khuynh hướng văn hóa, nghệ thuật phương Tây, hạ thấp, coi rẻ truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc, khuyến khích các giá trị văn hóa cá nhân cực đoan, đề cao giá trị dân chủ, tự do tư sản. Thậm chí, đã xuất hiện những sáng tác miêu tả cuộc chiến tranh chính nghĩa của dân tộc ta mang một màu đen tối, chết chóc, bi kịch, vô nghĩa; phủ định những sáng tạo văn hóa, văn nghệ trong thời kỳ chiến tranh, coi đó là “minh họa”, là tô hồng, là cao hơn, là đứng trên hiện thực. Chúng ta không phủ nhận những hạn chế lịch sử của mảng văn học, nghệ thuật trong chiến tranh nhưng không thể nhân danh đổi mới để bôi nhọ cuộc chiến đấu chính nghĩa của dân tộc bằng việc chỉ miêu tả mặt đen tối, sự chết chóc và tha hóa con người trong chiến tranh. Khuynh hướng này chỉ là phiến diện, chưa trung thực với lịch sử. Với vai trò văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, những sản phẩm đội danh văn hóa này đặc biệt nguy hiểm, có nguy cơ làm tha hóa thế hệ trẻ, tạo ra một thế hệ “mất gốc”, phủ nhận các giá trị truyền thống dân tộc, thích đua đòi, ăn chơi hưởng lạc, kích thích các tệ nạn xã hội phát triển.
       Ở góc độ chủ quan những người “tự chuyển hóa”, khi đất nước mở cửa sâu rộng với thế giới, những yếu tố có khả năng tác động tới sự biến đổi về xã hội ùa vào theo là vấn đề tất yếu. Đó bao gồm hai sản phẩm cơ bản: Văn hóa và tiêu dùng. Cả hai sản phẩm này, dù được nhập khẩu chính ngạch nhưng đều mang tính hai mặt, đặc biệt với sản phẩm văn hóa. Những sản phẩm văn hóa được phép lưu hành đều mang những giá trị nhất định về chân-thiện-mỹ, cổ vũ lối sống lành mạnh, tốt đẹp. Tuy nhiên, đi kèm theo đó là việc phổ biến những giá trị văn hóa, hình ảnh xã hội khác biệt, thậm chí đi ngược với những giá trị văn hóa truyền thống của người Việt. Dưới góc độ hội nhập, chúng ta không thể không tiếp thu những tinh hoa của văn hóa thế giới nhằm bổ sung, làm giàu thêm nền văn hóa dân tộc. Tuy nhiên, nếu việc tiếp thu thiếu chủ động, không đủ bản lĩnh, năng lực để chỉ lựa chọn cái tốt, cái có ích cho đời sống văn hóa thì quá trình hội nhập về văn hóa sẽ trở thành nguy cơ làm “biến màu” nền văn hóa bản địa.
Đối với sản phẩm tiêu dùng, là những thứ vô cùng gần gũi trong cuộc sống mỗi người, như: Cái ăn, cái mặc, cái làm đẹp, sự tác động về văn hóa diễn ra âm thầm nhưng không kém phần mạnh mẽ. Bởi lẽ, bất cứ lĩnh vực nào, sản phẩm gì trong xã hội đều ẩn chứa yếu tố văn hóa. Một chiếc quần Jean gắn với hình ảnh chàng Cowboy miền Tây nước Mỹ. Một chiếc ô tô Mercedez gắn với văn hóa Đức. Một sản phẩm tiêu dùng tốt, bền, giá cả phải chăng thường gắn với hình ảnh đất nước Mặt trời mọc… Khi quen thuộc với những sản phẩm tiêu dùng ấy, đồng nghĩa với việc người sử dụng trở nên “thân thiết” với nền văn hóa làm ra chúng. Từ đó, tâm lý sùng bái hàng ngoại có thể tiếp biến thành sùng bái văn hóa ngoại.
         Những tác động của văn hóa lên nền tảng tư tưởng xã hội thường không mang tính chất tức thời mà là một quá trình “mưa dầm thấm lâu”. Tuy nhiên, sự chuyển biến chậm rãi đó lại có khả năng thay đổi bền vững tư duy, tình cảm của mỗi người. Vì thế, nếu thiếu cảnh giác, để những tác động tiêu cực của văn hóa ngoại lai du nhập, thẩm thấu sâu vào đời sống xã hội Việt Nam, chúng ta sẽ phải trả cái giá rất đắt. Thậm chí, có thể là cả việc lạc mất con đường tiến lên CNXH mà Đảng, Bác Hồ, nhân dân đã lựa chọn.

Nhung ban tay den khay dao phap luat

Những “bàn tay đen” hòng khuấy đảo luật pháp Việt Nam

      Do tính chất phức tạp của vụ án nên ban đầu, tòa dự kiến tiến hành xét xử trong 10 ngày. Nhưng mới bước sang ngày thứ 4 thì toàn bộ các bị cáo đã nhận tội và xin được sự khoan hồng của pháp luật. Nhiều bị cáo đã nói rõ trước tòa, điển hình là bị cáo Lê Đình Doanh: “Trong thời gian nằm trong trại tạm giam đã nghĩ về hành động của mình và nhận ra lỗi lầm mà mình đã gây nên, do đó bị cáo thành tâm sám hối. Đề nghị các luật sư thôi không bào chữa cho bị cáo nữa...”. Đây là chuyện rất bình thường trong các vụ án, bởi sau những đêm nằm ngẫm nghĩ và khi được tòa phân tích thì các bị cáo đã nhận ra tội lỗi của mình, mong muốn sửa chữa, chuộc lại lỗi lầm, bỏ con đường tối, tìm về đường sáng.
      Theo dõi vụ việc và vụ án này, chúng tôi nhận thấy, trong suốt thời gian diễn ra vụ việc cho đến khi vụ án xảy ra, một số cơ quan báo chí nước ngoài thiếu thiện chí với Việt Nam và một số trang mạng xã hội được điều hành bởi một số người cơ hội chính trị, mang danh “đấu tranh cho dân chủ” đã đăng tải nhiều bài viết xuyên tạc về tính chất vụ việc và vụ án. Họ cho rằng sự việc xảy ra rạng sáng 9-1-2020 là sự “đàn áp” của chính quyền đối với những người gọi là “nông dân” (vấn đề này chúng tôi sẽ nêu rõ trong các bài viết sau), rồi từ đó kêu gọi các tổ chức quốc tế tham gia điều tra, can thiệp, tác động... hòng chính trị hóa vụ án hình sự này nói riêng và các vụ án hình sự ở nước ta nói chung. Họ hy vọng với sự tham gia, can thiệp, tác động của một số tổ chức quốc tế tới chính quyền của một số nước thì có thể sẽ làm thay đổi hệ thống pháp luật và nền tư pháp, dẫn tới sự thay đổi về thể chế chính trị của Việt Nam.

Giu vung niem tin, day lui su xuyen tac

Giữ vững niềm tin, đẩy lùi sự xuyên tạc

       Hiện nay, trước thềm Đại hội XIII của Đảng, việc các thế lực thù địch xuyên tạc, chống đối Đảng, Nhà nước, chế độ không phải là điều lạ. Càng gần ngày diễn ra đại hội Đảng, hoạt động chống phá càng phức tạp với thủ đoạn tinh vi nhằm chia rẽ nội bộ, gây mất đoàn kết, lung lạc niềm tin trong nhân dân.
      Sinh thời, Bác Hồ luôn xử lý tình huống phức tạp một cách chuẩn xác, uyển chuyển, tinh tế với phương châm “dĩ bất biến, ứng vạn biến”. Sau Cách mạng Tháng Tám, nước ta thù trong giặc ngoài, khó khăn chồng chất, nhưng Người tin vào sức mạnh của nhân dân, chủ trương đại đoàn kết, phát huy sức mạnh toàn dân tộc. Người chú trọng củng cố niềm tin cho nhân dân, cán bộ đảng viên trước khó khăn, thử thách. Đây chính là sức mạnh nền tảng giúp giữ vững chế độ. Tiếng nói tích cực của nhân dân ủng hộ cách mạng, chế độ đủ sức áp đảo các thông tin tuyên truyền nói xấu Đảng, Nhà nước, chế độ.
      Người căn dặn: “Cách mạng phải lấy sức mạnh trong lòng dân”. Để xây dựng sức mạnh lòng dân, Đảng ta phải có những hành động thực tế mang lại lợi ích thiết thực, tôn trọng quyền dân chủ và làm chủ của dân. Chính nhân dân sẽ là người làm chủ, bảo vệ chế độ, bảo vệ Đảng. Bác nhấn mạnh phải làm sao cho dân tin tưởng, dân hiểu đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước thì được dân giúp đỡ, dân ủng hộ và dân bảo vệ.
       Những luận điệu xuyên tạc, lừa mị, mê hoặc, kích động, phá hoại sự nghiệp cách mạng của nước ta thực chất là chống lại nhân dân. Chúng ta cần phải biết rõ, tỉnh táo, chủ động phản bác lại. Lấy cái tích cực, đúng đắn, chính đáng chống lại cái tiêu cực, xuyên tạc, sự giả dối; lấy sự “quang minh chính đại”, “dĩ công vi thượng”, đặt việc dân việc nước lên hàng đầu như lời Bác dạy để đẩy lùi cái xấu. Một khi Đảng được dân tin yêu thì không thế lực nào có thể chống phá. Chính sự đoàn kết, đồng thuận giữa nhân dân với Đảng là yếu tố quyết định. Đảng vì dân mà tồn tại, dân tin Đảng, bảo vệ Đảng chính là bảo vệ cuộc sống của chính mình.
       Cán bộ, đảng viên phải giữ vững niềm tin, tiên phong gương mẫu. Mỗi người dân có trách nhiệm và nghĩa vụ xây dựng Đảng, bảo vệ Đảng, chế độ, sống và làm việc theo Hiến pháp, pháp luật. Hiểu biết về pháp luật để tự bảo vệ mình, đồng thời bảo vệ sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Đặc biệt, trong điều kiện bùng nổ thông tin hiện nay, chúng ta phải tỉnh táo phân biệt những thông tin đúng, chính thống để giữ vững niềm tin, hành động đúng đắn, tránh rơi vào luận điệu xuyên tạc của kẻ thù.

GÓP PHẦN NHẬN DIỆN “DIỄN BIẾN HÒA BÌNH” CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH Ở VIỆT NAM

 


Trong quá trình thực hiện đường lối đổi mới đất nước, Đảng, Nhà nước ta luôn thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế. Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế thế giới, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác. Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tề, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực. Trong bối cảnh đó, xuất phát từ bản chất, âm mưu của các thế lực đế quốc và phản động quốc tế chúng càng ra sức phá hoại các nước xã hội chủ nghĩa còn lại, trong đó có Việt Nam, bằng những phương sách giành “chiến thắng không cần chiến tranh”. Có thể nhận diện các mưu đồ đen tối của chúng qua một số vấn đề sau:

Trước hết, mục tiêu mà các thế lực thù địch nhằm đến là ngăn cản tiến tới xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

Thứ hai, các thế lực thù địch đẩy mạnh việc truyền bá hệ tư tưởng tư sản và lối sống phương Tây, sử dụng các thủ đoạn chiến tranh tâm lý để bôi nhọ và tiến tới hạ bệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và lý tưởng xã hội chủ nghĩa.

Thứ ba, các thế lực thù địch thực hiện việc chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, lôi kéo và móc nối, trợ giúp cho các lực lượng chống đối chủ nghĩa xã hội, kích động ly khai.

Thứ tư, một số nước đặt điều kiện chính trị cho những trợ giúp về kinh tế, văn hóa, xã hội… tiến tới can thiệp vào công việc nội bộ của ta.

    Qua những âm mưu, thủ đoạn chính của “diễn biến hòa bình” như trên, cho chúng ta thấy sự hiện diện nguy hiểm của nó đối với nước ta hiện nay. Chính vì vậy, đấu tranh chống “diễn biến hòa bình” chính là đấu tranh vì sự tồn vong của độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, chúng ta phải luôn đề cao cảnh giác, nhận diện đúng và đấu tranh thắng lợi mọi âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”.

TÍNH ĐÚNG ĐẮN CỦA NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM

 


Đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hôi XII Đảng ta khẳng định: Năm năm qua, nắm bắt thời cơ, thuận lợi; vượt qua thách thức, khó khăn, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đã nỗ lực phấn đấu đạt được những thành tựu rất quan trọng. Kết quả đó được thể hiện sinh động trên bình diện tổng thể các mặt, các lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội đất nước ta. Một trong những kết quả to lớn khẳng định tính đúng đắn của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta đó là “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục phát triển; kinh tế vĩ mô ổn định, tốc độ tăng trưởng duy trì ở mức khá cao; chất lượng tăng trưởng được cải thiện, quy mô và tiềm lực nền kinh tế tăng lên”. Kết quả to lớn đó được thể hiện cụ thể trên những nội dung cơ bản sau:

Một là, nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng đầy đủ hơn. Hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện phù hợp với yêu cầu xây dựng nền kinh tế thị trường hiện đại. Các yếu tố thị trường và các loại thị trường từng bước phát triển đồng bộ, gắn kết với thị trường khu vực và thế giới. Việc sản xuất, cung ứng nhiều loại hàng hóa, dịch vụ công ích, dịch vụ sự nghiệp công thực hiện theo cơ chế giá thị trường; dỡ bỏ nhiều rào cản tham gia thị trường, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh. Phong trào khởi nghiệp sáng tạo và phát triển doanh nghiệp khá sôi động, kinh tế nhà nước từng bước đước sắp xếp, tổ chức lại có hiệu quả hơn; kinh tế tư nhân ngày càng khẳng định là một động lực quan trong của nền kinh tế; kinh tế tập thể từng bước đổi mới, phát triển khá nhanh; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển nhanh và có hiệu quả, trở thành bộ phận quan trọng của nền kinh tế nước ta.

Hai là, cơ cấu lại nền kinh tế đúng hướng, bước đầu đạt những kết quả quan trọng; các cân đối lớn của nền kinh tế được cải thiện đáng kể; nợ công giảm, nợ xấu được kiểm soát. Cơ cấu các ngành kinh tế chuyển dịch tích cực, tỉ trọng khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản giảm, tỉ trọng công nghiệp, xây dựng và dịch vụ tăng lên. Công nghiệp chế biến, chế tạo phát triển nhanh, trở thành đầu tàu phát triển của ngành công nghiệp; công nghiệp hỗ trợ bước đầu phát triển, góp phần nâng cao tỉ lệ nội địa hóa và giá trị gia tăng của sản phẩm công nghiệp trong nước.

Ba là, hội nhập kinh tế quốc tế phát triển sâu, rộng trên nhiều cấp độ, đa dạng về hình thức, tham gia nhiều hiệp định thương mại song phương, đa phương thế hệ mới; xuất, nhập khẩu, thu hút vốn đầu tư nước ngoài tăng mạnh, đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế.

Với những kết quả cơ bản trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta nhiệm kỳ qua như đã nêu trên, đó là minh chứng sống động, hùng hồn cho tính đúng đắn của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

    

NGUY HẠI TỪ NHỮNG THÔNG TIN XẤU ĐỘC TRÊN CÁC TRANG MẠNG


Thời gian qua, trên các trang mạng các thế lực thù địch đẩy mạnh các hoạt động chống phá ta trên nhiều lĩnh vực....Đặc biệt, lấy hiện tượng quy kết thành bản chất, thật giả lẫn lộn, bóp méo, xuyên tạc sự thật vào những sự kiện dư luận quan tâm bằng những kỹ xảo tinh vi của công nghệ, tạo dựng chuyện bằng cách lắp ghép, trích dẫn, cắt xén các lời phát ngôn, bài viết, hình ảnh… Mục đích của các thế lực thù địch, phản động là gây nhiễu loạn thông tin, làm cho người đọc, người xem thiếu kinh nghiệm dễ lầm tưởng, khó phân biệt, nhận diện thật - giả, đúng - sai.

Từ đó, đánh giá không đúng bản chất của vấn đề, sự kiện, nhân vật. Những luồng thông tin xấu độc làm ảnh hưởng đến niềm tin của người dân về sự lãnh đạo Đảng và điều hành của Nhà nước, ảnh hưởng đến khối đại đoàn kết toàn dân. Nguy hiểm hơn, nhiều thông tin kích động, tạo dựng mâu thuẫn, dẫn đến nhận thức sai lầm trong dư luận Nhân dân dẫn đến những hành động vi phạm pháp luật.

Trước những thông tin đó, đáng tiếc là một số người, trong đó có cả cán bộ, đảng viên do thiếu bản lĩnh chính trị, nhận thức chưa thấu đáo nên đã chia sẻ, bình luận làm thông tin có cơ hội phát tán trên không gian mạng. Nhiều người đã có những hành động thiếu suy nghĩ, lời lẽ thiếu khiêm tốn, vô tình tiếp tay để các thế lực thù địch, chống đối suy diễn, lợi dụng gây ảnh hưởng trong dư luận Nhân dân.

Chỉ đạo công tác đấu tranh tư tưởng, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: “Những luận điệu của các thế lực thù địch và các phần tử phản động, cơ hội chính trị… tuy không có gì mới, nhưng nó được tung ra, truyền bá vào lúc này là hết sức độc hại, nguy hiểm, gieo rắc hoang mang, nghi ngờ, phân tâm, mất niềm tin trong nội bộ ta, tác động hòng làm đội ngũ ta “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.

Chính vì vậy, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, chủ động nâng cao “sức đề kháng” đối với thông tin xấu độc, đấu tranh phản bác các thông tin sai trái, đặc biệt trên các trang mạng hiện nay là nhiệm vụ thường xuyên của cấp ủy, tổ chức Đảng, của cả hệ thống chính trị và mỗi cán bộ, đảng viên.

 

  

KIÊN ĐỊNH CON ĐƯỜNG ĐỘC LẬP DÂN TỘC GẮN LIỀN VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

 


Công cuộc đổi mới đất nước vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã được 35 năm. Nước ta bước vào thế kỷ XXI trên con đường xã hội chủ nghĩa mà Đảng, Bác Hồ và Nhân dân ta đã lựa chọn trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực diễn ra rất nhanh, phức tạp, khó lường; đất nước đang đứng trước nhiều thuận lợi, thời cơ đan xen với những khó khăn, thách thức, nhiều vấn đề mới đặt ra phải giải quyết. Đánh giá thành tựu 30 năm đổi mới, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã khẳng định: “Nhìn tổng thể, qua 30 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử”[1]; “Năm năm qua, nắm bắt thời cơ, thuận lợi; vượt qua thách thức, khó khăn, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đã nỗ lực phấn đấu đạt được những thành tựu rất quan trọng”[2]. Thành tựu đó đã chứng minh, chúng ta đã nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng sáng tỏ hơn; hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi mới, về xã hội xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta đã hình thành sáng tỏ. Đó là những cơ sở tư tưởng, lý luận cơ bản, quan trọng để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta kiên định con đường đã lựa chọn - độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.  



[1] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội - 2016, Tr.16.

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam, Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng (Tài liệu sử dụng tại Đại hội đảng bộ cấp huyện, cấp tỉnh và tương đương), Lưu hành nội bộ, Tháng 4-2020.

 

NHẬN THỨC VÀ GIẢI QUYẾT MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐỘC LẬP, TỰ CHỦ VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ

 


Trải qua gần 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, từ nhận thức lý luận và hoạt động thực tiễn, Đảng ta đã nhận rõ nhiều mối quan hệ đan xen nhau rất phức tạp, đòi hỏi phải giải quyết, xử lý đúng đắn, hiệu quả.

Trong Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng ta xác định phải đặc biệt chú trọng, nắm vững và giải quyết tốt các mối quan hệ lớn, trong đó có mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế. Văn kiện Đại hội XII của Đảng lại nhấn mạnh và cụ thể hóa hơn là mối quan hệ giữa độc lập tự chủ và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế. Để nhận thức đúng đắn và xử lý tốt mối quan hệ đó, Đảng đã chỉ rõ nguyên tắc và phương châm, phải xuất phát từ thực tiễn, bám sát thực tiễn đất nước, chú trọng nghiên cứu dự báo xu hướng phát triển của đất nước và thế giới, những diễn biến của khu vực, quốc tế tác động tới nước ta trên cả hai mặt thuận lợi và khó khăn, tích cực và tiêu cực để đón kịp, tận dụng thời cơ, chủ động vượt qua thách thức và nguy cơ, tôn trọng quy luật khách quan, không phiến diện, cực đoan, duy ý chí. Từ thực tiễn 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới cho thấy cần nhận thức sâu sắc hơn, tiếp tục bổ sung, phát triển và nâng cao chất lượng, hiệu quả giải quyết các mối quan hệ lớn về mặt tư tưởng, lý luận, đề ra quyết sách, tháo gỡ những rào cản, vướng mắc, tiếp tục phát triển đất nước nhanh và bền vững. Chú trọng xử lý tốt mối quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa tuân theo các quy luật thị trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa nhà nước, thị trường và xã hội; giữa tăng tưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường; giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ; giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội.

Đó là những mối quan hệ lớn phản ánh các quy luật mang tính biện chứng, những vấn đề lý luận cốt lõi về đường lối đổi mới ở nước ta. Đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta phải nhận thức đầy đủ, thật sự thấm nhuần, quán triệt sâu sắc và thực hiện thật tốt, thật hiệu quả./.

Chủ Nhật, 13 tháng 9, 2020

NHẬN DIỆN, ĐẤU TRANH KHÔNG KHOAN NHƯỢNG

 


 

Trong quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, một thế giới phẳng đã được hình thành nhờ sự phát triển vũ bão của CNTT và Internet. Mạng xã hội từ đó cũng phát triển rất nhanh, tác động rất lớn đến đời sống văn hóa, kinh tế, chính trị, xã hội của mỗi quốc gia.

Những năm gần đây, lợi dụng mạng xã hội các thế lực thù địch tăng cường các hoạt động tuyên truyền, phát tán nhiều loại thông tin sai trái với mức độ, tần suất ngày càng tăng, nhằm chống phá cách mạng nước ta, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Nhiều tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước đã quyết liệt chống phá ngày càng tinh vi, phức tạp trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, pháp luật, quốc phòng, an ninh trật tự.

Nhận thức được sự nguy hiểm đó, một bộ phận cán bộ, đảng viên, cựu chiến binh và nhân dân có ý thức tốt, có trình độ nhận thức cao; hiểu rõ, đầy đủ, đúng đắn các vấn đề thực tiễn đất nước đang diễn ra đã chủ động đấu tranh chống lại âm mưu của các thế lực thù địch, quyết tâm bảo vệ Đảng, Nhà nước và chế độ.

Bên cạch đó, một số kẻ cơ hội, thoái hóa, biến chất cố tình bóp méo, nói xấu, bôi đen, xuyên tạc chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, gây mất niềm tin trong nhân dân. Tuy chúng chiếm tỷ lệ ít nhưng cực kỳ nguy hiểm và đáng lo ngại, dễ dàng lôi kéo và được sự “hậu thuẫn” của số đông cư dân mạng thiếu hiểu biết gây bất ổn xã hội. Một bộ phận cư dân mạng trình độ nhận thức còn hạn chế có tâm lý đám đông, a dua, hùa theo.

Trong khi đó, những ý kiến phân tích, bình luận, phê phán của những người tích cực chiếm tỷ lệ chưa nhiều trên mạng xã hội nhưng họ là những con người bản lĩnh, rất kiên trì, chấp nhận hứng chịu "gạch đá"của những cư dân mạng thiếu hiểu biết và những kẻ phản động, đội lốt "dân chủ". Họ còn đơn độc trước một bộ phận lớn vô cảm, không quan tâm, thờ ơ với đất nước, với thời cuộc.

Không thể để các thế lực bất mãn và thù địch "lật sử", phủ nhận thành quả cách mạng mà máu, xương cha ông chúng ta đã đổ xuống hòng lật đổ chế độ. Với trách nhiệm của một công dân trước vận mệnh của đất nước, chúng ta kiên quyết đấu tranh trực diện, vạch mặt, đập tan các luận điệu sai trái và âm mưu thâm độc của các thế lực thù địch trên mạng xã hội nhằm bảo vệ Đảng, Nhà nước và chế độ ./.