Chủ Nhật, 1 tháng 10, 2023

ĐỂ VĂN HỌC NGHỆ THUẬT VIỆT NAM THỰC SỰ GÓP PHẦN TRỰC TIẾP VÀO SỰ NGHIỆP “TRỒNG NGƯỜI” TRONG THỜI KỲ MỚI


Trong sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nhận thức của Đảng ta về văn học nghệ thuật và nhất là về vị trí vai trò của văn học nghệ thuật đối với xây dựng nền tảng tinh thần xã hội và sự phát triển toàn diện của con người Việt Nam đã được thể hiện tập trung trong Nghị quyết 05 của Bộ chính trị khóa VI, được phát triển toàn diện và sâu sắc trong Nghị quyết TW5 khóa VIII, Nghị quyết 23 của Bộ chính trị khóa X và Nghị quyết TW9-Khóa XI.
Tại các nghị quyết này, Đảng ta đã xác định: Văn học nghệ thuật là lĩnh vực rất quan trọng, đặc biệt nhạy cảm và tinh tế của văn hóa, là nhu cầu thiết yếu thể hiện khát vọng chân, thiện, mỹ của con người, có tác dụng đặc biệt trong việc vun trồng, bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm nhân cách, đạo đức, trí tuệ bản lĩnh cho các thế hệ con người.
Khi khẳng định vị trí vai trò quan trọng này là để nhấn mạnh tính đặc thù, ưu thế đặc biệt của văn học nghệ thuật so với các lĩnh vực khác như gia đình, nhà trường, xã hội trong sự nghiệp trồng người. Từ sự nhận thức toàn diện, sâu sắc này cùng với kết quả đổi mới tư duy cách nghĩ cách làm văn nghệ, Đảng ta đã có Nghị quyết 23 của Bộ chính trị khóa X về tiếp tục xây dựng và phát triển văn học nghệ thuật trong thời kỳ mới – nghị quyết chuyên đề này là Đường lối, chiến lược phát triển lĩnh vực rất quan trọng và đặc biệt nhạy cảm và tinh tế của văn hóa trong thời kỳ đổi mới toàn diện, đồng bộ, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa hội nhập quốc tế.
Lao động nghệ thuật từng bước được cải thiện, tự do sáng tạo nghệ thuật
Nhìn lại gần 24 năm thực hiện nghị quyết chuyên đề này, chúng ta có quyền tự hào nhận thấy rằng sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, sự nghiệp phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc đã mở rộng không gian sáng tạo cho văn học nghệ thuật; cùng những tác động mạnh mẽ của tư tưởng đổi mới, điều kiện lao động nghệ thuật từng bước được cải thiện, tự do sáng tạo nghệ thuật và sự đa dạng phong phú về đề tài chủ đề, loại hình phương pháp sáng tác, phương thức biểu hiện được tôn trọng; tiềm năng sáng tạo của văn nghệ sĩ được khơi dậy và phát huy, “Văn học nghệ thuật vượt qua nhiều thách thức khó khăn, tiếp tục phát triển, nỗ lực phản ánh chân thực cuộc sống đấu tranh, lao động sáng tạo của nhân dân, bước đầu tạo dựng nên diện mạo mới của văn học nghệ thuật Việt Nam hiện đại, trong đó một mặt tiếp tục phát huy các giá trị tốt đẹp trong truyền thống văn hóa văn nghệ dân tộc là chủ nghĩa yêu nước và nhân văn sâu sắc, giàu bản sắc dân tộc, mặt khác cố gắng bám sát hiện thực đời sống trong cuộc đấu tranh phong phú, phức tạp ngày hôm nay và nỗ lực vươn lên phát triển toàn diện ngày càng hiện đại đa dạng hóa về nội dung và phương tiện thể hiện… Nhiều anh chị em văn nghệ sĩ đã kiên trì tìm tòi, tự vươn lên chính mình âm thầm lao động, sáng tạo để khẳng định các giá trị mới của nền văn nghệ cách mạng Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa và hội nhập quốc tế”. Bên cạnh những thành tựu rất đáng trân trọng, chúng ta cũng cần nhìn thẳng vào một số yếu kém, bất cập, hạn chế chủ yếu sau:
- Một biểu hiện rất đáng lo ngại và kéo dài đó là tình trạng số lượng tác phẩm ngày càng nhiều nhưng lại tỷ lệ nghịch với chất lượng và hiệu quả tích cực. Nhiều tác phẩm xa lánh những vấn đề lớn lao của đất nước, những vấn đề mới nảy sinh trong sự nghiệp đổi mới toàn diện, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế, mà chạy theo các đề tài nhỏ nhặt tầm thường chiều theo thị yếu thấp kém của một bộ phận công chúng, hạ thấp, thậm chí vứt bỏ chức năng giáo dục, nhấn mạnh một chiều chức năng giải trí. Trong một số trường hợp có biểu hiện cực đoan, chỉ tập trung tô đậm mặt đen tối, tiêu cực của cuộc sống hiện tại, thậm chí xuyên tạc bóp méo lịch sử hoặc bị các thế lực thù địch lôi kéo sáng tác và truyền bá các tác phẩm độc hại đi ngược lợi ích của nhân dân và đất nước.
- Hoạt động lý luận phê bình còn nhiều bất cập hạn chế trong chức năng đồng hành, điều chỉnh và định hướng cho sáng tác cũng như giáo dục nâng cao năng lực thẩm mỹ cho công chúng. Một hạn chế bất cập còn kéo dài là chậm rút ngắn khoảng cách hưởng thụ văn hóa đối với khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa.
Văn hóa, văn học nghệ thuật cũng phải chịu trách nhiệm đối với tình trạng một bộ phận không nhỏ cán bộ Đảng viên và quần chúng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, tham nhũng, lãng phí và tình trạng tiêu cực xã hội, tệ nạn xã hội, tội phạm xã hội, ô nhiễm môi trường sinh thái có chiều hướng gia tăng cả về tính chất và quy mô.
Cần phân tích sâu sắc hai nguyên nhân chủ quan, chủ yếu của tình trạng trên. Nguyên nhân hàng đầu là vấn đề nhận thức và trách nhiệm. Văn hóa, văn nghệ chưa được các cấp, các ngành nhận thức một cách sâu sắc, chưa được quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo tương xứng như chính trị, kinh tế, xã hội. Đặc biệt là vai trò của văn hóa, văn học nghệ thuật trong xây dựng con người chưa được xác định đúng tầm và đúng mức; và do chưa coi trọng và thiếu hiểu biết về tính đặc thù của văn học nghệ thuật cho nên: Rất chậm trễ trong việc thể chế hóa các quan điểm, đường lối, định hướng của Đảng về văn học nghệ thuật, nhiều cấp ủy, chính quyền chưa đưa hoặc đưa một cách phiến diện nhiệm vụ phát triển văn hóa, văn học nghệ thuật vào quy hoạch và kế hoạch phát triển của từng địa phương, từng ngành, nhất là chưa coi trọng xây dựng và thực hiện quy hoạch và kế hoạch phát triển dài hạn các lĩnh vực văn học nghệ thuật (văn học sân khấu, âm nhạc, mỹ thuật, kiến trúc, nhiếp ảnh, điện ảnh, văn nghệ dân gian, văn nghệ các dân tộc thiểu số), nhiều hạn chế bất cập trong việc xây dựng và thực hiện kế hoạch xã hội hóa các hoạt động văn học nghệ thuật. Một yếu kém bất cập kéo dài là đầu tư cho văn hóa, văn học nghệ thuật còn thấp so với định mức, chưa tương xứng với yêu cầu mới, chưa hợp lý và kém hiệu quả. Còn nhiều hạn chế bất cập trong xây dựng và thực hiện chủ trương chính sách phát triển, bồi dưỡng phát triển và trọng dụng tài năng văn học nghệ thuật. Còn nhiều hạn chế, bất cập trong việc xây dựng tiêu chuẩn và cơ chế lựa chọn, bố trí cán bộ lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, tham mưu lĩnh vực văn hóa, văn học nghệ thuật.
Nguyên nhân chủ quan tiếp theo là công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ văn nghệ sĩ còn nhiều hạn chế, bất cập: Chương trình, nội dung đào tạo còn lạc hậu và thiếu toàn diện, nhất là chưa chú trọng đúng mức tính đặc thù, chuyên biệt và yêu cầu đào tạo tài năng văn học nghệ thuật.
Đội ngũ văn nghệ sĩ còn nhiều khó khăn, hạn chế trong hoạt động đi thực tế để được sống trực tiếp, sống một thời gian cần thiết ở những mũi nhọn của công cuộc đổi mới toàn diện, đồng bộ, sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế, sự nghiệp xây dựng phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc mới có thể tạo được cảm hứng sáng tạo và hình tượng nghệ thuật.
Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc và phát triển toàn diện con người Việt Nam
Đại hội XIII của Đảng đã quyết định đường lối phát triển đất nước trong thời kỳ mới- Thời kỳ đổi mới toàn diện và đồng bộ đất nước theo định hướng XHCN, đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa, hội nhập quốc tế, phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc tổ quốc, phấn đấu đến giữa thế kỳ XXI, nước ta trở thành nước phát triển theo định hướng XHCN. Một trong những quan diểm chỉ đạo cốt lõi và xuyên suốt trong thời kỳ mới này là: “Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự lực tự cường dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh hạnh phúc. Phát huy sức mạnh của hệ thống chính trị, của nền văn hóa và con người Việt Nam… Kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực, trong đó nguồn lực nội sinh, nhất là nguồn lực con người là quan trọng nhất (Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương tại Đại hội XIII).
Giữ vị trí trung tâm và xuyên suốt trong các đường lối, chủ trương phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc tổ quốc là vấn đề xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc và phát triển toàn diện con người Việt Nam. Phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người và xây dựng con người để phát triển văn hóa. Trong xây dựng văn hóa, trọng tâm là chăm lo xây dựng con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp với các đặc tính cơ bản là yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo. Đảng ta tiếp tục khẳng định: Văn học nghệ thuật là lĩnh vực rất quan trọng và đặc biệt tinh tế của văn hóa, là nhu cầu thiết yếu thể hiện khát vọng chân thiện mỹ của con người, là một trong những động lực to lớn trực tiếp góp phần xây dựng nền tảng tinh thần của xã hội và sự phát triển toàn diện của con người Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa hiện đại hóa, hội nhập quốc tế, phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc tổ quốc. Do đó cần phải tập trung mọi nguồn lực để xây dựng và phát triển nền văn học nghệ thuật Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, để văn học nghệ thuật Việt Nam làm tròn sứ mệnh và chức năng cao quý trong việc vun trồng tâm hồn, nhân cách, đạo đức, lẽ sống cao đẹp cho các thế hệ con người Việt Nam. Trong phương hướng nhiệm vụ phát triển sự nghiệp văn học nghệ thuật, Đảng ta đã xác định mục tiêu: Phấn đấu sáng tạo nhiều tác phẩm văn học nghệ thuật có giá trị tư tưởng và nghệ thuật cao, có tác dụng to lớn xây dựng con người.
Các tác phẩm văn học là hình ảnh chủ quan về thế giới khách quan. Đó là quá trình khách thể hóa những nhận thức chủ quan của văn nghệ sĩ. Gía trị của tác phẩm văn học nghệ thuật liên quan đến sự nhận thức về đời sống và sự miêu tả phản ảnh, thể hiện hiện thực sinh động cuộc sống của văn nghệ sĩ. Sự phản ảnh này không chỉ là sự phản ảnh thế giới khách quan mà còn sáng tạo ra thế giới khách quan. Giá trị của tác phẩm văn học nghệ thuật được đánh giá bằng chiều cao của lý tưởng xã hội, thẩm mỹ và chất lượng của hình tượng nghệ thuật và ngôn ngữ nghệ thuật mà người nghệ sĩ thể hiện, theo quy luật của tình cảm, quy luật của cái đẹp. Các giá trị của văn học nghệ thuật sẽ tác động có hiệu quả đến công chúng tiếp nhận theo hướng vừa đáp ứng khát vọng chân thiện mỹ vừa vun trồng bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm, nhân cách, đạo đức, trí tuệ, lẽ sống cho con người. Xin gợi mở một số tiêu chí chuẩn mực cơ bản của một tác phẩm văn học nghệ thuật có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật.
Về giá trị tư tưởng của tác phẩm: Đó là giá trị khám phá, sáng tạo, phản ánh chân thực, sinh động cuộc sống, phản ánh chân thực có chiều sâu từ trong bản chất của nó, phản ánh chân thực, sinh động cuộc đấu tranh cách mạng và lao động sáng tạo của nhân dân, phản ánh rõ nét, sâu sắc chủ nghĩa yêu nước, tư tưởng nhân văn, dân chủ của dân tộc ta, chế độ ta. Tiếp cận và phản ánh được bản chất cuộc đấu tranh lên án cái ác, cái xấu, sự biến chất thoái hóa về nhân cách đạo đức lối sống của một bộ phận xã hội vì mục tiêu hoàn thiện nhân cách con người, lành mạnh hóa xã hội. Đưa ra được sự kiến giải, thông điệp có giá trị tư tưởng cao, phù hợp với lợi ích của nhân dân, đất nước.
Về giá trị nghệ thuật của tác phẩm đó là: Xây dựng được hình tượng nghệ thuật hấp dẫn có sức truyền cảm; có phong cách, cá tính sáng tạo độc đáo, có sự kết hợp hài hòa giữa nội dung và hình thức; sử dụng ngôn ngữ trong sáng, giản dị, đi vào lòng người.
Khi nhận định, thời gian qua văn học nghệ thuật có một phần trách nhiệm về tình trạng một bộ phận cán bộ Đảng viên và quần chúng suy thoái về tư tưởng chính trị đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, tình trạng tiêu cực xã hội, tệ nạn xã hội, tội phạm xã hội gia tăng, cũng là nói đến trách nhiệm của văn học nghệ thuật 35 năm qua đã đưa ra xã hội quá nhiều tác phẩm chạy theo thị hiếu tầm thường của một bộ phận công chúng; quá nhiều tác phẩm tầm thường cả về giá trị tư tưởng và nghệ thuật với những. Biểu hiện chủ yếu là xa lánh những vấn đề lớn của sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, chạy theo các đề tài nhỏ nhặt, tầm thường, chiều theo thị yếu thấp kém của một bộ phận công chúng, buông bỏ chức năng giáo dục, đã có không ít tác phẩm truyền bá những lối sống vô văn hóa, phản văn hóa, một số tác phẩm truyền bá những tư tưởng độc hại, đi ngược lại lợi ích của nhân dân, đất nước. Về mặt nghệ thuật, một số không ít tác phẩm nhân danh đổi mới, cách tân nghệ thuật với tiếp thu không chọn lọc một số khuynh hướng, trường phái lạc hậu, suy đồi, tạo nên những sản phẩm yếu kém về nghệ thuật. Biểu hiện nổi bật trong một bộ phận không nhỏ ca khúc trẻ, một số phim, kịch xã hội hóa, một số tiểu thuyết, thơ khi công bố đã gây ảnh hưởng xấu, tác động tiêu cực đến tư tưởng thẩm mỹ của công chúng, nhất là giới trẻ.
Nguyên nhân của yếu kém, hạn chế
Khi phân tích nguyên nhân của những yếu kém, hạn chế bất cập của chủ thể lãnh đạo quản lý văn học nghệ thuật và chủ thể sáng tạo văn học nghệ thuật, đã có khá nhiều ý kiến cho rẳng:
- Lãnh đạo, quản lý các cấp thực hiện nghị quyết 23 của Bộ chính trị khóa X về tiếp tục phát triển văn học nghệ thuật trong thời kỳ mới còn nhiều hạn chế, bất cập trong khâu giáo dục nhận thức và trách nhiệm chưa đúng tầm, đúng mức trong lãnh đạo phát triển lĩnh vực rất quan trọng, đặc biệt tinh tế của văn hóa. Biểu hiện nổi bật là rất chậm trễ trong việc thể chế hóa Nghị quyết 23 – nghị quyết được coi như chiến lược của văn học nghệ thuật của Đảng trong thời kỳ mới; Trong khâu quy hoạch bồi dưỡng, bố trí lãnh đạo quản lý lĩnh vực này còn quá nhiều hạn chế bất cập, cho nên không ít cán bộ lãnh đạo, quản lý và chuyên gia lĩnh vực rất quan trọng và đặc biệt tinh tế này nhưng lại hạn chế về năng lực và phương pháp lãnh đạo do thiếu tâm huyết và trách nhiệm dẫn đến bộc lộ nhiều yếu kém, bất cập trong lãnh đạo quản lý các lĩnh vực sáng tác, thẩm định, phê bình, quảng bá, quần chúng tiếp nhận; Còn quá nhiều bất cập, kém hiệu quả trong lĩnh vực phát hiện, bồi dưỡng, trọng dụng tài năng văn học nghệ thuật.
- Sau 35 năm đổi mới văn học nghệ thuật, chúng ta mới có những văn nghệ sĩ có năng khiếu, có tài nhưng vẫn thiếu vắng tài năng lớn, thiên tài. Đáng chú ý, còn nhiều văn nghệ sĩ chưa có tư tưởng lớn (cả triết học và mỹ học), chưa thực sự đam mê, quyết liệt dấn thân vào đời sống, nhất là ở những mũi nhọn của sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, sống chết với tác phẩm của mình, nhân vật của mình. Thiếu bản lĩnh, tự bó mình trước những quan niệm mơ hồ về “vùng cấm”, “vùng nhạy cảm” và nhất là thiếu tài năng nghệ thuật thể hiện tri thức khách quan, chân lý cuộc sống. Hoạt động phê bình chưa đóng được vai trò đồng hành, thẩm định, định hướng, kích thích sự sáng tạo những tác phẩm có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật. Mặt khác lý luận phê bình chưa làm tốt vai trò góp phần giáo dục thẩm mỹ, định hướng cho công chúng tiếp nhận, chưa quảng bá có hiệu quả cái mới, cái hay, cái đẹp của các tác phẩm văn nghệ cho đông đảo công chúng tiếp nhận.
Những yếu kém bất cập trong lãnh đạo, quản lý và những yếu kém bất cập trong chủ thể sáng tạo, trong lý luận phê bình và trong công chúng tiếp nhận là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng đáng buồn kéo dài trên đây.
Để có những tác phẩm văn học nghệ thuật đỉnh cao
Từ những điều trình bày trên, cho phép chúng ta thấu triệt luận điểm sau: Để văn học nghệ thuật thực sự góp phần vào sự nghiệp giáo dục, vun trồng tâm hồn, tình cảm, nhân cách đạo đức, tri thức, bản lĩnh, lẽ sống cao đẹp thì văn học nghệ thuật phải sáng tạo và quảng bá sâu rộng nhiều tác phẩm có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật đến đông đảo nhân dân.
Muốn sáng tạo ra và quảng bá sâu rộng có hiệu quả những tác phẩm văn nghệ đỉnh cao thì nền văn học nghệ thuật nước ta phải được phát triển mạnh mẽ và toàn diện. Vì chỉ trên cái nền của sự phát triển mạnh mẽ toàn diện mới thực sự tạo điều kiện, tiền đề cho sự xuất hiện những tài năng xuất chúng, những thiên tài văn học nghệ thuật và ra đời các tác phẩm có giá trị đỉnh cao về tư tưởng nghệ thuật.
Thực tiễn đời sống văn học nghệ thuật Việt Nam trong 35 năm qua cho chúng ta câu trả lời sáng tỏ: Cần tổng kết 25 năm thực hiện Nghị quyết 23 của Bộ chính trị khóa X để Bộ chính trị ban hành một nghị quyết mới về phát triển nền văn học nghệ thuật Việt Nam trong thời kỳ mới.
Trên cơ sở nghị quyết mới này và chiến lược phát triển văn hóa con người Việt Nam đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045, xây dựng chiến lược phát triển mạnh mẽ và toàn diện nền văn học nghệ thuật Việt Nam trong thời kỳ mới.
Đáp ứng yêu cầu đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo, thực hiện có hiệu quả nghị quyết – chiến lược phát triển một lĩnh vực rất quan trọng, đặc biệt tinh tế, nhạy cảm của văn hóa, là nhu cầu thiết yếu thể hiện khát vọng chân thiện mỹ của con người, là một trong những nguồn lực to lớn trực tiếp góp phần xây dựng nền tảng tinh thần xã hội và sự phát triển toàn diện của con người Việt Nam, kiến nghị Ban Bí thư thành lập Ban chỉ đạo trung ương xây dựng và phát triển văn học nghệ thuật Việt Nam trong thời kỳ mới do đồng chí Bí thư trung ương, Trưởng Ban tuyên giáo trung ương làm trưởng ban, đại diện của Chính phủ làm Phó trưởng ban, đồng chí ủy viên trung ương phó trưởng ban thường trực Ban tuyên giáo trung ương là ủy viên thường trực. Các thành viên tham gia Ban chỉ đạo: Thứ trưởng Bộ văn hóa thể thao du lịch, Thứ trưởng Bộ nội vụ, Thứ trưởng Bộ tài chính, Thứ trưởng Bộ kế hoạch đầu tư, Phó chủ nhiệm ủy ban văn hóa giáo dục Quốc hội, Phó chủ nhiệm Tổng cục chính trị, Thứ trưởng Bộ công an, Chủ tịch liên hiệp các hội văn học nghệ thuật Việt Nam, Chủ tích các hội văn học nghệ thuật chuyên ngành, Chủ tịch Hội đồng lý luận phê bình văn học nghệ thuật trung ương. Trên cơ sở tiếp tục đổi mới tư duy, đổi mới cách tiếp cận, cách làm, Ban chỉ đạo trung ương tập trung chỉ đạo phối hợp các cơ quan ban ngành tổ chức thực hiện đồng bộ, tạo hiệu quả rõ rệt các quan điểm, chủ trương, giải pháp của nghị quyết nhằm phát triển mạnh mẽ, toàn diện văn học nghệ thuật Việt Nam. Ban chỉ đạo tập trung đột phá một số khâu sau:
- Trong 3 năm tới phải căn bản hoàn thành việc thể chế hóa quan điểm đường lối, chủ trương, định hướng phát triển nền văn học nghệ thuật Việt Nam thành luật, nghị định, cơ chế chính sách: Sớm ban hành luật về tự do sáng tạo trong văn học nghệ thuật, luật sở hữu trí tuệ, bảo vệ bản quyền các tác phẩm, tác giả văn học nghệ thuật. Hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách để huy động mọi nguồn lực đầu tư phát triển các loại hình văn học nghệ thuật. Hoàn thiện hệ thống cơ chế chính sách xã hội hóa các hoạt động văn học nghệ thuật; khuyến khích phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng trọng dụng các tài năng văn học nghệ thuật; khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho văn nghệ sĩ bám sát thực tiễn cuộc sống ở những mũi nhọn, của sự nghiệp đổi mới công nghiệp hóa hiện đại hóa, hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hệ thống cơ chế chính sách nhằm hoàn thiện thị trường văn hóa trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Hoàn thiện cơ chế chính sách để xây dựng và phát triển “Quỹ phát triển văn học nghệ thuật”.
- Đột phá vào khâu quy hoạch đào tạo bồi dưỡng để thực sự nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý của Đảng và nhà nước đối với văn hóa văn học nghệ thuật: Đổi mới, hoàn thiện và thực hiện nghiêm túc, đồng bộ việc đưa vào chương trình đào tạo cán bộ thuộc các trường Đảng nội dung văn học nghệ thuật. Đảm bảo từ nhiệm kỳ XIII, đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị, cán bộ trực tiếp chỉ đạo quản lý lĩnh vực này phải có nhận thức đúng về vị trí vai trò, đặc trưng của văn hóa, văn học nghệ thuật, có phương pháp lãnh đạo, quản lý lĩnh vực đặc thù này. Đảm bảo cấp ủy Đảng và chính quyền các cấp phải đưa nhiệm vụ xây dựng và phát triển văn hóa, văn học nghệ thuật vào quy hoạch, kế hoạch phát triển hài hòa với quy hoạch kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội của từng địa phương, từng ngành.
- Đột phá xây dựng và phát triển công nghiệp văn hóa, coi trọng xây dựng phát triển công nghiệp các nghệ thuật biểu diễn như âm nhạc, múa, sân khấu, điện ảnh… gắn chặt với xây dựng và hoàn thiện thị trường văn hóa nghệ thuật./.
PGS.TS Đào Duy Quát - Nguyên Phó Trưởng ban thường trực, Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương
Báo Chính Phủ

KHẮC PHỤC BỆNH GIÁO ĐIỀU TRONG CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN VÀ NHÂN DÂN


Muốn chống được giáo điều phải hết sức chú trọng giáo dục tư duy khoa học, tư duy lý luận, thấm nhuần để thực hành phép biện chứng duy vật, thống nhất hữu cơ với quan điểm duy vật biện chứng.
1. Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh trong chủ đề Đại hội, tiếp tục đổi mới sáng tạo, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc để dân tộc cường thịnh, trường tồn. Nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta hướng tới mục tiêu đến năm 2045, vào giữa thế kỷ XXI, Việt Nam phải trở thành nước phát triển, có thu nhập cao.
Muốn đổi mới sáng tạo, muốn đạt tới mục tiêu tổng quát nêu trên, trước hết phải khắc phục triệt để bệnh giáo điều, từ nhận thức đến hành động, từ đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở tất cả các cấp, các ngành, ở trung ương, địa phương và cơ sở đến các cộng đồng dân cư trong xã hội, đến từng người. Bệnh giáo điều là một căn bệnh đã có từ lâu, tồn tại dai dẳng, bám sâu vào tư duy, vào cách ứng xử, vào các thói quen xấu trong nếp nghĩ, thâm nhập vào trong lối sống hằng ngày, vào các mối quan hệ: với mình, với người, với công việc và tổ chức bộ máy. Cùng với các bệnh khác, bệnh giáo điều gây ra những hậu quả tiêu cực, những hệ lụy xã hội phức tạp, thực sự là một lực cản xã hội ngăn trở chúng ta phát triển tới trình độ hiện đại.
Giáo điều là bệnh thuộc về tư duy, ý thức, nhận thức. Đó là lối suy nghĩ cứng nhắc, máy móc, rập khuôn theo những công thức đã có sẵn, không thích ứng với biến đổi mau lẹ trong thực tiễn cuộc sống, thoát ly khỏi những điều kiện lịch sử cụ thể. Do nhận thức giáo điều, dựa trên những phạm trù tĩnh nên hành động và ứng xử thường cứng nhắc, lệ thuộc vào những kết luận có sẵn trong sách vở, coi nó như một cái tuyệt đối, không thay đổi. Người mang bệnh giáo điều không thể linh hoạt, cản trở sự tìm tòi sáng tạo, không thích ứng với cái mới, ngại đổi mới thậm chí còn cố níu kéo cái cũ, dù đã tỏ ra lỗi thời, bị thực tiễn cuộc sống vượt qua từ lâu, sinh ra trì trệ, bảo thủ, chống lại cái mới và sự đổi mới, dù là không tự giác.
Bệnh giáo điều thường đi liền với bệnh giản đơn, hình thức, chủ nghĩa kinh nghiệm thực dụng, tư duy siêu hình.
Giáo đều có nguồn gốc nhận thức từ thế giới quan duy tâm chủ quan, duy ý chí và phương pháp tư duy siêu hình. Biểu hiện về mặt nhận thức là tách rời lý luận với thực tiễn, rơi vào “bệnh sách vở” mà thực chất là yếu kém về lý luận nhưng lại coi thường (“coi khinh” - chữ dùng của Hồ Chí Minh) lý luận, thường tuyệt đối hóa kinh nghiệm và bị chủ nghĩa kinh nghiệm trói buộc. Trong mối quan hệ giữa cái phổ biến và cái đặc thù, người mắc bệnh giáo điều thường tuyệt đối hóa cái phổ biến, phủ nhận cái đặc thù. Ngược lại thì rơi vào chủ nghĩa xét lại như Hồ Chí Minh giải thích.
Tóm lại, đã giáo điều thì tất sẽ chủ quan, phiến diện và siêu hình. Nó xa lạ với tư duy biện chứng, phép biện chứng duy vật vốn là khoa học về phát triển, xử lý một cách biện chứng, khách quan, khoa học giữa cái khách quan và cái chủ quan. Biểu hiện trong thực tiễn, nhất là qua thái độ và sự ứng xử, người giáo điều, nhất là giáo điều tới mức cực đoan thì thường hay phản đối một cách cảm tính những ai có tư duy độc lập sáng tạo, hay quy kết, chụp mũ về lập trường quan điểm, hay “đao to búa lớn”, “đại ngôn”, từ những khác biệt trong nhận thức, mà họ không có khả năng thuyết phục người khác về mặt lý luận, khoa học thì chuyển ngay sang những nhận định, đánh giá, phê phán về lập trường, quan điểm, rất có hại cả về nhận thức khoa học và hành động chính trị.
Người giáo điều rất hay có thói quen “chính trị hóa” mọi vấn đề, kể cả trong khoa học, dị ứng với những phê phán khoa học, hay định kiến đối với những ai và những gì khác mình. Cách nghĩ và hành xử như vậy là ở bên ngoài chân lý khoa học, ở bên ngoài dân chủ, xa lạ với văn hóa, bởi “văn hóa là biết lắng nghe”, bởi “văn hóa là thống nhất trong đa dạng, thống nhất bao hàm những khác biệt”, “văn hóa trong bản chất của nó là khoan dung”, (chấp nhận, thừa nhận cái khác mình, không tự lấy mình làm chuẩn để áp đặt người khác…)
Xét về mặt văn hóa dân chủ, người giáo điều thường hành động xa lạ với dân chủ (không quen đối thoại, thảo luận, tranh luận, phản biện) để cùng tìm tòi chân lý.
Xét về mặt đạo đức, người giáo điều dễ rơi vào hẹp hòi, đố kỵ, nhất là khi người đó lại có quyền hành và quyền uy, nếu mất bình tĩnh sáng suốt, thiếu tinh thần khách quan, tôn trọng khoa học và thực tiễn thì họ rất dễ mắc sai lầm về việc đàn áp tư tưởng, nhất là với giới trí thức sáng tạo. Xét về lãnh đạo của Đảng đối với trí thức, văn nghệ sĩ, lãnh đạo phải hiểu trí thức, nhất là với trí thức khoa học và nghệ thuật vì họ có cá tính mạnh, có nhu cầu lớn về tự do và sáng tạo, coi trọng khẳng định cái tôi - bản ngã độc lập nên khi dân chủ bị vi phạm, trí thức rất dễ tổn thương về tinh thần và các giá trị tinh thần. Lãnh đạo trí thức mà không dân chủ, không đủ sức thuyết phục họ về học thuật, tư tưởng và đạo đức thì tự nó tạo ra rào cản, thiếu sự đồng cảm, hợp tác và tin cậy lẫn nhau, khoa học thì thiếu động lực để phát triển và chính trị cũng không tiếp nhận được xung lực từ khoa học để “khoa học hóa” chính mình.
Bệnh giáo điều giản đơn thường đồng nhất hóa nhiều vấn đề, nhiều sự kiện, hiện tượng vốn chỉ thống nhất (bao hàm khác biệt) chứ không đồng nhất.
Trong đời sống, giải quyết mối quan hệ giữa khoa học và chính trị, giữa chân lý và quyền uy (quyền lực chính trị), giữa nhà khoa học và nhà chính trị, “con người khoa học” và “con người chính trị” vốn không đơn giản. Mối quan hệ phức tạp này sẽ được giải quyết bằng văn hóa, bằng ứng xử văn hóa tinh tế, bao dung của các nhà lãnh đạo mà Mác, Ăng ghen, Lênin, Hồ Chí Minh là những mẫu mực. Các ông là các nhà tư tưởng, đồng thời là những nhà bác học, nhuần nhuyễn giữa quan điểm duy vật và phương pháp biện chứng, sáng tạo chứ không giáo điều, linh hoạt uyển chuyển chứ không cứng nhắc, biết lắng nghe, biết đối thoại, biết thuyết phục. Hồ Chí Minh còn là bậc thầy về sự cảm hóa, thu phục nhân tâm, trọng dụng nhân tài, trọng đãi hiền tài một cách biện chứng chứ không siêu hình, một cách chân thành, tin cậy.
Một trong những tác hại của bệnh giáo điều, ở những người giáo điều là, dù không tự giác, không cố ý, họ cũng rơi vào sự kìm hãm dân chủ và tự do tư tưởng, có nguy cơ trở thành độc đoán, chuyên quyền, mất dân chủ và làm phương hại tới sự trong sạch, trong sáng của môi trường đạo đức, văn hóa đạo đức. Hệ lụy của nó là tạo ra những kẻ hở, những mảnh đất dung dưỡng cho thói dân chủ hình thức, đoàn kết hình thức, “giả đạo đức” và “giả khoa học”, “giả chính trị”, “giả cách mạng”. Kẻ cơ hội và chủ nghĩa cơ hội sẽ lợi dụng triệt để tình trạng này để thực hiện những ý đồ, những hành vi bất minh, bất chính để vụ lợi và trục lợi.
Đủ thấy vấn đề đặt ra phức tạp như thế nào và phải tìm tòi như thế nào để có một hệ giải pháp đồng bộ nhằm thanh toán triệt để bệnh giáo điều, từ nhận thức đến hành động trong cán bộ đảng viên và nhân dân.
2. Một cách cụ thể và trực tiếp, muốn chống được giáo điều phải hết sức chú trọng giáo dục tư duy khoa học, tư duy lý luận, thấm nhuần để thực hành phép biện chứng duy vật, thống nhất hữu cơ với quan điểm duy vật biện chứng. Đây là giải pháp cơ bản, hàng đầu. Nói một cách khác, phải khắc phục thế giới quan duy tâm (cả chủ quan lẫn khách quan) cùng với phép siêu hình. Phải trau dồi năng lực tư duy triết học - ở đây cái cốt lõi là triết học Mác-Lênin đồng thời với trang bị hệ thống tri thức về lịch sử tư tưởng triết học. Các tri thức triết học và tư tưởng trong lịch sử triết học phải được dạy và học trên tinh thần và phương pháp khoa học như những môn khoa học cơ bản nghiêm túc nhất. Đang có một mâu thuẫn giữa tinh giản chương trình, thu hẹp hay lồng ghép các loại hình tri thức với khuynh hướng giản lược hóa các tri thức mà người học phải được lĩnh hội. Phải khắc phục tình trạng người học “dường như cái gì cũng biết” nhưng trên thực tế thì không biết thấu đáo, ngọn ngành tri thức nào. Hiểu biết hời hợt là đồng minh của giáo điều. Cần làm cho người học, nhất là sinh viên chuyên ngành có ý thức và nhu cầu tự trau dồi trí thức triết học, không chỉ tồn tại ở các nguyên lý như cái kết luận được thừa nhận mà phải biết, phải hiểu “cái lịch sử” để nắm vững thực chất của “cái lô gích”. Phải khắc phục định kiến của không ít người trong chúng ta về “tri thức hàn lâm”, do đó dẫn đến sự hiểu biết hời hợt, thậm chí tầm thường hóa thực tiễn ứng dụng, tách rời thực tiễn với lý luận. Không hiểu lý luận, không trọng lý luận thì không thể tiếp cận thực tiễn một cách khoa học, không phải là mô tả cái bề ngoài của thực tiễn mà cái chính là đem lý luận soi sáng cho thực tiễn, là “lý luận hóa” chứ không phải “kinh nghiệm hóa” nó.
Giáo điều tất yếu sẽ biệt phái, chỉ thấy “cái một” - cái duy nhất mà không thấy sự muôn vẻ, sự đa dạng của trí thức, khoa học là phản ánh tính đa dạng của thực tiễn được khái quát hóa, lý luận hóa kinh nghiệm thực tiễn để vượt lên chủ nghĩa kinh nghiệm, tự giải phóng mình khỏi tình trạng biệt phái, giáo điều.
Hồ Chí Minh tiếp thu tư tưởng biện chứng của các nhà kinh điển và thực hành xuất sắc phép biện chứng đó. Người không chỉ giác ngộ và tin theo chủ nghĩa Mác-Lênin, trung thành một cách sáng tạo bằng cách phát triển sáng tạo chủ nghĩa, học thuyết đó. Với Hồ Chí Minh, chủ nghĩa Mác-Lênin là quan trọng và quyết định nhất trong ý thức hệ của mình, nhưng Người không xem đó là cái duy nhất. Người tiếp thu nhiều nguồn tri thức khác của văn hóa phương Đông và phương Tây, nhờ đó mà càng hiểu biết sâu sắc hơn chủ nghĩa Mác-Lênin, thấy ở đó cả tinh thần và phương pháp, hiểu thực chất để thực hành sáng tạo, kết hợp nhuần nhuyễn khoa học với chính trị và đạo đức, tổng hợp lại đó là văn hóa. Ta phải học và làm theo Người cả về quan điểm và phương pháp là vì vậy. Để chống giáo điều biệt phái, kinh nghiệm và siêu hình, cần ghi nhớ và thực hành chỉ dẫn của Người qua các luận điểm điển hình:
+ “Thống nhất giữa lý luận với thực tiễn là bản chất, là nguyên tắc tối cao của chủ nghĩa Mác-Lênin”.
+ “Thực hành sinh ra hiểu biết
Hiểu biết tiến lên lý luận
Lý luận lãnh đạo thực hành”.
+ Nghiên cứu, học tập, vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin không phải là thuộc lòng từng câu từng chữ như một con vẹt mà phải nắm lấy thực chất, tiếp thu tinh thần và phương pháp Mác-Lênin để độc lập sáng tạo giải quyết những vấn đề đặt ra, để ứng xử với con người và công việc cho đúng.
+ Chủ nghĩa Mác-Lênin không chỉ là khoa học mà còn là đạo đức. Đọc hàng trăm hàng nghìn quyển sách Mác-Lênin mà ăn ở với nhau không có tình, có nghĩa thì sao gọi là hiểu Mác-Lênin được.
+ Phương Tây có gì hay cũng học. Phương Đông có gì hay cũng học. Học để làm phong phú chính mình. Học để biết, để hành cho đúng, cho sáng tạo. Tiếp thu có chọn lọc với tinh thần phê phán, không bắt chước, không sao chép máy móc… Ta và Liên Xô rất khác nhau... Ta có thể đi con đường khác với Liên Xô để tiến tới chủ nghĩa xã hội… Phải thấy đặc điểm to nhất của nước ta là bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, từng bước quá độ tới chủ nghĩa xã hội…
Đó là những chỉ dẫn quý báu của Người, cần hiểu đúng, làm đúng.
Thứ hai, phải hiểu đúng “bệnh sách vở” và xử lý đúng căn bệnh sinh ra giáo điều này và vượt qua nó. Bệnh sách vở như chúng ta thường gọi có biểu hiện là lệ thuộc hoàn toàn vào sách, nhất nhất tuân theo như những giáo điều. những tín điều, sinh ra mù quáng, không có khả năng phê phán, tiếp thu cái gì, sàng lọc và từ bỏ cái gì (cái sai, cái lỗi thời) và phải đối xử với sách, với tri thức sao cho đúng, không rơi vào tư biện, không “coi khinh lý luận”, không “lý luận suông”. Bệnh sách vở thật ra là bệnh ở những người “đọc sách mà không hiểu sách”, thành con mọt sách đọc quá ít sách nên tri thức hạn hẹp, hời hợt, không có khả năng phân tích, phê phán để vận dụng cho đúng. Để chống bệnh sách vở mà thực chất là chống giáo điều thì không phải máy móc phê phán sách, coi thường sách, vứt bỏ sách mà trái lại phải quý trọng sách vở, đọc nhiều sách hơn, tích lũy nhiều trí thức hơn, “không có sách thì không có tri thức. Không có tri thức thì không có chủ nghĩa cộng sản”, “không làm giàu tri thức của mình bằng tất cả kho tàng tri thức nhân loại, thì chủ nghĩa cộng sản chỉ dừng lại là nguyện vọng mà thôi” .
Điều quan trọng là đọc sách, tiếp thu tri thức sách vở bằng phương pháp khoa học, có mục đích đúng khi đọc sách, tránh bệnh hình thức, phô trương, “đọc dăm ba quyển sách, biết được dăm ba điều để khoe khoang, để loè thiên hạ”. Không để sách vở che lấp cuộc sống, rơi vào chủ quan, tư biện, thoát ly thực tiễn.
Thứ ba, phải có tinh thần dân chủ, khiêm tốn, thực sự cầu thị, rèn luyện, tu dưỡng thường xuyên cả về tri thức (học vấn, chuyên môn, kỹ thuật, nghiệp vụ), về tình cảm và đạo đức cách mạng, bồi dưỡng niềm tin khoa học, kỹ năng thực hành và văn hóa giao tiếp ứng xử. Theo chỉ dẫn của Hồ Chí Minh, phải ra sức “phê bình và sửa chữa” bệnh chủ quan, bệnh hẹp hòi và thói ba hoa được nêu trong “Sửa đổi lối làm việc” . Thói “coi khinh lý luận” lại “coi khinh dân vận” mà cán bộ đảng viên mắc phải là do cái bệnh này gây ra, phải ra sức sửa chữa. Biết lắng nghe, biết thảo luận, tranh luận, biết phân biệt đúng - sai, thật - giả, xấu - tốt, biết học hỏi từ trong sách vở nhà trường đến cuộc sống, học dân, hỏi dân, học đi đôi với hành, lý luận liên hệ với thực tiễn, nêu cao đức trung thực trong tự phê bình và phê bình, tự học, tự đào tạo suốt đời… Đó là những phẩm chất cần có của những người giác ngộ, những người cộng sản có trí tuệ, khác với người cộng sản tuy nhiệt thành nhưng thiếu hiểu biết, không đáp ứng được đòi hỏi ngày một cao của tình hình, nhiệm vụ mới. Lênin đã từng cảnh báo “nhiệt tình mà không có hiểu biết, rốt cuộc có thể dẫn đến phá hoại một cách vô ý thức”. Lênin cũng đòi hỏi học “Học nữa, học mãi” và Hồ Chí Minh nhấn mạnh “đường đời là một chiếc thang không có nước chót, học tập là một quyển vở không có trang cuối cùng”.
Thứ tư, tiếp tục đổi mới sáng tạo, nuôi dưỡng tinh thần cống hiến, để thực hiện khát vọng phát triển bằng ý chí và hành động sáng tạo thực sự có hiệu quả thì phải tiếp tục đề cao, coi trọng “đổi mới tư duy”. Phải đổi mới tư duy lãnh đạo, quản lý và quản trị sao cho phù hợp với yêu cầu đặt ra của thời đại đang bùng nổ thông tin, xã hội đang chuyển đổi mạnh mẽ sang “xã hội số”, “kinh tế số”, “chính phủ điện tử”, “trí tuệ nhân tạo”, “thế giới phẳng” và “công dân toàn cầu” ... với không ít điều mới lạ, tác động tới tâm lý, ý thức, lối sống, lựa chọn giá trị mới…Xã hội hiện đại mà chúng ta đang sống, đang vươn tới vừa đòi hỏi phải khắc phục căn bản lối tư duy giáo điều, trì trệ, bảo thủ… lại vừa tạo ra tiền đề, điều kiện và môi trường để thanh toán giáo điều, định hình cả trình độ, phương pháp và phong cách của tư duy hiện đại. Khi Việt Nam đã hoàn thành sứ mệnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, trở thành nước công nghiệp hiện đại thì môi trường xã hội ấy, cái cốt vật chất kỹ thuật - công nghệ hiện đại ấy sẽ dọn sạch mảnh đất sinh ra và nuôi dưỡng giáo điều, kinh nghiệm, siêu hình, biệt phái như đã nói.
Thứ năm, phải đổi mới thật sự triệt để, toàn diện, đồng bộ mọi lĩnh vực công tác và hoạt động của ngành Tuyên giáo, giáo dục và văn hóa, thông tin truyền thông.
Đây là lĩnh vực cần có những cải biến cách mạng sâu sắc, mang tầm vóc một cuộc cách mạng trong lĩnh vực ý thức, tinh thần. Từ quan niệm đến nội dung, phương pháp giáo dục - đào tạo - tuyên truyền đến phong cách, đến đội ngũ cán bộ, đào tạo chuyên gia, tạo hiệu ứng xã hội rộng lớn, có sức truyền cảm hứng mạnh mẽ trong toàn Đảng, toàn dân. Hồ Chí Minh là bậc thầy trong lĩnh vực này mà ta cần học tập, làm theo. Càng không thể quên lời cảnh báo phê phán nghiêm khắc của Lênin về công tác này. Ông nói tới tác hại của giáo điều, sự xuyên tạc làm mất tín nhiệm của chủ nghĩa Mác cần phải thanh toán. Trong việc gây ra tội ác này, “những người Mác xít có môn bài” phải chịu phần trách nhiệm và ra sức sửa chữa./.
Tạp chí Xây dựng Đảng
Tất cả cảm xúc:
1

KHÔNG THẾ LỰC NÀO CÓ THỂ NGĂN CẢN KHÁT VỌNG VƯƠN LÊN CỦA TOÀN DÂN TỘC


Ngăn cản khát vọng vươn lên của một dân tộc không chỉ là thái độ phản lại những giá trị tiến bộ của nhân loại mà còn là hành vi chà đạp lên ước nguyện chính đáng của gần 100 triệu người Việt đang chung tay góp sức, nỗ lực đồng lòng xây dựng đất nước ngày càng phát triển giàu mạnh, văn minh.
Đại hội XIII của Đảng xác định tầm nhìn, mục tiêu phấn đấu đưa nước ta phát triển trong 5 năm, 10 năm, 25 năm nhân dịp các mốc son lịch sử của dân tộc và Đảng ta. Mục tiêu ấy không chỉ khích lệ, động viên, thúc giục toàn Đảng, toàn dân, toàn quân chung sức, đồng lòng thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) mà còn chủ động tạo ra thế và lực ngày càng ổn định, vững vàng để đưa đất nước bứt phá, phát triển cùng thời đại. Nhưng các thế lực thù địch, cơ hội chính trị lại xuyên tạc việc Đảng Cộng sản Việt Nam đưa ra tầm nhìn, khát vọng phát triển đất nước như vậy là viễn cảnh hão huyền, viển vông.
MỘT LỐI SUY DIỄN QUY CHỤP, VÔ LƯƠNG
Tìm đủ chiêu trò để bôi nhọ, xuyên tạc nhằm chống phá, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là âm mưu, thủ đoạn không bao giờ thay đổi của các thế lực thù địch, phản động và các phần tử cơ hội chính trị. Việc Đảng ta tổ chức Đại hội XIII thành công rất tốt đẹp trên mọi phương diện, được dư luận trong nước và quốc tế đánh giá cao, khiến những phần tử bất mãn, cơ hội chính trị càng thêm cay cú. Họ không chỉ phủ nhận nền tảng tư tưởng, xuyên tạc đường lối chính trị của Đảng mà còn cố tình đánh lạc hướng dư luận bằng những cái nhìn thiển cận, hẹp hòi và suy diễn ác ý về những điểm mới được xác định trong nghị quyết Đại hội XIII của Đảng.
Họ cho rằng, các quan điểm và giải pháp mà Đại hội XIII của Đảng đưa ra trùng lắp, chống chéo, cái nọ cản trở cái kia nên khó có thể thực hiện được. Họ rêu rao việc Đảng Cộng sản Việt Nam xác định mục tiêu “Đến năm 2025, là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp” chỉ là những chiếc bánh vẽ ghi trong văn kiện Đảng”; còn việc “Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc là mục tiêu tuyên truyền “vẽ voi trên giấy” của tuyên giáo Cộng sản Việt Nam sau Đại hội XIII”, là thái độ mị dân của những người cộng sản “chỉ nói hay mà không làm”...
Từ cái nhìn sặc mùi phản động đó, họ đã bộc lộ rõ tim đen của những kẻ chống phá quyết liệt đối với Đảng và chế độ ta: “Còn chuyên chế cộng sản lãnh đạo thì người Việt Nam không có quyền tự do, dân chủ, hạnh phúc và cũng không có khát vọng phát triển thịnh vượng, hùng cường”!
CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỂ TỪNG BƯỚC HIỆN THỰC HÓA KHÁT VỌNG CHÍNH ĐÁNG, NHÂN VĂN
Việc Đảng ta đưa ra tầm nhìn, mục tiêu phấn đấu từng bước đưa nước ta phát triển trong 5 năm, 10 năm, 25 năm nhân dịp các mốc son lịch sử của dân tộc, không chỉ khích lệ, động viên, thúc giục toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta chung sức, đồng lòng thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển KT-XH mà còn chủ động tạo ra thế và lực ngày càng ổn định, vững vàng để đưa đất nước bứt phá, phát triển cùng với xu thế phát triển của thời đại.
Sau nhiều năm giữ được tốc độ tăng trưởng kinh tế khá, đặc biệt năm 2020 trong điều kiện đại dịch Covid-19 bùng phát trên toàn cầu, phần lớn các nước trên thế giới có mức tăng trưởng âm thì nước ta vẫn giữ được mục tiêu kép là vừa kiểm soát tốt dịch bệnh, vừa giữ mức tăng trưởng dương. Năm 2020 quy mô nền kinh tế Việt Nam đạt khoảng 343 tỷ USD, đứng trong tốp 40 nền kinh tế lớn nhất thế giới và đứng thứ tư ASEAN; GDP bình quân đầu người đạt 3.521USD, đứng thứ sáu ASEAN.
Theo TS. Cấn Văn Lực, Chuyên gia Kinh tế trưởng Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV), thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia, để nằm trong nhóm các nước thu nhập trung bình cao vào năm 2025, theo tiêu chí của Ngân hàng Thế giới (WB) thì thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam phải ở mức 4.046-12.535USD/người/năm. Khi đó, quy mô GDP năm 2025 của Việt Nam cần đạt từ 410 tỷ USD (mức cận dưới) đến 1.260 tỷ USD (mức cận trên). Nếu tăng trưởng bình quân giai đoạn 2021-2030 ở mức 6,7-6,8% (tương đương với mức tăng trưởng bình quân giai đoạn 2016-2020) thì đến năm 2027 Việt Nam sẽ vào nhóm nước thu nhập trung bình cao.
Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã đề ra chỉ tiêu cụ thể: Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 5 năm đạt khoảng 6,5-7%/năm; GDP bình quân đầu người khoảng 4.700-5000USD. Như vậy, đến năm 2025, kỷ niệm 50 năm Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, mục tiêu phấn đấu “là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp” là có cơ sở. Đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng, mục tiêu phấn đấu “là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao” cũng có căn cứ hiện thực, vì mục tiêu này dựa trên các kịch bản tăng trưởng kinh tế phù hợp với nguồn lực, khả năng hiện tại và triển vọng phát triển của đất nước.
Dưới góc nhìn của chuyên gia kinh tế, TS. Nguyễn Minh Phong cho rằng, định hướng tầm nhìn và khát vọng phát triển cho Việt Nam dựa trên nguyên tắc lấy thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý, phản ánh quy luật phát triển ở Việt Nam và khai thác có hiệu quả những thành tựu phát triển của thế giới, nhất là thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0; tiếp thu có chọn lọc những giá trị tiến bộ của nhân loại về phát triển toàn diện con người, vì con người, lấy con người làm trung tâm, phù hợp với triết lý phát triển của dân tộc Việt Nam và bản chất nhân văn cao đẹp của chủ nghĩa xã hội; đồng thời phù hợp với những chuẩn mực quốc tế về quản trị tốt, phục vụ phát triển và có khả năng xử lý, ứng phó linh hoạt với những vấn đề mới nảy sinh trong thực tiễn.
Tầm nhìn, khát vọng phát triển của Việt Nam không phải dựa trên ý chí chủ quan, không phải là tâm lý “con hát mẹ khen hay” như một số luận điệu rêu rao mà điều này được giới truyền thông quốc tế nhận định là có cơ sở. Báo The Washington Times (phiên bản báo in) của Mỹ ngày 9/4 vừa qua đăng bài viết đánh giá Việt Nam đã thành công trong việc kiện toàn các chức danh lãnh đạo chủ chốt nhà nước; đồng thời nhận định Việt Nam có một quá trình phát triển kinh tế đáng kinh ngạc khi vươn lên trở thành một trong những nền kinh tế phát triển nhanh nhất thế giới trong hai thập kỷ qua. Mặt khác, Việt Nam đã có được sự ổn định về mặt chính trị, tạo đà cho sự tăng trưởng kinh tế, nâng cao mức thu nhập của người dân trong những năm tới.
Mới đây, nhiều hãng truyền thông uy tín tại Romania, như: Hãng thông tấn quốc gia Agerpres, Romaniatv, Republicatv, Proarges, Digi24,... cũng nhận định, vào đầu nhiệm kỳ Chính phủ 2016-2021, Việt Nam là quốc gia đứng thứ 14 trên thế giới về dân số, quy mô nền kinh tế đứng thứ 48, nhưng đến nay, xếp hạng của Việt Nam đã tăng 11 bậc, đứng thứ 37 thế giới. Dù con đường phát triển còn nhiều khó khăn, thử thách nhưng có cơ sở để tin tưởng Việt Nam từ ngưỡng thu nhập trung bình sẽ gia nhập nhóm nước phát triển có thu nhập cao vào năm 2045.
Mỗi con người có khát vọng đã là điều đáng quý. Càng quý trọng hơn khi mỗi tổ chức, mỗi cộng đồng, mỗi quốc gia dân tộc đều có khát vọng cao cả để hy vọng làm được những điều tốt đẹp, góp phần làm thay đổi cuộc sống, xã hội theo chiều hướng tích cực, văn minh, tiến bộ; qua đó đóng góp vào sự phát triển chung của nhân loại.
Do đó, ngăn cản khát vọng vươn lên của một dân tộc không chỉ là thái độ phản lại những giá trị tiến bộ của nhân loại mà còn là hành vi chà đạp lên ước nguyện chính đáng của gần 100 triệu người Việt đang chung tay góp sức, nỗ lực đồng lòng xây dựng đất nước ngày càng phát triển giàu mạnh, văn minh. Những luận điệu sai trái đó nhất định sẽ bị phủ nhận hoàn toàn bởi niềm tin, ý chí, khát vọng vươn lên mạnh mẽ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, như lời khẳng định của Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc: Khát vọng về một nước Việt Nam hùng cường 2045 “sánh vai cùng các cường quốc năm châu” như ước nguyện của Bác Hồ và tinh thần Đại hội Đảng XIII đề ra, là mục tiêu cao cả mà chúng ta hôm nay và những thế hệ tiếp theo phải nỗ lực phấn đấu để giành được. Cha ông ta đã làm nên những trang sử hào hùng, được viết bằng mồ hôi và xương máu của biết bao thế hệ. Chúng ta có niềm tin mãnh liệt rằng: Tiếp nối truyền thống hào hùng sẽ có nhiều chương sử mới viết tiếp những kỳ tích tiến lên giàu mạnh, hùng cường của đất nước ta và dân tộc ta”./.
ST

THỰC TIỄN BI HÀI CỦA NHỮNG KẺ PHỤ BẠC QUÊ HƯƠNG


Thời gian qua, người sử dụng các nền tảng mạng xã hội đã “nhẵn mặt” với những cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước mang danh nghĩa “tự do, dân chủ”, “yêu nước”, “dân oan”, tung ra video, bài viết xuyên tạc, kích động hòng gây mất ổn định chính trị-xã hội, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Tuy nhiên, đằng sau những hành động khoác áo vì tự do, dân chủ, nhân quyền mà họ hô hào thì đích đến là nhận sự ban phát về lợi ích vật chất hoặc tị nạn chính trị ở các quốc gia phương Tây và Hoa Kỳ.
Những chiêu trò quen thuộc
Trong thế giới phẳng ngày nay, việc mỗi người đi, đến hay định cư ở một quốc gia nào đó hoàn toàn là quyền cá nhân. Quan trọng là có đáp ứng được các yêu cầu của nước sở tại khi đến định cư hay không. Với nhiều người Việt Nam, việc đi ra nước ngoài học tập, làm việc và định cư, đến Châu Âu, Úc, Mỹ là hoàn toàn bình thường, nhất là khi đất nước ta đã và đang ngày càng mở rộng quan hệ hợp tác, phát triển kinh tế, hội nhập sâu rộng.
Nhưng ở một khía cạnh nào đó, vẫn còn có những người không có năng lực, trình độ, không có công ăn việc làm ổn định nhưng luôn mang trong mình giấc mộng phù hoa dù họ không đáp ứng được yêu cầu của các nước sở tại. Cũng có người có chút năng lực, khi “nổ” trên mạng xã hội thì ảo tưởng mình là tài năng, là hiếm có, cho rằng ở trong nước “nhân tài không được trọng dụng” nên tìm cách vu cáo mất dân chủ, nhân quyền hòng nhận sự để ý và hỗ trợ vật chất từ bên ngoài, dần dần tạo cớ để được “chiêu mộ đến xứ thiên đường”!
Để đạt được mục đích đó, họ đã bất chấp tất cả, đi ngược lại lợi ích quốc gia, dân tộc, phản bội lại mảnh đất đã nuôi dưỡng mình trưởng thành…
Vẫn là những chiêu trò cũ rích của thế lực thù địch, các tổ chức phản động lưu vong ở nước ngoài, lợi dụng chiêu bài dân chủ, nhân quyền đưa ra những thủ đoạn, các luận điệu để xuyên tạc, bóp méo sự thật về dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam như: Phủ nhận giá trị lý luận, thành tựu, thực tiễn, các quan điểm, đường lối của Đảng về dân chủ, nhân quyền; xuyên tạc, kích động vấn đề dân tộc, tôn giáo, tự do, dân chủ; lợi dụng những hạn chế, yếu kém trong quản lý xã hội, sơ hở, thiếu sót trong quản lý, điều hành đất nước hoặc những vấn đề bức xúc, khiếu kiện kéo dài chưa được giải quyết dứt điểm để lôi kéo, kích động người dân vào các hoạt động biểu tình, gây mất an ninh trật tự, xã hội...
Để thực hiện được những âm mưu đó, các thế lực thù địch và các tổ chức phản động lưu vong ở nước ngoài cần những con rối ở trong nước tiếp tay hoạt động. Với chiêu trò cho tị nạn, hứa hẹn một tương lai xán lạn nơi xứ người đã khiến cho nhiều kẻ trở lên lóa mắt và sẵn sàng làm con rối cho chúng. Hằng năm, các thế lực thù địch, các tổ chức phản động lưu vong nước ngoài gửi về nước ngoại tệ cùng các phương tiện kỹ thuật như máy tính xách tay, máy ảnh kỹ thuật số, điện thoại thông minh, máy ghi âm từ xa… cho các đối tượng trong nước tiến hành kích động biểu tình, gây mất an ninh trật tự, an toàn xã hội. Do sự hậu thuẫn, hỗ trợ của các thế lực thù địch, các tổ chức phản động lưu vong ở nước ngoài nên số chống đối trong nước thời gian qua hoạt động chống phá ngày càng quyết liệt, nguy hiểm, thậm chí một số đối tượng coi hoạt động chống đối là một nghề kiếm sống, là một con đường để rời bỏ quê hương, tị nạn chính trị.
Khi số đối tượng trên bị cơ quan chức năng Việt Nam xử lý về các hành vi vi phạm pháp luật theo quy định thì các thế lực thù địch, phản động đã triệt để lợi dụng để "tôn vinh" những đối tượng trên bằng những cái tên mỹ miều như "nhà dân chủ", "nhà phản biện", "luật sư nhân quyền" để rồi lớn tiếng cho rằng việc bắt giam những người này là "vi phạm dân chủ, nhân quyền". Một mặt, lo sợ trước sự phản ứng của người dân trong nước và sợ bị pháp luật trừng trị, các đối tượng đã tìm cách đào tẩu ra nước ngoài, xin tị nạn chính trị để tiếp tục bám gót các thế lực chống đối và sử dụng không gian mạng để phát tán tin giả, thông tin bịa đặt chống phá, bôi nhọ hình ảnh đất nước Việt Nam trên trường quốc tế.
Khi giấc mộng tan vỡ nơi xứ người
Thực tế cho thấy, không ít đối tượng sau khi rời khỏi Việt Nam đã vỡ mộng với “giấc mơ miền đất hứa” hoặc sống chui lủi trong các trại tị nạn ở nước thứ ba… Thật không khó để đoán được một tương lai khó khăn đối với những người vốn chỉ “dùng loa để kiếm sống”, khi ra nước ngoài do không có trình độ, năng lực, không còn được các tổ chức phản động sử dụng nên số này lâm vào túng quẫn.
Một điều dễ nhận thấy nhất là khi số đối tượng trên rời Việt Nam ra nước ngoài thì cũng là lúc họ không còn nhận được sự quan tâm từ những kẻ vốn luôn hứa hão, dần dần “chìm nghỉm” trên mạng, thậm chí số đối tượng trên còn phải chịu sự “ghẻ lạnh” từ chính những tổ chức từng đỡ đầu, khích lệ các hành vi chống phá ở trong nước do không còn giá trị lợi dụng. Trước khi rời Việt Nam, mạng xã hội được các đối tượng trên triệt để lợi dụng để kích động, chống đối, xuyên tạc sự thật. Còn sau khi rời Việt Nam thì mạng xã hội lại là nơi để các đối tượng kêu than về sự quay lưng của chính tổ chức từng cưu mang rồi cuộc sống khó khăn khi không có chuyên môn, trình độ…
Chuyện các nhà “dân chủ” ngày càng vỡ mộng về cuộc sống trời Tây đã chẳng còn là chuyện gì xa lạ nữa, thậm chí khi bị vỡ mộng, số này còn liên tục có những bài viết tố cáo lẫn nhau cho thấy thực tế thực sự bi hài. Kể từ khi Nguyễn Ngọc Như Quỳnh (blogger Mẹ Nấm) được bảo lãnh “xuất khẩu miễn phí” ra nước ngoài từ năm 2018 đến nay, gần như các thông tin về “Mẹ Nấm” đã không còn xuất hiện nhiều trên mạng xã hội khi mà công việc chính là chống phá ở trong nước đã không còn thực hiện được nữa. Đến nay, những thông tin về “Mẹ Nấm” có chăng chỉ là những lời than vãn trên mạng xã hội về cuộc sống khó khăn, khổ sở mà trợ cấp thì không đủ để duy trì cuộc sống tối thiểu.
Trần Thị Nga khi sang đến Mỹ lại không nhận được sự trợ giúp từ những tổ chức vẫn nói “luôn đồng hành”, Nga túng thiếu, vật lộn khó khăn cả vật chất lẫn tinh thần, khi đó mới nhận ra mình đã bị mắc mưu những kẻ giảo hoạt. Còn kẻ giảo hoạt thì nói rồi quên, hứa rồi bỏ, tung hô rồi phó mặc, sự thật ấy khi Nga nhận ra thì đã quá muộn. Thực tiễn vỡ mộng đó đã khiến cho Trần Thị Nga thốt lên chua xót: “Vậy là tôi đã có thêm một bài học một kinh nghiệm có giá trị”! Vậy mà, khi còn trong tù, Nga không hối lỗi cải tạo để sớm được trở về với xã hội, trở về với cộng đồng hưởng cuộc sống thanh bình, tự do, mà còn tìm kiếm mộng ảo nơi “thiên đường đất Mỹ”, giờ đây mới đớn đau tỉnh ngộ.
Hay như Lê Thu Hà, một người từng được biết đến là cộng sự đắc lực của Nguyễn Văn Đài trong các hoạt động gây rối khi còn ở Việt Nam. Tuy nhiên khi sang Đức tị nạn thì Hà đã bị Đài bỏ rơi vì không còn giá trị sử dụng mà chỉ làm vướng bận thêm cuộc sống của y để rồi khi tìm đường về Việt Nam thì không còn cơ hội nữa. Cũng có những trường hợp sau khi sang Mỹ, châu Âu, nhờ được sự giúp đỡ của người thân, họ tìm được việc làm, tạm ổn định cuộc sống. Tuy nhiên, dù không quá vất vả, lận đận kiếm tiền song các “nhà dân chủ” sớm nhận ra sự thật đắng cay: Các tổ chức, cá nhân vốn hứa bao bọc, giúp đỡ nhằm tạo ngọn cờ chống đối trong nước, nay tìm cách tảng lờ, coi như không liên quan như Bạch Hồng Quyền, Nguyễn Văn Hải…
Có lẽ, đây mới chỉ là những đoạn đầu của con đường không tương lai của những người trên, những kẻ phản bội đất nước, dân tộc để cầu hư vinh. Chỉ khi ra nước ngoài, bản chất thật sự của số gọi là “nhà dân chủ, người yêu nước, nhà đấu tranh nhân quyền” mới bộc lộ, để rồi chìm dần vào sự quên lãng khi đã không còn giá trị sử dụng đối với các tổ chức chống phá ở nước ngoài. Cha ông ta thường dạy “không ai cho không thứ gì”. Những kẻ phản bội đất nước thì đa phần đều đã làm cha làm mẹ, luôn nói rằng được sống trong môi trường giáo dục nhưng bản thân lại không làm theo điều cha ông đã dạy “đói cho sạch, rách cho thơm”.
Quê hương, đất nước bất luận trong hoàn cảnh nào cũng thiêng liêng, cao quý, làm sao có thể rời bỏ mẹ cha, ruồng bỏ quê hương. Chỉ có những người phụ bạc với đất mẹ, với Tổ quốc thì bước đi đâu mà không phải cúi đầu, còn gì liêm sỉ để ngẩng lên mà nhìn người khác? Con đường do họ chọn và chính họ chấp nhận rời bỏ quê hương, phản bội lại Tổ quốc, đi ngược lại với lợi ích của nhân dân. Đến khi nhận ra bị chính những tổ chức phản động lợi dụng “vắt chanh, bỏ vỏ”, sức tàn lực kiệt, hối cải, nghĩ đường về quê hương thì mọi thứ đã muộn. Đây cũng là bài học cho những kẻ trong nước lựa chọn con đường phản bội lại đất nước, dân tộc, tiếp tay cho các tổ chức thù địch, phản động, nuôi mộng định cư ở miền đất hứa và “đổi đời”.

ĐƯA RA KHỎI ĐẢNG NHỮNG ĐẢNG VIÊN “HỮU DANH VÔ THỰC”


Làm trong sạch nội bộ Đảng là vấn đề được Đảng ta rất quan tâm, chú trọng trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay, góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên và năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng. Tiến hành đưa ra khỏi Đảng những đảng viên thoái hóa, biến chất đang được Đảng ta đẩy mạnh, “không có vùng cấm”, “không có ngoại lệ” là chủ trương hoàn toàn đúng đắn của Đảng trong công cuộc phòng, chống tham nhũng. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ rõ: “Đây là cuộc đấu tranh chống “giặc nội xâm”, không phải là cuộc đấu giữa các “phe cánh” hay “đấu đá nội bộ”, như có người không hiểu hoặc cố tình xuyên tạc với động cơ sai, dụng ý xấu” (1).
Làm cho Đảng trong sạch, vững mạnh
Việc xử lý nghiêm những cán bộ, đảng viên vi phạm kỷ luật, đưa những người không còn đủ tiêu chuẩn ra khỏi Đảng, góp phần làm cho Đảng trong sạch vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, tăng cường mối liên hệ giữa Đảng với quần chúng và góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.
Theo V.I.Lênin, đưa những người không còn đủ tiêu chuẩn ra khỏi đảng là tất yếu khách quan, bởi khi đảng giành được chính quyền, trở thành đảng cầm quyền thì nhiệm vụ chính trị của đảng đã có sự phát triển, đòi hỏi phải tăng cường công tác xây dựng Đảng nhằm đáp ứng với yêu cầu, nhiệm vụ mới: “Ngày nay... mặt trận quân sự đã nhường chỗ cho mặt trận kinh tế, vì chúng ta đã chuyển sang chính sách kinh tế mới... Để thực hiện việc cải thiện đó, chúng ta phải gạt bỏ ra khỏi đảng những phần tử xa rời quần chúng (cố nhiên không cần nói đến những phần tử làm ô danh đảng trước quần chúng)” (2). Mặt khác, do vị trí của đảng cầm quyền đã làm cho một số kẻ cơ hội, vì sự hấp dẫn của đảng, tìm mọi cách luồn lách, chui vào đảng, dẫn đến tình trạng bè cánh, phe nhóm trong đảng. Bên cạnh đó, một số người cộng sản khi có chức quyền đã tha hóa, biến chất, mắc bệnh kiêu căng, quan liêu, tham nhũng và ăn hối lộ. Do đó, V.I.Lênin cho rằng: “Những đảng viên hữu danh vô thực thì cho không, chúng ta không cần. Đảng độc nhất nắm chính quyền trên thế giới quan tâm đến việc nâng cao chất lượng đảng viên, đến việc thanh trừ “bọn luồn lọt vào đảng” ra khỏi hàng ngũ mình, chứ không phải quan tâm là làm tăng thêm số lượng đảng viên” (3).
Hiện nay, Đảng ta đang đẩy mạnh việc xử lý nghiêm những cán bộ, đảng viên thoái hóa biến chất, trong đó có cả những cán bộ, đảng viên giữ vị trí quan trọng trong các cơ quan, tổ chức của Đảng và Nhà nước, thậm chí là những đảng viên được đào tạo, bồi dưỡng, tạo nguồn phát triển, tương lai rộng mở nhưng lại thiếu tu dưỡng, rèn luyện, rơi vào chủ nghĩa cá nhân, “gục ngã” trước những cám dỗ vật chất tầm thường. Có thể nói, chưa bao giờ chúng ta xử lý nghiêm khắc nhiều cán bộ, kể cả cán bộ cấp cao sai phạm như vừa qua, từ vụ án công ty Việt Á, vụ Cục Lãnh sự (Bộ Ngoại giao), vụ liên quan đến Tập đoàn FLC, Tân Hoàng Minh, Vạn Thịnh Phát đến vụ công ty AIC, dự án đường cao tốc Đà Nẵng-Quảng Ngãi... Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh: “Đây là điều không ai mong muốn, thậm chí rất đau xót, rất đau lòng, nhưng vì sự nghiệp chung, vì sự nghiêm minh của kỷ luật Đảng, thượng tôn pháp luật của Nhà nước, sự trong sạch, vững mạnh và uy tín của Đảng, Nhà nước và ý nguyện của nhân dân, chúng ta phải làm và kiên quyết làm”(4). Những sai phạm của cán bộ, đảng viên không thể để tiếp diễn, kéo dài, phải kiên quyết xử lý, kịp thời, nghiêm minh và công khai, làm nghiêm từ trên xuống dưới, không có vùng cấm, vùng trống, không có ngoại lệ, không có đặc quyền, bất kể người đó là ai.
Để Đảng trong sạch cần phải làm gì?
Tiến hành xử lý nghiêm những cán bộ, đảng viên vi phạm kỷ luật, rà soát, sàng lọc và kiên quyết đưa những đảng viên không còn đủ tư cách ra khỏi Đảng là hoàn toàn đúng đắn, thể hiện cao độ tính đấu tranh tự phê bình và phê bình trong Đảng ta hiện nay. Đây cũng là cơ sở quan trọng để đấu tranh, bác bỏ quan điểm sai trái của các thế lực thù địch, cơ hội chính trị cho rằng việc xử lý nghiêm những cán bộ, đảng viên vi phạm kỷ luật là “thanh trừng, đấu đá nội bộ”. Để xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh đặt ra nhiều vấn đề đối với nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên của Đảng ta hiện nay nhằm đáp ứng tốt yêu cầu nhiệm vụ:
Nâng cao chất lượng công tác kết nạp đảng viên. Cấp ủy, tổ chức đảng các cấp cần tiếp tục quán triệt và thực hiện nghiêm Chỉ thị số 28-CT/TW, ngày 21-1-2019 của Ban Bí thư về “Nâng cao chất lượng kết nạp đảng viên và rà soát, sàng lọc, đưa những đảng viên không còn đủ tư cách ra khỏi Đảng”. Chú trọng công tác xây dựng kế hoạch tạo nguồn kết nạp đảng viên. Cấp ủy, tổ chức đảng cần tiến hành chặt chẽ, cẩn trọng việc thẩm tra lý lịch và lấy ý kiến nhận xét của tổ chức chính trị-xã hội đối với người được xem xét kết nạp vào Đảng. Chú trọng việc kết nạp đảng viên ở cơ sở trọng điểm còn ít đảng viên hoặc chưa có đảng viên. Kết hợp chặt chẽ giữa kết nạp đảng viên với giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện và sàng lọc đảng viên. Đổi mới nội dung, chương trình bồi dưỡng đối tượng kết nạp đảng và đảng viên mới bảo đảm thiết thực, chất lượng, hiệu quả theo hướng tập trung vào những vấn đề cơ bản về Đảng, tiêu chuẩn, điều kiện, nhiệm vụ, quyền của đảng viên, tính tiên phong, gương mẫu, nhất là xác định đúng đắn động cơ vào Đảng. Kiên quyết chấn chỉnh những biểu hiện sai trái trong công tác kết nạp đảng viên, khắc phục triệt để tình trạng chạy theo số lượng, xem nhẹ chất lượng.
Tăng cường công tác giáo dục, rèn luyện, quản lý đảng viên. Đa dạng hóa các nội dung giáo dục, rèn luyện đảng viên, trong đó tập trung giáo dục, nâng cao nhận thức về mục tiêu, lý tưởng; chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn; các chỉ thị, nghị quyết của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp; đẩy mạnh giáo dục đạo đức cách mạng, nâng cao ý thức tu dưỡng, rèn luyện về bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống, “tự soi”, “tự sửa”, đề cao danh dự, lòng tự trọng của đảng viên. Chú trọng đổi mới, nâng cao chất lượng học tập lý luận chính trị, học tập nghị quyết; chủ động nắm tình hình, diễn biến tư tưởng, kịp thời định hướng cho đảng viên trước những vấn đề phát sinh; tăng cường trách nhiệm của đảng viên trong việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch. Tăng cường công tác quản lý đảng viên toàn diện trên các mặt chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống; các quan hệ xã hội; về việc lập và sử dụng các trang thông tin trên internet, mạng xã hội; quản lý chặt chẽ đảng viên ở ngoài nước và đảng viên ra nước ngoài công tác, học tập, lao động. Tiếp tục thực hiện chặt chẽ Quy định số 213-QĐ/TW, ngày 2-1-2020 của Bộ Chính trị về “Trách nhiệm của đảng viên đang công tác thường xuyên giữ mối liên hệ với tổ chức đảng và nhân dân nơi cư trú”. Quan tâm, tạo điều kiện và phát huy tính tích cực, tự giác của đội ngũ đảng viên trong tự học, tự rèn luyện, tự quản lý.
Đề cao tính đấu tranh tự phê bình và phê bình của các cấp ủy, tổ chức đảng và đội ngũ đảng viên. Thường xuyên giáo dục cho đội ngũ đảng viên nhận thức sâu sắc về ý nghĩa, mục đích của tự phê bình và phê bình; duy trì nghiêm nền nếp, chế độ sinh hoạt tự phê bình và phê bình. Thường xuyên đổi mới nội dung, cách thức tiến hành tự phê bình và phê bình. Trong sinh hoạt tự phê bình và phê bình cần có động cơ trong sáng, thái độ chân thành, không nể nang, né tránh, bao che khuyết điểm; không lợi dụng tự phê bình và phê bình để nói xấu, gây mất đoàn kết, hạ uy tín của các cá nhân, tổ chức. Mặt khác, cần có biện pháp bảo vệ người phê bình đã dũng cảm đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực; đồng thời cần có quy định cụ thể đối với cá nhân, tổ chức có khuyết điểm, bị phê bình phải kiên quyết sửa chữa, khắc phục khuyết điểm không để kéo dài; các cá nhân, tổ chức khi được phê bình cần tôn trọng và tiếp thu những đóng góp để đề ra các biện pháp khắc phục, sửa chữa cho phù hợp. Kết hợp chặt chẽ tự phê bình và phê bình trong Đảng với phê bình của quần chúng. Nêu cao vai trò, trách nhiệm, tính tiền phong gương mẫu của người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, thực hiện “trên trước, dưới sau”, làm “từ trong ra, từ ngoài vào”. Kiên quyết đấu tranh với những biểu hiện có thái độ thành kiến, trù dập người phê bình khuyết điểm; thiếu trách nhiệm cả trong phê bình và tự phê bình; chống mọi biểu hiện chủ nghĩa cá nhân, cục bộ bè phái, mất đoàn kết trong thực hiện tự phê bình và phê bình.
Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng. Cấp ủy, tổ chức đảng cần quán triệt, thực hiện tốt Quy định số 22-QĐ/TW, ngày 28-7-2021 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về “Công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng”. Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng, đặc biệt là người đứng đầu cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp đối với công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng; chủ động nắm chắc tình hình tổ chức đảng, đảng viên, nâng cao năng lực dự báo các tình huống, các vấn đề phức tạp, nổi cộm có thể nảy sinh trong công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng. Thực hiện chặt chẽ nguyên tắc trong kiểm tra, giám sát và kỷ luật đảng; tăng cường công tác giám sát thường xuyên, giám sát chuyên đề, kiểm tra đảng đột xuất đối với các tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên, kể cả cấp ủy viên cùng cấp khi có dấu hiệu vi phạm để ngăn chặn, xử lý kịp thời, nghiêm minh các vi phạm. Kịp thời củng cố, kiện toàn, xây dựng đội ngũ cán bộ kiểm tra các cấp có trình độ chuyên môn nghiệp vụ; có đủ phẩm chất, bản lĩnh, tinh thần trách nhiệm và có dũng khí đấu tranh trong thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng. Giải quyết kịp thời, dứt điểm các đơn, thư tố cáo, khiếu nại theo đúng quy định; không để xảy ra tình trạng đơn, thư kéo dài hoặc lợi dụng công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng để gây mất đoàn kết, chia rẽ trong các tổ chức đảng và đội ngũ đảng viên.
Kết hợp chặt chẽ giữa “xây” và “chống”. Nâng cao nhận thức của các cấp ủy, tổ chức đảng về nhiệm vụ “xây” và “chống”, trong đó “xây” là nhiệm vụ cơ bản, chiến lược, lâu dài; “chống” là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách. Tập trung xây dựng đội ngũ đảng viên có bản lĩnh chính trị vững vàng, có phẩm chất đạo đức trong sạch, lành mạnh; luôn năng động, sáng tạo, đi đầu trong các hoạt động, dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới, sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách, dám hành động vì lợi ích chung; đồng thời luôn vững vàng trước những cám dỗ của lợi ích vật chất. Triển khai thực hiện hiệu quả mô hình “chi bộ bốn tốt”, “đảng bộ cơ sở bốn tốt”. Cấp ủy, tổ chức đảng cần quán triệt, triển khai thực hiện nghiêm Kết luận số 21-KL/TW, ngày 25-10-2021; Nghị quyết số 21-NQ/TW, ngày 16-6-2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII. Tiếp tục cụ thể hóa nội dung đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; tăng cường công tác tuyên truyền, nêu gương người tốt, việc tốt trong công tác xây dựng Đảng. Bên cạnh đó, cần kiên quyết đấu tranh chống các biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; hoặc lợi dụng công tác xây dựng Đảng để đưa ra khỏi Đảng những người không cùng phe cánh, những người mình không ưa thích, hoặc dám đấu tranh phê bình mình.
ST

KHÔNG THỂ CÀO BẰNG


Đến hẹn lại lên, vào thời điểm cuối năm, các cơ quan, đơn vị lại bước vào mùa bình bầu thi đua, đánh giá, xếp loại chất lượng cán bộ.
Đây là phần việc hết sức quan trọng của tổ chức, nhằm ghi nhận, tạo động lực cho cán bộ tiếp tục phấn đấu công tác, cống hiến; cũng là căn cứ để hiện thực các khâu, các bước khác trong công tác cán bộ.
Điều đáng nói là sau những hội nghị đánh giá, xếp loại cán bộ hằng năm, nhiều nơi thường xem đây là một dịp tổ chức liên hoan, tiệc tùng. Trong khi đó, một số hội, nhóm cũng rủ nhau tụ tập vui vẻ, chúc mừng những thành quả đạt được sau một năm công tác, cống hiến.
Tất nhiên, không ít cán bộ tham gia liên hoan dịp cuối năm là bởi luôn đề cao trách nhiệm với tổ chức, thật lòng muốn gắn kết, gắn bó với các thành viên trong tập thể. Thế nhưng, cũng không ít cá nhân vui vẻ, phấn khởi bởi bản thân được tổ chức ưu ái một cách khác thường; đánh giá, xếp loại ở mức cao hơn nhiều so với thực tế kết quả đã hoàn thành. Thậm chí, dù cán bộ chưa thật sự cố gắng, nhiệt huyết không nhiều, chưa có đóng góp đáng ghi nhận... nhưng tập thể vẫn “dí” cho mức xếp loại “Hoàn thành nhiệm vụ” nên niềm vui cá nhân như thể trực trào.
Theo nhiều cán bộ tốt, sở dĩ, ở nhiều nơi vẫn tiếp diễn câu chuyện đánh giá cán bộ thiếu thực chất là bởi có phần nguyên nhân từ sự áp đặt, giao khoán chỉ tiêu (tỷ lệ) trong công tác đánh giá cán bộ. Ví như, một tổ chức đảng, chi bộ, cơ quan, đơn vị thì phải bảo đảm bao nhiêu phần trăm cán bộ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ; bao nhiêu phần trăm hoàn thành nhiệm vụ và cũng ấn định con số cán bộ không hoàn thành nhiệm vụ...
Vì áp đặt chỉ tiêu và vận hành cứng nhắc nên tổ chức cấp dưới rất dễ sinh ra biểu hiện “lựa gió, bẻ măng”, cho rằng cấp trên “đã cho cơ chế” thì việc gì phải nặng nhẹ với anh em đồng chí, đồng nghiệp trong nội bộ. Hơn thế, nếu có nhiều người hoàn thành xuất sắc, hoàn thành nhiệm vụ thì tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị nơi ấy càng bảo đảm các tiêu chí xếp loại tổ chức ở mức cao hơn.
Nhiều cán bộ, đảng viên đề xuất: Việc đặt ra các tỷ lệ phần trăm trong đánh giá cán bộ là cần thiết, nhưng phải nhất quán quan điểm mềm dẻo trong vận dụng đối với mỗi cấp, mỗi loại hình, đặc thù tổ chức, cơ quan, đơn vị, địa phương. Bởi, hiện nay có nhiều tổ chức gồm những cán bộ rất xứng đáng được đánh giá ở mức hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ; nhưng cũng có tổ chức không tìm đâu ra cán bộ bảo đảm các tiêu chí ở mức hoàn thành xuất sắc. Lại có không ít nơi, cán bộ không đạt mức hoàn thành nhiệm vụ, nhưng do rập khuôn về định mức tỷ lệ, chỉ tiêu theo quy định nên cơ sở tiện bề vận dụng, sinh ra cả nể, rồi bình xét, đánh giá cán bộ theo lối cào bằng.
Dư luận cho rằng, nếu từng tổ chức, cơ quan, đơn vị, địa phương không cứng nhắc, áp đặt trong vận dụng các tiêu chí, chỉ tiêu và khắc phục triệt để những biểu hiện nặng thành tích trong đánh giá cán bộ thì chắc chắn mặt công tác này sẽ có những bước chuyển biến tích cực, dần tiệm cận đến sự thực chất, đúng đắn./.
Báo QĐND
Có thể là hình ảnh về 1 người và văn bản