Thứ Ba, 9 tháng 8, 2022

Nêu cao tính tự giác tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của cán bộ lãnh đạo, quản lý

 Trong điều kiện Đảng duy nhất cầm quyền, nâng cao tính tự giác tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của cán bộ lãnh đạo, quản lý có vai trò rất quan trọng đối với uy tín, năng lực của mỗi cán bộ, đối với sức mạnh của các cấp ủy, chính quyền; góp phần thực hiện nhiệm vụ chính trị của cơ quan, đơn vị, giữ vững vị thế cầm quyền của Đảng trong toàn bộ tiến trình lãnh đạo sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.

YÊU CẦU, NHIỆM VỤ VÀ TRÁCH NHIỆM TRƯỚC ĐẢNG, TRƯỚC NHÂN DÂN

Một là, tự giác tu dưỡng, rèn luyện đạo đức là yêu cầu, nhiệm vụ và trách nhiệm trước Đảng, trước nhân dân của cán bộ lãnh đạo, quản lý

Lý luận và thực tiễn đã khẳng định tu dưỡng, rèn luyện đạo đức là một biện pháp có ý nghĩa quan trọng để giữ vững tư cách của người cách mạng. Sinh thời, V.I.Lênin đã chỉ rõ, đảng cộng sản chỉ “thực sự là đội tiên phong của giai cấp công nhân cách mạng, nếu nó bao gồm những đại biểu ưu tú nhất của giai cấp đó, nếu nó gồm tất cả những chiến sĩ cộng sản hoàn toàn có ý thức và trung thành, có học vấn và được tôi luyện bằng kinh nghiệm đấu tranh cách mạng bền bỉ, nếu nó biết gắn liền với toàn bộ cuộc sống của giai cấp mình và thông qua giai cấp đó, gắn liền với tất cả quần chúng bị bóc lột, và biết làm cho giai cấp và quần chúng đó tin tưởng hoàn toàn vào mình”(1).

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhắc nhở cán bộ lãnh đạo, quản lý: “Trước nhất là cán bộ các cơ quan, các đoàn thể, cấp cao thì quyền to, cấp thấp thì quyền nhỏ. Dù to hay nhỏ, có quyền mà thiếu lương tâm là có dịp đục khoét, có dịp ăn của đút, có dịp “dĩ công vi tư””(2). Mỗi cán bộ, đảng viên, dù ở vị trí công tác nào cũng phải thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện để giữ vững phẩm chất đạo đức của người cách mạng. Thiếu tu dưỡng, rèn luyện đạo đức sẽ dễ dẫn đến suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, tự diễn biến, tự chuyển hóa, quan liêu, tham nhũng, lãng phí, vi phạm kỷ luật của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng, không có đạo đức cách mạng thì tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”(3). Vì vậy, tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của cán bộ lãnh đạo, quản lý để giữ gốc của người cách mạng, phải thực hành mọi lúc, mọi nơi, trong mọi hoàn cảnh.

Được Đảng, Nhà nước và nhân dân tin tưởng, trao những nhiệm vụ quan trọng, mỗi cán bộ lãnh đạo, quản lý phải xác định đó vừa là niềm vinh dự, vừa là trách nhiệm cao cả. Từng cán bộ lãnh đạo, quản lý phải thực hiện tốt trách nhiệm trước Đảng, trước nhân dân. Đó là trách nhiệm phòng, chống suy thoái về đạo đức, lối sống của bản thân và kiểm soát cấp dưới tu dưỡng, rèn luyện, chống mọi biểu hiện lợi dụng quyền lực để gây áp lực đối với những cá nhân có thẩm quyền trong quá trình thực thi công vụ trái với quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước nhằm trục lợi, kiên quyết đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí. Đó là việc chịu trách nhiệm về những sai phạm của cấp dưới, cơ quan, đơn vị,… Muốn làm tròn trách nhiệm đó, mỗi cán bộ lãnh đạo, quản lý phải tự giác tu dưỡng, rèn luyện, giữ vững phẩm chất đạo đức của người cách mạng. Do đó, tu dưỡng, rèn luyện đạo đức là trách nhiệm của cán bộ lãnh đạo, quản lý để giữ vững tư cách của người cách mạng, đồng thời tác động tích cực, lan tỏa rộng rãi trong cơ quan, đơn vị và tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng.

Hai là, tự giác tu dưỡng, rèn luyện đạo đức là một phương thức thực hiện trách nhiệm nêu gương của cán bộ lãnh đạo, quản lý

Trách nhiệm nêu gương là bổn phận, nghĩa vụ phải nêu gương của cán bộ lãnh đạo, quản lý trên các lĩnh vực được thể hiện trong đời sống, trong công tác. Thực hiện trách nhiệm nêu gương là hoạt động bắt buộc đối với cán bộ, đảng viên, là yêu cầu, nhiệm vụ của cán bộ lãnh đạo, quản lý để trách nhiệm nêu gương được hiện thực hóa trong công tác, trong đời sống, là tấm gương sáng cho cán bộ, đảng viên noi theo, tạo dựng lòng tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo, quản lý của cấp ủy đảng và chính quyền địa phương. Đây là đặc điểm quan trọng thể hiện đầy đủ bản chất của hoạt động chỉ đạo, quản lý, điều hành. Trách nhiệm nêu gương được thể hiện ở văn bản, giấy tờ, khẩu hiệu còn việc thực hiện trách nhiệm nêu gương phải được thể hiện bằng hoạt động thực tiễn với kết quả cụ thể. Đó phải là hoạt động nêu gương thực sự về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, ý thức tổ chức kỷ luật, lề lối làm việc, tác phong công tác, chức trách, nhiệm vụ được giao và các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng, là tấm gương sáng cho cán bộ, đảng viên noi theo, tạo dựng lòng tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo, quản lý của cấp ủy và chính quyền các cấp.

Kết quả thực hiện trách nhiệm nêu gương phụ thuộc rất lớn vào phương thức thực hiện, trong đó, tự giác tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của cán bộ lãnh đạo, quản lý là một phương thức hữu hiệu. Bên cạnh việc chấp hành các quy chế, quy định của Đảng, Nhà nước, của cơ quan, đơn vị, mỗi cán bộ phải tự nguyện, tự giác tu dưỡng rèn luyện, làm gương để cán bộ, đảng viên và nhân dân noi theo. Phương thức thực hiện trách nhiệm nêu gương này thể hiện ở hai nội dung chủ yếu sau:

Thứ nhất, thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện đạo đức.

Quy định số 08-QĐi/TW ngày 25/10/2018 của Ban Chấp hành Trung ương quy định về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Uỷ viên Bộ Chính trị, Uỷ viên Ban Bí thư, Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương đã quy định 8 nội dung mà cán bộ, đảng viên giữ chức vụ càng cao, càng phải gương mẫu “xây”, trong đó có trách nhiệm “Không ngừng học tập, tu dưỡng, rèn luyện, trau dồi đạo đức cách mạng. Mẫu mực về đạo đức, lối sống. Thực sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; trung thực, giản dị, thẳng thắn, chân thành”.

Bên cạnh đó, cán bộ lãnh đạo, quản lý còn có trách nhiệm kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng so sánh “tư tưởng cộng sản với tư tưởng cá nhân ví như lúa với cỏ dại. Lúa phải được chăm bón rất khó nhọc mới tốt được. Còn cỏ dại không cần chăm sóc cũng mọc lu bù. Tư tưởng cộng sản phải rèn luyện gian khổ mới có được. Còn tư tưởng cá nhân thì cũng như cỏ dại, sinh sôi, nảy nở rất dễ”(4). Tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của cán bộ lãnh đạo, quản lý được thể hiện qua việc luôn đặt lợi ích của Đảng, của Tổ quốc, của nhân dân lên trên lợi ích cá nhân, “lợi ích của cá nhân nhất định phải phục tùng lợi ích của Đảng… Vô luận lúc nào, vô luận việc gì, đảng viên và cán bộ phải đặt lợi ích của Đảng ra trước, lợi ích của cá nhân lại sau. Đó là nguyên tắc cao nhất của Đảng. Đó là “tính Đảng””(5). Bằng việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, cán bộ lãnh đạo, quản lý không chỉ nêu gương về giữ vững tư cách của người cách mạng, phòng, chống sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, mà còn có ý nghĩa giáo dục sâu sắc đối với cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân, tạo sự lan tỏa rộng rãi tấm gương “người tốt”, “việc tốt” trong toàn xã hội.

Thứ hai, thường xuyên học tập, nâng cao trình độ, năng lực công tác.

Tự giác học tập, bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn, lý luận chính trị, năng lực công tác của cán bộ lãnh đạo, quản lý là một phương thức thực hiện trách nhiệm nêu gương trước cán bộ, đảng viên. Thông qua tự giác học tập nâng cao trình độ, cán bộ lãnh đạo, quản lý thực hiện tốt thẩm quyền, trách nhiệm trong hoạt động lãnh đạo, quản lý đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị của Đảng, của đất nước, của địa phương trong tình hình mới. Người xưa dặn “Bất học thi, vô dĩ ngôn” (không học thì lấy cái gì mà nói). Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Muốn rèn luyện đạo đức cách mạng, thì chúng ta phải ra sức học tập, tu dưỡng, tự cải tạo để tiến bộ mãi. Nếu không cố gắng để tiến bộ, thì tức là thoái bộ, là lạc hậu”(6). Trong điều kiện Đảng Cộng sản Việt Nam duy nhất cầm quyền, Đảng có vai trò, trách nhiệm lãnh đạo Nhà nước và các lĩnh vực của đời sống xã hội đi lên chủ nghĩa xã hội. Đó là trách nhiệm nặng nề, khó khăn và phức tạp, đòi hỏi đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng vừa phải có đạo đức cách mạng trong sáng, vừa phải có năng lực, trình độ đáp ứng yêu cầu lãnh đạo, quản lý của từng ngành, từng địa phương.

THỰC TIỄN TỰ GIÁC TU DƯỠNG, RÈN LUYỆN ĐẠO ĐỨC CỦA CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ

Trong những năm qua, đa số cán bộ lãnh đạo, quản lý đã nhận thức và thực hiện tốt việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, giữ vững được phẩm chất, tư cách của người cách mạng, góp phần quan trọng trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, giữ vững vị thế, năng lực cầm quyền của Đảng đối với Nhà nước và xã hội. Việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của cán bộ lãnh đạo, quản lý gắn liền với nội dung thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị ngày 15/5/2016 về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và Nghị quyết Trung ương 4 khoá XI, XII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Tổng kết 4 năm thực hiện Nghị quyết số 04-NQ/TWW ngày 30/10/2016 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; những biểu hiện "tự diễn biến, tự chuyển hoá" trong nội bộ, Đảng đã khẳng định: "Nhận thức, trách nhiệm của cấp uỷ, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được nâng lên; nhận diện sâu sắc, đầy đủ hơn các biểu hiện suy thoái, "tự diễn biến, tự chuyển hoá"... Nhiều tấm gương điển hình, tiên tiến được nhân rộng, lan toả trong đời sống xã hội"(7).

Tuy nhiên, vẫn còn một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý thiếu tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, bị lợi ích vật chất, quyền lực cám dỗ, sa vào chủ nghĩa cá nhân, thoái hóa, biến chất, vi phạm kỷ luật của Đảng, pháp luật của Nhà nước, trong đó "Việc cam kết tu dưỡng, rèn luyện, gắn với thực hiện trách nhiệm nêu gương của một bộ phận cán bộ, đảng viên hiệu quả chưa cao"(8). Một số cán bộ lãnh đạo, quản lý thực hiện không đúng quy trình, quy định trong công tác cán bộ, tham nhũng, lãng phí, làm thất thoát tài sản Nhà nước, vi phạm những điều đảng viên không được làm,… Nhiệm kỳ 2015-2020, có 2209 cán bộ đảng viên bị thi hành kỷ luật liên quan đến tham nhũng, trong đó có 113 cán bộ diện Trung ương quản lý cả đương chức và đã nghỉ hưu (9). Gần đây, không ít cán bộ lãnh đạo, quản lý vi phạm bị xử lý kỷ luật...

Thực trạng đó do nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân chủ yếu là do “thiếu tu dưỡng, rèn luyện; lập trường tư tưởng không vững vàng, hoang mang, dao động trước những tác động từ bên ngoài; sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, hẹp hòi, bị cám dỗ bởi các lợi ích vật chất, không làm tròn trách nhiệm, bổn phận của mình trước Đảng, trước dân” (10).

NÊU CAO TINH THẦN TỰ GIÁC TU DƯỠNG, RÈN LUYỆN ĐẠO ĐỨC CỦA CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ

Nêu cao tinh thần tự giác tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của cán bộ, đảng viên là một nội dung quan trọng trong xây dựng Đảng về đạo đức đã được Đảng đã xác định tại Đại hội lần thứ XIII. Trong cuốn sách Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng yêu cầu: “Nêu cao tinh thần tự giác, tu dưỡng rèn luyện đạo đức của cán bộ, đảng viên, chức vụ càng cao càng phải gương mẫu”(11). Đây là một biện pháp để tăng cường và nâng cao hiệu quả xây dựng Đảng về đạo đức, đồng thời là một phương thức để cán bộ lãnh đạo, quản lý thực hiện tốt trách nhiệm nêu gương, góp phần lan tỏa trong nhận thức và hành động của đảng viên, cán bộ, công chức trong cả hệ thống chính trị. Tuy nhiên, giải pháp này khó, phức tạp, cần phải quyết tâm, kiên trì, bền bỉ và có sự tham gia của cả hệ thống chính trị với các biện pháp cụ thể sau:

Một là, nâng cao nhận thức, trách nhiệm tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của cán bộ lãnh đạo, quản lý.

Cán bộ lãnh đạo, quản lý phải tu dưỡng, rèn luyện về tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống, thực sự giữ gìn và thực hành chuẩn mực đạo đức cách mạng, đồng thời, không ngừng chủ động học tập, nâng cao trình độ, năng lực công tác thông qua nhiều hình thức, biện pháp khác nhau. Xác định rõ mục đích tu dưỡng, rèn luyện nâng cao phẩm chất, năng lực chính là để thực hiện trách nhiệm của cán bộ, đảng viên. Đó là trách nhiệm suốt đời phấn đấu, hy sinh cho lý tưởng của Đảng, đặt lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân lên trên lợi ích cá nhân, biết hy sinh lợi ích cá nhân để phục vụ lợi ích chung của cách mạng; trách nhiệm gương mẫu thực hiện tốt nhiệm vụ do Điều lệ Đảng, do tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể phân công. Mỗi cán bộ lãnh đạo, quản lý phải nhận thức đầy đủ, đúng đắn và thường xuyên tu dưỡng rèn luyện, giữ vững phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, thực hiện đúng chức trách, nhiệm vụ được giao, luôn giữ được chữ “tín” trước cấp dưới và nhân dân để lãnh đạo địa phương, cơ quan, đơn vị ngày càng phát triển.

Bên cạnh đó, đối với mỗi cán bộ lãnh đạo, quản lý, việc tăng cường tu dưỡng, rèn luyện chính là để xây dựng hình ảnh, uy tín của người cán bộ, từng bước nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý, điều hành các lĩnh vực ở địa phương. Tự giác tu dưỡng, rèn luyện của cán bộ lãnh đạo, quản lý phải được thể hiện từ nhận thức đến hành động, trên tất cả các mặt, các lĩnh vực, đặc biệt trong công tác. Hiện nay, việc tu dưỡng, rèn luyện của cán bộ lãnh đạo, quản lý cần được thực hiện một cách nghiêm túc, tự giác, có hiệu quả gắn với những nội dung của Kết luận số 01-KL/TW, ngày 18/5/2021 mới đây của Bộ Chính trị về việc tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, trong đó, chú trọng quán triệt, tập trung làm tốt ba vấn đề: Học tập, làm theo Bác và nêu gương của cán bộ, đảng viên.

Hai là, cán bộ lãnh đạo, quản lý phải tích cực, tự giác chủ động trong việc tu dưỡng, rèn luyện, nâng cao phẩm chất đạo đức, trình độ, năng lực phục vụ nhiệm vụ chính trị của cơ quan, địa phương, đơn vị. Đây là yêu cầu đòi hỏi mỗi cán bộ lãnh đạo, quản lý phải nghiêm túc, tự giác thực hiện, không phụ thuộc vào các chế tài, quy định mà phải coi tu dưỡng, rèn luyện như “rửa mặt hàng ngày”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Đạo đức cách mạng không phải ở trên trời sa xuống, nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”(12). Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng nhắc nhở: “Mỗi cán bộ, đảng viên phải tự giác học tập, ra sức tu dưỡng, rèn luyện để không ngừng nâng cao trình độ nhận thức, trở thành những con người có văn hóa, có liêm sỉ”(13). Đảng cũng yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên phải “nâng cao ý thức tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng suốt đời, “tự soi”, “tự sửa” và nêu cao danh dự, lòng tự trọng của người đảng viên”(14).

Dù ở vị trí công tác nào, mỗi cán bộ lãnh đạo, quản lý phải không ngừng tu dưỡng, rèn luyện để nâng cao uy tín trước Đảng, trước nhân dân. Đồng thời, cán bộ lãnh đạo, quản lý phải luôn nghiêm khắc với bản thân, thực hiện tự phê bình nghiêm túc, tự giác để phát hiện và thông báo với tập thể những hạn chế, yếu kém, nhất là trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, điều hành để tìm ra phương hướng, kế hoạch khắc phục.

Hằng tháng, hằng quý, cán bộ lãnh đạo, quản lý phải tự xem xét, đánh giá kết quả thực hiện trách nhiệm nêu gương trên các mặt trước tập thể chi bộ, tập thể cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy, đề ra các biện pháp khắc phục khuyết điểm và chịu sự giám sát thường xuyên của tập thể nơi công tác và cư trú.

Ba là, cán bộ lãnh đạo, quản lý cần xây dựng và quyết tâm thực hiện kế hoạch tu dưỡng, rèn luyện thông qua các bản cam kết, chương trình hành động, bản đăng ký thực hiện trách nhiệm nêu gương và công khai trước tập thể đảng viên, cán bộ, công chức và nhân dân.  

Bên cạnh đó, để thực hiện trách nhiệm nêu gương thông qua bản cam kết, chương trình hành động có hiệu quả, khắc phục tình trạng nêu gương bằng báo cáo, giấy tờ, hình thức, khẩu hiệu, cán bộ lãnh đạo, quản lý cần phải nêu cao quyết tâm thực hiện trách nhiệm nêu gương, phải xác định rõ nội dung, biện pháp thực hiện.

Bốn là, phát huy vai trò của cả hệ thống chính trị đối với việc nêu cao tinh thần tự giác tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của cán bộ lãnh đạo, quản lý. Các tổ chức trong hệ thống chính trị có vai trò rất quan trọng trong việc xây dựng và hoàn thiện chuẩn mực đạo đức của cán bộ, đảng viên, đồng thời, có vai trò phát hiện những biểu hiện thiếu tu dưỡng, rèn luyện đạo đức trong cán bộ, đảng viên để kịp thời xử lý và phát hiện, biểu dương, khen thưởng và nhân rộng những tấm gương điển hình về tu dưỡng, rèn luyện đạo đức để kích thích, khơi dậy tinh thần tu dưỡng, phấn đấu, rèn luyện, nâng cao đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên.

Đại hội XIII lần thứ của Đảng chỉ rõ: “Thực hiện có hiệu quả việc giám sát của các cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân đối với việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu và cán bộ chủ chốt”(16). Các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội phải căn cứ vào các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước, thực hiện kiểm tra, giám sát trên tất cả các mặt, kết hợp nhiều phương thức quản lý, kiểm tra, giám sát: Kiểm tra, giám sát từ trên xuống (người đứng đầu kiểm tra, giám sát cấp dưới), kiểm tra giám sát từ dưới lên (đảng viên kiểm soát cán bộ lãnh đạo, quản lý) và phát huy vai trò của nhân dân kiểm soát cán bộ, đảng viên thực hiện tu dưỡng, rèn luyện. Bên cạnh đó, cần thực hiện tốt các quy chế, quy định của các cấp ủy địa phương về công tác kiểm tra, giám sát cán bộ, đảng viên tu dưỡng, rèn luyện đạo đức.

Để giám sát có hiệu quả đối với việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của cán bộ lãnh đạo, quản lý, các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị cần nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện chuẩn mực đạo đức cách mạng phù hợp với điều kiện mới và truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc để làm cơ sở cho cán bộ, đảng viên tự giác tu dưỡng, rèn luyện, tự điều chỉnh hành vi ứng xử trong công việc hàng ngày. Nâng cao khả năng dự báo về những hành vi vi phạm của tổ chức đảng, đảng viên trong điều kiện kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và sự phát triển nhanh chóng của khoa học, công nghệ để đề ra các chủ trương, biện pháp phát hiện, phòng ngừa, ngăn chặn vi phạm từ xa, từ sớm. Đó vừa là căn cứ để mỗi cán bộ lãnh đạo, quản lý tu dưỡng, rèn luyện, vừa là cơ sở để các cấp ủy, tổ chức đảng, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân kiểm tra, giám sát việc thực hiện tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của cán bộ lãnh đạo, quản lý.

Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ là nhiệm vụ quan trọng của toàn Đảng và hệ thống chính trị, cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp, trong đó nêu cao tinh thần tự giác tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của cán bộ lãnh đạo, quản lý là một trong những yêu cầu, nhiệm vụ của các cấp ủy, tổ chức đảng và bản thân từng cán bộ lãnh đạo, quản lý.

Trước sự tác động nhiều mặt, nhiều chiều từ xã hội, tự giác tu dưỡng, rèn luyện vừa là biện pháp quan trọng để giữ vững tính tiên phong, gương mẫu của cán bộ lãnh đạo, quản lý vừa thể hiện tính kiên định, tính chiến đấu của người cán bộ, đảng viên. Vì vậy, phải tiếp tục nêu cao tinh thần tự giác tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của cán bộ, đảng viên nói chung, cán bộ lãnh đạo, quản lý nói riêng đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ phát triển đất nước trong tình hình mới./.

------------------------

(1) V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1979, t.8, tr.38.

(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2011, t. 6, tr.127.

(3) (5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr.291, 290-291.

(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr. 222.

(6) (12) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11, tr.602, 612.

(7) Kết luận số 21-KL/TW ngày 25/10/2021 Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XIII về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống, biểu hiện "tự diễn biến, tự chuyển hoá".

(8) (11) (13)Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2022, tr.332, 270, 327.

(9) (14) (16) Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2021, t.II, tr. 208, 237, 288.

(10) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII, Văn phòng Trung ương Đảng, H, 2016, tr.24-25.

PGS. TS. Đinh Ngọc Giang - TS. Nguyễn Thị Thảo

Phát huy phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”, kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân, xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị trong tình hình mới

Phẩm chất cao đẹp, danh hiệu cao quý “Bộ đội Cụ Hồ” là hồn cốt, là cội nguồn sức mạnh, là thành trì của Quân đội nhân dân Việt Nam. Song, giá trị cốt lõi đó đang chịu sự tác động, chống phá từ nhiều mặt; trong đó, chủ nghĩa cá nhân là sự phá hoại nội sinh, nguy hiểm nhất, khó chống đỡ nhất. Vì vậy, kiên quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân là nhiệm vụ chính trị đặc biệt quan trọng, vừa cấp bách, cần làm ngay, vừa thường xuyên, lâu dài của các cấp ủy, tổ chức đảng; là trách nhiệm của mọi cán bộ, đảng viên và quần chúng trong Quân đội, trước hết là đội ngũ cấp ủy viên, cán bộ chủ trì các cấp.

Kiên quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân để phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” phát huy, tỏa sáng, góp phần xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị đòi hỏi phải tiến hành tổng thể các hoạt động của cấp ủy, chỉ huy các cấp trong lãnh đạo, chỉ đạo và quá trình tu dưỡng, rèn luyện, thực hiện chức trách, nhiệm vụ của mỗi quân nhân; trong đó, cần tập trung thực hiện tốt một số giải pháp sau:

Một là, tăng cường công tác giáo dục, tuyên truyền. Những giá trị cốt lõi của “Bộ đội Cụ Hồ” được hun đúc và xuất phát từ chính nhận thức, tình cảm và trách nhiệm vì Tổ quốc, vì nhân dân của mỗi cán bộ, chiến sĩ. Đối lập với đó, gốc rễ chủ nghĩa cá nhân cũng nảy sinh từ những nhận thức sai trái, lệch lạc của mỗi quân nhân. Vì vậy, giải pháp nền tảng, xuyên suốt là thường xuyên giáo dục, tuyên truyền làm cho mọi cán bộ, chiến sĩ thực sự giác ngộ mục tiêu, lý tưởng cách mạng; luôn thấm sâu trong nhận thức rằng: giữ gìn và phát huy phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”, kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân vừa là trách nhiệm của thế hệ hôm nay với những cống hiến, hy sinh to lớn của thế hệ cha anh đi trước, vừa là nhu cầu khẳng định bản thân cũng như giá trị của “Bộ đội Cụ Hồ” trong xã hội hiện nay. Để đạt hiệu quả, cấp ủy, tổ chức đảng các cấp cần nhận thức đúng và coi trọng lãnh đạo thực hiện tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng với tinh thần đổi mới, sáng tạo, thực chất. Nội dung giáo dục phải toàn diện, song cần tập trung vào những vấn đề cốt lõi là: chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; mục tiêu, lý tưởng cách mạng; các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, Quân ủy Trung ương; đạo đức cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư và tinh thần suốt đời phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân của người quân nhân cách mạng. Trong tiến hành giáo dục phải không ngừng đổi mới nội dung, phương pháp bằng nhiều hình thức phong phú, đa dạng, sinh động, phù hợp với từng đối tượng. Đồng thời, kết hợp chặt chẽ với nắm bắt tư tưởng, kịp thời phát hiện, giải quyết từ gốc những vấn đề nảy sinh, đặc biệt là tư tưởng bất mãn, dao động, v.v. Cùng với đó, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền gương người tốt, việc tốt trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, phấn đấu xứng danh “Bộ đội Cụ Hồ”,… tạo sự lan tỏa sâu rộng trong đơn vị. Qua đó, xây dựng cho cán bộ, chiến sĩ luôn có bản lĩnh chính trị vững vàng, tuyệt đối tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng; khơi dậy niềm vinh dự, tự hào, khát vọng cống hiến, khắc phục mọi khó khăn, thử thách, “vượt qua chính mình” trước những “cám dỗ” về vật chất, địa vị và sự lôi kéo, kích động của các thế lực thù địch để toàn tâm, toàn ý phấn đấu thực hiện mục tiêu, lý tưởng cách mạng của Đảng, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.

Hai là, nêu cao ý thức “tự soi, tự sửa” trong tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của mỗi quân nhân. Chủ nghĩa cá nhân nảy sinh trước hết từ mỗi cá nhân. Cá nhân lơ là, xem nhẹ, buông lỏng, thiếu ý thức tu dưỡng, rèn luyện đạo đức sẽ dẫn tới tha hóa, biến chất, thậm chí phản bội Tổ quốc. Đây cũng là điều mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng chỉ rõ: “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”1. Vì vậy, trong tu dưỡng đạo đức cách mạng, mỗi quân nhân phải thường xuyên nghiêm túc “tự soi, tự sửa”, coi đó là nghĩa vụ, trách nhiệm, mục tiêu của bản thân. Để làm được điều đó, phải tự giác, thật thà, thẳng thắn “tự soi” những tồn tại, hạn chế, khuyết điểm của mình, nhất là hạn chế trong tư tưởng, suy nghĩ (mầm mống của suy thoái về tư tưởng chính trị), từ đó chủ động “tự sửa” với các biện pháp tích cực, nhằm ngăn chặn, đẩy lùi, loại bỏ những suy nghĩ và hành động trái với đạo đức của người quân nhân cách mạng.

Hiện nay, đạo đức của người quân nhân cách mạng chịu sự tác động của nhiều yếu tố; trong đó, lợi ích vật chất, “lợi ích cá nhân” là vấn đề cốt yếu, dẫn đến nhiều sai phạm. Vì vậy, mỗi quân nhân, nhất là cán bộ, chủ trì các cấp phải giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa lợi ích chung và lợi ích riêng theo nguyên tắc: luôn đặt lợi ích của cách mạng, của Đảng, của nhân dân, của Quân đội và tập thể cơ quan, đơn vị lên trên hết, trước hết; không được cơ hội, vụ lợi, thu vén vì lợi ích cho bản thân, gia đình mà bỏ qua lợi ích tập thể. Bởi, thực tiễn cho thấy: chỉ khi nào mọi quân nhân, nhất là đội ngũ cán bộ, đảng viên hết lòng, hết sức cho sự ổn định, phát triển của cơ quan, đơn vị thì khi đó chủ nghĩa cá nhân được đẩy lùi và phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” được gìn giữ, bồi đắp và phát huy.

Ba là, xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp vừa hồng, vừa chuyên. Đây là giải pháp căn bản nhất để đẩy lùi chủ nghĩa cá nhân trong từng cơ quan, đơn vị. Bởi, cán bộ là cái gốc của mọi công việc. Cán bộ tốt thì xây phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” thuận lợi; cán bộ xấu thì chống “chủ nghĩa cá nhân” rất khó khăn. Vì vậy, trong xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ chủ trì các cấp, vấn đề quan trọng hàng đầu là: phẩm chất đạo đức trong sáng, ý thức tổ chức kỷ luật nghiêm; kiến thức, năng lực toàn diện,… đặc biệt là, bản lĩnh chính trị vững vàng, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, với Nhân dân; giữ vững và phát huy phẩm chất cao đẹp “Bộ đội Cụ Hồ”; đề cao trách nhiệm nêu gương, quyết tâm đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, sẵn sàng đương đầu với khó khăn, thử thách, luôn nỗ lực hành động vì lợi ích chung của đất nước, Quân đội và đơn vị. Để có được đội ngũ cán bộ như vậy, các cấp ủy, tổ chức đảng cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt, triển khai đồng bộ các giải pháp đổi mới, nâng cao chất lượng ở tất cả các khâu, các bước trong công tác cán bộ theo phương châm thẳng thắn, khách quan, minh bạch, công khai. Triệt để loại bỏ tư tưởng cục bộ địa phương, “kéo bè, kéo cánh”, trù dập, chèn ép,… trong công tác cán bộ, tạo động lực mạnh mẽ để mọi cán bộ yên tâm công tác, phát huy hết năng lực, sở trường; có cơ hội và môi trường thuận lợi để cống hiến và phát triển.

Bốn là, thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ. Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với Quân đội là nguyên tắc bất biến. Và, tập trung dân chủ là nguyên tắc nền tảng, vô cùng quan trọng, góp phần bảo đảm cho Quân đội vững mạnh về chính trị, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Chính vì thế, vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ được xác định là một trong những nguyên nhân cơ bản của nhiều vụ việc vi phạm ở một số tổ chức, cá nhân trong Quân đội thời gian qua. Vì vậy, các cấp ủy cần tiếp tục thực hiện nghiêm Quy định số 104-QĐ/QU, ngày 16/02/2017 của Quân ủy Trung ương về “Một số vấn đề cơ bản về thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ của tổ chức đảng trong Đảng bộ Quân đội nhân dân Việt Nam”. Trong đó, những vấn đề trọng yếu, nhạy cảm, dễ phát sinh tiêu cực, tham nhũng, như: công tác quân lực, công tác cán bộ; công tác tài chính, mua sắm vật tư, trang bị, tài sản công; xây dựng cơ bản, quy hoạch quản lý, sử dụng đất và công trình quốc phòng; chính sách nhà ở, đất ở của cán bộ,… nhất thiết phải được tập thể cấp ủy, tổ chức đảng thông qua mới thực hiện. Trong sinh hoạt đảng, nhất là ở chi bộ, từng đảng viên phải đề cao trách nhiệm tự phê bình và phê bình, bày tỏ chính kiến thẳng thắn, trung thực, khách quan, thấy đúng phải kiên quyết bảo vệ, thấy sai dám đấu tranh bác bỏ. Những vấn đề quan trọng, những ý kiến khác nhau phải được thảo luận kỹ, kết luận rõ ràng trước khi biểu quyết. Thực hiện tốt nội dung này sẽ ngăn chặn đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ chủ trì - những người có chức, quyền sa vào chủ nghĩa cá nhân ngay từ gốc. Bởi, chi bộ là nơi quản lý, rèn luyện, giáo dục đảng viên.

Năm là, đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát; kiên quyết xử lý nghiêm các sai phạm. Để tạo sức mạnh trong đấu tranh, ngăn chặn và quyét sạch chủ nghĩa cá nhân, cấp ủy, tổ chức đảng các cơ quan, đơn vị cần tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác kiểm tra, kiểm soát theo nguyên tắc: mọi quyền lực đều phải được kiểm soát chặt chẽ bằng cơ chế, quyền hạn, phải được ràng buộc bằng trách nhiệm, bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch; nhất là trong công tác cán bộ và các lĩnh vực dễ để chủ nghĩa cá nhân chi phối dẫn đến nảy sinh tiêu cực, tham nhũng, lãng phí. Ủy ban kiểm tra các cấp cần tăng cường công tác kiểm tra định kỳ, đột xuất để kịp thời cảnh báo, phòng ngừa và xử lý sai phạm, kiên quyết không để lọt những người không bảo đảm tiêu chuẩn, điều kiện, có biểu hiện cơ hội chính trị, tham vọng quyền lực, tư duy nhiệm kỳ vào đội ngũ cán bộ lãnh đạo, chỉ huy, quản lý. Phối hợp chặt chẽ giữa công tác bảo vệ chính trị nội bộ với công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, chủ động nắm chắc tình hình mọi mặt của cơ quan, đơn vị, kịp thời phát hiện, ngăn ngừa các biểu hiện, hành vi của chủ nghĩa cá nhân, vi phạm đạo đức, phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” từ sớm, từ xa. Kiên quyết xử lý nghiêm các tổ chức, cá nhân vi phạm pháp luật Nhà nước, kỷ luật đảng, kỷ luật Quân đội theo tinh thần không có “vùng cấm”, loại bỏ “cành sâu, mục để giữ cho cây khỏe mạnh” ngay trong từng cơ quan, đơn vị.

Cùng với đó, các cấp ủy, cơ quan, đơn vị cần chăm lo xây dựng tổ chức đảng, tổ chức chỉ huy trong sạch, vững mạnh, các tổ chức quần chúng vững mạnh xuất sắc; đồng thời, xây dựng môi trường văn hóa tốt đẹp, phong phú, lành mạnh, tạo điều kiện thuận lợi để đấu tranh quyét sạch chủ nghĩa cá nhân, làm cho phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” được phát huy và lan tỏa sâu rộng.

Tiến hành các giải pháp trên đòi hỏi nhận thức sâu sắc, quyết tâm chính trị cao, hành động quyết liệt, chủ động, sáng tạo của cấp ủy, chỉ huy các cấp và cán bộ, chiến sĩ toàn quân. Thực hiện tốt nội dung quan trọng này không chỉ làm cho chủ nghĩa cá nhân bị quyét sạch, mà còn tô thắm và làm sáng mãi phẩm chất cao đẹp “Bộ đội Cụ Hồ”, góp phần xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị, nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu; xứng đáng là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu trung thành, bảo vệ Đảng, Nhà nước và Nhân dân.

______________

1 - Hồ Chí Minh – Toàn tập, Tập 9, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 293.

ĐÌNH PHIẾM - PHẠM TUẤN - ĐÌNH BẰNG - MINH ĐỨC - LÊ PHONG

Nga giải thích lý do không sử dụng vũ khí hạt nhân ở Ukraine

 

Moskva nói rằng học thuyết hạt nhân của họ rất rõ ràng và cuộc xung đột hiện tại ở Ukraine không đáp ứng bất kỳ tiêu chí nào.

 


Tên lửa đạn đạo xuyên lục địa RS-28 Sarmat trong vụ phóng thử nghiệm từ Sân bay vũ trụ Plesetsk, Nga, ngày 24/4/2022. Ảnh: Bộ Quốc phòng Nga/Sputnik

Người đứng đầu phái đoàn của Moskva tham dự hội nghị đánh giá Hiệp ước Không phổ biến vũ khí hạt nhân (NPT) của Liên hợp quốc tại New York, ông Andrey Belousov ngày 5/8 cho biết những cáo buộc về việc Nga đe dọa sử dụng vũ khí hạt nhân chống lại Ukraine là “không thể xác nhận và vô căn cứ”.

“Điều này là không thể vì các hướng dẫn học thuyết của Nga giới hạn nghiêm ngặt các tình huống khẩn cấp trong đó giả định có thể sử dụng vũ khí hạt nhân, cụ thể là đối phó với hành động gây hấn liên quan đến vũ khí hủy diệt hàng loạt, hoặc đối phó với hành động gây hấn liên quan đến vũ khí thông thường, nơi mà sự tồn vong của quốc gia bị đe doạ”, đài RT dẫn lời giải thích của ông Belousov.

Quan chức này tuyên bố: “Không có kịch bản giả định nào phù hợp với tình hình ở Ukraine”.

Nhà ngoại giao Nga cũng bác bỏ những lời bóng gió về việc Moskva đặt lệnh răn đe hạt nhân ở trạng thái “cảnh giác cao độ”, giải thích rằng tình trạng “tăng cường cảnh giác” hiện nay, với các nhân sự bổ sung làm nhiệm vụ tại các sở chỉ huy chiến lược, là “hoàn toàn khác” so với “tình trạng thực tế cảnh giác cao độ của các lực lượng hạt nhân chiến lược ”.

Mặc dù ông Belousov không nêu tên những người đưa ra cáo buộc Nga, nhưng phản ứng của ông được đưa ra sau khi phái đoàn Ukraine tham dự hội nghị NPT hôm 3/8 cáo buộc Moskva theo "chủ nghĩa khủng bố hạt nhân" và "công khai đe dọa thế giới bằng khả năng sử dụng vũ khí hạt nhân", trích dẫn phát ngôn của “các phương tiện truyền thông, các tổ chức tư vấn và các chuyên gia Nga”.

Hôm 1/8, Ngoại trưởng Mỹ Antony Blinken cũng cáo buộc Nga "liều lĩnh và nguy hiểm rút thanh kiếm hạt nhân" trước "những người ủng hộ quyền tự vệ của Ukraine."

Nhà ngoại giao Belousov lập luận rằng bất kỳ cảnh báo nào về “nguy cơ chiến tranh hạt nhân nghiêm trọng” từng được các quan chức Nga thực tế đưa ra trong bối cảnh khủng hoảng Ukraine luôn hướng về NATO, như một cách để ngăn chặn các nước phương Tây gây hấn trực tiếp, vì họ đã “tới một cách nguy hiểm bênrìa một cuộc đối đầu vũ trang trực tiếp với Nga. ”

Trong bức thư gửi những người tham gia hội nghị NPT hôm 1/8, Tổng thống Nga Vladimir Putin nhắc lại rằng sẽ không có người chiến thắng trong một cuộc chiến tranh hạt nhân và nó không bao giờ được phép xảy ra.

Tổng thống Mỹ Joe Biden trong tuần này đã tuyên bố rằng Washington sẵn sàng đàm phán khẩn cấp “một khuôn khổ kiểm soát vũ khí mới” với Moskva. Tuy nhiên, theo Ngoại trưởng Sergey Lavrov, Mỹ vẫn chưa đưa ra bất kỳ đề xuất nào liên quan đến một thỏa thuận có khả năng thay thế Hiệp ước Cắt giảm Vũ khí Chiến lược.

Hiệp ước New START vẫn là thỏa thuận kiểm soát vũ khí lớn duy nhất giữa Moskva và Washington vẫn còn hiệu lực. Vào đầu năm 2021, thỏa thuận sắp hết hạn, nhưng cuối cùng nó đã được cứu vãn ngay sau lễ nhậm chức của Tổng thống Biden, khi Washington cuối cùng cũng đồng ý với lời kêu gọi của Moskva về gia hạn thỏa thuận mà không có bất kỳ điều kiện tiên quyết nào. New START sẽ hết hạn vào năm 2026.

baotintuc.vn

Quyền tự do về tôn giáo - tuyệt đối không đứng ngoài pháp luật

Quyền “tự do tôn giáo” là những quyền tự nhiên, vốn có và khách quan của con người được ghi nhận và bảo vệ bởi pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế. Song, lợi dụng quyền tự do tôn giáo để đòi “tự do tuyệt đối về tôn giáo” - đứng ngoài pháp luật dù mục đích nào cũng đều phi thực tiễn, không thể chấp nhận. Theo văn bản pháp lý của Liên hợp quốc: Mặc dù là một quyền cơ bản của con người, nhưng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo không phải là tuyệt đối mà là một quyền tương đối, có giới hạn. Điều này được chỉ rõ tại Khoản 2, Điều 29, Tuyên ngôn Nhân quyền thế giới năm 1948: “Khi hưởng thụ các quyền và tự do của mình, mọi người chỉ phải tuân thủ những hạn chế do luật định, nhằm bảo đảm sự công nhận và tôn trọng thích đáng đối với các quyền và tự do của người khác, cũng như nhằm đáp ứng những yêu cầu chính đáng về đạo đức, trật tự công cộng và phúc lợi chung trong một xã hội dân chủ”; Khoản 3, Điều 18, Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966: “Quyền tự do bày tỏ tôn giáo hoặc tín ngưỡng chỉ có thể bị giới hạn bởi pháp luật và khi sự giới hạn đó là cần thiết để bảo vệ an ninh, trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức xã hội, hoặc để bảo vệ các quyền và tự do cơ bản của người khác”. Như vậy, quan niệm cho rằng “tự do tuyệt đối về tôn giáo” là sự cố tình phớt lờ nội dung cốt lõi của các văn bản pháp lý quốc tế, nhằm can thiệp, phá hoại hệ thống pháp lý các quốc gia về tín ngưỡng, tôn giáo của các thế lực thù địch, phản động. Sở dĩ có quan niệm cho rằng “tự do tuyệt đối về tôn giáo”, là bởi họ đã cố tình vin vào cái gọi là “thuyết nhân quyền tự nhiên” về quyền tự do tuyệt đối, vĩnh hằng, không bị giới hạn “không một chủ thể nào, kể cả nhà nước, có thể ban phát hay tước bỏ các quyền bẩm sinh, vốn có của con người”. Đây là điều hết sức phi lý. Vì trong xã hội, nếu không có hoạt động quản lý của nhà nước thì các quyền tự do cơ bản của con người không thể thực hiện, tất yếu sẽ dẫn đến mất ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích của người dân. Bên cạnh một số ít quyền tuyệt đối, như: quyền được sống, còn lại đa số các quyền đều là quyền tương đối, thụ hưởng các quyền đó phải có điều kiện, phải chịu sự chế ước của xã hội. Điều đó càng có sức thuyết phục khi mỗi tín đồ tôn giáo đồng thời là công dân, được thực hiện các quyền của mình, nhưng phải thực hiện nghĩa vụ công dân, tuân thủ pháp luật nhà nước. Như vậy, ở bất cứ quốc gia nào trên thế giới, quyền tự do tôn giáo đều phải diễn ra trong khuôn khổ pháp luật, không thể có tự do vô chính phủ, tự do vô nguyên tắc, xem thường pháp luật. Ở Việt Nam, Điều 15, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 chỉ rõ: “Quyền công dân không tách rời nghĩa vụ công dân”. Mặt khác, “tự do tôn giáo” và “tự do thể hiện tôn giáo” là hai vấn đề không đồng nhất với nhau, mỗi vấn đề có nội hàm riêng biệt. Điều 18, Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 quy định: “tự do tôn giáo” là mọi người có quyền tuyệt đối tự do lựa chọn tôn giáo của mình, nhưng khi thể hiện quyền tự do tôn giáo, tức là thực hiện hành vi tôn giáo trên thực tế phải phù hợp với bối cảnh, điều kiện xã hội cụ thể trên cơ sở tôn trọng nhu cầu riêng tư của người khác, không ảnh hưởng đến trật tự xã hội. Song, với những toan tính chính trị, các thế lực thù địch ra sức nhào nặn, đồng nhất, đánh tráo hai khái niệm này, nhằm khẳng định tự do thể hiện tôn giáo là tuyệt đối. Ở khía cạnh khác, cụm từ “tự do tôn giáo” và “tự do thể hiện tôn giáo” tuy khác về bản chất, nhưng lại có sự trùng lặp tương đối về mặt ngôn ngữ, nên đã trở thành công cụ chính trị để một số quốc gia tự cho mình “quyền” để phán xét thành tựu bảo đảm quyền tự do tôn giáo của quốc gia khác vì mục đích chính trị. Hiến pháp và các văn bản quy phạm pháp luật Việt Nam đều khẳng định chủ trương nhất quán của Đảng, Nhà nước Việt Nam: luôn tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người dân; các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Điều này tiếp tục được Đảng ta khẳng định: “Tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt đúng quy định của pháp luật; chủ động giúp đỡ, giải quyết các nhu cầu hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng, tâm linh của quần chúng”1. Điều 24, Hiến pháp năm 2013: “Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật”. Điều 3, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016: “Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người; bảo đảm để các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật”. Mặc dù các văn bản pháp lý của Việt Nam hoàn toàn tương thích với Tuyên ngôn Nhân quyền thế giới năm 1948, Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 của Liên hợp quốc, nhưng các thế lực thù địch, phần tử cơ hội chính trị vẫn cố tình tạo cớ, xuyên tạc, cho rằng hệ thống pháp luật Việt Nam ban hành nhằm hạn chế “tự do tín ngưỡng, tôn giáo” của người dân và đòi “tự do tuyệt đối về tôn giáo”. Đây là sự xuyên tạc hết sức lố bịch nằm trong chiến lược “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch.

Nhận diện một số quan điểm sai trái, thù địch về tình hình tôn giáo ở Việt Nam

 

          Việt Nam là quốc gia đa tộc người, đa tôn giáo. Về  cơ bản, các tôn giáo, tổ chức tôn giáo đã được công nhận hoạt động ổn định, hoạt động theo đúng hiến chương, điều lệ của tôn giáo mình, tuân thủ chính sách, pháp luật của Nhà nước. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều vấn đề phức tạp đang diễn ra trong đời sống tôn giáo ở Việt Nam hiện nay. Những vấn đề này chủ yếu xuất phát từ việc lợi dụng tôn giáo của một số phần tử cực đoan trong các tôn giáo, hoặc các lực lượng thù địch từ bên ngoài tác động, lợi dụng những yếu kém trong công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo, hoặc lợi dụng những bất cập trong đời sống chính trị, kinh tế, xã hội để kích động biểu tình, chống đối, nó biểu hiện ở một số vấn đề sau:

          Thứ nhất, quan điểm sai trái thường thấy của các thế lực thù địch là xuyên tạc tình hình tôn giáo ở Việt Nam, cho rằng Việt Nam không có tự do tôn giáo, chính quyền Việt Nam hạn chế tôn giáo, thậm chí đàn áp tôn giáo. Những quan điểm này thường căn cứ vào việc chính quyền xử phạt các cá nhân, tổ chức tôn giáo vi phạm hành chính trong các lĩnh vực đất đai, xây dựng, sửa chữa cơ sở thờ tự hay vi phạm trong các hoạt động tôn giáo. Đây là việc thực thi pháp luật của các cơ quan của chính quyền, nhưng các thế lực thù địch đều xuyên tạc là Việt Nam đàn áp tôn giáo. Nhiều phần tử phản động, nhiều tổ chức trái pháp luật (như đã trình bày ở trên), mang danh nghĩa tôn giáo bị xử lý vì lý do chống người thi hành công vụ, chống phá Nhà nước, v.v.. nhưng các thế lực thù địch đều quy kết đó là các hành vi ngăn cản, chống đối tôn giáo.

          Trên thực tế, kể từ khi đổi mới đến nay, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo luôn được đảm bảo ngày càng tốt hơn. Hiến pháp 1992 quy định quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là quyền của công dân, Hiến pháp 2013 quy định đó là quyền của con người, ngay cả những người đang bị tạm giam, những người bị bắt buộc vào các cơ sở giáo dưỡng, v.v.. cũng đều được đảm bảo quyền tự do, tín ngưỡng theo quy định của pháp luật. Người nước ngoài đến Việt Nam làm việc, học tập, sinh sống cũng đều được đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Cũng từ khi đổi mới đến nay, tất cả các tôn giáo đều được tạo điều kiện phát triển tín đồ, xây dựng cơ sở thờ tự, tổ chức các hoạt động tôn giáo thuần tuý và các hoạt động tham gia vào xã hội. Các hoạt động quốc tế của các tôn giáo cũng được tạo điều kiện. Nhiều hoạt động, sự kiện tôn giáo mang tầm quốc tế, khu vực đã được tổ chức ở Việt Nam. Nhiều hoạt động tôn giáo thu hút hàng trăm ngàn người đều được nhà nước tạo điều kiện tổ chức.

          Thứ hai, các quan điểm sai trái, thù địch thường xuyên tạc ở Việt Nam không có bình đẳng tôn giáo, Nhà nước ưu ái tôn giáo này mà hạn chế hoặc khắt khe với các tôn giáo khác. Đặc biệt, nhiều quan điểm sai trái cho rằng chính quyền Việt Nam kỳ thị đối với Công giáo, Tin Lành và luôn tìm cách để ngăn cản các tôn giáo này phát triển. Trên thực tế, chính sách của Đảng, Nhà nước luôn đối xử công bằng, bình đẳng đối với tất cả các tôn giáo, mọi tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; tài sản của tất cả các tôn giáo đều được Nhà nước bảo hộ. Tất cả những điều này đều được quy định rõ trong Hiến pháp, pháp luật.

          Ngoài ra, các quan điểm sai trái thường tuyên truyền, phản ánh sai lạc về chính sách công nhận tư cách pháp nhân đối với các tổ chức tôn giáo. Các quan điểm này cho rằng, các tổ chức, hội nhóm chưa được công nhận tư cách pháp nhân cũng phải được đảm bảo đầy đủ các quyền như các tổ chức đã được công nhận. Về điều này, pháp luật Việt Nam quy định rất rõ, một tổ chức tôn giáo muốn được công nhận tư cách pháp nhân cần phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật và phải có một quá trình từ khi đăng ký sinh hoạt tôn giáo cho đến đăng ký hoạt động tôn giáo và đăng ký công nhận tư cách pháp nhân. Do vậy, các tổ chức, nhóm tôn giáo chưa được công nhận cần tích luỹ đủ các điều kiện, yếu tố theo quy định của pháp luật thì sẽ được đảm bảo đầy đủ các quyền, nghĩa vụ theo quy định của pháp luật, chứ hoàn toàn không có chuyện chính quyền Việt Nam ưu tiên các tôn giáo lớn, các tôn giáo được công nhận tư cách pháp nhân mà hạn chế các tổ chức, nhóm tôn giáo nhỏ.

          Thứ ba, các quan điểm sai trái, thù địch thường xuyên xuyên tạc đó là chính quyền “cướp đất” của tôn giáo. Có thể nói, vấn đề đất đai tôn giáo là một vấn đề hết sức phức tạp trong đời sống tôn giáo ở Việt Nam, nhiều vấn đề thuộc về lịch sử để lại, do chưa giải quyết được một cách dứt điểm nên xảy ra nhiều mâu thuẫn, phức tạp. Có những giai đoạn, các tổ chức tôn giáo đã tự nguyện hiến đất cho Nhà nước để phục vụ xây dựng hoặc sử dụng vào các mục đích dân sinh, công trình văn hoá, giáo dục cho cộng đồng. Tuy nhiên, đến giai đoạn hiện nay, nhiều tổ chức tôn giáo do tín đồ ngày càng đông, nhu cầu hoạt động ngày càng lớn, dẫn đến đòi lại đất của Nhà nước. Tuy nhiên, đối với những đất đã hiến cho Nhà nước và đã được sử dụng vào mục đích phục vụ cộng đồng thì không có chủ trương trả lại cho tôn giáo. Điều này đã được quy định rõ trong các văn bản của Đảng, Nhà nước. Tuy nhiên, có những tôn giáo vẫn khiếu kiện kéo dài, thậm chí còn gây sức ép với chính quyền, tụ tập đông người, biểu tình để đòi lại đất, gây rất nhiều phức tạp về an ninh trật tự, cũng như gây ra sự hiểu lầm rằng Nhà nước lấy đất của tôn giáo.

          Ngoài ra, Luật Đất đai (2013) của Việt Nam quy định rõ, đất đai thuộc sở hữu của Nhà nước, Nhà nước giao đất cho các tổ chức, cá nhân sử dụng và sở hữu tài sản gắn liền với đất. Khi có nhu cầu thu hồi đất để phục vụ các dự án phát triển cơ sở hạ tầng, dân sinh, an ninh quốc phòng, v.v.. thì Nhà nước có quyền thu hồi đất. Đây là chính sách rất rõ ràng của Việt Nam, tuy nhiên, khi các cơ sở tôn giáo bị thu hồi đất thì các quan điểm sai trái lại xuyên tạc là nhà nước “cướp đất” của tôn giáo. Tương tự như lĩnh vực đất đai, lĩnh vực xây dựng, sửa chữa cơ sở thờ tự cũng nảy sinh rất nhiều vụ việc phức tạp, khiếu kiện, tố cáo, thậm chí là mâu thuẫn, xung đột kéo dài, đây là những cái cớ để các quan điểm sai trái xuyên tạc chính sách, pháp luật tôn giáo của Việt Nam.          Cụ thể, việc xây dựng, sửa chữa cơ sở thờ tự tôn giáo thực hiện theo luật xây dựng và các quy định pháp luật có liên quan, tuy nhiên, các tổ chức tôn giáo nhiều khi phớt lờ các quy định của pháp luật, tự ý xây dựng, sửa chữa mà không xin phép chính quyền, hoặc xin phép một đằng nhưng thực hiện một nẻo. Đến khi các cơ quan chức năng đến lập biên bản, yêu cầu dỡ bỏ… thì xảy ra mâu thuẫn, xung đột và xuyên tạc là chính quyền vi phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo…

          Những quan điểm sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch đối với tình hình tôn giáo, chính sách, pháp luật tôn giáo ở Việt Nam đều hướng đến mục đích chính trị là gây mâu thuẫn, xung đột, kích động biểu tình, bạo loạn hòng chống phá Đảng, Nhà nước, chia rẽ đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo, tạo cớ để các thế lực bên ngoài can thiệp, quốc tế hoá vấn đề của Việt Nam, từ đó gây sức ép đối với Việt Nam trong các hoạt động quan hệ quốc tế.

          Việc nhận diện các quan điểm sai trái, thù địch, nắm được phương thức, thủ đoạn của các thế lực thù địch sẽ góp phần đấu tranh có hiệu quả đối với các quan điểm này, từ đó nâng cao nhận thức của đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo, cũng như nhận thức của chính những chức sắc, tín đồ các tôn giáo để không bị lôi kéo vào âm mưu chia rẽ, kích động của các thế lực thù địch, qua đó sẽ góp phần giải quyết tốt hơn những vụ việc phức tạp, những điểm nóng đã tồn tại từ lâu nay.

                                                                                      Đa22

Cần tuyên truyền, cảnh giác với việc lợi dụng internet, mạng xã hội chống phá sự nghiệp cách mạng Việt Nam

 

          Những năm gần đây, sự phát triển của công nghệ thông tin và các ứng dụng trên không gian mạng đã làm thay đổi bộ mặt của xã hội; chúng ta không khó bắt gặp những hình ảnh từ trẻ cho đến người lớn tuổi ở đâu, ngồi đâu, trên tay cũng cầm chiếc điện thoại thông minh lướt website, nắm tình hình trong nước và thế giới, nếu chúng ta không có sự lựa chọn để rồi có thể vào những trang website “đen” rồi phải thốt lên rằng chế độ này sao nhiều tiêu cực thế?… Internet và mạng xã hội có tầm ảnh hưởng lớn đến người dân Việt Nam, trong đó có cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức. Lợi dụng sự phát triển nhanh chóng này mà các thế lực thù địch đã tăng cường các hoạt động tuyên truyền, phát tán nhiều thông tin sai trái, xấu, độc trên mạng xã hội nhằm chống phá sự nghiệp cách mạng nước ta, thúc đẩy quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Vì thế, một trong những vấn đề quan trọng đặt ra với mỗi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và Nhân dân hiện nay là cần phải tỉnh táo, nhận thức đúng trách nhiệm của mình trong việc chuyển tải thông tin.

          Hiện nay, internet và các trang mạng xã hội rất khó quản lý, giám sát và kiểm duyệt. Việt Nam đứng trong nhóm 20 quốc gia có số người sử dụng internet, đặc biệt là các trang mạng xã hội như: Facebook, Zalo,… lớn nhất thế giới. Vì vậy, các thế lực thù địch triệt để lợi dụng các công cụ này để đẩy mạnh các hoạt động chống phá từ bên ngoài, tạo dựng lực lượng chống đối từ bên trong, hòng gây mất ổn định an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội đối với nước ta. Tác hại của những thông tin xấu, độc trên mạng xã hội Facebook có tác động tiêu cực đến tình hình tư tưởng, dư luận xã hội, tạo ra sự nghi ngờ, hoang mang, dao động dẫn đến “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ. Hệ lụy của nó ảnh hưởng rất lớn đến đạo đức, lối sống, nhân cách của cá nhân và cộng đồng xã hội.

          Các thế lực thù địch lợi dụng internet, website và mạng xã hội để xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; xuyên tạc, thổi phồng những hạn chế, yếu kém trong quản lý, những sơ hở, thiếu sót trong thực hiện chính sách, pháp luật hoặc những vụ việc phức tạp nảy sinh trong lĩnh vực dân tộc, tôn giáo. Thông qua internet, mạng xã hội, chúng đẩy mạnh tấn công tư tưởng cán bộ, đảng viên và Nhân dân khi đất nước tổ chức các sự kiện chính trị quan trọng như: Đại hội, bầu cử ở các cấp; ban hành các luật, Việt Nam tham gia các hội nghị quan trọng của LHQ,... từ đó chúng kích động, lôi kéo Nhân dân tham gia biểu tình, gây mất an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, hạ thấp uy tín Việt Nam trên trường quốc tế.

          Trong thời gian qua, các thế lực phản động tăng cường sử dụng internet, mạng xã hội để móc nối, cấu kết với những cán bộ, đảng viên có biểu hiện tha hóa, biến chất nhằm lôi kéo, mua chuộc, tạo lực lượng chống phá từ bên trong. Trong đó, số bên ngoài chỉ đạo, hỗ trợ kinh phí hoạt động; các đối tượng trong nước tích cực tập hợp lực lượng, thu thập tin tức để cung cấp cho bên ngoài vu cáo, xuyên tạc tình hình đất nước. Đặc biệt, chúng lợi dụng internet, mạng xã hội để lan truyền các clip, tài liệu xuyên tạc, bôi nhọ các đồng chí lãnh đạo đất nước,... nhằm phá hoại nội bộ, tác động tiêu cực tới nhận thức, quan điểm, tư tưởng của cán bộ, đảng viên và Nhân dân, dẫn đến hoang mang, hoài nghi, suy giảm lòng tin của cán bộ, đảng viên và Nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, sự điều hành, quản lý của Nhà nước.

          Những năm qua, Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách chỉ đạo công tác bảo vệ an ninh mạng và phòng, chống hoạt động lợi dụng internet, mạng xã hội chống phá nước ta, đặc biệt là Luật An toàn thông tin mạng năm 2016 và mới đây nhất là Luật An ninh mạng. Tuy nhiên, công tác này vẫn còn những hạn chế như: thông tin nội bộ của nhiều tổ chức và cá nhân chưa được bảo mật tốt; công tác tuyên truyền, định hướng và đấu tranh phản bác các thông tin xấu, độc, quan điểm sai trái, thù địch chưa kịp thời. Năng lực đội ngũ cán bộ còn hạn chế; trang thiết bị, phương tiện kỹ thuật để phát hiện, thu thập chứng cứ và thực hiện công tác phòng ngừa, đấu tranh còn gặp nhiều khó khăn.

          Để làm tốt nhiệm vụ đấu tranh chống lại các luận điệu sai trái, các quan điểm xuyên tạc, chống phá sự nghiệp cách mạng nước ta, của các thế lực phản động trong và ngoài nước trên mạng xã hội, thiết nghĩ, mỗi đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức cần thực hiện tốt một số nội dung sau:

          Một là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức cho cán bộ và Nhân dân về tầm quan trọng của công tác phòng ngừa, đấu tranh chống hoạt động lợi dụng internet, mạng xã hội để chống phá sự nghiệp cách mạng nước ta. Từ đó, làm cho cán bộ, đảng viên và Nhân dân thấy rõ những tác động tích cực và tiêu cực của internet và mạng xã hội; nâng cao khả năng nhận diện với các thông tin xấu, độc, nguy hại đối với bản thân và xã hội. Đồng thời, xây dựng phong cách văn hóa khi tham gia trên không gian mạng; có ý thức cảnh giác, không đăng tải hoặc để lộ, lọt thông tin, tài liệu liên quan đến bí mật quốc gia….

          Hai là, nắm tình hình, tâm tư, tình cảm, những vấn đề bức xúc của cán bộ và Nhân dân trước các vấn đề được đăng tải trên mạng xã hội có liên quan đến tình hình đất nước; phát hiện kịp thời âm mưu, thủ đoạn, phương thức hoạt động của các thế lực thù địch trên không gian mạng, chỉ cập nhật những thông tin chính thống, không xem và chia sẻ những thông tin chưa được kiểm chứng.

          Ba là, cán bộ, đảng viên thường xuyên học tập theo phong cách Hồ Chí Minh; công tác tuyên truyền cần thường xuyên trao đổi, làm rõ, vạch trần bản chất, âm mưu, thủ đoạn từ những thông tin xấu, độc của các thế lực thù địch, phản động. Cần dựa vào những tài liệu, thông tin chính thống, hướng dẫn của cơ quan Đảng, Nhà nước, đoàn thể cấp trên để tổ chức cung cấp kịp thời cho cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức để từ đó đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, thông tin xấu, độc trên mạng intrenet, mạng xã hội.

          Bốn là, mỗi cán bộ, đảng viên khi tham gia mạng xã hội phải thường xuyên nắm bắt tình hình tư tưởng, dư luận xã hội trong cán bộ, đảng viên và Nhân dân tại địa phương, cơ quan, đơn vị công tác. Qua đó, kịp thời phát hiện, góp ý, phê bình,… không để đồng nghiệp của mình bị lôi kéo, dụ dỗ mà cố ý hoặc vô tình ủng hộ, chia sẻ, lan truyền những thông tin phản động, độc hại trên mạng xã hội.

          Năm là, trên cơ sở nắm vững và tuân thủ các quy định của Luật An ninh mạng, mỗi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức cần sử dụng trang mạng xã hội như một kênh thông tin, tuyên truyền những thông tin chính thống về chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Đồng thời, chủ động và thường xuyên tham gia bình luận, chia sẻ các bài viết về những điển hình tiên tiến, gương người tốt, việc tốt, những mô hình mới, cách làm hay của các cơ quan, đơn vị, địa phương và cá nhân trong tham gia thực hiện các phong trào thi đua yêu nước.

          Đấu tranh phòng, chống hoạt động lợi dụng internet, mạng xã hội để chống phá sự nghiệp cách mạng nước ta là công việc khó khăn, phức tạp, lâu dài. Lợi dụng các ưu thế của mạng xã hội, chúng càng ráo riết, quyết liệt hơn trong việc chống phá chế độ ta, với mức độ ngày càng nghiêm trọng, phạm vi ngày càng mở rộng, tính chất ngày càng phức tạp hơn. Vì vậy, hơn bao giờ hết, mỗi đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức cần phải tỉnh táo, sáng suốt trong việc thực hiện nhiệm vụ của mình; phải luôn xây dựng khối đại đoàn kết ngày càng vững mạnh. Mỗi đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức cần nhận thức đúng đắn về trách nhiệm của mình khi tham gia mạng xã hội, nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp để ngăn chặn, đẩy lùi những thông tin sai lệch trên không gian mạng.

          Đặc biệt, cần tăng cường quán triệt và thực hiện nghiêm túc Quy định số 47 về những điều đảng viên không được làm; giữ nghiêm kỷ luật phát ngôn, phải thể hiện chính kiến của mình trước những thông tin trái chiều. Đồng thời, giáo dục cho cán bộ nhận thức rõ âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù, chủ động đấu tranh, phản bác các luận điệu sai trái, phản động trên các trang mạng xã hội. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và tự sàng lọc thông tin, không sử dụng các trang mạng có nội dung xấu, độc./.

                                                                                       Kim Ngân