Thứ Tư, 3 tháng 5, 2023

Đấu tranh với các hoạt động lợi dụng vấn đề tôn giáo, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc

 ôn giáo là lĩnh vực nhạy cảm, thu hút sự chú ý của dư luận trong nước và quốc tế. Đây cũng là lĩnh vực dễ bị lợi dụng vào các hoạt động gây chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, gây mất ổn định chính trị - xã hội. Vì vậy, đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn thâm độc này là vấn đề cấp thiết.

Bảo đảm thực thi quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo

Với vị trí địa lý nằm ở khu vực Đông Nam Á có ba mặt giáp biển, Việt Nam rất thuận lợi trong mối giao lưu với các nước trên thế giới và cũng là nơi rất dễ cho việc thâm nhập các luồng văn hóa, các tôn giáo. Với sự đa dạng các loại hình tín ngưỡng, tôn giáo, Việt Nam được ví như “bảo tàng tôn giáo” của thế giới. Điều đó đã góp phần làm cho nền văn hóa Việt Nam thêm phong phú và đặc sắc. Hiện nay, ở Việt Nam có 43 tổ chức thuộc 16 tôn giáo được công nhận tư cách pháp nhân; 60 cơ sở đào tạo tôn giáo thuộc Phật giáo, Công giáo, Tin lành, Phật giáo Hòa Hảo.

Việt Nam có chính sách nhất quán là tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân; các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Không được phân biệt đối xử vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo hay vi phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân. Không được lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo để phá hoại hoà bình, độc lập, thống nhất đất nước; kích động bạo lực hoặc tuyên truyền chiến tranh, tuyên truyền trái với pháp luật, chính sách của Nhà nước; chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc, chia rẽ tôn giáo; gây rối trật tự công cộng, xâm hại đến tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự, tài sản của người khác, cản trở việc thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân; hoạt động mê tín dị đoan và thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật khác. Điều đó đã quy định rõ trong Hiến pháp và pháp luật của nước ta.

Ngay sau khi hòa bình lập lại ở miền Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh 234/SL khẳng định: “Việc tự do tín ngưỡng, tự do thờ cúng là quyền lợi của nhân dân. Chính phủ luôn tôn trọng và giúp đỡ nhân dân thực hiện, chính quyền không can thiệp vào nội bộ các tôn giáo”.

Nghị quyết Trung ương 7 (khóa IX) khẳng định “Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đồng bào các tôn giáo là một bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo đúng pháp luật”. Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng cũng đã chỉ rõ: “Quan tâm và tạo điều kiện cho các tôn giáo sinh hoạt theo Hiến chương, Điều lệ của tổ chức tôn giáo đã được Nhà nước công nhận theo quy định của pháp luật, đóng góp tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước”.

Các Hiến pháp của nước ta năm 1946, năm 1959, năm 1980, năm 1992 và năm 2013 đều thể hiện rõ quan điểm nhất quán và xuyên suốt là tôn trọng quyền tự do, tín ngưỡng tôn giáo của nhân dân. Điều 24, Hiến pháp năm 2013 ghi rõ: “Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật”.

Năm 2016, Quốc hội ban hành Luật Tín ngưỡng, tôn giáo và Chính phủ có Nghị định hướng dẫn tổ chức thực hiện. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng phù hợp với yêu cầu của hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo trong thời kỳ mới của đất nước, đồng thời thể hiện sự tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo đảm hơn nữa quyền tự do tôn giáo của nhân dân.

Hiện 95% dân số Việt Nam có đời sống tín ngưỡng, tôn giáo, trong đó có 26 triệu tín đồ, chiếm 27% dân số; có hơn 8 ngàn lễ hội tín ngưỡng, tôn giáo hàng năm, thu hút sự tham gia đông đảo của các tín đồ và quần chúng nhân dân. Đặc biệt, nhiều hoạt động tôn giáo quốc tế lớn được tổ chức thành công ở Việt Nam, trong đó có các sự kiện kỷ niệm 500 năm Cải chánh đạo Tin lành (năm 2017), Đại lễ Phật đản Liên hợp quốc Vesak (năm 2019), Tổng hội dòng Đa Minh thế giới (năm 2019)… Những nỗ lực này của Việt Nam được cộng đồng quốc tế ghi nhận và đánh giá cao.

Chống lợi dụng tôn giáo để chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc

Tuy nhiên, một bộ phận nhỏ chức sắc và tín đồ một số tôn giáo không nhận ra thực tế này. Họ có nhiều tham vọng chính trị và bị tác động, ảnh hưởng bởi luận điệu tuyên truyền, lôi kéo, kích động của các thế lực thù địch ở trong và ngoài nước, nên đã có những hành động cực đoan, quá khích chống lại chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về tôn giáo nói riêng và trên các lĩnh vực nói chung. Họ đã lợi dụng tôn giáo, lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo để kích động và tiến hành các hoạt động chống chính quyền, chống chế độ xã hội chủ nghĩa dưới chiêu bài “đấu tranh cho tự do tôn giáo, dân chủ, nhân quyền”. Họ đã liên kết và phụ họa với các thế lực thù địch, các phần tử phản động, chống đối ở cả trong và ngoài nước trong hoạt động chống Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Chiêu bài của họ là đối lập tôn giáo với chế độ xã hội chủ nghĩa, tách các tôn giáo khỏi khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp cách mạng của nhân dân Việt Nam. Để thực hiện điều đó, họ sử dụng các thủ đoạn xuyên tạc chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về tôn giáo, bịa đặt, vu cáo cấp chính quyền phân biệt đối xử, đàn áp tôn giáo để kích động, chia rẽ trong nước và hạ thấp uy tín Việt Nam trên trường quốc tế… Họ coi các đối tượng cực đoan chống đối trong các tôn giáo là lực lượng nòng cốt để lôi kéo tập hợp quần chúng làm đối trọng với Đảng, Nhà nước và thu hút sự chú ý của cộng đồng quốc tế. Cùng với việc hậu thuẫn cho các lực lượng này hoạt động chống phá đất nước, họ còn phối hợp chặt chẽ với các cá nhân, tổ chức quốc tế thiếu thiện chí để bịa đặt, xuyên tạc tình hình tự do tôn giáo ở Việt Nam. Họ cho rằng Chính phủ Việt Nam đàn áp mọi tôn giáo, thường bắt giữ những người biểu tình ôn hòa đòi hỏi "tự do" tín ngưỡng và "tự do" thờ phụng. Nhiều tổ chức tôn giáo không được Chính phủ công nhận và không cấp giấy phép sinh hoạt… Đây là những luận điệu bịa đặt cũ rích được lặp đi, lặp lại với ý đồ chính trị xấu xa.

Điều đó không chỉ gây khó khăn cho công tác tôn giáo mà còn là nguyên nhân và điều kiện để các thế lực thù địch lợi dụng các hoạt động tôn giáo vi phạm pháp luật để gây chia rẽ đoàn kết dân tộc, gây mất an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội; thành lập các hội, nhóm mang danh tôn giáo, đạo lạ, gây mất đoàn kết dân tộc và đe dọa ổn định chính trị - xã hội; hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo mê tín, trục lợi, làm lệch chuẩn văn hóa, đạo đức xã hội.

Nhà nước ta bên cạnh việc tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, cũng nghiêm cấm mọi hoạt động lợi dụng vấn đề tôn giáo để vi phạm pháp luật, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước và công dân. Bất kỳ ai, nếu vi phạm pháp luật dù với bất cứ lý do gì đều sẽ bị xử lý nghiêm minh theo đúng pháp luật.

Có thể khẳng định, những luận điệu cho rằng Việt Nam vi phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo chỉ là những đánh giá chủ quan, phiến diện của một số người thiếu thiện chí với Việt Nam. Những luận điệu sai trái này không thể làm khó Việt Nam trên con đường xây dựng đất nước giàu đẹp, văn minh, mở rộng hợp tác, giao lưu trên trường quốc tế./.

 

Chống chủ nghĩa cơ hội để xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh

 Để xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh và bảo vệ nền tảng tư tưởng của một Đảng mác xít chân chính, giai cấp vô sản và chính Đảng kiểu mới không chỉ phải đấu tranh chống những tư tưởng tư sản phản động mà còn phải đấu tranh chống mọi biểu hiện của chủ nghĩa cơ hội; coi đó là một trong những nhiệm vụ vừa cấp bách vừa thường xuyên của mỗi tổ chức Đảng và từng cán bộ, đảng viên.

CHỦ NGHĨA CƠ HỘI PHÁ VỠ KHỐI ĐOÀN KẾT, THỐNG NHẤT TRONG ĐẢNG

Theo V.I.Lênin, chủ nghĩa cơ hội là chủ nghĩa của những người chủ trương và hành động vô nguyên tắc; luôn hy sinh cái cơ bản để đạt tới lợi ích cục bộ, trước mắt và sẵn sàng thỏa hiệp chính trị. Và những người cơ hội chủ nghĩa là những người không kiên quyết, vô nguyên tắc, không rõ ràng, lờ mờ, quanh co, do dự, thiếu kiên định, dao động, lừng chừng về chính trị. Với những người này, thì họ “dễ dàng thừa nhận mọi công thức và rời bỏ mọi công thức cũng dễ dàng như thế”. Vốn bắt nguồn từ bản chất của chủ nghĩa cơ hội, những người sa vào chủ nghĩa cơ hội, những người cơ hội chủ nghĩa bao giờ cũng tránh đặt các vấn đề một cách rõ ràng, dứt khoát, tìm cách thoả hiệp quan điểm này với quan điểm kia, để đứng trung dung giữa những quan điểm đối chọi nhau, do đó, đối với họ, chỉ luôn là những lời nói bóng gió và giả thiết trống rỗng; là lời nói không đi đôi với việc làm, “cái thói nói cách mạng suông mà không ngượng miệng”.

Thực tế là, trong Đảng vẫn còn đó không ít những thủ đoạn, biểu hiện của những kẻ cơ hội chủ nghĩa - những người mang danh mácxít song lại sẵn sàng hy sinh lợi ích lâu dài, bền vững của giai cấp vô sản để mưu lợi cho sự “hào nhoáng bề ngoài và chốc lát của mình”, sẵn sàng thoả hiệp với mọi cái xấu để đạt được lợi ích cá nhân, tìm cách thích nghi với mọi phía và mong được các phái chấp nhận, dung nạp, tạo thành bè phái và cánh hẩu. Thực tế cũng cho thấy là, nơi nào có quyền lực, có nhiều lợi ích thì chủ nghĩa cơ hội càng dễ phát sinh; đồng thời ở nơi đó, cũng không thể thiếu những kẻ cơ hội chủ nghĩa - những kẻ “lập lờ”, “ẩn mình” dưới những lời nói hay nhưng trong việc làm thì vô nguyên tắc, chỉ chăm chăm lo lợi ích của chính mình mà không màng đến lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân. Vì thế, để bảo vệ Đảng, V.I.Lênin kiên quyết đấu tranh với những nhận thức lệch lạc, quan điểm sai trái đó và phê phán kịch liệt sách lược cơ hội chủ nghĩa của những người kém tính Đảng, kém ý thức tổ chức, mang nặng chủ nghĩa cá nhân, những người làm chia rẽ sự thống nhất về tư tưởng và hành động trong Đảng, chia rẽ nội bộ Đảng, phá hoại sức mạnh khối đoàn kết của Đảng.

Chủ nghĩa cơ hội gồm khuynh hướng cơ hội tả khuynh, hữu khuynh, chủ nghĩa cải lương và chủ nghĩa biệt phái. Nhìn bề ngoài, chúng có vẻ đối lập nhau, song đều giống nhau là những trào lưu tư tưởng, chính trị đối lập, thù địch với chủ nghĩa Mác, với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Bởi rằng, về mặt lý luận và thực tiễn, những người theo chủ nghĩa cơ hội luôn bảo vệ lợi ích của giai cấp tư sản và chống lại giai cấp vô sản, bằng cách và tìm cách sửa chữa chủ nghĩa Mác, lấy từ chủ nghĩa Mác những điều mà giai cấp tư sản có thể chấp nhận được, nhưng vứt bỏ nguyên lý cách mạng, linh hồn của chủ nghĩa Mác. Do vậy, V.I.Lênin khẳng định, Đảng phải đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội và coi đó là quy luật phát triển của Đảng; đồng thời, nhấn mạnh rằng: “Khi nói đến đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội thì không bao giờ được quên đặc điểm của tất cả chủ nghĩa cơ hội hiện đại trong mọi lĩnh vực là: nó mang tính chất không rõ ràng, lờ mờ và không thể nào hiểu nổi được. Do bản chất của mình, phái cơ hội chủ nghĩa bao giờ cũng tránh đặt các vấn đề một cách rõ ràng và dứt khoát; bao giờ cũng tìm con đường trung dung, quanh co uốn khúc như con rắn nước giữa hai quan điểm đối chọi nhau và "tìm cách “thoả thuận” với cả quan điểm này lẫn quan điểm kia, vì nó quy những sự bất đồng ý kiến của mình lại thành những điều sửa đổi nhỏ nhặt, những sự hoài nghi, những nguyện vọng thành tâm và vô hại, v.v. và v.v..”[1].

V.I.Lênin và Đảng Bônsêvích Nga đã tiến hành đấu tranh triệt để trong nội bộ phong trào công nhân và ngay trong hàng ngũ của Đảng để chống chủ nghĩa cơ hội hữu khuynh, chủ nghĩa giáo điều tả khuynh và chủ nghĩa bè phái, vì “bọn này dĩ nhiên là kẻ thù chính của chủ nghĩa bônsêvích trong nội bộ phong trào công nhân. Nó lại còn là kẻ thù chính trên phạm vi quốc tế nữa”[2]. Đồng thời, đấu tranh quyết liệt với bọn Tờrốtkit trên tinh thần: “Cuộc đấu tranh ấy phải được tiến hành thẳng tay, và nhất định phải đẩy, như chúng ta đã đẩy, cuộc đấu tranh ấy tới chỗ làm cho tất cả các thủ lĩnh bất trị của chủ nghĩa cơ hội và chủ nghĩa xã hội - sôvanh phải hoàn toàn bị nhục nhã và bị tống cổ ra khỏi các công đoàn”[3]. Có một thực tế không thể phủ nhận là, chủ nghĩa cơ hội hiện luôn song hành cùng với phong trào cộng sản, vì thế, V.I.Lênin nhấn mạnh không chỉ Đảng Bônsêvích Nga mà nếu các Đảng Cộng sản khác mà lơ là, mất cảnh giác và không chủ động, thường xuyên tiến hành cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội thì không chỉ nguy hiểm, cực kỳ nguy hiểm mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của phong trào cộng sản, đến vai trò lãnh đạo của mỗi Đảng Cộng sản và vận mệnh của mỗi quốc gia, dân tộc.

Một trong những nghĩa vụ thiêng liêng của những người mácxít chính là bảo vệ lý luận của chủ nghĩa Mác. Vì thế, theo V.I.Lênin, mỗi Đảng cộng sản, mỗi người cộng sản phải chủ động đấu tranh quyết liệt chống chủ nghĩa cơ hội để giữ vững trận địa tư tưởng của Đảng. Muốn giành thắng lợi trong cuộc đấu tranh này, mỗi Đảng phải có phương pháp đấu tranh phù hợp, đúng mức trên cơ sở đi sâu nghiên cứu thực tiễn, hiểu rõ sự tình với điều kiện, hoàn cảnh của nước mình.

Để xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh và phát triển, theo V.I.Lênin, phải thường xuyên liên tục, không được lơi là cuộc đấu tranh chống những kẻ cơ hội chính trị - những kẻ cái gì cũng cho là đúng, cũng tán thưởng, không có quan điểm chính trị rõ ràng, luôn ngả nghiêng, dao động, không kiên định nguyên tắc dẫn đến gây bè cánh trong Đảng; những kẻ sẵn sàng quỳ gối, uốn lưỡi cho vừa lòng và phù hợp với quan điểm của cấp trên và quần chúng, hòng tăng phiếu ủng hộ trong các dịp bầu cử, nhất là luôn “hy sinh lợi ích căn bản của quần chúng cho lợi ích tạm thời của một số hết sức ít công nhân, nói cách khác tức là sự liên minh giữa một bộ phận công nhân với giai cấp tư sản để chống lại quần chúng vô sản”[4]. Đồng thời, phải chủ động phòng ngừa và đấu tranh chống những phần tử cơ hội chính trị - những kẻ luôn biểu hiện, thể hiện bản thân rất vững vàng về lập trường chính trị, luôn phát biểu và tỏ ra thông suốt lý luận chủ nghĩa Mác, nhưng thực tế thì không phải vậy: chúng không vì lý tưởng cách mạng mà vì động cơ quyền lực, không vì Đảng, vì dân mà hy sinh phấn đấu mà vì lợi ích cá nhân mình; những kẻ “tìm mọi cách” chui vào Đảng, xâm nhập vào bộ máy quyền lực, tìm mọi cách để giành được vị thế/quyền lực, để từ vị trí đó và dùng quyền lực đó thực hiện mục đích của cá nhân, rồi kết bè, kéo cánh cùng những phần tử cơ hội cũ, tạo thành một thế lực đáng kể trong Đảng, làm giảm sức mạnh, uy tín và thanh danh của Đảng; những kẻ không nhận thức đúng con đường đi lên của sự nghiệp cách mạng vô sản, sợ khó khăn trong việc kiến thiết xã hội chủ nghĩa, để những khó khăn đó làm cho khiếp đảm và tỏ ra tuyệt vọng hay hoang mang hèn nhát, người đó không phải là một người xã hội chủ nghĩa[5]. Hơn nữa, phải kiên quyết đưa ra khỏi Đảng “những kẻ gian giảo, những đảng viên cộng sản đã quan liêu hóa, không trung thực, nhu nhược, và những người mensêvích, tuy “bề ngoài” đã được phủ một lớp sơn mới, nhưng trong tâm hồn thì vẫn là mensêvích”[6], làm cho Đảng thực sự là đội ngũ đoàn kết, thống nhất về chính trị, tư tưởng và tổ chức, đủ năng lực và sức mạnh lãnh đạo tương xứng với nhiệm vụ chính trị được giao.

VẬN DỤNG CHỈ DẪN CỦA V.I.LÊNIN ĐỂ CHỐNG CHỦ NGHĨA CƠ HỘI Ở VIỆT NAM

Trong hơn 90 năm xây dựng và phát triển, nhất là trong hơn 34 năm đổi mới và hội nhập, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn chủ động đấu tranh với những tư tưởng và những biểu hiện cơ hội chủ nghĩa được triển khai xuyên suốt trong Đảng, trong hệ thống chính trị đã góp phần tạo sự thống nhất nhận thức chính trị của cán bộ, đảng viên và sự đồng thuận trong xã hội. 

Tuy nhiên, thực tiễn công tác xây dựng Đảng cũng chothấy, vì cả nguyên nhân khách quan và chủ quan, tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi; có mặt, có một bộ phận còn diễn biến phức tạp. Ở không ít tổ chức Đảng vẫn còn có một bộ phận những người cơ hội chủ nghĩa, không chỉ mơ hồ, hoang mang, dao động, lập trường tư tưởng chính trị không vững vàng, thiếu sự tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, bản lĩnh chính trị không vững vàng mà còn sa vào chủ nghĩa cá nhân, tham ô, tham nhũng, lãng phí, cục bộ, bè phái, lợi ích nhóm, v.v.. Sự suy thoái đó chính là nguy cơ thúc đẩy sự “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” từ bên trong Đảng và chế độ.

Cùng với đó, trước mỗi kỳ đại hội Đảng nói riêng và trong công tác cán bộ nói chung, ở mỗi địa phương, cơ quan, đơn vị vẫn còn đó những kẻ cơ hội "diễn gương", luôn tỏ ra có tác phong quần chúng, đi đâu cũng chủ động thăm già, hỏi trẻ, khích lệ đồng chí, đồng nghiệp, nhưng thực chất là “nhẫn nhịn” để chờ thời, lấy phiếu vào quy hoạch, để được bổ nhiệm. Rồi từ đó, dùng vị thế "đạt được" của mình vi phạm, thậm chí bỏ qua nguyên tắc tập trung dân chủ mà quyết định những vấn đề ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển kinh tế - xã hội và đời sống của nhân dân; tác động xấu đến tâm tư, tình cảm và niềm tin của nhân dân vào Đảng và chế độ… Dạng cán bộ, đảng viên này và những biểu hiện cơ hội đó đã được Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ chỉ rõ. Đó là, có một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên “phai nhạt lý tưởng cách mạng; dao động, giảm sút niềm tin vào mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hoài nghi, thiếu tin tưởng vào chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Xa rời tôn chỉ, mục đích của Đảng; không kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; phụ họa theo những nhận thức lệch lạc, quan điểm sai trái. Nhận thức sai lệch về ý nghĩa, tầm quan trọng của lý luận và học tập lý luận chính trị; lười học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước…Cá nhân chủ nghĩa, sống ích kỷ, thực dụng, cơ hội, vụ lợi; chỉ lo thu vén cá nhân, không quan tâm đến lợi ích tập thể…Thao túng trong công tác cán bộ; chạy chức, chạy quyền, chạy chỗ, chạy luân chuyển, chạy bằng cấp, chạy tội... Sử dụng quyền lực được giao để phục vụ lợi ích cá nhân hoặc để người thân, người quen lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để trục lợi. Phản bác, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các nguyên tắc tổ chức của Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ; đòi thực hiện “đa nguyên, đa đảng”.

Vì thế, để “kiên quyết đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, chủ nghĩa cá nhân, lối sống cơ hội, thực dụng, bè phái “lợi ích nhóm”, nói không đi đôi với làm”[7] theo Nghị quyết Đại hội XII của Đảng và chủ động phòng và đấu tranh chống những kẻ cơ hội, những biểu hiện cơ hội  trong bối cảnh toàn Đảng đang chuẩn bị và tiến hành Đại hội Đảng bộ các cấp và Đại hội XIII của Đảng, cần tập trung thực hiện những nhiệm vụ trọng tâm sau:

Một là, nâng cao nhận thức của cấp ủy các cấp về tầm quan trọng của việc đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội để xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh. Cùng với đó, quán triệt sâu sắc quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách và luật pháp của Nhà nước trên tinh thần giữ vững tính Đảng, tính chính trị, tính khoa học, nguyên tắc thống nhất giữ lý luận và thực tiễn trong đấu tranh về tư tưởng, lý luận của Đảng. Kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để chủ động, sáng tạo, thường xuyên, liên tục, kiên trì, bền bỉ, bám sát tình hình thực tiễn trong cuộc đấu tranh này trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng. Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

Quán triệt mục tiêu, nguyên tắc, phương pháp luận khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để không chỉ thực hiện tốt “nhiệm vụ thứ nhất của bất cứ một chính đảng nào có trọng trách đối với tương lai là thuyết phục cho đa số nhân dân thấy được sự đúng đắn của cương lĩnh và sách lược của mình”[8], mà còn chủ động đấu tranh vạch trần tính chất phản khoa học, phản động trong những quan điểm, tư tưởng sai trái của những phần tử cơ hội. Đi liền cùng đó là đẩy mạnh nghiên cứu lý luận, gắn lý luận với thực tiễn, tổng kết thực tiễn để kết luận những vấn đề mới mà thực tiễn đặt ra, thiết thực xây dựng Đảng, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.

Hai là, phát huy vai trò sức mạnh của cả hệ thống chính trị, sự phối hợp và tổ chức chặt chẽ của các lực lượng tạo thành thế trận vững chắc, nhiều tầng nấc trong cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng nói chung, chống chủ nghĩa cơ hội nói riêng. Cụ thể, nâng cao tính chủ động, thiết thực, hiệu quả của các ban chỉ đạo từ Trung ương đến địa phương trong công tác tham mưu, hướng dẫn, tổ chức thực hiện cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội, chống âm mưu, thủ đoạn "diễn biến hòa bình" trên trận địa tư tưởng. Nâng cao tính chuyên sâu của các cơ quan nghiên cứu, của đội ngũ cán bộ nghiên cứu lý luận, các nhà khoa học, chuyên gia đầu ngành và tính kịp thời, đa dạng, phong phú của các cơ quan thông tấn, báo chí, truyền thanh, truyền hình, coi đó là nhiệm vụ, trách nhiệm chính trị cao cả của mọi tổ chức, mọi lực lượng dưới sự lãnh đạo của Đảng để phòng và đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội.

Trong đó, cần sử dụng linh hoạt, đa dạng các hình thức, phương pháp đấu tranh trực tiếp và gián tiếp; khơi dậy và phát huy cao độ khả năng, thế mạnh của mỗi tổ chức, mỗi lực lượng tham gia; đồng thời, khắc phục sự đấu tranh kiểu một chiều, khuôn sáo theo công thức định sẵn, thoát ly các vấn đề mới nảy sinh từ thực tiễn. Chú trọng xây dựng và tổ chức các lực lượng, nhất là lực lượng nòng cốt có trình độ chuyên sâu, có phương pháp khoa học, đáp ứng yêu cầu của tình hình và nhiệm vụ trong cuộc đấu tranh gay go, phức tạp này gắn với việc nâng cao hiệu quả việc giám sát hoạt động, ngăn chặn liên lạc, vô hiệu hóa hoạt động tuyên truyền phá hoại tư tưởng của các đối tượng cơ hội, của các thế lực thù địch trên mạng xã hội bằng các biện pháp kỹ thuật nghiệp vụ hữu hiệu.

Ba là, gắn thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ với Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII về Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh để không chỉ phát huy vai trò lãnh đạo của các tổ chức cơ sở Đảng, nắm rõ tâm tư, nguyện vọng, tình hình chính trị, tư tưởng của mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân, kịp thời uốn nắn những nhận thức lệch lạc mà còn góp phần ngăn chặn những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.

Cụ thể, đổi mới và nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ gắn với công tác giáo dục chính trị tư tưởng, rèn luyện bản lĩnh chính trị, đạo đức, lối sống, kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân, đẩy mạnh chống tham ô, tham nhũng, quan liêu cho đội ngũ cán bộ, đảng viên; nghiêm túc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, đoàn kết, thống nhất, tự phê bình và phê bình, kiểm tra và giám sát, thực hành dân chủ trong Đảng, gắn bó mật thiết với nhân dân…; đồng thời, thường xuyên sàng lọc đội ngũ cán bộ, đảng viên, kiên quyết đưa những người không đủ tiêu chuẩn, những đảng viên thoái hoá về chính trị, tư tưởng, về đạo đức lối sống, tham nhũng, lãng phí, quan liêu, cố tình vi phạm kỷ luật Đảng và pháp luật của Nhà nước ra khỏi Đảng gắn với coi trọng chất lượng công tác phát triển Đảng.

Bốn là, phát huy vai trò tiền phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên nói chung, đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu tại mỗi địa phương, cơ quan, đơn vị nói riêng trong việc nêu cao ý thức tự rèn luyện, tự bảo vệ mình trong sạch về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống; chủ động và tích cực đấu tranh phê phán những quan điểm, tư tưởng sai trái, phản động, âm mưu "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch. Mỗi người trong thực nhiệm vụ chính trị, thực thi công vụ phải thống nhất giữa nói và làm, giữa dám nghĩ, dám làm và dám chịu trách nhiệm trong công tác lãnh đạo và chỉ đạo theo tinh thần Quy định số 101-QĐ/TW của Ban Bí thư về Trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp, Quy định số 47-QĐ/TW của Ban Chấp hành Trung ương về Những điều đảng viên không được làm và Quy định số 08-QĐ/TW của Ban Chấp hành Trung ương về Trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương; nhất là trong phòng, chống và đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội, những biểu hiện của chủ nghĩa cơ hội như tư duy nhiệm kỳ, đầu cơ chính trị, chạy phiếu bầu, chạy quy hoạch, luân chuyển, chạy chức, chạy quyền…

Năm là, tiếp tục thực hiện nghiêm Quy chế dân chủ ở cơ sởPháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấnQuy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hộiQuy định về việc Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền. Đồng thời, hướng về cơ sở, gắn bó mật thiết với nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò của quần chúng nhân dân trong bảo vệ Đảng, Nhà nước và chế độ; trong giám sát việc thực hiện đạo đức và trách nhiệm công vụ của cán bộ, công chức, viên chức trong các cơ quan của Đảng, Nhà nước; trong chuẩn bị nhân sự cấp ủy khóa mới các cấp đảm bảo tiêu chuản vừa hồng vừa chuyên; nhất là, cần tạo nhiều kênh thông tin, nhiều diễn đàn để lắng nghe và tiếp nhận ý kiến góp ý xây dựng của nhân dân, coi đó là một biện pháp hữu hiệu để sớm phát hiện những kẻ cơ hội trong Đảng và những kẻ cơ hội đang tìm mọi cách chui vào Đảng nhằm thăng quan, phát tài, "vinh thân, phì gia", mưu cầu lợi ích cá nhân, nhóm lợi ích, dòng họ, địa phương./.

-------------------------

[1] V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, t.8, tr.476-477.

[2] V.I.Lênin: Toàn tậpNxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, t.41, tr.17.

[3] V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, t. 41, tr.43-44.

[4] V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, t.26, tr.307-308.

[5] V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, t.40, tr.366.

[6] V.I.Lênin: Toàn tậpNxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, t.44, tr.154.

[7] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2016, tr.202.

[8] V.I.Lênin: Toàn tậpNxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, t.36, tr.208.

Đẩy mạnh đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong tình hình mới hiện nay

Ngày nay, các thế lực thù địch luôn tìm mọi âm mưu, thủ đoạn, mọi cơ hội để xuyên tạc, chống phá sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc ta. Chúng đưa ra các luận điệu sai trái nhằm phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, xuyên tạc nền tảng tư tưởng của Đảng ta để làm giảm niềm tin của Nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, điều hành quản lý của Nhà nước. Do đó, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của cả hệ thống chính trị, của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta. Đây là sự nghiệp cách mạng đòi hỏi bản lĩnh, sự bền bỉ, kiên quyết, kiên trì, không được chủ quan; đồng thời, phải thường xuyên đổi mới, sáng tạo trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa, phát huy giá trị văn hóa dân tộc và tiếp thu tinh hoa trí tuệ nhân loại.

Thực tiễn cách mạng của Đảng ta chỉ rõ, ở bất kỳ giai đoạn lịch sử nào, công tác tư tưởng, lý luận có vai trò quan trọng luôn đứng ở vị trí hàng đầu trong các mặt công tác của Đảng. Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin, mạng xã hội, việc phát tán các quan điểm sai trái, thù địch trở nên rất dễ dàng, vì vậy công tác đấu tranh phản bác các quan điểm này cũng là nhiệm vụ được đặt ngang hàng với bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.

Chấp hành Nghị quyết số 35-NQ/TW, trong thời gian qua, đại đa số cán bộ, đảng viên đã góp phần tích cực vào công tác đấu tranh, phản bác thông tin, quan điểm sai trái của các thế lực chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng. Nhiều đảng viên tham gia chia sẻ, lan tỏa sâu rộng những thông tin tích cực, góp phần nâng cao tinh thần cảnh giác, nhận thức của Nhân dân trong việc chấp hành pháp luật, đấu tranh với luận điệu xuyên tạc, thông tin sai sự thật của các phần tử cơ hội chính trị, phản động; tích cực tham gia đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch; quán triệt và thực hiện có hiệu quả các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, Nhà nước về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch... Một số cán bộ, đảng viên trở thành “cây bút chiến” viết tin, bài đấu tranh, phản bác có chất lượng. Chính tinh thần trách nhiệm đó đã tạo nên sức mạnh tổng hợp góp phần mang lại thắng lợi trong cuộc đấu tranh bảo vệ Đảng, Nhà nước và chế độ XHCN.

Tuy nhiên, khi đất nước ngày càng phát triển thì các thế lực thù địch, phản động lại càng tìm mọi cách để chống phá. Vì vậy, cuộc đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch là một nhiệm vụ tất yếu chúng ta phải làm và nhất định phải làm thật tốt. Đây thực sự là cuộc đấu tranh bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ, giữ vững mối quan hệ mật thiết, bền chặt giữa Đảng với Nhân dân. Công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái của các thế lực thù địch trong bối cảnh hiện nay có tầm quan trọng đặc biệt, vừa mang tính trước mắt, thường xuyên, vừa mang tính chiến lược, lâu dài của cả hệ thống chính trị, của toàn Đảng, toàn dân ta, trong đó đội ngũ đảng viên phải là lực lượng nòng cốt, tiên phong, gương mẫu đi đầu. Đối với mỗi đảng viên, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là một vấn đề thuộc về tiêu chuẩn, tư cách người cộng sản, là trách nhiệm chính trị. Để thực hiện đầy đủ nhiệm vụ đó, đòi hỏi mỗi đảng viên phải thực hiện tốt những nội dung, biện pháp sau:

Thứ nhất, tiếp tục nâng cao nhận thức, trách nhiệm, tạo sự thống nhất, quyết tâm cao trong đội ngũ cán bộ, đảng viên và cả hệ thống chính trị trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch; coi đây là nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên trong công tác xây dựng Đảng, gắn với việc phòng ngừa, ngăn chặn các biểu hiện suy thoái chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Cùng với đó, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục để mỗi cán bộ, đảng viên luôn tự giác đấu tranh phản bác lại các quan điểm sai trái, thù địch.

Thứ hai, thường xuyên quán triệt và thực hiện nghiêm Nghị quyết 35 về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, Chỉ thị số 05-CT/TW “Về học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, Quy định số 08-QĐ/TW, ngày 25-10-2018, của Ban Chấp hành Trung ương, “Về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên”…

Thứ ba, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ công tác tư tưởng, lý luận theo hướng khoa học, thiết thực, kịp thời, hiệu quả; nâng cao tính chiến đấu, tính thuyết phục trong tuyên truyền, giáo dục chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, cương lĩnh, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Coi trọng lấy gương “người tốt, việc tốt”, “điển hình tiên tiến” để tuyên truyền, giáo dục, tạo hiệu ứng tích cực, ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. Xử lý nghiêm các vi phạm chuẩn mực đạo đức cách mạng của đảng viên, đồng thời cổ vũ, biểu dương các tấm gương đạo đức để tạo ảnh hưởng lan tỏa trong Đảng và xã hội.

Thứ tư, không ngừng đấu tranh phản bác những quan điểm, luận điệu sai trái, xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, làm cho mọi tầng lớp Nhân dân, trước hết là cán bộ, đảng viên nhận rõ mục tiêu sâu xa của các quan điểm sai trái. Tích cực chống lại các luận điệu đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác - Lê-nin, nhằm phủ nhận vai trò của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam. Đồng thời, tiếp tục đẩy mạnh việc học tập, nghiên cứu và tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh một cách có hệ thống, bài bản, đi vào chiều sâu.

Thứ năm, chủ động nắm bắt tình hình diễn biến tư tưởng, dư luận xã hội; xử lý kịp thời những vấn đề bức xúc nảy sinh; tăng cường đoàn kết, thống nhất trong Đảng, tạo sự đồng thuận trong xã hội. Mặt khác, mỗi cơ quan, đơn vị cần duy trì và phát triển lực lượng chuyên trách (LL47) đấu tranh phản bác luận điệu sai trái, thù địch trên không gian mạng “Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng”.

Thứ sáu, tăng cường trau dồi kiến thức, nâng cao trình độ lý luận, chuyên môn, bồi dưỡng lý luận Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước cho đội ngũ cán bộ, đảng viên; bảo đảm việc học tập các môn lý luận chính trị được tiến hành một cách thực chất, để người học nắm được những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, làm cơ sở xem xét, phân tích, đánh giá thấu đáo các vấn đề chính trị – xã hội diễn ra trong đời sống hiện thực. Mặt khác, xử lý nghiêm các tổ chức đảng, đảng viên vi phạm Cương lĩnh chính trị, Ðiều lệ Ðảng, Nghị quyết, Chỉ thị, Quy định của Ðảng.

Thực tiễn hơn 93 năm qua đã cho thấy Đảng Cộng sản Việt Nam đã luôn kiên trì, kiên định với nền tảng tư tưởng của Đảng, luôn kiên quyết đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch để bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ. Sự kiên trì, kiên định và kiên quyết ấy chính là những bài học kinh nghiệm quý báu cho mỗi cơ quan, đơn vị, tổ chức; mỗi cán bộ, đảng viên khi tham gia bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Nếu mỗi cán bộ, đảng viên chúng ta quán triệt sâu sắc, nâng cao ý thức, trách nhiệm, tự giác thực hiện tốt các nhiệm vụ trên sẽ góp phần bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo đảm cho sự nghiệp cách mạng đi đến thành công, thực hiện thắng lợi mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”./.

Một số giải pháp xây dựng QĐND vững mạnh về chính trị để chống mưu đồ “phi chính trị hóa” quân đội của các thế lực thù địch

 

Để làm thất bại âm mưu “phi chính trị hóa” quân đội của các thế lực thù địch, chúng ta cần quán triệt sâu sắc phương châm: gắn “xây dựng với bảo vệ”, “bảo vệ với xây dựng”; xây dựng là một nội dung của bảo vệ và là biện pháp chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, “phi chính trị hóa” quân đội hiệu quả nhất. Mục đích thúc đẩy “phi chính trị hóa” quân đội của các thế lực thù địch hòng làm cho Quân đội ta từ bỏ nền tảng tư tưởng của Đảng, phai nhạt bản chất giai cấp, lý tưởng cách mạng, xa rời phương hướng chính trị, mục tiêu chiến đấu và cuối cùng dẫn tới xa rời sự lãnh đạo của Đảng. Do đó, để xây dựng QĐND vững mạnh về chính trị thì vấn đề quan trọng hàng đầu là phải tích cực đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục chính trị - tư tưởng cho cán bộ, chiến sĩ, nhất là đội ngũ đảng viên và cán bộ chủ chốt các cấp.

Đi đôi với giáo dục chính trị, tư tưởng, cần coi trọng xây dựng về tổ chức, trước hết là tổ chức đảng các cấp trong sạch, vững mạnh. Các cấp phải thường xuyên quan tâm công tác xây dựng Đảng, coi đó là khâu then chốt, nhằm đảm bảo giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với QĐND. Để nâng cao năng lực lãnh đạo toàn diện, sức chiến đấu của tổ chức đảng các cấp, cần chú trọng kiện toàn cấp ủy gắn với tổ chức chỉ huy đảm bảo chất lượng, số lượng và cơ cấu; gắn xây dựng cấp ủy viên với cán bộ chủ chốt các cấp; chăm lo xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên cả về phẩm chất, năng lực, nhằm đáp ứng tốt yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.

Cùng với đó, phải thực hiện tốt và gắn chặt các mặt công tác cán bộ, tổ chức, dân vận, chính sách, tư tưởng,… Tiếp tục quán triệt, thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 về xây dựng Đảng. Trong bối cảnh các thế lực thù địch đẩy mạnh các hoạt động chống phá, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, “phi chính trị hóa” quân đội, chúng ta càng phải nêu cao cảnh giác, tăng cường các biện pháp phòng ngừa những phát sinh phức tạp về tư tưởng trong cán bộ, chiến sĩ. Gắn liền với đó, phải hết sức coi trọng công tác bảo vệ chính trị nội bộ, chống việc lộ, lọt thông tin, các hiện tượng móc nối, cài cắm, xâm nhập hoặc thẩm thấu quan điểm xấu từ bên ngoài vào Quân đội dưới mọi hình thức; phấn đấu đảm bảo tuyệt đối an toàn về an ninh, chính trị, tư tưởng của các cơ quan, đơn vị trong toàn quân.

Hiện nay, sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc XHCN của quân và dân ta được tiến hành trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế sâu rộng, đặc biệt là tình hình thế giới, khu vực tiếp tục có nhiều biến động phức tạp, nhanh chóng, khó lường; do đó, chúng ta cần tiếp tục quan tâm đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn về công tác đảng, công tác chính trị, góp phần thiết thực vào việc nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác đảng, công tác chính trị, xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị trong tình hình mới./.

Chủ động đấu tranh làm thất bại thủ đoạn “phi chính trị hóa” quân đội của các thế lực thù địch

 Để đấu tranh với những thủ đoạn của các thế lực thù địch, trước hết phải xuất phát từ mặt nhận thức, tư tưởng, cần xác định rõ: chủ nghĩa đế quốc, các thế lực thù địch là đối tượng của cách mạng Việt Nam. Họ đã và đang tiến hành chống phá cách mạng nước ta bằng chiến lược “Diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, “phi chính trị hóa” quân đội. Do đó, chống “Diễn biến hòa bình” thực sự là “cuộc chiến” không khoan nhượng, diễn ra hằng ngày, hằng giờ, hết sức quyết liệt, phức tạp. Trong đó, đối tượng mà họ nhằm vô hiệu hóa, trước hết “phi chính trị hóa” là lực lượng vũ trang nhân dân, nhất là QĐND và Công an nhân dân. Đây là lực lượng có chức năng bảo vệ Đảng, Nhà nước và nhân dân. Mục tiêu của họ nhằm tách Quân đội khỏi sự lãnh đạo của Đảng, làm cho Quân đội đứng ngoài chính trị, Đảng Cộng sản mất chỗ dựa vững chắc, mất vai trò lãnh đạo đối với Quân đội, dẫn tới mất vai trò lãnh đạo đối với Nhà nước và xã hội. Và, một khi vai trò lãnh đạo của Đảng bị vô hiệu hóa, bị xóa bỏ, thì tất nhiên chế độ XHCN sẽ sụp đổ.

Để hiện thực hóa mưu đồ “phi chính trị hóa” quân đội và đạt mục tiêu nêu trên, các thế lực thù địch sử dụng mọi lực lượng, phương tiện, tiền bạc, vật chất và tiến hành bằng mọi biện pháp, mọi “chiêu bài” xảo quyệt, tinh vi, thâm độc, nhưng nhìn chung các hoạt động diễn ra chủ yếu trên lĩnh vực chính trị - tư tưởng. Nội dung mà họ tập trung tuyên truyền chống phá là chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, làm cho Quân đội ta từng bước rời bỏ nền tảng tư tưởng của Đảng.

Do đó, để chống mưu đồ “phi chính trị hóa” quân đội của các thế lực thù địch đạt hiệu quả cao thì trước hết và quan trọng nhất là phải chủ động đấu tranh với các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ vững chắc trận địa tư tưởng của Đảng trong Quân đội, cốt yếu là nền tảng tư tưởng của Đảng. Theo đó, chúng ta phải luôn đề cao cảnh giác và phải chuẩn bị đầy đủ về mọi mặt, cả lực lượng, phương tiện, vật chất đảm bảo,… với phương pháp tiến hành (cách thức) linh hoạt, chủ động và có hệ thống giải pháp đồng bộ, tạo nên sức mạnh tổng hợp để giành thắng lợi trong “cuộc chiến” quyết liệt này./.

Thủ đoạn “phi chính trị hóa” quân đội của các thế lực thù địch

 Có thể nói, khái niệm “Diễn biến hòa bình” không mới và cũng không lạ đối với mọi người. Người ta biết đến cụm từ này từ thập niên 20 của Thế kỷ XX, khi chủ nghĩa đế quốc sử dụng “Diễn biến hòa bình” để chống phá các nước đối địch, nhất là nước Nga - Nhà nước Xô-viết công nông đầu tiên trên thế giới vừa ra đời từ sau Cách mạng Tháng Mười vĩ đại.

Không phủ nhận chủ nghĩa đế quốc đã đạt được những thành công nhất định trong việc sử dụng và phát triển chiến lược “Diễn biến hòa bình”. Trong giai đoạn đầu, từ khoảng thập niên 20 đến thập niên 50 của thế kỷ trước “Diễn biến hòa bình” được chủ nghĩa đế quốc xác định là một giải pháp quan trọng, giải pháp kết hợp; trong khi giải pháp quân sự, sử dụng sức mạnh quân sự đóng vai trò quyết định trong chiến lược toàn cầu phản cách mạng của họ. Đến giai đoạn kế tiếp, từ khoảng thập niên 50 (CNXH đã phát triển thành hệ thống, gồm 13 nước) đến thập niên 90, cũng như hiện nay, khi điều kiện sử dụng giải pháp quân sự bị thu hẹp và khó thực hiện, trong khi tiến công CNXH là mục tiêu ưu tiên hàng đầu, thì “Diễn biến hòa bình” được CNĐQ đặc biệt coi trọng và nâng tầm thành chiến lược “Diễn biến hòa bình”. Với việc sử dụng chiến lược nguy hiểm này, chủ nghĩa đế quốc đã gây một loạt sự kiện với cái gọi là “cách mạng màu”, “cách mạng đường phố”,..

Huyênh hoang, tự đắc với chiến quả giành được và nhằm khuyếch trương chiến lược “Diễn biến hòa bình”, những quan chức Nhà Trắng và các triết gia của chủ nghĩa đế quốc đã cao giọng dự báo về sự kết thúc của CNXH. Đến nay đã giữa thập niên thứ 2 của Thế kỷ XXI, nhưng thực tế thì sao? Mọi người đã rõ và đều thấy rằng đó chỉ là sự võ đoán, hoàn toàn không có cơ sở, hay nói cách khác là sự ảo tưởng phi lý, phi thực tiễn.

Nhưng không vì thế mà chúng ta mất cảnh giác và xem nhẹ “Diễn biến hòa bình”, đặc biệt là thủ đoạn “phi chính trị hóa” quân đội của các thế lực thù địch. Bởi lẽ, chống phá các nước XHCN, tiến tới xóa bỏ CNXH, trong đó có nước ta, luôn là mục tiêu nhất quán, xuyên suốt của chủ nghĩa đế quốc. Chừng nào chủ nghĩa đế quốc còn tồn tại thì chừng đó họ còn giữ và theo đuổi mục tiêu đó./.