Thứ Bảy, 1 tháng 6, 2024

Nâng cao hiệu quả công tác tham mưu về kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng nhằm phòng ngừa, phát hiện và xử lý tham nhũng, góp phần tăng cường kiểm soát quyền lực trong Đảng

Thời gian qua, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã  ban hành, chỉ đạo ban hành nhiều quy định về kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng, bảo đảm khá đầy đủ, toàn diện, tạo cơ sở chính trị, pháp lý quan trọng để cấp ủy, tổ chức đảng và ủy ban kiểm tra các cấp thực hiện tốt nhiệm vụ  kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật đối với tổ chức đảng và đảng viên, góp phần kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực có hiệu quả.

Hội thảo khoa học đề tài “Công tác tham mưu của các cơ quan đảng Trung ương trên lĩnh vực kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng qua 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới - Thực trạng, vấn đề đặt ra và giải pháp”.

Các quy định, quy chế, hướng dẫn về kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng được sửa đổi, bổ sung, ban hành bảo đảm đồng bộ, thống nhất và chặt chẽ hơn, xác định rõ hơn nội dung, đối tượng kiểm tra, giám sát, làm cơ sở để xem xét, đánh giá, kết luận, xác định trách nhiệm của tập thể, cá nhân vi phạm và nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sátQua đó, góp phần từng bước kiềm chế, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, tình trạng tham nhũng, “lợi ích nhóm”, “tư duy nhiệm kỳ”, tha hóa quyền lực trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên.

Thực hiện các quy định của Đảng, từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XII đến nay, công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng đã có bước tiến mới, với những kết quả rất quan trọng, mang tính đột phá. Việc xử lý kỷ luật đảng đối với tổ chức đảng và đảng viên vi phạm được thực hiện nghiêm minh, công khai, không có “vùng cấm”, không có ngoại lệ. UBKT Trung ương tích cực đổi mới hoạt động kiểm tra, giám sát, chủ động nắm chắc tình hình, kịp thời phát hiện dấu hiệu vi phạm. Tăng cường công tác giám sát với cách làm mới (trong đó có hoạt động xác minh...); theo dõi địa bàn, khai thác tài liệu các cơ quan liên quan. Lựa chọn những vấn đề trọng tâm, trọng điểm để kiểm tra, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ và những vấn đề gây bức xúc trong xã hội. Chỉ tiến hành kiểm tra theo chức năng, nhiệm vụ, đó là kiểm tra việc chấp hành quy chế làm việc, thực hiện nghị quyết, chỉ thị của Đảng, công tác lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy, tổ chức đảng. Tập trung kiểm tra, phát hiện vấn đề trọng tâm, nhanh chóng kết luận, xử lý, tạo niềm tin trong cán bộ, đảng viên và nhân dân. Kiên quyết, khách quan, chính xác, không suy diễn; đề cao đối thoại với đối tượng bị kiểm tra. Xem xét kỷ luật phải công tâm, khách quan, toàn diện, lịch sử cụ thể, chính xác, thấu tình, đạt lý. Tăng cường kiểm tra các tổ chức đảng, đảng viên ở cấp huyện và cơ sở khi có dấu hiệu vi phạm (cách cấp); kịp thời tiến hành kiểm tra lại các vụ việc dư luận quan tâm, UBKT cấp dưới đã kiểm tra nhưng chưa đáp ứng yêu cầu. Thường trực UBKT Trung ương chủ động và có quyết tâm chính trị cao trong chỉ đạo kiểm tra, giám sát, gương mẫu trong thực hiện nhiệm vụ; thường xuyên nghe các đoàn kiểm tra, giám sát báo cáo và kịp thời định hướng, chỉ đạo, tạo sự thống nhất trong quá trình kiểm tra, giám sát. Thực hiện việc công khai kết quả các phiên họp của UBKT Trung ương. Chú trọng tuyên truyền trên báo chí về công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng.

UBKT Trung ương đã tập trung kiểm tra làm rõ, kết luận nhiều vi phạm nghiêm trọng, quyết định kỷ luật, đề nghị kỷ luật nghiêm minh các tổ chức đảng, đảng viên vi phạm, trong đó có cả những cán bộ cao cấp của Đảng, Nhà nước, lực lượng vũ trang, lãnh đạo chủ chốt các địa phương, đơn vị, cả đương chức và nghỉ hưu, khắc phục tư tưởng “hạ cánh an toàn” trong cán bộ, đảng viên. Nhiều vụ việc phức tạp, tồn đọng, kéo dài, dư luận quan tâm đã được xem xét, kết luận và xử lý nghiêm minh, có tác dụng cảnh báo, răn đe đối với cán bộ, đảng viên, góp phần tăng cường kiểm soát quyền lực trong Đảng.

Từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII của Đảng đến tháng 6-2023, cấp ủy các cấp đã kiểm tra 114.878 tổ chức đảng và 619.030 đảng viên, trong đó có 136.864 cấp ủy viên các cấp; giám sát 85.117 tổ chức đảng và 282.471 đảng viên, trong đó có 82.495 cấp ủy viên. Qua giám sát, phát hiện 407 tổ chức đảng và 1.264 đảng viên có dấu hiệu vi phạm; chuyển kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm 47 tổ chức đảng và 201 đảng viên. UBKT các cấp tăng cường kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm, đã kiểm tra 6.873 tổ chức đảng và 20.824 đảng viên, trong đó có 10.162 cấp ủy viên các cấp, chiếm 48,8% số đảng viên được kiểm tra; giám sát 59.854 tổ chức đảng và 86.678 đảng viên, trong đó có 52.350 cấp ủy viên các cấp, chiếm 60,4% số đảng viên được giám sát.

Qua kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng, có thể thấy, nội dung vi phạm của tổ chức đảng và đảng viên chủ yếu là vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, quy chế làm việc; thiếu trách nhiệm, buông lỏng lãnh đạo, chỉ đạo, thiếu kiểm tra, giám sát, dẫn đến xảy ra các vi phạm trong quản lý, sử dụng đất đai, khoáng sản, tài chính, tài sản, thực hiện dự án đầu tư; và vi phạm về phẩm chất đạo đức, lối sống… Đáng chú ý là vi phạm còn xảy ra ở cả các lĩnh vực nhạy cảm, như thực hiện chính sách nhân đạo, an sinh xã hội, y tế, giáo dục… Có trường hợp từng là cán bộ lãnh đạo bộ, ngành đã bị kỷ luật khai trừ ra khỏi Đảng do có những bài viết, phát ngôn trái với Cương lĩnh, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng, Nhà nước, suy thoái về tư tưởng chính trị, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Tính chất, mức độ, hậu quả của các vi phạm ngày càng lớn, có những vụ việc gây thiệt hại rất lớn về tiền, tài sản của Nhà nước; nhiều vi phạm diễn ra trong một thời gian dài, liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành nhưng không được phát hiện, kiểm tra kịp thời, dẫn đến khi xử lý để lại hậu quả rất nặng nề.

UBKT Trung ương đã tham mưu với Ban Bí thư ban hành 24 quy chế phối hợp giữa UBKT Trung ương và các cơ quan, tổ chức đảng có liên quan, tham mưu về phối hợp giữa kiểm tra, giám sát của Đảng với thanh tra, kiểm toán nhà nước và điều tra, truy tố, xét xử ngày càng chặt chẽ, đồng bộ, hiệu quả hơn, hạn chế sự chồng chéo trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền; kịp thời phát hiện những sơ hở, thiếu sót trong lãnh đạo, quản lý để đề xuất bổ sung, sửa đổi các văn bản có liên quan cho phù hợp. Việc công khai kết luận kiểm tra và xử lý vi phạm đối với tổ chức đảng, đảng viên trên các phương tiện thông tin đại chúng đã có tác động tích cực, góp phần giáo dục cán bộ, đảng viên, được nhân dân đồng tình, ủng hộ. Cùng với kỷ luật của Đảng, các cơ quan nhà nước cũng tiến hành kỷ luật hành chính tương xứng, bảo đảm kịp thời, đồng bộ giữa kỷ luật của Đảng và kỷ luật của Nhà nước; kỷ luật của Đảng đi trước, tạo tiền đề, mở đường cho kỷ luật của Nhà nước, kỷ luật của đoàn thể và xử lý hình sự. Đây là bước đột phá trong công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng, góp phần siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong Đảng và trong bộ máy nhà nước.

Đặc biệt, việc kiểm tra, giám sát, đôn đốc công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực được tăng cường, nhiều cấp ủy, tổ chức đảng đã đưa công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực thành nhiệm vụ trọng tâm của công tác kiểm tra, giám sát. Theo thống kê bước đầu, trong hơn 10 năm qua, cấp ủy, UBKT các cấp đã thi hành kỷ luật hơn 3.700 tổ chức đảng, hơn 213.000 đảng viên, trong đó có hơn 8.760 đảng viên bị kỷ luật do tham nhũng hoặc liên quan đến tham nhũng, hơn 700 đảng viên bị kỷ luật do vi phạm về kê khai tài sản, thu nhập. Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, UBKT Trung ương đã kỷ luật gần 220 cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý. Riêng từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII của Đảng đến nay, đã kỷ luật 95 cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý, cao hơn 8 lần so với nhiệm kỳ Đại hội XI (11 cán bộ) và gần bằng số cán bộ cao cấp bị xử lý kỷ luật của cả nhiệm kỳ Đại hội XII (113 cán bộ).

Phải xử lý kỷ luật cán bộ là điều không ai mong muốn, là điều không khỏi đau xót, nhưng là việc không thể không làm. Thực tế xử lý kỷ luật cán bộ cao cấp vi phạm vừa qua cho thấy, nhìn một cách tổng thể công tác cán bộ của Đảng được quy định rất chặt chẽ và khoa học, nhất là việc đề bạt, cất nhắc, luân chuyển cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý phải qua nhiều bước, nhiều cơ quan, ban, ngành ở Trung ương xem xét, thẩm định. Do đó, không thể có lỗ hổng về quy trình, quy định. Phải chăng lỗ hổng ở đây là do tổ chức, cá nhân thực hiện các quy trình, quy định đó tạo ra, là sự thiếu trách nhiệm, nể nang, né tránh, là lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm của những người có thẩm quyền, trách nhiệm đánh giá, nhận xét, luân chuyển, bổ nhiệm cán bộ? Vì thế, cần tăng cường kiểm tra, giám sát nội bộ Đảng, ngăn chặn, phòng ngừa vi phạm của tổ chức đảng và đảng viên, phát hiện và khắc phục ngay những thiếu sót, khuyết điểm khi mới manh nha; bảo đảm cho Đảng ta, trước hết là các cơ quan lãnh đạo và cán bộ lãnh đạo của Đảng luôn kiên định về chính trị, vững vàng về đường lối, không chệch hướng, có phẩm chất cách mạng tốt, ngăn chặn, đẩy lùi được sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Quan điểm chỉ đạo của Thường trực Ban Bí thư và UBKT Trung ương trong việc xử lý cán bộ sai phạm là rất dứt khoát, bởi nếu không kịp thời ngăn chặn được sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, sự “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” thì sẽ ảnh hưởng đến sự tồn vong của Đảng và chế độ.

Cách thức tiến hành của UBKT Trung ương trong xem xét các vụ việc và xử lý trách nhiệm những tập thể, cá nhân có khuyết điểm liên quan trong thời gian vừa qua được dư luận và cán bộ, đảng viên đánh giá cao. Việc công khai thông tin thể hiện sự cương quyết, trách nhiệm và thẳng thắn trong xử lý cán bộ sai phạm, cho dù đó là cán bộ ở cấp nào, đương chức hay nghỉ hưu. Cách thức công khai như vậy cũng cần được áp dụng ở cả cấp địa phương khi xem xét xử lý cán bộ sai phạm để tạo niềm tin trong nhân dân. Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng thời gian qua còn không ít khuyết điểm, hạn chế. “Việc tự kiểm tra, phát hiện và xử lý vi phạm của nhiều cấp ủy, tổ chức đảng vẫn là khâu yếu; còn nhiều tổ chức đảng và đảng viên có vi phạm nhưng chưa được phát hiện kịp thời... Công tác giám sát ở các cấp chưa thường xuyên, có nơi, có lúc chưa thực chất, phạm vi, đối tượng còn hẹp... Việc thi hành kỷ luật đảng ở một số nơi chưa nghiêm, còn hiện tượng nể nang, ngại va chạm”. Việc thực hiện các nguyên tắc tổ chức của Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ ở một số nơi chưa nghiêm, thậm chí còn vi phạm, mất đoàn kết nội bộ, có nơi còn biểu hiện cục bộ, “lợi ích nhóm”, “trông chờ, nghe ngóng”, “nhẹ trên, nặng dưới” hoặc bao che sai phạm của các địa phương, cơ quan, đơn vị. Công tác tự kiểm tra, giám sát của một số cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị để phòng ngừa, ngăn chặn, đấu tranh xử lý tiêu cực, sai phạm liên quan đến tham nhũng, kinh tế còn hạn chế.

Đặc biệt, việc kiểm soát quyền lực của cấp ủy và UBKT các cấp nhằm phòng ngừa sự lợi dụng quyền hạn trong thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát vẫn chưa thực sự được quan tâm, chú trọng. Trên thực tế, có nhiều biểu hiện lợi dụng quyền hạn trong thực thi nhiệm vụ kiểm tra, giám sát chưa được phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm minh, như nhận hối lộ, nhận quà biếu; tự ý tiếp xúc với đối tượng kiểm tra, giám sát; sử dụng các tài liệu thẩm tra, xác minh, kết quả kiểm tra, giám sát để trục lợi; bao che, “bỏ qua” hành vi vi phạm của đối tượng vi phạm; làm sai lệch kết quả kiểm tra, giám sát gây bất lợi hoặc có lợi cho đối tượng kiểm tra, giám sát... Các biểu hiện tha hoá quyền lực xuất hiện với nhiều hình thức, mức độ khác nhau rất đa dạng, tinh vi song mục đích chính vẫn là trục lợi – tức là tham nhũng (cả về vật chất và phi vật chất); dùng quyền lực tác động không đúng, “ưu ái” với một số đối tượng thân quen hoặc lợi dụng vị trí công tác để thao túng, thâu tóm quyền lực của tập thể, của người khác trái quy định nhằm trục lợi, “chỉ một cá nhân có thể thâu tóm, thao túng cả tập thể”, hoặc “năng lực, bộ máy, quyết tâm không thiếu nhưng vẫn không phát hiện và xử lý được tham nhũng”? Như vậy, phải chăng có vấn đề “lợi ích nhóm” và có sự dung túng, bao che, tiếp tay của cán bộ, đảng viên có chức vụ, quyền hạn? Lợi ích càng lớn thì sự tha hoá quyền lực càng nhanh, mạnh và quyết liệt, dữ dội hơn. Thực tế cho thấy, một khi luật pháp lỏng lẻo hay quyền lực ít được giám sát, kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ, đầy đủ thường xuyên thì sự tha hoá quyền lực càng biểu hiện công khai, trắng trợn hơn!

Một số giải pháp chủ yếu

Thời gian tới, để nâng cao hiệu quả kiểm soát quyền lực trong Đảng, vai trò, trách nhiệm của cấp ủy và UBKT các cấp trong công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng là hết sức nặng nề. Theo đó, cần xây dựng và hoàn thiện các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước liên quan đến công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng; hoàn chỉnh quy trình, phương pháp kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng; tăng cường đầu tư, hiện đại hóa cơ sở vật chất, kỹ thuật, phương tiện làm việc phục vụ công tác kiểm tra, giám sát; nâng cao chất lượng công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn về công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng. Cùng với đó, cần kiểm soát được quyết định, hành vi của chính những người làm công tác kiểm tra, giám sát. Quán triệt Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, cần tập trung thực hiện một số giải pháp chủ yếu sau:

Một làtham mưu về tiếp tục nâng cao hơn nữa nhận thức, trách nhiệm và quyết tâm chính trị của các cấp ủy, tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên, trước hết là bí thư cấp uỷ, người đứng đầu về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng. Từng cán bộ kiểm tra phải nắm vững và thực hiện nghiêm túc những quy định, những văn bản về công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật đảng, đặc biệt là những nội dung mới, nội dung cốt lõi về công tác này được nêu trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng, nhằm tạo sự thống nhất cao về ý chí và hành động trong toàn ngành kiểm tra đảng. Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng phải chủ động, đi trước, là tiền đề, “mở đường” cho xử lý kỷ luật hành chính Nhà nước và xử lý theo pháp luật, góp phần đắc lực nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống tham những. Kỷ luật đảng rõ ràng, chặt chẽ, nghiêm minh là điều kiện quan trọng để Đảng thật sự là một khối đoàn kết, thống nhất trên tất cả các mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức; bảo đảm cho đường lối, chủ trương của Đảng được chấp hành nghiêm chỉnh, thực hiện thắng lợi. Do đó, Đảng phải giữ kỷ luật rất nghiêm từ trên xuống dưới. Nếu kỷ luật của Đảng lỏng lẻo thì những kẻ cơ hội, những phần tử phản động sẽ dễ dàng chui vào hàng ngũ để phá hoại Đảng. Kỷ luật của Đảng nghĩa là tư tưởng phải nhất trí, hành động phải thống nhất, xuất phát từ sự tự giác của đảng viên trong thực hiện nhiệm vụ của họ đối với Đảng. Tuy nhiên, kỷ luật của Đảng không chỉ đòi hỏi tính tự giác mà còn mang tính bắt buộc đối với những tổ chức đảng và đảng viên chưa ý thức đầy đủ về trách nhiệm, nhiệm vụ của mình. Những đảng viên giữ vị trí càng cao, trách nhiệm càng lớn, càng phải gương mẫu và nếu mắc sai phạm càng phải chịu kỷ luật nghiêm khắc, không được châm chước, bao che cho nhau. Trong bất kỳ trường hợp nào, mọi đảng viên đều bình đẳng trước kỷ luật của Đảng và bình đẳng về mặt công dân trước pháp luật. Phải căn cứ vào nội dung, tính chất, mức độ vi phạm để có hình thức kỷ luật thích đáng.

Hai là, tham mưu tiếp tục thể chế hóa, cụ thể hóa các mục tiêu, quan điểm, giải pháp về công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật đảng trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng thành các văn bản, quy định, quy chế, hướng dẫn, bảo đảm tính khoa học, đồng bộ, chặt chẽ, thống nhất, khả thi, khắc phục những bất cập trong các quy định hiện hành. Công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng phải chủ động tiến hành một cách thường xuyên, toàn diện, khách quan, công khai, dân chủ, thận trọng và chặt chẽ; coi trọng phòng ngừa, lấy “xây” là chính, là nhiệm vụ cơ bản, chiến lược lâu dài, nhưng “chống” là nhiệm vụ cấp bách, quyết liệt, phải kiên trì, kiên quyết, thực hiện thường xuyên và hiệu quả.

Trong đó, chú trọng đổi mới, cải tiến quy trình kiểm tra, giám sát để siết chặt kỷ luật, kỷ cương, phát hiện từ sớm, ngăn chặn từ gốc các vi phạm của tổ chức đảng và đảng viên. Những quy định này cũng nhằm bảo đảm không có đảng viên nào có đặc quyền vượt quá Điều lệ Đảng cho phép; mọi đảng viên đều bị giám sát, xem xét, nhận xét, đánh giá hoạt động; mọi đảng viên đều có quyền bình đẳng, trực tiếp hoặc gián tiếp quyết định và quản lý công việc trong Đảng. Để bảo đảm kỷ luật được chặt chẽ, tự giác thì phải mở rộng, tăng cường dân chủ trong Đảng. Hai mặt dân chủ và kỷ luật trong Đảng phải luôn luôn đi đôi với nhau. Có mở rộng, tăng cường dân chủ trong Đảng thì mới bảo đảm được kỷ luật và ngược lại, có bảo đảm được kỷ luật thì mới mở rộng, tăng cường được dân chủ trong Đảng.

Theo đó, Đảng cho phép mọi đảng viên được tự do tư tưởng, được đề đạt tâm tư, nguyện vọng, ý kiến riêng của mình lên đến cơ quan cao nhất của Đảng. Đồng thời, Đảng cũng yêu cầu phải quản lý chặt chẽ cán bộ, đảng viên trong cả lời nói và việc làm. Trách nhiệm đó trước hết thuộc về các chi bộ đảng. Mọi cán bộ, đảng viên dù ở cấp nào cũng đều phải rèn luyện tính tổ chức, tính kỷ luật, tự giác đặt mình trong sự quản lý của chi bộ, tham gia đầy đủ sinh hoạt chi bộ, tuân thủ kỷ luật của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Kiên quyết không để một cán bộ, đảng viên nào đứng ngoài sự quản lý của tổ chức. Mọi hành động vô tổ chức, vô kỷ luật, không chấp hành chỉ thị, nghị quyết của Đảng, gây chia rẽ, bè phái trong Đảng đều phải bị xử lý nghiêm minh. Đây là yêu cầu cấp thiết, thường xuyên để giữ nghiêm kỷ luật của Đảng.

Ba là, tham mưu tập trung kiểm tra, giám sát tổ chức đảng gắn với trách nhiệm người đứng đầu, cán bộ chủ chốt ở những nơi dễ xảy ra vi phạm, nội bộ có biểu hiện mất đoàn kết, những nơi người dân có nhiều bức xúc, dư luận xã hội quan tâm; những nơi tham mưu, xây dựng thể chế, chính sách, thực hiện chức năng quản lý nhà nước trong một số lĩnh vực, như kinh tế - tài chính, năng lượng, y tế, giáo dục, đất đai, tài nguyên, khoáng sản, huy động, sử dụng các nguồn vốn, thực hiện các dự án đầu tư và công tác cán bộ. Cần công khai trên công luận những vụ việc tha hoá quyền lực, nhất là lạm quyền, lộng quyền, lạm dụng quyền lực, tham nhũng, “lợi ích nhóm” lớn; công khai các hành vị tha hoá quyền lực trong việc chạy chức, chạy quyền, trong việc bổ nhiệm người thân, người nhà không đúng tiêu chuẩn, điều kiện, quy trình, thủ tục, thẩm quyền hoặc nâng đỡ “không trong sáng” cán bộ dưới quyền… để cán bộ, đảng viên, Nhân dân thấy rõ tính chất nguy hại của tha hoá quyền lực để lại nhiều hậu quả đặc biệt nghiêm trọng… Phải chú trọng nâng cao vai trò, trách nhiệm của cấp uỷ, tổ chức đảng, đặc biệt là người đứng đầu trong công tác kiểm tra, giám sát về phòng, chống tham nhũng; chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ kiểm tra bảo đảm chất lượng, đáp ứng yêu cầu. Qua kiểm tra, giám sát, kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm minh các tổ chức đảng, đảng viên vi phạm và công khai kết quả xử lý trên các phương tiện thông tin đại chúng. Phải chú trọng công tác giám sát để phát hiện sớm, xử lý từ đầu, không để vi phạm nhỏ tích tụ thành vi phạm lớn, vi phạm của một người thành vi phạm của nhiều người, giám sát phải mở rộng, kiểm tra có trọng tâm, trọng điểm.

Bốn là, tham mưu tăng cường kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm và nâng cao hơn nữa chất lượng công tác giám sát, chú ý giám sát đều các khu vực, lĩnh vực, địa phương, coi đây là việc làm thường xuyên để phát hiện, nhắc nhở, cảnh báo, phòng ngừa từ xa, giải quyết từ sớm các khuyết điểm, vi phạm với mục đích “trị bệnh cứu người”, không để từ khuyết điểm kéo dài trở thành vi phạm, từ vi phạm nhỏ trở thành vi phạm lớn, để lại hậu quả nghiêm trọng.

Khi xem xét đơn, thư tố cáo, không phân biệt có ký tên hay không ký tên, vì đây là một đầu mối, một nguồn thông tin, còn vấn đề khẳng định sự đúng, sai của thông tin này là ở công tác kiểm tra của UBKT và các cơ quan có trách nhiệm. Điều này càng khẳng định, dân chủ là cơ sở để thực hiện kiểm tra, giám sát nội bộ, mở rộng dân chủ là điều kiện cốt yếu để tăng cường kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật nghiêm minh trong Đảng hiện nay. Tăng cường sự chỉ đạo, hướng dẫn nghiệp vụ của UBKT cấp trên đối với UBKT cấp dưới trong công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng, đặc biệt là các vụ việc nghiêm trọng, phức tạp, lĩnh vực nhạy cảm, quan trọng và xử lý vi phạm về tham nhũng, lãng phí, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”. Tăng cường chỉ đạo UBKT cấp dưới, khi cần thiết thì tiến hành kiểm tra cách cấp để thúc đẩy và tạo chuyển biến mang tính toàn diện, rõ rệt hơn nữa trong toàn ngành kiểm tra đảng. Các địa phương, đơn vị phải làm mạnh hơn nữa, quyết liệt hơn nữa, phải thực sự quan tâm, lắng nghe ý kiến của nhân dân, báo chí, công luận; chọn một số vụ việc có tính điển hình để kiểm tra, kết luận và xử lý nghiêm minh, nhất là trong phát hiện, xử lý, ngăn chặn tình trạng nhũng nhiễu, tiêu cực, gây phiền hà cho người dân và doanh nghiệp trong giải quyết công việc; khắc phục cho được tình trạng “trông chờ, nghe ngóng”, “trên nóng, dưới lạnh”.

Năm là, tham mưu phối hợp chặt chẽ giữa công tác kiểm tra, giám sát của Đảng với công tác thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử của Nhà nước; đưa công tác phòng, chống tham nhũng thành một trong những nội dung công tác trọng tâm của UBKT các cấp trong nhiệm kỳ này. Tập trung kiểm tra, xử lý kịp thời, nghiêm minh các tổ chức đảng, đảng viên có dấu hiệu vi phạm trong các vụ việc, vụ án thuộc diện Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực theo dõi, chỉ đạo. Trong quá trình kiểm tra, giám sát, nếu phát hiện vi phạm có dấu hiệu tội phạm thì chuyển ngay hồ sơ vụ việc đến cơ quan điều tra có thẩm quyền để thụ lý, điều tra, xử lý theo quy định của pháp luật, không chờ đến khi kết thúc quá trình kiểm tra, giám sát mới chuyểnKỷ luật của Đảng phải được thực hiện trước, là tiền đề để xử lý kỷ luật hành chính của Nhà nước, của đoàn thể và xử lý hình sự.

Sáu là, tham mưu thường xuyên quan tâm củng cố, kiện toàn tổ chức, bộ máy UBKT và cơ quan UBKT; xây dựng đội ngũ cán bộ kiểm tra các cấp đủ về số lượng, bảo đảm về chất lượng, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Đề xuất cấp có thẩm quyền tăng cường luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý các ngành, các cấp về làm công tác kiểm tra và luân chuyển cán bộ kiểm tra sang công tác ở các cấp, các ngành khác theo Thông báo Kết luận số 312-TB/TW, ngày 9-3-2010 của Ban Bí thư “Về luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý các ngành, các cấp về làm công tác kiểm tra, giám sát và luân chuyển lãnh đạo UBKT các cấp sang công tác ở các ngành, các cấp để đào tạo, bồi dưỡng, tạo nguồn cán bộ kiểm tra”. Đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ kiểm tra, trong đó chú trọng trang bị phương pháp, kỹ năng nghiệp vụ và thường xuyên bổ sung kinh nghiệm thực tiễn về xử lý các vụ việc, cập nhật kiến thức cho họ. Đẩy mạnh ứng dựng công nghệ thông tin trong hoạt động của UBKT các cấp, đặc biệt là xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu về kiểm tra, gáim sát, kỷ luật đảng, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong bối cảnh mới, góp phần đổi mới phương thức lãnh đạo, lề lối làm việc và cải cách hành chính trong Đảng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng./.

ST.

Một số giải pháp góp phần nâng cao chất lượng công tác tham mưu lĩnh vực tổ chức xây dựng Đảng

Công tác tham mưu chiến lược lĩnh vực tổ chức xây dựng Đảng là công tác tham mưu ở cấp Trung ương; tham mưu cho Ban Chấp hành Trung ương, trực tiếp là Bộ Chính trị, Ban Bí thư về công tác tổ chức, cán bộ của toàn Đảng. Trong đó, Ban Tổ chức Trung ương đóng vai trò là cơ quan chịu trách nhiệm chính trong thực hiện công tác tham mưu chiến lược về tổ chức xây dựng Đảng. Ngoài ra, có sự phối hợp của các cơ quan đảng Trung ương, vụ tổ chức cán bộ ở các cơ quan Trung ương, các ban tổ chức cấp ủy các cấp và các cơ quan có liên quan.

Hội thảo khoa học về nâng cao chất lượng công tác tham mưu xây dựng, ban hành các văn bản về công tác tổ chức xây dựng Đảng.

Trong gần 40 năm đổi mới, công tác tham mưu lĩnh vực tổ chức xây dựng Đảng đã đạt được những kết quả quan trọng:

Tham mưu về tổ chức bộ máy, biên chế, chính sách tiền lương trong hệ thống chính trị. Tổ chức nghiên cứu, tham mưu, đề xuất với Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư về mô hình tổ chức tổng thể của hệ thống chính trị; tham mưu sửa đổi, bổ sung, ban hành mới, hoàn thiện các quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, mối quan hệ công tác của các cơ quan, đơn vị, tổ chức trong hệ thống chính trị. Tham mưu lãnh đạo, chỉ đạo các cấp ủy, tổ chức đảng cụ thể hóa, thể chế hóa và tổ chức thực hiện có hiệu quả việc sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy, tinh gọn đầu mối các tổ chức theo hướng giảm, giải thể hoặc sắp xếp lại các cơ quan, tổ chức hoạt động không hiệu quả, không tăng thêm đầu mối và biên chế.

Nhìn chung, các nhiệm vụ, giải pháp về sắp xếp, tinh gọn hệ thống tổ chức của Đảng đã được triển khai thực hiện nghiêm túc, đồng bộ từ Trung ương đến cơ sở, đạt được nhiều kết quả quan trọng như: Giảm nhiều tổ chức đảng trực thuộc Trung ương, trực thuộc cấp tỉnh; hệ thống tổ chức đảng trong doanh nghiệp nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập được củng cố, kiện toàn; công tác phát triển đảng ở doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp ngoài nhà nước, thôn, tổ dân phố được quan tâm, đẩy mạnh… đã góp phần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị và xã hội. Hệ thống tổ chức của các cơ quan Nhà nước, mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội được sắp xếp kiện toàn, tinh gọn đầu mối bên trong; đổi mới nội dung, phương thức hoạt động.

Tham mưu về xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở đảng. Gần 40 năm qua cùng với quá trình phát triển, đổi mới của đất nước, số lượng, mô hình tổ chức cơ sở đảng tiếp tục được sắp xếp, hoàn thiện, điều chỉnh về quy mô, hình thức tổ chức, nội dung và phương thức hoạt động để phù hợp với yêu cầu mới. Qua gần 40 năm đổi mới, hầu hết các loại hình tổ chức cơ sở đảng từng bước được sắp xếp, củng cố, kiện toàn trên cơ sở các quy định về chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ công tác. Nhiều cấp ủy cơ sở quan tâm đổi mới phương thức lãnh đạo, bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện của Đảng ở cơ sở; xây dựng, sửa đổi, bổ sung quy chế làm việc của cấp ủy bảo đảm nguyên tắc của Đảng gắn với thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương, cơ quan, đơn vị. Chất lượng sinh hoạt cấp ủy, chi bộ định kỳ, sinh hoạt chuyên đề có chuyển biến tích cực; nâng cao tính chiến đấu trong sinh hoạt; tinh thần trách nhiệm, phương pháp điều hành, kỹ năng tổ chức sinh hoạt của nhiều bí thư chi bộ có bước tiến bộ, xuất hiện nhiều mô hình mới, cách làm hiệu quả.

Các cấp ủy, tổ chức đảng thường xuyên quan tâm củng cố, kiện toàn cấp ủy cơ sở bảo đảm số lượng, chất lượng; lựa chọn đảng viên có đủ tiêu chuẩn, điều kiện tham gia cấp ủy, đảm nhiệm vị trí bí thư, phó bí thư; trình độ chuyên môn, lý luận chính trị của đội ngũ cấp ủy viên, bí thư được nâng lên sau mỗi nhiệm kỳ. Trong từng nhiệm kỳ, công tác kiểm tra, giám sát ngày càng được Đảng quan tâm và chỉ đạo thực hiện nghiêm túc. Các cấp ủy, tổ chức đảng, ủy ban kiểm tra các cấp tăng cường kiểm tra định kỳ, đột xuất, kiểm tra có dấu hiệu vi phạm; mở rộng hoạt động giám sát; xử lý kỷ luật nghiêm đối với các tổ chức đảng vi phạm. Công tác khen thưởng được thực hiện thường xuyên gắn với việc đổi mới đánh giá, xếp loại tổ chức cơ sở đảng.

Tham mưu về xây dựng và quản lý đội ngũ đảng viên. Ban Tổ chức Trung ương đã chủ trì, phối hợp với các cơ quan, tổ chức liên quan chủ động nghiên cứu, tham mưu, đề xuất Ban Chấp hành Trung ương các khóa ban hành các nghị quyết, kết luận quan trọng về xây dựng và quản lý đội ngũ đảng viên; tham mưu Trung ương ban hành các quy định, quy chế, hướng dẫn về công tác xây dựng, quản lý và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên. Cùng với sự trưởng thành, lớn mạnh và phát triển của toàn Đảng, đội ngũ đảng viên của Đảng ngày càng phát triển nhanh về số lượng; trình độ, kiến thức, năng lực ngày càng nâng lên và cơ cấu đội ngũ đảng viên ngày càng hợp lý hơn.

Tham mưu về công tác cán bộ. Đã tham mưu Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư ban hành nhiều nghị quyết, kết luận, luật, nghị định, sửa đổi, bổ sung nhiều quy định, quy chế liên quan đến công tác cán bộ để góp phần chỉnh đốn, khắc phục những vướng mắc, hạn chế, yếu kém, bất cập. Nhiều cấp ủy, tổ chức đảng, các cơ quan Nhà nước đã lãnh đạo, chỉ đạo, thể chế hóa thành các quy định và tổ chức thực hiện nghiêm túc, đạt được những kết quả quan trọng. Qua gần 40 năm đổi mới, đội ngũ cán bộ các cấp đã có bước trưởng thành, phát triển về nhiều mặt, chất lượng đội ngũ ngày được nâng lên, đóng góp quan trọng vào thành công của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Nghiên cứu, tổng kết thực tiễn để tham mưu Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư lãnh đạo, chỉ đạo hoàn thiện thể chế về công tác cán bộ; kịp thời xây dựng, bổ sung, sửa đổi và ban hành mới hàng loạt quy định, quy chế về đánh giá, quy hoạch, luân chuyển, bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử; về danh mục chức danh, chức vụ lãnh đạo, quản lý và tương đương trong hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở; về kiểm soát quyền lực, chống chạy chức, chạy quyền, từ chức, miễn nhiệm cán bộ; về thẩm quyền, trách nhiệm người đứng đầu trong công tác cán bộ...; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền đi đôi với tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ.

Tham mưu về bảo vệ chính trị nội bộ. Đã tham mưu Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư các chỉ thị, nghị quyết, quy định, kết luận về công tác bảo vệ chính trị nội bộ đáp ứng yêu cầu của từng giai đoạn; cụ thể hóa sâu sắc, toàn diện các quan điểm chỉ đạo của Đảng về công tác bảo vệ chính trị nội bộ, giải quyết những yêu cầu, thách thức đặt ra đối với nhiệm vụ bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ.

Thực hiện tốt công tác tổ chức quán triệt các văn bản lãnh đạo của Đảng về công tác bảo vệ chính trị nội bộ; triển khai các công tác rà soát, thẩm tra, xác minh vấn đề chính trị, thẩm định và kết luận tiêu chuẩn chính trị của cán bộ, đảng viên; giải quyết đơn thư, khiếu nại, tố cáo liên quan đến công tác bảo vệ chính trị nội bộ; việc bố trí, sử dụng cán bộ có vấn đề chính trị. Thực hiện tốt công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch; công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực và kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật Đảng; phối hợp nắm tình hình chính trị nội bộ. Chủ động hướng dẫn, cụ thể hóa các nội dung chỉ đạo của Đảng về công tác bảo vệ chính trị nội bộ tại các cấp ủy, tổ chức đảng trực thuộc Trung ương.

Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác tham mưu về tổ chức xây dựng Đảng cũng bộc lộ những hạn chế, thiếu sót:

Một số nơi việc sắp xếp tổ chức bộ máy còn mang tính cơ học, chưa gắn với nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động; chưa gắn biên chế với vị trí việc làm và cơ cấu lại, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Chức năng, nhiệm vụ của một số cơ quan, tổ chức còn trùng lắp, chồng chéo, làm giảm hiệu lực, hiệu quả hoạt động. Chính sách tiền lương chưa tạo được động lực trong thực hiện nhiệm vụ.

Chưa có sự thống nhất trong việc thành lập tổ chức đảng trực thuộc đảng ủy xã, phường, thị trấn; nhiều chi bộ, đảng bộ cơ sở có đông đảng viên, tổ chức sinh hoạt đảng khó khăntổ chức cơ sở đảng ở các loại hình doanh nghiệp chưa theo kịp quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩacông tác xây dựng, phát triển tổ chức đảng trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước còn nhiều khó khănnăng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của một số ít tổ chức cơ sở đảng còn hạn chế, việc khắc phục khâu yếu, mặt yếu còn chậm. Một số tổ chức cơ sở đảng chưa kịp thời sửa đổi, bổ sung quy chế làm việc; khả năng vận dụng, cụ thể hóa và tổ chức thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và của cấp ủy cấp trên còn hạn chế, việc giải quyết một số vấn đề phức tạp xảy ra tại cơ sở còn lúng túngCông tác kiểm điểm, đánh giá, xếp loại chất lượng tổ chức cơ sở đảng vẫn chưa thực chất, một số nơi có biểu hiện nể nang, né tránh, ngại va chạmCông tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật ở một số cấp ủy cơ sở chưa nghiêm, chưa thường xuyên, kịp thời.

Công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ, đảng viên chưa thường xuyên, chưa đi vào chiều sâu, có mặt còn hình thức và chất lượng chưa cao, thậm chí còn lúng túng trước những vấn đề phức tạp mới phát sinhCông tác quản lý đảng viên chưa được quan tâm đúng mức, nhất là việc nắm bắt tình hình và diễn biến tư tưởng chính trị của đảng viên; chưa kịp thời phát hiện, ngăn chặn và đấu tranh với những biểu hiện suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” và tệ nạn quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực ngay từ chi bộ, đảng bộ cơ sở. Công tác kết nạp đảng viên ở một số nơi còn chạy theo số lượng, chưa chú trọng về chất lương, nên số lượng đảng viên dự bị không chuyển được thành đảng viên chính thức và bị xóa tên hng năm có xu hướng tăng lên.

Công tác tham mưu về công tác cán bộ còn một số hạn chế: Một số nội dung trong các nghị quyết, kết luận của Trung ương về công tác cán bộ chậm được thể chế hóa, cụ thể hóaĐánh giá cán bộ còn hình thức, chưa lấy hiệu quả công việc làm thước đo chủ yếu; đánh giá chưa liên tục cả quá trình, chưa đa chiều gắn với nhiệm vụ và tiêu chí cụ thể; chưa rõ trách nhiệm của tập thể lãnh đạo, cá nhân người đứng đầu trong nhận xét, đánh giá. Công tác quy hoạch cán bộ còn dàn trải, phổ biến là quy hoạch khép kín trong từng ngành, từng địa phương; thiếu tổng thể, liên thôngCông tác tuyển chọn, bố trí, sử dụng và bổ nhiệm cán bộ ở không ít nơi chưa thực sự xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ; tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm, đoàn kết xuôi chiều trong bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử còn xảy ra ở nhiều nơi; tình trạng đúng quy trình nhưng chưa đúng người, đúng việc xảy ra ở không ít nơiPhân cấp quản lý cán bộ còn thiếu đồng bộ giữa các bộ, ngành và địa phươngChính sách đối với cán bộ vẫn còn những hạn chế, bất cập, chưa đáp ứng  kịp yêu cầu xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ. Cơ quan tham mưu về công tác cán bộ ở một số nơi chậm đổi mới, cả về tư duy đến nội dung, phương pháp công tác; còn thiếu chủ động trong công việc, nhất là nghiên cứu, đề xuất những vấn đề mang tính chiến lược, lâu dài. Đội ngũ cán bộ làm công tác tham mưu về công tác tổ chức cán bộ ở các cấp biến động nhiều, nhất là sau mỗi kỳ đại hội; phẩm chất, năng lực, trình độ, chất lượng nghiên cứu, tham mưu có mặt còn hạn chế.

Một số văn bản, quy định của Đảng và Nhà nước về bảo vệ chính trị nội bộ còn chậm được bổ sung, hoàn thiện đồng bộ với các quy định hiện hành.

Để thực hiện tốt chức năng tham mưu lĩnh vực tổ chức xây dựng Đảng, cần tập trung thực hiện một số nhiệm vụ, giải pháp sau đây:

Một là, hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của các cơ quan đảng Trung ương làm công tác tham mưu trên lĩnh vực tổ chức xây dựng Đảng. Tiếp tục rà soát lại chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, mối quan hệ công tác, cơ cấu tổ chức bên trong của các cơ quan đảng Trung ương để từng bước sắp xếp tinh gọn, hợp lý, xóa bỏ tổ chức trung gian, trùng lặp hoặc không còn phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, để bộ máy luôn luôn được vận hành thông suốt, hiệu lực, hiệu quả, thực hiện tốt nhiệm vụ được giao. Tập trung thực hiện việc cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức của từng cơ quan, tạo ra chuyển biến rõ rệt, bảo đảm tỷ lệ cán bộ, công chức, viên chức có trình độ nghiên cứu, tham mưu tổng hợp chiếm trên 50% tổng số biên chế được giao, có từ 20%- 30% số chuyên viên là chuyên viên cao cấp, trong số đó có nhiều chuyên gia đầu ngành thực hiện nhiệm vụ tham mưu chiến lược cho Trung ương. Kiên quyết tinh giản số cán bộ, công chức, viên chức trình độ năng lực kém, thiếu ý thức phục vụ và không hoàn thành nhiệm vụ được giao. Tiếp tục đổi mới công tác tuyển dụng, công tác luân chuyển cán bộ, công chức, viên chức trong hệ thống chính trị, có chính sách phù hợp, hấp dẫn để thu hút cán bộ có đức, có tài về công tác ở các cơ quan đảng Trung ương; bố trí, sắp xếp phù hợp giữa các độ tuổi để có sự kế thừa và phát triển, tránh tình trạng hẫng hụt đội ngũ cán bộ có trình độ tham mưu chiến lược.

Hai là, xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác tham mưu lĩnh vực tổ chức xây dựng Đảng. Đổi mới công tác tuyển chọn cán bộ công tác tham mưu trong lĩnh vực tổ chức xây dựng Đảng thực sự nổi trội về trình độ, năng lực, phẩm chất đạo đức vào công tác tại ban tổ chức cấp ủy các cấp; đa dạng nguồn tuyển chọn từ các cơ quan, đơn vị và từ các học viện, trường đại học. Coi trọng quy hoạch, tạo nguồn cán bộ tham mưu lĩnh vực tổ chức xây dựng Đảng ở các cấp, các ngành. Công tác quy hoạch cán bộ phải được thực hiện nghiêm túc, bài bản, có tầm nhìn xa, có độ mở cao; từ đó xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, tạo sự chủ động về nguồn cán bộ lãnh đạo, nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trước mắt và lâu dài của Ngành Tổ chức xây dựng Đảng. Phát hiện sớm nguồn cán bộ trẻ ở nhiều cơ quan, tổ chức, lĩnh vực, ngành nghề có đức, có tài, có triển vọng, năng lực làm công tác tổ chức xây dựng Đảng, đưa vào quy hoạch để có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, tạo nguồn. Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng về lý luận chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp đối với cán bộ làm công tác tham mưu về tổ chức xây dựng Đảng.

Ngoài nội dung về trình độ chuyên môn, lý luận chính trị, nghiệp vụ công tác, một nội dung quan trọng trong công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác tổ chức xây dựng Đảng chính là kỹ năng, kinh nghiệm đánh giá, nhìn nhận con người và kỹ năng, phương pháp, kinh nghiệm xử lý các tình huống về công tác tổ chức, cán bộ, đảng viên, bảo vệ chính trị nội bộ. Đổi mới mạnh mẽ công tác đánh giá, bố trí, đề bạt, sử dụng đội ngũ cán bộ tham mưu về tổ chức xây dựng Đảng, nhất là cán bộ trẻ. Đẩy mạnh luân chuyển cán bộ trong hệ thống chính trị, các lĩnh vực công tác, tạo môi trường rèn luyện trong thực tiễn cho cán bộ Ngành Tổ chức xây dựng Đảng phấn đấu, trưởng thành. Xây dựng phong cách, lề lối, tác phong làm việc chuyên nghiệp, khoa học cho đội ngũ cán bộ làm công tác tham mưu về tổ chức xây dựng Đảng. Hoàn thiện hệ thống thể chế, quy định chuẩn mực về lề lối, phong cách làm việc của cán bộ tham mưu về tổ chức xây dựng Đảng. Xây dựng bộ tiêu chí đánh giá chất lượng đội ngũ cán bộ tham mưu lĩnh vực tổ chức xây dựng Đảng.

Ba là, đổi mới phương thức, nâng cao chất lượng nội dung tham mưu lĩnh vực tổ chức xây dựng Đảng. Xác định rõ hơn tính hệ thống về nội dung tham mưu trong lĩnh vực tổ chức xây dựng Đảng. Hoàn thiện cơ chế công tác tham mưu trong các cơ quan của Đảng nói chung và trong công tác tổ chức xây dựng Đảng nói riêng. Phải gắn rất chặt chẽ, hữu cơ giữa nghiên cứu lý luận với tổng kết thực tiễn, tôn trọng thực tiễn, lấy sự phát triển của thực tiễn làm điểm xuất phát và cũng là điểm đến của công tác nghiên cứu - tham mưu; coi trọng sự sáng tạo - tư duy sáng tạo; coi trọng chế độ phản biện, chế độ tự phản biện, chế độ tiếp thu phản biện, dân chủ, khách quan trong nghiên cứu - tham mưu xây dựng đường lối, chủ trương, chính sách phát triển đất nước; xây dựng được cơ chế, phương thức, hình thức cụ thể hóa, thể chế hóa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng thành pháp luật, chính sách của Nhà nước

Bốn là, nâng cao hiệu quả công tác phối hợp giữa các cơ quan đảng Trung ương làm công tác tham mưu lĩnh vực tổ chức xây dựng Đảng. Tăng cường sự tham gia, phối hợp giữa các cơ quan Đảng Trung ương trong triển khai các đề án trình Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư thông qua việc tham gia vào các ban chỉ đạo, tổ biên tập, tổ giúp việc đề án. Tăng cường phối hợp trong các hoạt động nghiên cứu phục vụ công tác tham mưu như tổ chức xin ý kiến, tổ chức các hội thảo, tọa đàm. Đối với các nội dung tham mưu liên quan đến nhiều lĩnh vực, cần mời các chuyên gia, nhà khoa học từ các cơ quan đảng Trung ương tham mưu ở lĩnh vực đó tham gia thực hiện các chuyên đề nghiên cứu chuyên sâu, tham gia cung cấp các thông tin, dữ liệu theo yêu cầu của đề án để bảo đảm tính khách quan trong đánh giá, nhận định và tính thiết thực, khả thi của các giải pháp đề xuất.

Năm là, bảo đảm các điều kiện, nguồn lực phục vụ công tác tham mưu lĩnh vực tổ chức xây dựng Đảng: Tiếp tục hoàn thiện quy định về xây dựng đội ngũ cán bộ tham mưu; quy định rõ về tiêu chuẩn, điều kiện đối với chức danh chuyên gia; nâng cao chất lượng công tác tham mưu của các chức danh trợ lý, thư ký; tiếp tục hoàn thiện các cơ chế, chính sách về vị trí việc làm của cán bộ, công chức, viên chức, trong đó vị trí việc làm của cán bộ tham mưu. Tiếp tục đổi mới công tác tuyển dụng, sử dụng, quản lý, đào tạo, bồi dưỡng, quy hoạch, bố trí cán bộ, công chức, viên chức; sớm hoàn thiện cơ chế, chính sách thu hút và trọng dụng người có tài năng, các chuyên gia cho công tác tham mưu của các cơ quan Đảng Trung ương về lĩnh vực tổ chức xây dựng Đảng.

Bảo đảm điều kiện, nguồn lực về kinh tế, cơ sở vật chất, kỹ thuật và môi trường làm việc: Đẩy mạnh cải cách tiền lương, bảo đảm thu nhập, phụ cấp và các chế độ chính sách ưu đãi, đặc thù riêng cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức làm việc trong các cơ quan tham mưu của các cơ quan Đảng. Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin vào việc thực hiện công tác tham mưu của các cơ quan Đảng Trung ương; đầu tư cơ sở vật chất, kỹ thuật phục vụ công tác tham mưu, nghiên cứu của các cơ quan Đảng Trung ương. Nâng kinh phí cấp cho đề án trình Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư nhằm bảo đảm chất lượng, hiệu quả quá trình tham mưu; tạo dựng môi trường làm việc thực sự dân chủ, lành mạnh, công bằng, có văn hóa; tôn trọng, lắng nghe các ý kiến phản biện và những nội dung còn có ý kiến khác nhau trong quá trình tham mưu./.

ST.

LỜI BÁC DẠY NGÀY NÀY NĂM XƯA: NGÀY 1 THÁNG 6 NĂM 1946!

     “Đồng bào Nam Bộ là dân nước Việt Nam. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi”!

Là chân lý thiêng liêng, cao cả của dân tộc Việt Nam được Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định trong thư gửi đồng bào Nam Bộ, đăng trên Báo Cứu quốc, số 255 ngày 01 tháng 6 năm 1946.

Đầu năm 1946, đất nước ta đứng trước muôn vàn khó khăn, thử thách, nhất là nguy cơ thực dân Pháp quay trở lại xâm lược. Chủ tịch Hồ Chí Minh thấu hiểu tâm trạng lo lắng và nguyện vọng thiết tha được độc lập, thống nhất Nam - Bắc một nhà của đồng bào miền Nam. Trước khi lên đường sang Paris để mở cuộc đàm phán chính thức với Chính phủ Pháp, Người đã gửi thư bày tỏ sự đồng cảm và khơi dậy niềm tin của đồng bào Nam bộ vào thắng lợi tất yếu trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Thực tiễn sau 30 năm đấu tranh giải phóng dân tộc, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh chân lý trên đã trở thành hiện thực: Việt Nam là một quốc gia độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.

Trong giai đoạn hiện nay, tình hình quốc tế và trong nước có những thay đổi nhanh chóng, đan xen giữa thời cơ và thách thức; song Đảng ta luôn nhất quán với tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội của Chủ tịch Hồ Chí Minh; phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực và tiềm năng, sức sáng tạo của nhân dân; đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, khoan dung để tập hợp, đoàn kết mọi người Việt Nam ở trong và ngoài nước; tăng cường quan hệ mật thiết giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước, tạo sinh lực mới của khối đại đoàn kết toàn dân tộc vì mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” làm điểm tương đồng; tôn trọng những điểm khác biệt không trái với lợi ích chung của quốc gia, dân tộc.

Thấm nhuần lời Bác dạy, Quân đội ta luôn kiên định mục tiêu, lý tưởng chiến đấu, trung thành tuyệt đối và tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, vào thắng lợi của công cuộc đổi mới; vào sức mạnh chiến đấu và chiến thắng của quân đội trong tình hình mới. Quan tâm lãnh đạo tốt việc xây dựng mối đoàn kết, gắn bó cán bộ, chiến sĩ giữa các vùng miền, giữa người kinh với người dân tộc thiểu số; chăm lo bồi dưỡng nâng cao chất lượng huấn luyện đối với bộ đội là con em dân tộc ít người, vùng sâu, vùng sa; thực hiện tốt chức năng đội quân công tác, làm tốt công tác dân vận góp phần xây dựng khối đại đoàn kết các dân tộc Việt Nam, xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc; kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch gây chia rẽ giữa các dân tộc anh em, góp phần nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của quân đội, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được...
Ảnh: Tháng 2/1946, Người nói chuyện với hơn 10 vạn nhân dân thủ đô Hà Nội sau cuộc tổng tuyển cử bầu ra Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.
Môi trường ST.