Thứ Bảy, 1 tháng 6, 2024

Phản bác luận điệu xuyên tạc phương châm đấu tranh phòng, chống “giặc nội xâm” của Đảng

Nhằm xuyên tạc chủ trương và kết quả công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ở nước ta, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị đã tung ra nhiều luận điệu xảo trá, thâm độc. Trong đó, luận điệu phủ nhận phương châm: “trên dưới đồng lòng, dọc ngang thông suốt” trong công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực của Đảng là một trọng điểm, cần kiên quyết vạch trần, đấu tranh bác bỏ.

Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, những năm qua, công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực - thứ “giặc nội xâm”, được tiến hành ráo riết, quyết liệt, “không có vùng cấm, không có ngoại lệ”, đạt được nhiều kết quả tích cực, tương đối toàn diện, được nhân dân hoan nghênh, đồng tình, ủng hộ, dư luận quốc tế ghi nhận, đánh giá cao. Là người trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo triển khai cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã sớm nêu ra yêu cầu về sự thống nhất, đồng thuận, quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân, các cấp, các ngành và cả hệ thống chính trị trong cuộc đấu tranh cam go này. Từ thực tiễn đấu tranh và thông qua tác phẩm “Kiên quyết, kiên trì cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, góp phần xây dựng Đảng và Nhà nước ta ngày càng trong sạch, vững mạnh” yêu cầu này đã được đồng chí Tổng Bí thư tổng kết thành phương châm: “trên dưới đồng lòng, dọc ngang thông suốt”.

Theo đó, “Trên dưới đồng lòng” là sự chung sức, đồng lòng của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, của cả hệ thống chính trị trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; là sự đồng thuận từ trên xuống dưới, từ Trung ương đến cơ sở cũng như sự vào cuộc của toàn Đảng, từng tổ chức đến mỗi cán bộ, đảng viên và mỗi người dân thực hiện kiên quyết, kiên trì, không ngừng nghỉ trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Còn “dọc ngang thông suốt” là sự nhất quán về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, sự vào cuộc đồng bộ các cấp, ngành và sự tin tưởng, ủng hộ của nhân dân trong quyết tâm, kiên quyết, kiên trì diệt tận gốc “giặc nội xâm”. Tuy nhiên, ngay sau Tác phẩm được xuất bản, phát hành, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị đã lợi dụng các trang mạng xã hội để tung ra luận điệu rêu rao, xuyên tạc rằng: phương châm “trên dưới đồng lòng, dọc ngang thông suốt” chỉ là khẩu hiệu hô hào một cách sáo rỗng, phi thực tế, mị dân, v.v.

Cần khẳng định rõ, đây là luận điệu hết sức xảo trá, thâm độc của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị, hòng tác động vào tư tưởng, nhận thức, làm suy giảm niềm tin của nhân dân đối với chủ trương, đường lối và các biện pháp đấu tranh phòng, chống “giặc nội xâm” của Đảng và Nhà nước ta, nhằm thực hiện mưu đồ thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Song, thực tiễn cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng của Đảng đã bác bỏ mọi xuyên tạc của các thế lực thù địch.

Trước hết, cần khẳng định rằng, cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng của Đảng nhận được sự đồng tình, ủng hộ của các tầng lớp nhân dân và cán bộ, đảng viên. Nhận rõ nguy cơ tham nhũng đối với sự phát triển của đất nước, sự tồn vong của chế độ, sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm chỉ đạo chống tham ô, lãng phí, quan liêu và chủ nghĩa cá nhân. Người yêu cầu việc chống “giặc nội xâm” vừa phải chủ động phòng ngừa, vừa phải kiên quyết tiến công; phải có sự chuẩn bị, có kế hoạch, có tổ chức thực hiện và có lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát, tiến hành thường xuyên, liên tục, không đánh trống, bỏ dùi; phải có sự quyết tâm cao của người đứng đầu, sự nỗ lực cố gắng quyết tâm của đội ngũ cán bộ các cấp; phải thông qua các cuộc vận động nhằm tổ chức và động viên toàn thể cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân tham gia đấu tranh; phải dựa vào dân, lắng nghe dân. Thấm nhuần tư tưởng đó của Người, những năm qua, nhất là từ Đại hội XI đến nay, Đảng ta đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị, quy chế, quy định về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng nói chung và đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực nói riêng. Đặc biệt, việc thành lập Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng do Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng làm Trưởng Ban đã tạo bước đột phá trong tổ chức thực hiện, đạt nhiều kết quả cụ thể, rõ rệt. Đấu tranh phòng, chống tham nhũng thực sự đã “trở thành phong trào, xu thế không thể đảo ngược”. Nhờ có chủ trương đúng, quyết tâm cao, sự nhất trí, đồng lòng vào cuộc của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân,... nhiều vụ án tham nhũng, kinh tế nghiêm trọng, phức tạp đã được phát hiện, phanh phui và xử lý rất kiên quyết, nghiêm minh, theo đúng quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước, thể hiện rõ quan điểm: không có vùng cấm, không có ngoại lệ, bất kể người đó là ai. Theo số liệu điều tra dư luận xã hội do Ban Tuyên giáo Trung ương thực hiện, có 93% số người được hỏi bày tỏ tin tưởng vào cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng, tiêu cực của Đảng và Nhà nước. Điều đó khẳng định quyết tâm đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực của Đảng được nhân dân đồng tình, ủng hộ, theo đúng tinh thần “trên dưới đồng lòng, dọc ngang thông suốt”.



Hội nghị toàn quốc tổng kết công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực giai đoạn 2012 - 2022, ngày 30/6/2022.
Nguồn: tuyengiao.vn

Thứ haicuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng, tiêu cực có sự vào cuộc quyết liệt các cấp, ngành, cơ quan chức năng. Có thể khẳng định, công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực được Đảng và Nhà nước lãnh đạo, chỉ đạo, thực hiện tích cực, ngày càng được đẩy mạnh, nhất là sau khi các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thành lập Ban Chỉ đạo đối với nhiệm vụ đặc biệt quan trọng này. Điều đó, không chỉ là sự hiện thực hóa phương châm “trên dưới đồng lòng, dọc ngang thông suốt”, mà còn khắc phục tình trạng “trên nóng, dưới lạnh”. Việc thành lập các Ban Chỉ đạo cấp tỉnh về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực có thể được xem như là “cánh tay nối dài của Trung ương” nhằm giải quyết một cách kịp thời những vấn đề tham nhũng, tiêu cực còn tồn đọng kéo dài, gây bức xúc trong dư luận ở địa phương. Đây là việc làm cần thiết, đúng đắn, phù hợp với tình hình thực tế của cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ở nước ta hiện nay và chắc chắn sẽ góp phần tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện quyết liệt, đồng bộ từ Trung ương đến địa phương; tạo sự chuyển biến tích cực, mạnh mẽ hơn nữa trong công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta theo đúng tinh thần mà Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhiều lần nhấn mạnh: “Tiền hô hậu ủng”, “Nhất hô bá ứng”, “Trên dưới đồng lòng”, “Dọc ngang thông suốt”.

Thứ ba, thực tiễn, kết quả cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực những năm qua là minh chứng rõ nhất cho phương châm: “Trên dưới đồng lòng, dọc ngang thông suốt”.  Với quyết tâm chính trị rất cao, sự chỉ đạo quyết liệt của Trung ương, công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực của Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta được thực hiện một cách đồng bộ, quyết liệt, bài bản, hiệu quả và đạt được nhiều kết quả có ý nghĩa quan trọng. Trong 10 năm (2012 - 2022), “các cơ quan tố tụng trong cả nước đã khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm gần 16.000 vụ án tham nhũng, chức vụ, kinh tế với hơn 30.300 bị cáo. Riêng Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng đã đưa vào diện theo dõi, chỉ đạo gần 1.000 vụ án, vụ việc ở 3 cấp độ; trong đó, trực tiếp theo dõi, chỉ đạo 313 vụ án, vụ việc tham nhũng, kinh tế nghiêm trọng, phức tạp, dư luận xã hội quan tâm, đã đưa ra xét xử sơ thẩm 120 vụ án, 1.083 bị cáo, trong đó có 37 cán bộ diện Trung ương quản lý”. “Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ủy ban Kiểm tra Trung ương kỷ luật hơn 170 cán bộ cấp cao diện Trung ương quản lý, trong đó có 33 ủy viên, nguyên ủy viên Trung ương Đảng, hơn 50 sĩ quan cấp tướng trong lực lượng vũ trang. Từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII của Đảng đến nay, đã kỷ luật 50 cán bộ diện Trung ương quản lý, trong đó có 08 Ủy viên, Nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, 20 sĩ quan cấp tướng trong lực lượng vũ trang”. Những con số này cho thấy công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực được Đảng, Nhà nước ta quan tâm chỉ đạo quyết liệt, bài bản, đi vào chiều sâu; có bước tiến mạnh, đạt nhiều kết quả cụ thể rất quan trọng, toàn diện, rõ rệt; đã kiên quyết xử lý nghiêm sai phạm của từng cá nhân, cho dù người đó là ai, bảo đảm công khai, minh bạch.

Sự thực trên không chỉ chứng minh tính đúng đắn của phương châm “trên dưới đồng lòng, dọc ngang thông suốt”, mà còn tạo hiệu ứng tích cực, lan tỏa mạnh mẽ trong toàn xã hội; được cán bộ, đảng viên và nhân dân đồng tình ủng hộ và mong muốn, đòi hỏi cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng, tiêu cực sẽ tiếp tục không ngừng, không nghỉ, kiên quyết, kiên trì chống “giặc nội xâm” đến cùng. Đây là bằng chứng xác đáng nhất khẳng định nỗ lực rất lớn, nói đi đôi với làm của Đảng, Nhà nước trong việc phát hiện, xử lý tham nhũng, tiêu cực, đưa nhiệm vụ đặc biệt quan trọng này không chỉ là tuyên ngôn chính trị mà đã trở thành hành động thực tế. Đồng thời, đập tan mọi luận điệu xuyên tạc, phủ nhận phương châm “trên dưới đồng lòng, dọc ngang thông suốt” chỉ là khẩu hiệu hô hào một cách sáo rỗng, phi thực tế, mị dân trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ở Việt Nam.

Như vậy, phương châm “trên dưới đồng lòng, dọc ngang thông suốt” không chỉ có giá trị định hướng, chỉ đạo, mà còn như một lời hiệu triệu toàn Đảng, toàn dân, toàn quân nhiệt tình ủng hộ và tích cực tham gia cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Qua đó, không chỉ làm trong sạch đội ngũ của Đảng, thu hồi tài sản quốc gia, mà quan trọng hơn là đem lại niềm tin tưởng cho nhân dân, góp phần bảo vệ Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo vệ sự lành mạnh trong các quan hệ xã hội, tạo động lực để đất nước phát triển nhanh và bền vững; đồng thời, đảm bảo cho Đảng ta có sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo, cầm quyền trước yêu cầu, nhiệm vụ mới. Cùng với đó, phương châm “trên dưới đồng lòng, dọc ngang thông suốt” trong đấu tranh phòng, chống “giặc nội xâm” còn có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn, là sự tổng kết thực tiễn phong phú, rút ra những vấn đề có tính lý luận và bài học kinh nghiệm quý để củng cố thêm bản lĩnh, sức mạnh và niềm tin; định hướng giải pháp thực hiện có hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong thời gian tới, cung cấp nhiều luận cứ xác đáng, thuyết phục để đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch về công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ở Việt Nam hiện nay./.

ST.

Hồ Chí Minh thâu thái, kết tinh, lan tỏa những giá trị dân tộc và thời đại

 

1. Hồ Chí Minh là sự kết tinh, tỏa sáng những giá trị dân tộc
Trên nền tảng một lãnh thổ chung, “một tiếng nói chung”, một lối sống mang sắc thái riêng, dân tộc Việt Nam đã tự khẳng định sự tồn tại của mình, bản lĩnh vượt qua mọi thử thách hiểm nghèo, vững vàng tiến lên. Trong hơn 1.000 năm thống trị của phong kiến phương Bắc, qua “Ngô Vương Quyền nối lại quốc thống” (Ngô Quyền xưng vương hiệu 939 sau chiến thắng Bạch Đằng), suốt thời kỳ Đại Việt, những lời thề và quốc hiệu Việt Nam chứa đựng biết bao giá trị về tinh thần quật cường, bất khuất, tự cường, tự chủ, tự lập, sáng tạo. Đó là khí phách “rửa sạch nước thù để nối lại nghiệp xưa họ Hùng”, khẳng định chủ quyền “Lĩnh Nam riêng một triều đình nước ta” (Trưng Trắc). Đó là phụ nữ Lạc Hồng muốn “cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá kình ở biển khơi, đánh đuổi quân Ngô, giành lại giang sơn, cởi ách nô lệ, chứ không chịu khom lưng làm tỳ thiếp người ta” (Bà Triệu). “Đem đại nghĩa để thắng hung tàn. Lấy chí nhân để thay cường bạo... lấy yếu chống mạnh...lấy ít địch nhiều” (Nguyễn Trãi). Lời vua Lê Thánh Tông: “Một thước núi, một tấc sông của ta lẽ nào tự tiện bỏ đi được”. Đó là sự khẳng khái “đầu tôi chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo” (Trần Thủ Độ nói với vua Trần); Trần Quốc Tuấn với nhiệt huyết “Sát Thát”; là đồng thanh “Quyết đánh” trong Hội nghị Diên Hồng (triều Trần với cuộc kháng chiến chống Mông - Nguyên); là lời nói đanh thép “nếu bệ hạ muốn hàng, xin hãy chém đầu tôi đi đã” (Trần Quốc Tuấn); “ta thà làm ma nước Nam, chứ không thèm làm vương đất Bắc (Trần Bình Trọng); là “vua tôi đồng lòng, anh em hòa thuận, cả nước góp sức” (nhà Trần). Đó là ý thức tự chủ với những quốc hiệu như: Vạn Xuân (năm 544, Lý Bí lên ngôi Hoàng đế, tuyên bố dựng nước, đặt quốc hiệu Vạn Xuân), Đại Việt (năm 1054 thời vua Lý Thánh Tông)...

Việt Nam là trường hợp hiếm thấy trong lịch sử thế giới khi đã mất chủ quyền 1.000 năm vẫn giành lại được. Không nhiều nước như Việt Nam, dù kẻ thù quân đông, vũ khí mạnh, nhiều lần xâm lược nước ta nhưng bằng sức mạnh đoàn kết, cả nước chung sức, trí thông minh, sáng tạo, lòng hy sinh quả cảm, chúng ta đều giành thắng lợi: Lý Thường Kiệt hai lần chống Tống thắng lợi (1075, 1077); quân Mông - Nguyên ba lần xâm lược Đại Việt đều bị đánh bại (1285, 1287, 1288); ba trận thủy chiến trên sông Bạch Đằng, đánh tan giặc ngoại xâm, nhấn chìm dã tâm xâm lược của các thế lực bành trướng phương Bắc (Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán năm 938; Lê Hoàn (vua Lê Đại Hành) đại thắng quân Tống năm 981; Trần Quốc Tuấn đánh bại quân Mông - Nguyên năm 1288); v.v..

Hồ Chí Minh đã kế thừa, phát triển các giá trị của dân tộc trong thời đại mới, Người cho rằng, việc cứu nước và giải phóng dân tộc mình không thể dựa vào bất kỳ nước nào, dù đó là Nhật, Anh hay Mỹ. Bởi dựa vào nước đế quốc này để đánh đổ chế độ thực dân kia là cách làm “đuổi hổ cửa trước rước beo cửa sau”. Phải đi ra nước ngoài tìm hiểu, nghiên cứu, khám phá, xem xét các nước họ làm thế nào rồi tự mình tìm ra con “Đường cách mệnh” cho dân tộc mình. Khi bắt gặp lý luận khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh khẳng định, đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta. Với Người, giá trị của chủ nghĩa Mác - Lênin là ở chỗ phương pháp làm việc biện chứng, là cái cẩm nang thần kỳ, là “kim chỉ nam cho hành động, chứ không phải là kinh thánh”.

Hồ Chí Minh là người “tìm đường” (1911-1920), “mở đường” (1920-1930), “dẫn đường” (1930-1945), “thiết kế tương lai” (1945-1969). Giá trị dân tộc được kết tinh ở Người với quyết tâm: Dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập. Dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững nền tự do và độc lập. Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ. Không có gì quý hơn độc lập, tự do, v.v..

Sau khi “tìm đường đi cho dân tộc theo đi” - con đường cách mạng vô sản, Hồ Chí Minh “đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập”. Người cùng cả dân tộc “rũ bùn đứng dậy chói lòa”, “biến người nô lệ thành người tự do”, đem lại quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc cho mỗi người và cả dân tộc, mở ra kỷ nguyên độc lập, tự do. Người vạch ra một lộ trình sau khi nước Việt Nam giành được độc lập sẽ đi theo con đường riêng của mình, xây dựng chế độ dân chủ nhân dân, tiến dần lên CNXH, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Luận điểm sáng tạo về con đường đi lên CNXH ở Việt Nam chưa có tiền lệ trong lịch sử là một kinh nghiệm quý cho các nước có hoàn cảnh như Việt Nam.

Dưới ánh sáng khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh luôn độc lập, tự chủ, đổi mới, sáng tạo với hai điểm cốt yếu sau:

Thứ nhất, Người có cách nhìn “động” về xã hội, về thế giới, về tình hình khách quan, về nhân dân như là cơ sở cho tinh thần đổi mới, sáng tạo. Theo Người, xã hội ngày một phát triển, thế giới ngày càng đổi mới, tình hình khách quan thay đổi hằng giờ hằng phút, nhân dân ngày càng tiến bộ, cho nên tư tưởng, hành động, chủ trương, năng lực, sáng kiến của ta cũng phải thay đổi cho kịp. Mặt khác, chủ trương hôm nay đúng đắn, nhưng vì tình hình khách quan thay đổi nhanh chóng nên có thể hôm sau không hợp thời, quá thời, sai hỏng. Vì vậy, phải tỉnh táo kiểm điểm, bỏ đi những cái cũ kỹ, lạc hậu, lỗi thời để không bị bỏ rơi, không bị những người nhanh nhẹn vượt lên trước, để theo kịp tình thế. Còn “nếu cứ giữ lấy cái kẹp giấy cũ không thay đổi là không đi đến đâu cả”. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Khi tình thế đổi mới, ta đủ gan góc, đủ tinh thần phụ trách để quyết định phương hướng chính trị mới, thay đổi cách thức công tác và đấu tranh, dám bỏ những khẩu hiệu và những nghị quyết đã cũ, không hợp thời, đưa những nghị quyết và khẩu hiệu mới thay vào".

Người dày công nghiên cứu thực tiễn, mục tiêu, nhiệm vụ của đất nước và khả năng thích ứng của con người Việt Nam với từng giai đoạn phát triển. Xã hội càng phát triển thì nhận thức của con người phải thích ứng và phát triển thuận chiều cùng với sự phát triển của xã hội. Người viết: “Xã hội ngày càng tiến, công tác của ta cũng phải ngày càng tiến. Chúng ta phải kháng chiến thắng lợi, phải thực hiện dân chủ mới, phải tiến đến chủ nghĩa xã hội, rồi tiến lên chủ nghĩa cộng sản. Vì vậy, năng lực của ta, sáng kiến của ta, tiến bộ của ta cũng phải luôn luôn phát triển, tiến lên không ngừng. Không tiến, tức là thoái”.

Thứ hai, Hồ Chí Minh hiểu rất rõ hoàn cảnh đặc biệt của nước ta, đất nước hàng nghìn năm dưới chế độ phong kiến, gần trăm năm thuộc địa của chủ nghĩa thực dân, nông nghiệp lạc hậu, khoa học kỹ thuật kém phát triển, công cuộc đổi xã hội cũ thành xã hội mới sẽ vô cùng gian nan, phức tạp, khó hơn nhiều so với việc đánh giặc, thắng đế quốc và phong kiến. Đây là cả một cuộc chiến đấu khổng lồ chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi. Người chỉ rõ: “Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa là một cuộc biến đổi khó khăn nhất và sâu sắc nhất. Chúng ta phải xây dựng một xã hội hoàn toàn mới xưa nay chưa từng có trong lịch sử dân tộc ta. Chúng ta phải thay đổi triệt để những nếp sống, thói quen, ý nghĩ và thành kiến có gốc rễ sâu xa hàng ngàn năm. Chúng ta phải thay đổi quan hệ sản xuất cũ, xóa bỏ giai cấp bóc lột, xây dựng quan hệ sản xuất mới không có bóc lột áp bức”.

Hồ Chí Minh nhìn nhận, khó khăn của cuộc cách mạng XHCN ở Việt Nam bắt đầu từ những đặc điểm, nhiệm vụ trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Không như cách mạng vô sản Nga, sau khi giai cấp vô sản nắm được chính quyền là bước ngay vào thời kỳ quá độ lên CNXH, Việt Nam phải qua chín năm xây dựng chế độ dân chủ nhân dân trong hoàn cảnh vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, chuẩn bị tiền đề chính trị, kinh tế, văn hóa để khi kết thúc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân là bước vào thời kỳ quá độ lên CNXH. Trong hoàn cảnh đó, Hồ Chí Minh đã chỉ ra nội dung, bước đi, biện pháp xây dựng CNXH cho phù hợp với điều kiện cụ thể của nước ta.

Vạch ra con đường đi lên CNXH ở Việt Nam, Hồ Chí Minh bổ sung vào lý luận và thực tiễn CNXH những đặc điểm, bản sắc Việt Nam. Nghiên cứu CNXH trong di sản Hồ Chí Minh, chúng ta dễ dàng nhận ra tư tưởng của Người về đặc trưng, mục tiêu, động lực của CNXH Việt Nam, trong đó phản chiếu ánh sáng của CNXH khoa học theo học thuyết Mác - Lênin nhưng rất Việt Nam, đậm dấu ấn Hồ Chí Minh. Thủ tướng Phạm Văn Đồng viết: “Chủ nghĩa xã hội theo đặc điểm Việt Nam là sự kết thúc thắng lợi hành trình lịch sử của dân tộc mà Hồ Chí Minh đã vạch ra từ đầu thế kỷ, là sự thực hiện trọn vẹn Di chúc của Người, là đỉnh cao của sự nghiệp cách mạng ba cuộc giải phóng của Việt Nam, từ đó chân trời càng mở rộng cho đà tiến cao xa hơn nữa, trên con đường phát triển vô hạn của dân tộc, xã hội và con người”. Xây dựng CNXH theo bản sắc Việt Nam theo lý giải của Thủ tướng Phạm Văn Đồng “là phương hướng, là ý nguyện, là mục tiêu mà Hồ Chí Minh, Đảng ta, nhân dân ta đã lựa chọn. Đối với con người Việt Nam ta, từ những năm 20 của thế kỷ này, ý chí độc lập dân tộc gắn liền với ý chí xã hội chủ nghĩa”.

Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo tiến hành gần được 40 năm. Đảng đề ra mục tiêu của đổi mới là dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, phấn đấu xây dựng một nước Việt Nam hùng cường, phồn vinh, hạnh phúc, sánh vai với các cường quốc năm châu. Thực chất quan điểm của Đảng chính là chủ nghĩa xã hội theo đặc điểm Việt Nam. Phạm Văn Đồng cho rằng: “kết quả cuối cùng của công cuộc đổi mới là tạo ra một xã hội xã hội chủ nghĩa theo đặc điểm Việt Nam, mang đậm dấu ấn thiên tài và cốt cách dân tộc, trong mục tiêu và động lực, trong con đường, bước đi và cách làm”.

2. Hồ Chí Minh kết tinh, tỏa sáng những giá trị thời đại

Giá trị thời đại ở đây trước hết là học thuyết Mác - Lênin, ánh sáng soi đường cách mạng của dân tộc Việt Nam, là tinh hoa văn hóa của nhân loại. Hồ Chí Minh vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin trên nhiều mặt, trên cơ sở đó không chỉ mở đường cho dân tộc mình mà còn mở đường cho cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc của các nước thuộc địa và phụ thuộc trong phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới. Hồ Chí Minh từng bước xác lập một hệ thống tư tưởng với những luận điểm sáng tạo, đúc kết thành quy luật giải phóng và phát triển ở các nước có hoàn cảnh như Việt Nam.

Cống hiến lớn lao của C.Mác, Ph.Ăngghen là xác lập CNXH khoa học, vạch ra quy luật tiến hóa của lịch sử loài người, chỉ ra con đường cách mạng, giải phóng những người bị áp bức trên thế giới. Trên cơ sở vận dụng và phát triển sáng tạo lý luận của C.Mác, cống hiến vĩ đại của V.I.Lênin là lãnh đạo cách mạng vô sản thắng lợi đầu tiên ở nước Nga và tiên đoán làn sóng cách mạng diễn ra ở các nước thuộc địa và phụ thuộc. Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười rọi chiếu ánh sáng tới triệu triệu người trên trái đất. Hồ Chí Minh là số ít trong những “nhân vật huyền thoại” tiếp thu được ánh sáng Tháng Mười, hưởng ứng lời kêu gọi của V.I.Lênin, đưa CNXH khoa học về cho dân tộc mình.

Trong khi truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin về Việt Nam, ngay từ đầu, Hồ Chí Minh đã xác định, Việt Nam không làm cách mạng vô sản kiểu Nga mà làm cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản, đây là con đường duy nhất đúng để cứu nước và giải phóng dân tộc. Người rút ra, muốn thực hiện được sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người thì phải thành lập Đảng kiểu mới theo học thuyết Mác - Lênin. Đảng đó không phải chỉ kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân, mà phải kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Đó chính là quy luật ra đời của Đảng Cộng sản đối với các nước như Việt Nam.

Cống hiến của Hồ Chí Minh mà quốc tế ghi nhận là để lại dấu ấn trong quá trình phát triển của nhân loại vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Nếu V.I.Lênin là bậc thầy trong lên án mạnh mẽ chủ nghĩa đế quốc trên phạm vi thế giới, thì Hồ Chí Minh là lãnh tụ cộng sản viết nhiều, tố cáo sâu sắc tội ác dã man của chủ nghĩa thực dân. Trăn trở về số phận của các dân tộc thuộc địa, Người đưa ra bản án đối với chế độ thực dân Pháp. Đây là tư duy và cách làm cần thiết để thức tỉnh các dân tộc thuộc địa chìm đắm trong áp bức, bóc lột, đè nén của chủ nghĩa thực dân. Hồ Chí Minh nêu cao ngọn cờ và tiên phong trong phong trào giải phóng dân tộc. Đặt ra cho mình sứ mệnh giải phóng dân tộc mình và các dân tộc thuộc địa, Hồ Chí Minh đã góp phần to lớn vào sự nghiệp vẻ vang đó. Người đã hiện thực hóa giá trị về quyền con người trong Tuyên ngôn độc lập của Mỹ và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của cách mạng Pháp, đồng thời mở rộng, nâng cao quyền con người thành quyền của các dân tộc. Quan điểm của Hồ Chí Minh đi trước nghị quyết của Liên hiệp quốc, khi năm 1960 tổ chức này mới tuyên bố trao trả độc lập cho các nước và các dân tộc thuộc địa.

Cách đây 100 năm, nhà thơ Liên Xô Ôxíp Manđenxtam qua cuộc trò chuyện với Nguyễn Ái Quốc, cảm nhận từ phong cách, phong thái của Người, ông viết: “Dáng dấp của con người đang ngồi trước mặt tôi đây, Nguyễn Ái Quốc, cũng đang tỏa ra một cái gì thật lịch thiệp và tế nhị... Từ Nguyễn Ái Quốc đã tỏa ra một thứ văn hóa, không phải là văn hóa Âu châu, mà có lẽ là một nền văn hóa tương lai... Dân An Nam là một dân tộc giản dị và lịch thiệp. Qua phong thái thanh cao, trong giọng nói trầm ấm của Nguyễn Ái Quốc, chúng ta như nghe thấy ngày mai, như thấy sự yên tĩnh mênh mông của tình hữu ái toàn thế giới”. Nghị quyết của UNESCO khẳng định, tư tưởng Hồ Chí Minh là hiện thân cho những khát vọng của các dân tộc trong việc khẳng định bản sắc dân tộc của mình và tiêu biểu cho việc thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau.

Hồ Chí Minh là một nhân vật kiệt xuất của lịch sử bởi những đóng góp của Người vào kiến tạo hòa bình, hòa giải, thúc đẩy và tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc. Phát hiện và khai thác điểm chung mưu cầu hạnh phúc cho loài người, mưu cầu phúc lợi cho xã hội trong chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa Tôn Dật Tiên, Khổng giáo, Thiên Chúa giáo là một tư duy hiếm thấy trong tư tưởng nhân loại. Theo Người, văn hóa Việt Nam là sự kết hợp có chọn lọc văn hóa phương Đông và phương Tây.

Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự tiếp nhận các trào lưu tư tưởng, là giao hòa sự đa dạng, tôn trọng các nền văn hóa, sự kết tinh các giá trị thời đại, mở ra xu hướng trao đổi và đối thoại giữa các nền văn hóa, góp phần thúc đẩy sự xích lại gần nhau của các nền văn hóa, được bạn bè quốc tế thừa nhận. Trong Hội thảo quốc tế tổ chức tại Việt Nam Kỷ niệm 100 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, một đại biểu phát biểu: “Chúng tôi đến đây, có người theo đạo Hồi, có người theo đạo Phật, đạo Tin lành, đạo Thiên Chúa, trước chúng tôi không hiểu nhau, qua hai ngày hội thảo, chúng tôi có thể ngồi lại nói chuyện vui vẻ với nhau, vì chúng tôi có cái chung là lý tưởng Hồ Chí Minh: muốn cho nhân loại được tự do, hạnh phúc”. Tại Hội thảo quốc tế lớn với chủ đề “Hồ Chí Minh - Việt Nam - Hòa bình thế giới”, nhân dân Ấn Độ cảm ơn Việt Nam, ngưỡng mộ Hồ Chí Minh, coi Người là lãnh tụ của Việt Nam và của cả chính họ. Dự hội thảo có khoảng 12.000 người xếp thành hình ảnh Hồ Chí Minh, thành khẩu hiệu “Hồ Chí Minh muôn năm”. Tổng thống Ấn Độ coi kỷ niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là nhiệm vụ quốc tế mà còn là nhiệm vụ của quốc gia Ấn Độ.

Hồ Chí Minh đã tạo nên “chất keo” gắn kết các dân tộc, sợi dây bền chặt nối liền các nền văn hóa. Chính những suy nghĩ, việc làm tiến bộ, tích cực của Người đã xóa bỏ những rào cản của các nền văn hóa khác nhau liên quan đến chủng tộc, màu da, tiếng nói, tôn giáo, thể chế chính trị. Theo Hồ Chí Minh, hòa bình là khát vọng của nhân loại tiến bộ. Chế độ chính trị khác nhau không ngăn cản việc chung sống hòa bình và phấn đấu cho một nền hòa bình bền vững. Người “tin chắc rằng mọi sự phân tranh trên thế giới đều có thể giải quyết bằng cách hòa bình; tin chắc rằng các nước dù chế độ xã hội khác nhau và hình thái ý thức khác nhau cũng đều có thể chung sống hòa bình được”. Hồ Chí Minh chỉ ra giải pháp thiết lập một nền hòa bình bền vững trên thế giới là mỗi dân tộc cần có ý thức và trách nhiệm về giá trị cao quý của hòa bình và bằng mọi cách để có được hòa bình. Các nước, nhất là những nước lớn, cần có thái độ hợp tác chân thành, giải quyết mâu thuẫn bằng thương lượng hòa bình, không đe dọa và dùng vũ lực, không có thái độ “cá lớn nuốt cá bé”. Tổ chức UNESCO tôn vinh Hồ Chí Minh là nhà văn hóa kiệt xuất, đề cao việc thúc đẩy các nền văn hóa xích lại gần nhau. Trong trao đổi và đối thoại văn hóa, Hồ Chí Minh đã tạo ra một công cụ hữu hiệu để kiến tạo hòa bình. Câu nói nổi tiếng: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do!” có giá trị toàn cầu vì nó khẳng định khát vọng về những giá trị chung của nhân loại; đoàn kết thế giới theo tinh thần “bốn phương vô sản, bốn biển đều là anh em”; là tình hữu nghị, hữu ái giữa nhân dân các nước; là thái độ và tấm lòng vị tha, nhân văn, nhân đạo cao cả, v.v..

Hồ Chí Minh yêu Tổ quốc và đồng bào mình, cũng yêu nhân dân và Tổ quốc các nước. Người quý trọng sinh mệnh của người Việt Nam cũng như sinh mệnh của người nước khác. Trong ngày thực dân Pháp nổ súng gây hấn ở Nam Bộ, trở lại xâm lược Việt Nam (23-9-1945), cùng với việc phê phán một số người Pháp gây nên cuộc xung đột đổ máu giữa hai bên, Hồ Chí Minh “nghiêng mình trước anh hồn những chiến sĩ và đồng bào Việt Nam, đã vì Tổ quốc mà hy sinh tính mệnh”. Người “cũng ngậm ngùi thương xót cho những người Pháp đã tử vong. Than ôi, trước lòng bác ái, thì máu Pháp hay máu Việt cũng đều là máu, người Pháp hay người Việt cũng đều là người”.

Khi Hồ Chí Minh qua đời, Đảng Cộng sản Mỹ trong điện chia buồn đã viết những lời hết sức cảm động: “Nhân loại đã mất một vị lãnh tụ cách mạng vĩ đại, một người thầy mácxít - lêninnít xuất sắc mà tấm lòng ưu ái đầy thi vị mong muốn một thế giới tốt đẹp có hương hoa tươi thắm và tiếng cười náo nức của trẻ em đã thấm nhuần vào chủ nghĩa nhân đạo toàn diện của cuộc đời mà Người đã sống, thấm nhuần vào những việc kỳ diệu mà Người đã làm và sự nghiệp trọn đời Người đã phục vụ. Tên tuổi của đồng chí Hồ Chí Minh sẽ mãi mãi gắn bó với những hành động cao cả nhất và những ước mơ cao quý nhất của nhân loại nhằm thực hiện một khối cộng đồng anh em thực sự của nhân dân các nước được hưởng quyền bình đẳng và được thỏa mãn đầy đủ về những nhu cầu vật chất và tinh thần của mình, một thế giới không có chiến tranh, không có sự tàn bạo, nghèo khổ và phân biệt đối xử”. Một đại biểu Mỹ phát biểu trong Hội thảo quốc tế Kỷ niệm 100 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Nếu chủ nghĩa cộng sản như chủ nghĩa cộng sản Hồ Chí Minh thì cũng chấp nhận được”.

Bạn bè thế giới, học giả quốc tế đã nói lên những điều chúng ta cần nói về Hồ Chí Minh - người kết tinh, tỏa sáng những giá trị trường tồn của thời đại. Đúng như ngài Rômét Chanđra, Chủ tịch Hội đồng hòa bình thế giới đã viết: “Bất cứ nơi nào chiến đấu cho độc lập tự do, ở đó có Hồ Chí Minh và ngọn cờ Hồ Chí Minh bay cao. Bất cứ ở đâu chiến đấu cho hòa bình và công lý, ở đó có Hồ Chí Minh và ngọn cờ Hồ Chí Minh bay cao. Ở bất cứ đâu nhân dân chiến đấu cho một thế giới mới, chống lại đói nghèo, ở đó có Hồ Chí Minh và ngọn cờ Hồ Chí Minh bay cao”./.

ST.

Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào xây dựng và phát triển đội ngũ trí thức trẻ ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu Cách mạng công nghiệp 4.0

Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng vị trí, tầm quan trọng của đội ngũ trí thức nói chung, đội ngũ trí thức trẻ nói riêng đối với sự nghiệp đấu tranh chống giặc ngoại xâm thống nhất đất nước và kiến thiết, dựng xây nước nhà. Bối cảnh hiện nay, đáp ứng xu thế phát triển với tác động của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, việc nghiên cứu và vận dụng linh hoạt, sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ trí thức trẻ sẽ tạo động lực để Việt Nam phát triển nhanh và bền vững.

Chủ tịch Hồ Chí Minh với đại biểu trí thức dự Hội nghị Chính trị đặc biệt tháng 3-1964. Ảnh tư liệu.

Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Trí thức là vốn liếng quý báu của dân tộc. Ở nước khác như thế, ở Việt Nam càng như thế”. Việc nghiên cứu, vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh là cơ sở lý luận giúp Đảng, Nhà nước tiếp tục xây dựng, hoàn thiện chủ trương, chính sách về xây dựng, phát triển đội ngũ trí thức trẻ đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước nhanh, bền vững trong bối cảnh tác động của Cách mạng công nghiệp 4.0.

1. Một số nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng và phát triển đội ngũ trí thức trẻ

Về vị trí, vai trò của đội ngũ trí thức trẻ, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Thanh niên là người chủ tương lai của nước nhà. Thật vậy, nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do các thanh niên”. Trong Thư gửi thanh niên và nhi đồng toàn quốc nhân dịp Tết sắp đến (tháng 1-1946), Người viết: “Một năm khởi đầu từ mùa xuân. Một đời khởi đầu từ tuổi trẻ. Tuổi trẻ là mùa xuân của xã hội”. Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành tình cảm đặc biệt cho thanh niên, nhất là thanh niên trí thức qua việc bồi dưỡng, giáo dục, rèn luyện.

Theo Người, trí thức trẻ là một bộ phận quan trọng của đội ngũ trí thức Việt Nam, là lực lượng tiên phong trong đội ngũ thanh niên. Họ là lực lượng có tinh thần yêu nước nồng nàn, có khát vọng ý chí vươn lên, có đạo đức cách mạng trong sáng, dám nghĩ, dám làm, dám hy sinh; có vị trí, vai trò quan trọng trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng, thống nhất dân tộc và kiến thiết nước nhà. Đồng thời, họ đang công tác, hoạt động và nghiên cứu ở nhiều lĩnh vực kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh,… quan trọng của đất nước.

Về trách nhiệm của đội ngũ trí thức trẻ, Người nhắc nhở: “Thanh niên muốn làm người chủ tương lai cho xứng đáng thì ngay hiện tại phải rèn luyện tinh thần và lực lượng của mình, phải ra làm việc để chuẩn bị cái tương lai đó” và "Để thật xứng đáng là người chủ của một nước xã hội chủ nghĩa, thanh niên ta quyết tâm thực hiện mấy điều sau đây: Phải thấm nhuần đạo đức cách mạng tức là khiêm tốn, đoàn kết, thực hành chủ nghĩa tập thể, thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau, người tiên tiến thì giúp đỡ người kém, người kém phải cố gắng để tiến lên, ra sức cần kiệm xây dựng nước nhà; phải nghiêm khắc chống chủ nghĩa cá nhân như tự tư tự lợi, tự kiêu, tự mãn, chỉ tham việc gì có danh tiếng, xem khinh những công việc bình thường. Phải chống tham ô, lãng phí; phải cố gắng học hỏi để không ngừng nâng cao trình độ chính trị, văn hóa và kỹ thuật để phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân”.

Về mục tiêu và khát vọng, Hồ Chí Minh nhấn mạnh đến: (1) Mục tiêu xây dựng đội ngũ trí thức trẻ: Trí thức trẻ phải gắn với vận mệnh dân tộc, thể hiện nghĩa vụ và trách nhiệm của mình với đất nước; (2) Đội ngũ trí thức trẻ phải gắn bó thường xuyên, mật thiết với nhân dân, trên tinh thần khiêm tốn học hỏi những điều hay lẽ phải, vì tuổi trẻ đôi khi chưa có kinh nghiệm muốn khẳng định mình dễ dẫn đến vội vàng, nhất là đội ngũ trí thức trẻ thuần túy về khoa học, kỹ thuật. Nhận xét về thanh niên, trong đó có thanh niên trí thức, Người cho rằng: “Ưu điểm của thanh niên ta là hăng hái, giàu tinh thần xung phong. Khuyết điểm là ham chuộng hình thức, thiếu thực tế, bệnh cá nhân, bệnh anh hùng. Rất mong toàn thể thanh niên ta ra sức phát triển những ưu điểm và tẩy sạch những khuyết điểm ấy. Huy hiệu của thanh niên ta là “tay cầm cờ đỏ sao vàng tiến lên”; (3) Đội ngũ trí thức trẻ nhiệt huyết, khao khát được cống hiến để khẳng định mình và phục vụ cho Tổ quốc. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đội ngũ trí thức trẻ là những người có học vấn, có năng lực sáng tạo, hoài bão lớn, dám làm những việc lớn, ích nước, lợi dân; (4) Đội ngũ trí thức trẻ năng động, chủ động kết bạn với các quốc gia trên thế giới; (5) Coi trọng giáo dục đạo đức, lý tưởng cách mạng cho trí thức trẻ.

Về quan điểm xây dựng đội ngũ trí thức trẻ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến việc đào tạo đội ngũ trí thức cho cách mạng, đề ra phương châm vừa cải tạo và sử dụng những trí thức cũ, vừa xây dựng và phát triển lực lượng trí thức mới. Người đã rất đề cao, coi trọng người trí thức, các biện pháp, chính sách động viên, khuyến khích đội ngũ trí thức tham gia vào sự nghiệp cách mạng; đào tạo trí thức mới, cải tạo trí thức cũ, để xây dựng đội ngũ trí thức có phẩm chất khoa học, có đạo đức và năng lực thực tiễn cao. 

Trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Sắp xếp thời gian và bài học… phải cho khéo, phải có mạch lạc với nhau, mà không xung đột với nhau”[5]. Trí thức trẻ luôn phải trau dồi, học tập, lĩnh hội kho tàng tri thức của nhân loại là vô tận, người học phải biết chọn lựa nội dung phù hợp... Trí thức không chỉ học mà phải hành. Hành là làm, ứng dụng kiến thức vào thực tiễn. Học với hành phải đi đôi nghĩa là học và hành không thể tách rời, phải coi trọng như nhau. “Hành” được đến đâu, điều đó còn tùy thuộc vào tri thức “học” được phong phú sinh động và sâu sắc thế nào. “Học đi đôi với hành” vì chúng là hai mặt thống nhất với nhau, bổ sung cho nhau. Đó là hai công việc thống nhất với nhau trong quá trình học tập. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh “Học phải đi đôi với hành” chính là nguyên lý, là phương châm giáo dục, đồng thời là phương pháp học tập đạt hiệu quả cao.

Có thể thấy, tư tưởng về đội ngũ trí thức trẻ đã thể hiện tầm nhìn chiến lược của Chủ tịch Hồ Chí Minh, là cơ sở lý luận và thực tiễn cho Đảng, Nhà nước quan tâm, bồi dưỡng đội ngũ trí thức trẻ. Đồng thời, thể hiện tình cảm, sự quan tâm, chăm lo, dìu dắt của Chủ tịch Hồ Chí Minh dành cho đội ngũ trí thức trẻ. Tư tưởng và tình cảm của Người chính là nguồn động lực, khích lệ ý chí, tinh thần, nghị lực vươn lên chiếm lĩnh những tầm cao mới của đội ngũ trí thức trẻ trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng gặp gỡ trí thức trẻ Việt Nam tại Pháp (tháng 3/2018). Ảnh: qdnd.vn.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng gặp gỡ trí thức trẻ Việt Nam tại Pháp 
(tháng 3-2018). Ảnh: qdnd.vn.

2. Một số thành tựu đạt được trong việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ trí thức trẻ ở Việt Nam thời gian qua

Trong 38 năm đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã xây dựng và ban hành nhiều chủ trương, chính sách, thể hiện quan điểm nhất quán là đẩy mạnh xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức trẻ, tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự cống hiến, sáng tạo của họ trong công cuộc đổi mới, đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, hội nhập quốc tế như: Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 6-8-2008 về xây dựng đội ngũ trí thức của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, tiếp đó đến Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 31-10-2012 về Phát triển khoa học và công nghệ; Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19-5-2018 về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, Nghị quyết 45-NQ/TW ngày 24-11-2023 Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước nhanh và bền vững trong giai đoạn mới…

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, các cơ quan, ban, ngành đã thực hiện các chính sách xây dựng và từng bước hoàn thiện hệ thống đào tạo, nghiên cứu; đổi mới cơ chế quản lý, tăng cường đầu tư cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hóa và văn nghệ; các chính sách sử dụng và tạo môi trường phát huy vai trò của đội ngũ trí thức trẻ; chính sách đãi ngộ, tôn vinh trí thức, các giải thưởng quốc gia, phong tặng các chức danh khoa học và các danh hiệu cao quý; thu hút trí thức trẻ người Việt Nam ở nước ngoài...

Hằng năm, Việt Nam đào tạo được hàng trăm nghìn cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ trẻ về các lĩnh vực, ngành nghề đóng góp vào đội ngũ lao động trình độ cao nguồn lực dồi dào chất lượng, tăng năng suất lao động đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Hơn thế nữa đội ngũ trí thức trẻ đã có những đóng góp tích cực trong nhiều mặt đời sống xã hội, có thể kể đến như nhiều trí thức trẻ Việt Nam đoạt giải cao trong các kỳ thi khối ASEAN hay quốc tế,... Đội ngũ trí thức trẻ đóng vai trò quan trọng trong việc sưu tầm, nghiên cứu phổ biến truyền dạy vốn văn hóa - văn nghệ dân gian các dân tộc Việt Nam góp phần bảo vệ vốn văn hóa truyền thống dân tộc. Ngoài ra, trên các lĩnh vực nông nghiệp, kinh tế, chính trị, quốc phòng - an ninh cũng có đông đảo đội ngũ trí thức trẻ tham gia. Nhiều bộ, ban, ngành, cơ quan, địa phương đã xây dựng, đào tạo, thu hút và sử dụng nguồn nhân lực trí thức trẻ một cách hiệu quả. Thành phố Hải Phòng, Đà Nẵng có những giải pháp quyết liệt thu hút, trọng dụng đội ngũ trí thức trẻ.

Những chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước đã góp phần tích cực thúc đẩy đội ngũ trí thức trẻ phát triển nhanh cả về số lượng và chất lượng. Hiện nay, Việt Nam đã mở rộng giáo dục bậc cao (đại học và sau đại học), trước hết là tăng số lượng các trường đại học, cao đẳng. Tính đến đầu nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng, cả nước có 460 trường đại học và cao đẳng, bao gồm 224 trường đại học và 236 trường cao đẳng; tính bình quân mỗi tỉnh, thành phố có khoảng 6,6 trường đại học, cao đẳng, tổng số sinh viên cả nước có khoảng trên 2,2 triệu, đạt tỷ lệ khoảng 250 sinh viên/1 vạn dân. Trong đó, sinh viên đại học chiếm 66%, cao đẳng chiếm 34%; nữ sinh chiếm 49,6%; số sinh viên học tập tại các trường công lập chiếm 85%, các trường ngoài công lập chiếm khoảng 15% tổng số sinh viên; sinh viên hệ chính quy là 1.962.000. Ngoài ra, có khoảng 80.000 lưu học sinh Việt Nam đang học tập tại gần 40 quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới. Đây là lực lượng đông đảo, được đào tạo ở những cơ sở uy tín, đã và đang là nguồn bổ sung cho đội ngũ trí thức Việt Nam, cũng chính là động lực tiên quyết để phát triển đội ngũ trí thức Việt Nam và xây dựng đất nước.  

Từ năm 1980 đến năm 2015, sau 24 đợt xét, tổng số lượt giáo sư, phó giáo sư đã được công nhận ở nước ta là 11.619, trong đó có 1.680 giáo sư và 9.939 phó giáo sư. Riêng năm 2016 có thêm 65 giáo sư và 638 phó giáo sư được công nhận; năm 2017, số giáo sư, phó giáo sư đạt chuẩn tăng lên 1.131 người (trong đó giáo sư là 74, phó giáo sư 1.071); năm 2019: 73 giáo sư, 349 phó giáo sư; năm 2020: 39 giáo sư, 300 phó giáo sư; năm 2021: 42 giáo sư, 363 phó giáo sư; năm 2022: 34 giáo sư, 349 phó giáo sư... Đội ngũ trí thức có trình độ chuyên môn học thuật cao hiện đang công tác, cống hiến trên tất cả các lĩnh vực, đặc biệt tham gia vào hoạt động giáo dục và đào tạo ở các trường, đại học, học viện và cao đẳng.

Việt Nam đã chủ động liên kết đào tạo với các nước có nền giáo dục hiện đại trên thế giới, do đó đội ngũ trí thức trẻ có cơ hội học tập, nghiên cứu, tiếp cận những tri thức hiện đại nhất, trở thành nguồn chủ lực trong phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh. Đồng thời, tiếp thu những bài học kinh nghiệm về đào tạo nguồn lực trí thức ở các nước phát triển trên thế giới, Việt Nam đã nhìn nhận vai trò của các tập đoàn kinh tế, doanh nghiệp không chỉ tham gia vào hoạt động sản xuất - kinh doanh, mà còn tham gia tích cực vào đào tạo, đào tạo lại và nâng cao chất lượng theo chiều sâu nguồn nhân lực trí thức.

Bên cạnh những thành tựu đạt được, việc đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng đội ngũ trí thức trẻ ở Việt Nam còn một số hạn chế, thiếu sót cần khắc phục như: Việt Nam chưa có chiến lược tổng thể về đội ngũ trí thức, và về đội ngũ trí thức trẻ - đây là hạn chế mang tính chất căn cơ dẫn đến tình trạng thiếu đồng bộ, thống nhất trong quá trình xây dựng đội ngũ trí thức. Nhiều chủ trương, chính sách của Ðảng và Nhà nước đối với đội ngũ trí thức chậm đi vào cuộc sống. Một số chủ trương, chính sách không sát với thực tế; có chủ trương, chính sách đúng đắn nhưng thiếu những chế tài đủ mạnh bảo đảm cho việc thực hiện có kết quả… Việc triển khai chính sách thu hút, sử dụng trí thức trẻ thiếu tính đồng bộ. Một thực tế tồn tại phổ biến ở nhiều ngành, địa phương hiện nay là coi trọng việc thu hút trí thức trẻ nhưng lại chưa coi trọng việc sử dụng họ. Mặt khác, chính sách thu hút, trọng dụng trí thức trẻ do các địa phương xây dựng vẫn nặng tính hình thức, chưa được nghiên cứu kỹ lưỡng, chưa được tổng kết trong thực tế triển khai để đánh giá hiệu quả của chính sách. Đặc biệt, để giữ chân người tài làm việc trong nền công vụ thì các văn bản của các bộ, ngành và địa phương mới chỉ chú trọng đến xây dựng chính sách thu hút mà chưa quan tâm chú trọng đến việc sử dụng, đãi ngộ và trọng dụng họ. Hiện tượng bất hợp lý và lãng phí “chất xám” của đội ngũ trí thức trẻ sẽ vẫn tiếp tục diễn ra nếu đơn vị, địa phương “trải thảm đỏ” để thu hút nhân tài về làm việc nhưng bố trí, sắp xếp họ không đúng chuyên môn, năng lực và sở trường công tác.

Hạn chế trên xuất phát từ một số nguyên nhân cơ bản như: một số cấp uỷ đảng, chính quyền và cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp chưa nhận thức đúng về tầm quan trọng của việc xây dựng đội ngũ trí thức trẻ nói chung, cũng như chưa thấy được vai trò, vị trí của đội ngũ trí thức trẻ nói riêng dẫn đến việc đánh giá, sử dụng họ không đúng năng lực và trình độ, dẫn đến "tâm tư" trong một bộ phận trí thức trẻ; bản thân một số trí thức trẻ chưa thấy được hết tầm quan trọng và trách nhiệm của mình trong quá trình hội nhập quốc tế; môi trường làm việc ở một số nơi còn thiếu dân chủ, thiếu tự do sáng tạo, nhất là đối với đội ngũ trí thức trẻ thuộc lĩnh vực khoa học xã hội và văn nghệ sĩ; cho đến nay chưa có một văn bản có tính hệ thống như một nghị quyết hoặc một chiến lược riêng về công tác này.

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính cùng đại diện trí thức Việt Kiều, thanh niên, sinh viên Việt Nam và cán bộ, nhân viên cơ quan đại diện Việt Nam tại New York, chiều 15/5/2022 - Ảnh: VGP/Nhật Bắc.

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính cùng đại diện trí thức Việt kiều, thanh niên, sinh viên Việt Nam và cán bộ, nhân viên cơ quan đại diện Việt Nam tại New York, chiều 15-5-2022. Ảnh: VGP/Nhật Bắc.

3. Giải pháp vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ trí thức trẻ nhằm đáp ứng yêu cầu Cách mạng công nghiệp 4.0

Một là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức về vai trò của trí thức trẻ trong Cách mạng công nghiệp 4.0. Hiện nay, việc nâng cao nhận thức của xã hội về vị trí và vai trò của đội ngũ trí thức trẻ phải được xem là giải pháp mang tính tổng thể, tác động lâu dài và cần duy trì thường xuyên. Vì thế, để thực hiện hiệu quả giải pháp này cần tập trung giải quyết một số nhiệm vụ cơ bản: (i) Tiếp tục đổi mới tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức của các cấp chính quyền và nhân dân về vị trí, vai trò của đội ngũ trí thức trẻ. Luôn phải khẳng định công tác tư tưởng cần được thực hiện thường xuyên và phải gắn với việc giải quyết một cách thỏa đáng vấn đề lợi ích. (ii) Đội ngũ trí thức trẻ không ngừng nâng cao nhận thức về vai trò của mình trong giai đoạn hiện nay: thường xuyên nâng cao năng lực chuyên môn và nhận thức rõ vai trò, trách nhiệm của mình trước đòi hỏi của sự nghiệp CNH, HĐH; phải tự giác sửa chữa những khuyết điểm, khắc phục những hạn chế trong tư duy, cách nghĩ để tham gia một cách tích cực vào quá trình xây dựng và phát triển đất nước.

Hai là, xây dựng và hoàn thiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ trí thức trẻ, nhất là những tài năng trẻ. Việc nghiên cứu đề xuất các giải pháp liên quan đến giáo dục là những giải pháp căn bản, nền tảng, có ý nghĩa chiến lược trong xây dựng đội ngũ trí thức trẻ ở Việt Nam. Để làm được điều đó, cần thực hiện một số giải pháp cơ bản sau: xây dựng chiến lược đào tạo, bồi dưỡng nhân tài đáp ứng yêu cầu phát triển của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0; tạo ra những chuyển biến căn bản trong giáo dục đại học và sau đại học; hoàn thiện chính sách thu hút, sử dụng, trọng dụng, đãi ngộ và tôn vinh đội ngũ trí thức trẻ, trong đó cần có cơ chế, chính sách đặc biệt thu hút, đãi ngộ và tôn vinh đội ngũ trí thức trẻ có trình độ chuyên môn cao đang làm việc ở nước ngoài về nước; tạo môi trường thuận lợi cho trí thức trẻ phát huy năng lực của bản thân trước yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0Để được như như vậy cần thực hiện một số giải pháp cụ thể sau: Tiếp tục cụ thể hóa quy chế dân chủ trong hoạt động khoa học, văn hóa, văn nghệ; xây dựng quy chế nhằm phát huy chức năng phản biện của đội ngũ trí thức dưới nhiều hình thức khác nhau, đặc biệt là trí thức trẻ. Thực hiện được giải pháp này là một việc rất khó khăn nhưng lại có ý nghĩa lớn trong việc khơi dậy và phát huy được tiềm năng sáng tạo của đội ngũ trí thức trẻ trong quá trình phát triển của đất nước.

Ba là, tập trung nguồn lực để thu hút, sử dụng, trọng dụng, đãi ngộ và tôn vinh đội ngũ trí thức trẻ. Thực tiễn cho thấy, muốn họ phát huy được tiềm năng và vai trò của mình thì cần phải thực hiện đồng bộ chính sách thu hút, sử dụng, đãi ngộ và tôn vinh, cụ thể: tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý của Nhà nước về thu hút, sử dụng trí thức, nhất là việc tuyển dụng các vị trí công việc cần thực hiện một cách công khai, minh bạch, có tiêu chí rõ ràng. Mặt khác, việc tuyển dụng cần xóa bỏ tư duy bằng cấp mà quan tâm nhiều hơn vào năng lực thực tiễn và khả năng tư duy, sáng tạo để thu nhận được những người có thực lực; trọng dụng đội ngũ trí thức trẻ tài năng, có chế độ khuyến khích và ưu đãi đội ngũ trí thức trẻ chuyên môn giỏi và tâm huyết. Việc xây dựng lực lượng và trọng dụng đội ngũ trí thức trẻ là nhiệm vụ hết sức quan trọng, vì lực lượng trí thức trẻ chính là chủ nhân tương lai của đất nước, là thế hệ sẽ duy trì truyền thống và quyết định vận mệnh của dân tộc trong những chặng đường phát triển tiếp theo. Cần đổi mới chính sách đãi ngộ về vật chất đối với đội ngũ trí thức. Chế độ đãi ngộ đó không những phải bảo đảm cho họ được yên tâm về nhu cầu của bản thân và gia đình mà còn phải mang lại cho họ những chế độ chuyên biệt, đãi ngộ riêng như là ghi nhận của xã hội về công sức, tài năng của họ trong xã hội. Muốn vậy, cần cải cách chế độ tiền lương cho đội ngũ trí thức, nhất là đội ngũ trí thức trẻ mới ra trường. Ngoài cải cách chế độ tiền lương, còn cần có những hỗ trợ vật chất khác cho đội ngũ trí thức trẻ mang tính đặc thù; đổi mới chính sách tôn vinh về tinh thần đối với đội ngũ trí thức. Để làm được điều đó, cần đơn giản hóa các thủ tục hành chính khi xét các danh hiệu đối với đội ngũ trí thức; đổi mới cơ chế xét công nhận chức danh chuyên môn khoa học bảo đảm đúng người, đúng đối tượng, tránh tình trạng bỏ sót người tài, người có cống hiến; đặc biệt tránh định kiến, khắt khe khi xét giải thưởng hay phong tặng với đội ngũ trí thức trẻ có nhiều cống hiến.

Bốn là, tạo môi trường thuận lợi, lành mạnh để phát huy tính độc lập, sáng tạo của đội ngũ trí thức trẻ trước yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0. Môi trường làm việc thuận lợi, lành mạnh là một yếu tố có vai trò quan trọng. Nó có thể tác động, thúc đẩy hoặc kìm hãm năng lực sáng tạo và cống hiến của họ. Trong đó, môi trường dân chủ là yếu tố có tác động mạnh mẽ nhất bởi ở đó người trí thức được tự do sáng tạo, được trình bày, bảo vệ quan điểm nghiêm túc của mình. Muốn xây dựng được môi trường như vậy, cần thực hiện một số biện pháp cụ thể: cụ thể hóa quy chế dân chủ trong hoạt động khoa học, văn hóa, văn nghệ theo quy định của Đảng, Nhà nước; xây dựng quy chế nhằm phát huy chức năng phản biện của đội ngũ trí thức dưới nhiều hình thức khác nhau, đặc biệt là trí thức trẻ…

Năm là, tích cực phát huy tinh thần chủ động, tích cực của đội ngũ trí thức trẻ trước yêu cầu của Cách mạng công nghiệp 4.0 và sự phát triển bền vững của đất nước: Thời gian tới, cần đặt lên vai đội ngũ trí thức trẻ những trọng trách và trách nhiệm to lớn đối với xã hội, được thể hiện thông qua các diễn đàn để phản biện xã hội, nhưng để quá trình phản biện xã hội có tính hiệu quả thì những phản biện của trí thức trẻ phải là những phản biện có tính xây dựng, cần có tổ chức, có phương thức tham vấn phù hợp; giáo dục cho đội ngũ trí thức trẻ sự nhận thức đúng đắn, đầy đủ về cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 cũng như xu hướng phát triển và những tác động tích cực hay tiêu cực của nó đối với đời sống kinh tế - xã hội; xác định rõ năng lực, sở trường của mình để lựa chọn những ngành nghề phù hợp, ưu tiên những ngành nghề đáp ứng được những yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0. Chủ động trước những xu hướng thay đổi, vận động của thị trường lao động hoặc những thay đổi công nghệ của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đem lại; tích cực học tập, rèn luyện kỹ năng và nâng cao năng lực bản thân cũng như chủ động tìm hiểu về các yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 để không bị lạc hậu và có thể trở thành công dân toàn cầu; chủ động, sáng tạo, linh hoạt và làm chủ kỹ năng để có khả năng làm việc với công nghệ hiện đại, thích ứng với sự thay đổi nhanh chóng trong phương thức sản xuất mới, phương thức giao tiếp mới của xã hội, phong cách sống mới của thời đại./.

ST.