Thứ Bảy, 1 tháng 6, 2024

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: HỌC TẬP PHONG CÁCH LÃNH ĐẠO BẰNG NÊU GƯƠNG CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH!

     Chủ tịch Hồ Chí Minh là một tấm gương sáng ngời về tư chất, năng lực và phong cách lãnh đạo. Học tập phong cách lãnh đạo bằng nêu gương của Người, đặc biệt là trong việc xây dựng, rèn luyện phong cách lãnh đạo của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu có ý nghĩa rất quan trọng trong tình hình hiện nay!

Sự cần thiết của lãnh đạo bằng nêu gương theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh
Nêu gương là việc thực hành để những giá trị của đạo đức và tài năng của người lãnh đạo được lan tỏa, truyền cảm hứng; qua đó, dẫn dắt, thúc đẩy mọi hành động của cấp dưới và người dân. Sự nêu gương của người đứng đầu tổ chức, cơ quan, đơn vị là mệnh lệnh không lời để thuyết phục cấp dưới noi theo. Sự yếu kém về nhân cách và phong cách lãnh đạo của người đứng đầu sẽ dẫn đến nhiều hệ lụy xấu cho hoạt động của cơ quan, đơn vị. Vì vậy, phát huy trách nhiệm nêu gương của người lãnh đạo trong các tổ chức của hệ thống chính trị có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam.

Lãnh đạo bằng nêu gương là phương thức lãnh đạo khoa học, trí tuệ và nhân văn để Đảng xứng đáng “là đạo đức, là văn minh” như Chủ tịch Hồ Chí Minh mong mỏi. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) xác định: “Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu của đảng viên. Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo của hệ thống chính trị. Đảng lãnh đạo thông qua tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong các tổ chức của hệ thống chính trị, tăng cường chế độ trách nhiệm cá nhân, nhất là người đứng đầu”.

Phong cách Hồ Chí Minh dù là phong cách của vị lãnh tụ tối cao, nhưng cực kỳ gần gũi - “cao mà không xa, mới mà không lạ, to lớn mà không làm ra vĩ đại, chói sáng mà không gây choáng ngợp, gặp lần đầu mà như thân thuộc từ lâu” - mang đậm dấu ấn riêng. Cả cuộc đời Người là sự mẫu mực về phong cách làm việc, phong cách lãnh đạo dân chủ, khoa học, có kiểm tra, kiểm soát cụ thể, thường xuyên; về tác phong luôn gần dân, tin dân, trọng dân; ứng xử tinh tế trong thực hành đoàn kết, dựa vào nhân dân để thực hiện thành công mục tiêu, nhiệm vụ cách mạng; về tu dưỡng, rèn luyện, trau dồi đạo đức cách mạng, trung thành với lợi ích của Tổ quốc và nhân dân.

Sau khi giành được chính quyền, với tư cách “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân”, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu: “các đồng chí bộ trưởng, thứ trưởng và cán bộ lãnh đạo phải luôn luôn gương mẫu về mọi mặt, phải nêu gương sáng về đạo đức cách mạng: cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, phải giữ gìn tác phong gian khổ phấn đấu, phải không ngừng nâng cao chí khí cách mạng”; theo đó, “Một đảng viên ở địa vị càng cao, thì càng phải giữ đúng kỷ luật của Đảng, càng phải làm gương dân chủ”, “Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước”.

Hiện nay, sự gương mẫu của cán bộ, đảng viên, đặc biệt là người đứng đầu giữ vai trò cực kỳ quan trọng, góp phần vào cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân - kẻ thù của đạo đức cách mạng, chống những nguy cơ suy thoái của cán bộ, đảng viên, nguy cơ đánh mất vai trò lãnh đạo của Đảng cầm quyền. Trong công cuộc đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về nêu gương trong tình hình mới, thì vấn đề thực hiện trách nhiệm nêu gương của người lãnh đạo luôn được Đảng ta chú trọng, ban hành các quy định cụ thể.  Các quy định, kết luận này đã kịp thời đáp ứng yêu cầu bức thiết của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và tạo hiệu ứng tích cực. Bước đầu, việc thực hiện các quy định đã tạo chuyển biến tích cực, góp phần siết chặt kỷ luật, kỷ cương; nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng, đảng viên; đội ngũ cán bộ, đảng viên nhận thức rõ hơn về trách nhiệm nêu gương; góp phần ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tham nhũng, tiêu cực. “Việc thực hiện trách nhiệm nêu gương và chuẩn mực đạo đức của cán bộ, đảng viên có chuyển biến tích cực, nhất là vai trò tiền phong, gương mẫu của các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương”.

Tuy nhiên, Đảng ta cũng chỉ rõ, “Việc tu dưỡng, rèn luyện, làm theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhất là trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, đặc biệt là người đứng đầu chưa thường xuyên; một số cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, vi phạm các quy định của Đảng, vi phạm pháp luật. “Một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa tiên phong, gương mẫu; tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ vẫn còn diễn biến phức tạp. Tự phê bình và phê bình ở nhiều nơi còn hình thức. Thực hiện trách nhiệm nêu gương, nhất là người đứng đầu chưa tạo được sự lan tỏa sâu rộng”. Trong bài phát biểu tại Hội nghị toàn quốc sơ kết 5 năm thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 18-5-2021, của Bộ Chính trị, “Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ rõ: “Việc cam kết tu dưỡng, rèn luyện, gắn với thực hiện trách nhiệm nêu gương của một bộ phận cán bộ, đảng viên hiệu quả chưa cao”. Tổng kết công tác xây dựng Đảng trong nhiệm kỳ Đại hội XII, cho thấy: Cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp đã thi hành kỷ luật 2.209 cán bộ, đảng viên có liên quan đến tham nhũng; trong đó có 113 cán bộ diện Trung ương quản lý cả đương chức và đã nghỉ hưu. Các cán bộ bị kỷ luật đều có hành vi vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, quy chế làm việc, các quy định của Đảng, Nhà nước và công tác cán bộ; vi phạm trong ban hành chủ trương, nghị quyết về đầu tư, góp vốn, chỉ định thầu, cổ phần hóa; thiếu trách nhiệm trong kiểm tra, giám sát; tham nhũng, “lợi ích nhóm”; vụ lợi, ưu ái vun vén cho gia đình, người thân; không trung thực trong kê khai tài sản, thu nhập, sử dụng bằng cấp không đúng quy định.

Điều đáng lưu ý là, ở một số địa phương, người đứng đầu chưa nghiêm túc thực hiện công tác tiếp công dân, giải quyết đơn, thư khiếu nại, tố cáo; không có chính kiến, quan điểm rõ ràng trước những vấn đề mới, khó, phức tạp, nhạy cảm; chưa tận tâm, tận lực, nhiệt huyết trong công việc; còn tình trạng mất đoàn kết nội bộ, nảy sinh mâu thuẫn cá nhân, ganh ghét, đố kỵ, so bì thiệt hơn,... Đặc biệt là, trong công cuộc phòng, chống dịch bệnh COVID-19, khi cả nước chung tay, gồng mình “chống dịch như chống giặc” thì vẫn còn một số cán bộ đứng đầu sở, ngành ở một số địa phương, bộ, ngành trung ương có hành vi xấu (không thực hiện nghiêm việc giãn cách xã hội, vi phạm trong đấu thầu mua trang, thiết bị y tế, kit xét nghiệm,...), bị kỷ luật, tạo dư luận tiêu cực trong cán bộ, đảng viên và nhân dân, làm giảm uy tín tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị nơi sinh hoạt, công tác; gây hậu quả nghiêm trọng, thiệt hại lớn về tài sản của Nhà nước, gây bức xúc trong xã hội, làm suy giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng.

Rõ ràng, sự lãnh đạo bằng nêu gương đang bị thách thức và cuộc đấu tranh chống sự “thiếu gương mẫu”, “nêu gương xấu” của một bộ phận cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu hiện nay còn gặp nhiều khó khăn, thử thách, đòi hỏi cần phải được giải quyết một cách quyết liệt, triệt để, rõ ràng, minh bạch. Vì vậy, cần phải tăng cường phong cách lãnh đạo bằng nêu gương của cán bộ, đảng viên, người lãnh đạo, nhất là người đứng đầu trong các tổ chức của hệ thống chính trị; qua đó, góp phần củng cố vững chắc niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước.

Xây dựng phong cách lãnh đạo bằng nêu gương cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, người lãnh đạo theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh
Hiện nay, trước yêu cầu mới, việc noi gương Chủ tịch Hồ Chí Minh đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên phải “Quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng. Đó là điều chủ chốt nhất. Ra sức làm việc cho Đảng, giữ vững kỷ luật của Đảng, thực hiện tốt đường lối, chính sách của Đảng. Đặt lợi ích của Đảng và của nhân dân lao động lên trên, lên trước lợi ích riêng của cá nhân mình. Hết lòng hết sức phục vụ nhân dân. Vì Đảng, vì dân mà đấu tranh quên mình, gương mẫu trong mọi việc”. Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh chính là sự kế thừa truyền thống quý báu của Đảng ta về nêu gương để lãnh đạo cách mạng, lãnh đạo nhân dân, nhất là trong công cuộc đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh hiện nay. Việc xây dựng phong cách lãnh đạo bằng nêu gương theo tư tưởng của Người có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc, góp phần truyền cảm hứng, tạo dựng niềm tin và động lực để đội ngũ cán bộ, đảng viên nêu gương sáng trong phong cách, lề lối làm việc, trong ứng xử và phong cách sinh hoạt; từ đó, tạo ra sự lan tỏa và xây dựng, củng cố sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội để thực hiện thành công mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.

Đại hội XIII của Đảng xác định, để xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh thì phải tăng cường “Xây dựng đội ngũ cán bộ, trước hết là người đứng đầu có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức trong sáng, năng lực nổi bật, dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách, dám hành động vì lợi ích chung, có uy tín cao và thực sự tiên phong, gương mẫu, là hạt nhân đoàn kết”. Đặc biệt, để xây dựng phong cách lãnh đạo bằng nêu gương theo chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cần tập trung thực hiện tốt một số giải pháp chủ yếu sau:
Thứ nhất, nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên về vai trò tiên phong, gương mẫu của người lãnh đạo.
Trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Vì Đảng ta không phải trên trời sa xuống, mà từ trong xã hội sinh ra”, nên “chẳng những phải ra sức rèn luyện và tu dưỡng, trong lúc gian khổ khó khăn, trong lúc thất bại, mà còn và càng phải rèn luyện và tu dưỡng trong lúc thuận lợi, trong lúc thành công”. Một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để thực hiện mục tiêu đó là phải nâng cao nhận thức trên cơ sở khoa học về tính tiên phong, gương mẫu của đảng viên, về tầm quan trọng, vị trí, vai trò và nội dung nêu gương của đảng viên trước nhân dân với tư cách là những thành viên của Đảng tiên phong - Đảng cầm quyền.

Thứ hai, phát huy vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy, tổ chức đảng trong việc thực hiện trách nhiệm nêu gương của người lãnh đạo.
Tiếp tục nghiên cứu, chỉ đạo nghiêm túc việc thực hiện trách nhiệm nêu gương của các tổ chức đảng, gắn với thực hiện Nghị quyết, Kết luận Hội nghị Trung ương 4 khóa XI, XII, XIII; các chỉ thị, quy định về nêu gương của Đảng, các quan điểm chỉ đạo và nội dung về xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã được đề ra tại Đại hội XIII của Đảng. Các cấp ủy phối hợp với lãnh đạo cùng cấp tiếp tục chỉ đạo, lựa chọn các nhiệm vụ trọng tâm phù hợp với tình hình cụ thể, tập trung giải quyết và kiên quyết xử lý thỏa đáng những vấn đề nổi cộm, tồn đọng kéo dài gây bức xúc trong dư luận xã hội; đồng thời, xây dựng kế hoạch cụ thể để khắc phục những vấn đề đó; phải có thái độ kiên quyết theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Đảng cần phải hết sức ngăn ngừa hiện tượng ấy, phải kịch liệt chống lại nó; phải tẩy những phần tử đã hủ hoá ra khỏi Đảng và cơ quan chính quyền, để giữ gìn tính trong sạch của Đảng và của chính quyền”(16). Xử lý nghiêm minh, kịp thời, không nể nang những kẻ vi phạm theo phương châm “quan phạm tội, xử nặng hơn thứ dân”, “không có vùng cấm”, “không có ngoại lệ”, như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng chỉ rõ: “Pháp luật phải thẳng tay trừng trị những kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ ấy ở địa vị nào, làm nghề nghiệp gì”.

Mặt khác, cần đặt vấn đề thực hiện trách nhiệm nêu gương của đảng viên là một nội dung xem xét trong công tác tổ chức và bố trí cán bộ; hoàn thiện thể chế, quy định chuẩn mực về phong cách nêu gương của cán bộ lãnh đạo, quản lý từng cấp, từng ngành, từng đơn vị,... làm cơ sở cho đánh giá, giám sát, quản lý cán bộ. Tiếp tục cụ thể hóa để có thể đo lường lề lối, phong cách của từng cán bộ lãnh đạo, quản lý ở từng cấp, từng ngành, từng đơn vị một cách phù hợp, làm cơ sở cho việc đánh giá, phân loại và giám sát cán bộ hằng năm theo Quy định số 89-QĐ/TW, ngày 4-8-2017, của Bộ Chính trị, “Về khung tiêu chuẩn chức danh, định hướng khung tiêu chí đánh giá cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp”.

Thứ ba, hoàn thiện mô hình đào tạo, áp dụng tiến bộ khoa học - công nghệ hướng tới xây dựng phong cách lãnh đạo khoa học, dân chủ, chuyên nghiệp, hiện đại đối với người đứng đầu.
Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, nhất là người đứng đầu qua hoạt động thực tiễn; đặc biệt là đào tạo thông qua luân chuyển, xử lý tình huống, qua thực hiện hành vi chuẩn mực trước nhân dân và trong công việc; qua tự rèn luyện phong cách lãnh đạo khoa học, dân chủ, giải quyết các vấn đề lãnh đạo một cách chuyên nghiệp, hiện đại. Theo đó, rèn luyện đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý theo hướng có tinh thần tận tụy, gương mẫu, sẵn sàng chịu đựng gian khổ, hy sinh và có năng lực tìm tòi, sáng tạo trong thực thi nhiệm vụ được giao. Muốn vậy, mỗi cán bộ, đảng viên, đặc biệt là người đứng đầu phải gương mẫu, không ngừng tu dưỡng, rèn luyện, học tập suốt đời, học hỏi đồng nghiệp, học từ thực tiễn công việc theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.

Thứ tư, tăng cường công tác giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân đối với việc thực hiện trách nhiệm nêu gương của người lãnh đạo.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân tham gia xây dựng Đảng, chủ động tham gia giám sát việc thực hiện trách nhiệm nêu gương đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên, người đứng đầu, nhất là về lập trường tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và trong thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Tham mưu, góp ý với Đảng về những chủ trương, nhiệm vụ, giải pháp nhằm giúp cho đội ngũ cán bộ, đảng viên nâng cao và ngày càng hoàn thiện phẩm chất, năng lực, góp phần tích cực vào công tác xây dựng Đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức; bảo đảm cho Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh, xứng đáng “là đạo đức, là văn minh”.

Phát huy vai trò của nhân dân đối với công tác cán bộ, tham gia giám sát phong cách lãnh đạo, quản lý của đội ngũ cán bộ, đảng viên các cấp; tăng cường vai trò của báo chí trong tổng kết, cổ vũ, nhân rộng các gương điển hình tiên tiến, phê phán phong cách quan liêu, hách dịch của một bộ phận cán bộ, đảng viên có hành vi ứng xử đi ngược lại lợi ích hợp pháp, nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Thực tế cho thấy, trong nhiều trường hợp, những khuyết điểm, sai lầm của cán bộ, đảng viên có thể không bị lãnh đạo, hoặc cơ quan kiểm tra phát hiện kịp thời, nhưng không thể che giấu được trước trăm nghìn “tai mắt” của nhân dân.

Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh bài học: “Kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; thường xuyên củng cố, tăng cường đoàn kết trong Đảng và hệ thống chính trị; thực hiện nghiêm các nguyên tắc xây dựng Đảng, thường xuyên đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng”. Từ đó, Đảng ta xác định, việc học tập phong cách lãnh đạo bằng nêu gương của Chủ tịch Hồ Chí Minh và vận dụng sáng tạo, phù hợp với cương vị, nhiệm vụ, phẩm chất, trí tuệ, điều kiện của người lãnh đạo sẽ góp phần làm phong phú và đem lại hiệu quả thiết thực trong việc đổi mới phương thức, phong cách lãnh đạo bằng nêu gương của đội ngũ cán bộ, đảng viên, người đứng đầu trong điều kiện hiện nay./.
Môi trường ST.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về hạnh phúc con người - Vận dụng vào chăm lo hạnh phúc con người Việt Nam hiện nay

Chủ tịch Hồ Chí Minh là bậc vĩ nhân đã hiến trọn đời mình cho hạnh phúc của nhân dân. Sự nghiệp vĩ đại đó không chỉ bắt nguồn từ tình yêu thương con người, mà còn từ nhận thức sâu sắc của Người về hạnh phúc con người. Tư tưởng Hồ Chí Minh về hạnh phúc con người thể hiện chủ nghĩa nhân văn sâu sắc, là cơ sở lý luận cho nhận thức của Đảng về hạnh phúc của nhân dân và gợi mở những giải pháp thiết thực để hiện thực hóa lý tưởng đó vào đời sống đất nước hôm nay.

Bác Hồ thăm lớp học vỡ lòng. (Tranh của họa sĩ Đỗ Hữu Huề. Nguồn: nhandan.vn)
Bác Hồ thăm lớp học vỡ lòng. (Tranh của họa sĩ Đỗ Hữu Huề).
 Nguồn: nhandan.vn

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ HẠNH PHÚC CON NGƯỜI

Mưu cầu hạnh phúc là khát vọng thường trực của con người, nên hạnh phúc có thể được tiếp cận từ nhiều giác độ khác nhau, đặc biệt là từ phương diện triết học. Chủ nghĩa Mác - Lênin với phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử đã làm một cuộc “cách mạng” trong quan niệm về hạnh phúc. Trước hết, triết học Mác phản đối những quan điểm mang tính thần bí, duy tâm của tôn giáo về hạnh phúc và khẳng định, con người cần được hạnh phúc trong thực tại. Trong bối cảnh xã hội tư bản đầy rẫy bất công thì “Hạnh phúc là đấu tranh” - đấu tranh chống áp bức giai cấp và dân tộc, chống cái ác, cái phản văn hóa để xây dựng xã hội cộng sản, mà ở đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của mọi người. Ngược lại với quan điểm cho rằng hạnh phúc là sự “nhận về”, là thụ hưởng cá nhân, C. Mác nhận định, người nào đem lại hạnh phúc cho nhiều người nhất thì đó là người hạnh phúc nhất. Quan niệm đó đã trở thành nhân sinh quan của C. Mác: “Nếu ta đã chọn một nghề mà qua đó ta có thể cống hiến nhiều nhất cho nhân loại, thì ta sẽ không cảm thấy gánh nặng của nghề ấy bởi vì đó chính là sự hy sinh vì mọi người. Khi đó, niềm vui được hưởng không chỉ là một niềm vui ích kỷ, hẹp hòi và nhỏ nhen, mà hạnh phúc của ta sẽ thuộc về hàng triệu người”. Những quan điểm đúng đắn của chủ nghĩa Mác - Lênin đã tác động lớn đến thế giới quan, nhân sinh quan nói chung và nhận thức về hạnh phúc nói riêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nổi bật nhất trong tư tưởng của Người về hạnh phúc là một số luận điểm chính sau:

Thứ nhất, con người chỉ có hạnh phúc khi dân tộc được độc lập, tự do.

Sinh ra trong bối cảnh “nước mất, nhà tan”, Chủ tịch Hồ Chí Minh thấu hiểu bi kịch của thân phận người dân mất nước - “vong quốc nô”. Chế độ thuộc địa của Pháp ở Đông Dương hoàn toàn đối lập với ngọn cờ “Tự do, bình đẳng, bác ái” của cách mạng tư sản Pháp. Với tất cả sự đau xót và căm phẫn, trong thư ngỏ gửi Bộ trưởng Bộ Thuộc địa Pháp An-be Xa-rô, Nguyễn Ái Quốc đã mỉa mai, lên án: “Dưới quyền cai trị của ngài, dân An Nam đã được hưởng phồn vinh thật sự và hạnh phúc thật sự, hạnh phúc được thấy nhan nhản khắp trong nước, những ty rượu và ty thuốc phiện, những thứ đó song song với những sự bắn giết hàng loạt, nhà tù, nền dân chủ và tất cả bộ máy tinh vi của nền văn minh hiện đại, đã làm cho người An Nam tiến bộ nhất châu Á và sung sướng nhất trần đời”. Sống dưới chế độ phản động cùng cực đó, người dân các nước thuộc địa phải gánh chịu muôn vàn đau khổ, nên con đường tất yếu, duy nhất của họ là: Đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, thành lập các quốc gia độc lập. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã giúp dân tộc Việt Nam tái sinh, nhưng kẻ thù đế quốc vẫn nuôi dã tâm đàn áp, bắt nhân dân Việt Nam phải làm nô lệ. Với quan điểm hạnh phúc của mỗi người dân không thể tách rời nền độc lập dân tộc, nên khi thực dân Pháp “quyết cướp nước ta một lần nữa”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tuyên bố: “Dù phải kháng chiến 5 năm, 10 năm, hay là lâu hơn nữa, để giữ gìn thống nhất và độc lập cho Tổ quốc, để tranh lấy tự do và hạnh phúc cho giống nòi, chúng ta cũng quyết kháng chiến cho đến thắng lợi cuối cùng". Khi đế quốc Mỹ âm mưu dùng sức mạnh vật chất để hủy diệt ý chí thống nhất của dân tộc Việt Nam, Người đã đưa ra chân lý thời đại: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Theo lời hiệu triệu của Người, nhân dân Việt Nam đã tự nguyện dâng hiến, sẵn sàng hy sinh, kiên quyết đấu tranh để bảo vệ niềm hạnh phúc của con người tự do.

Thứ hai, con người chỉ có hạnh phúc thực sự dưới chế độ xã hội chủ nghĩa.

Đứng trên lập trường của giai cấp công nhân, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: Hạnh phúc trước hết là hạnh phúc của nhân dân lao động. Ngay trong tác phẩm Đường Cách mệnh (năm 1927), Người đã khẳng định: “Chúng ta đã hy sinh làm cách mệnh, thì nên làm cho đến nơi, nghĩa là làm sao cách mệnh rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người. Thế mới khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới được hạnh phúc”. Theo Người, chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại khỏi lầm than, đem lại cho mọi người sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no mà không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc. Từ sự am hiểu sâu sắc đặc tính bản chất của các loại hình xã hội đương thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ, “không có chế độ nào tôn trọng con người, chú ý xem xét những lợi ích cá nhân đúng đắn và bảo đảm cho nó được thỏa mãn bằng chế độ xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa”. Chủ nghĩa xã hội là nấc thang phát triển cao hơn chủ nghĩa tư bản về mọi phương diện, đem lại độc lập, tự do, hạnh phúc thực sự cho con người, nên Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp cận chủ nghĩa xã hội từ góc độ lợi ích và tính ưu việt của chế độ mới, nhằm làm cho nhân dân lao động thoát khỏi nạn bần cùng, mọi người đều có việc làm, được ấm no và sống một đời hạnh phúc. Người đã rút ra kết luận: “Tóm lại, xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt, đó là chủ nghĩa xã hội”.

Thứ ba, mang lại hạnh phúc cho nhân dân là trách nhiệm của Đảng và Nhà nước.

Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, nếu nước độc lập mà người dân không được hưởng hạnh phúc, tự do, thì độc lập ấy cũng chẳng có nghĩa lý gì. Hạnh phúc luôn bao hàm sự thỏa mãn, hài lòng khi được hưởng thụ giá trị vật chất và tinh thần xứng đáng, khi được làm chủ xã hội, làm chủ bản thân. Người cũng thấu hiểu, nhân dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi được ăn no, mặc đủ. Chính vì vậy, khi Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ tuyên bố “các công việc của Chính phủ làm phải nhằm vào một mục đích duy nhất là mưu tự do hạnh phúc cho mọi người” thì tất yếu Chính phủ có trách nhiệm cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí, thực hiện dân quyền; trong đó, làm cho người dân có ăn, có mặc, có chỗ ở, có điều kiện học hành là nhiệm vụ cấp bách nhất. Sự hài lòng về chính thể cũng mang lại cho nhân dân niềm hạnh phúc, nên Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu các cơ quan của Chính phủ phải hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân. Luôn tâm niệm, coi hạnh phúc của nhân dân là lý tưởng duy nhất của Đảng nên trong bản Di chúc thiêng liêng, Người đã căn dặn, Đảng phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân.

Lễ cưới tập thể dành cho công nhân, người lao động có hoàn cảnh khó khăn được Trung tâm Hỗ trợ thanh niên công nhân Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức. (Nguồn: tuoitre.vn) 

Thứ tư, muốn có hạnh phúc, toàn dân phải đoàn kết phấn đấu và cán bộ phải biết hy sinh.

Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh, muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì phải dựa vào nhân dân để đem lại hạnh phúc cho nhân dân, bởi vì cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân. Do nước ta còn nghèo nên Người nhắn nhủ: “Tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm là con đường đi đến xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội, xây dựng hạnh phúc cho nhân dân. Tăng gia là tay phải của hạnh phúc, tiết kiệm là tay trái của hạnh phúc”. Nói về sự cần thiết phải quy tụ sức dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh dùng hình ảnh: “Từng giọt nước nhỏ thấm vào lòng đất, chảy về một hướng mới thành suối, thành sông. Biết bao nhiêu giọt nước nhỏ hợp lại mới thành biển cả”. Nếu mỗi người dân đều tự giác làm lợi cho đất nước thì “nhiều lợi nhỏ cộng thành lợi to”, nhất định đất nước sẽ giàu và người dân sẽ được hạnh phúc. Hạnh phúc ở đây không chỉ là sự thụ hưởng, mà còn là hạnh phúc của con người tự tạo dựng cuộc đời mình; bởi lẽ, người nào chỉ biết trông chờ vào hạnh phúc “từ trên trời rơi xuống” sẽ không xứng đáng được hưởng hạnh phúc và sự thật là không thể có hạnh phúc.

Khi Đảng ta trở thành đảng cầm quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất kiên trì giáo dục đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên; bởi vì, nếu cán bộ tha hóa thì lợi ích, hạnh phúc của nhân dân sẽ bị tước đoạt. Người nói rõ: “Vì hạnh phúc của dân tộc, vì lợi ích của nước nhà, mà tôi phải nói. Chúng ta phải ghi sâu những chữ “công bình, chính trực” vào lòng”. Khi yêu cầu cán bộ, đảng viên thực hành đức hy sinh để phụng sự nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, sự hy sinh vì Tổ quốc, vì nhân dân là niềm hạnh phúc to lớn; vì thế, “ta đã biết cần phải chịu khổ, thì ta chịu một cách vui vẻ, dần dần ta sẽ không lấy làm khổ... chúng ta vì nước, vì dân mà chịu khổ, một cái khổ rất có giá trị, thì vật chất càng khổ tinh thần càng sướng”.

Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về hạnh phúc rất sâu sắc, không chỉ thông qua những quan điểm đầy tính khoa học, nhân văn, mà còn được bảo chứng bởi cuộc đời trọn vẹn đức hy sinh của Người. Người đã nói về trách nhiệm của mình trước dân tộc: “Vì yêu mến và tin cậy tôi, mà đồng bào giao vận mệnh nước nhà, dân tộc cho tôi gánh vác. Phận sự tôi như một người cầm lái, phải chèo chống thế nào để đưa chiếc thuyền Tổ quốc vượt khỏi những cơn sóng gió, mà an toàn đi đến bờ bến hạnh phúc của nhân dân”. Suốt đời phấn đấu, hy sinh trọn vẹn cho hạnh phúc của nhân dân nên Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn sống mãi trong lòng nhân dân.

CHĂM LO HẠNH PHÚC CON NGƯỜI VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Trên cơ sở vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh, mỗi Đại hội thời kỳ đổi mới lại là một “nấc thang” trong tiến trình nhận thức của Đảng ta về hạnh phúc của nhân dân. Đại hội VI của Đảng nhấn mạnh, đổi mới được tiến hành với tinh thần “Tất cả vì Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, vì hạnh phúc của nhân dân”. Trước sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu, Đảng kiên trì định hướng xã hội chủ nghĩa; bởi vì nhận thấy rõ, “chỉ có chủ nghĩa xã hội mới mang lại cơm no áo ấm, hạnh phúc cho nhân dân”. Đề cao giá trị hạnh phúc nên Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) và Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) đều xác định, xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội mà trong đó, con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện để phát triển toàn diện cá nhân. Đảng ta không chỉ nhấn mạnh trách nhiệm của nhân dân trong công cuộc phấn đấu vì hạnh phúc của chính mình, mà còn lấy hạnh phúc của nhân dân làm thước đo đạo đức đảng viên khi khẳng định: “Phẩm chất cao quý của người cộng sản là... suốt đời phấn đấu vì lý tưởng cách mạng, vì độc lập của Tổ quốc và cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc của nhân dân, trong đó có bản thân và gia đình mình”.

Đến Đại hội XIII của Đảng, hạnh phúc của nhân dân trở thành “âm hưởng chủ đạo” và được đề cập dưới nhiều góc độ. Đại hội đúc kết, “lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu” là bài học quý báu; xác định “khơi dậy tinh thần và ý chí, quyết tâm phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc” là động lực to lớn để phát triển đất nước; đồng thời, nhấn mạnh “nâng cao chất lượng cuộc sống và chỉ số hạnh phúc của con người Việt Nam” là một nhiệm vụ trọng tâm của nhiệm kỳ.

Tuy nhiên, hiện nay việc bảo đảm hạnh phúc của nhân dân đang gặp không ít trở lực, khó khăn. Trên thế giới, nguy cơ về đe dọa vũ khí hạt nhân, xung đột vũ trang, dịch bệnh, biến đổi khí hậu... đang là mối đe dọa lớn đối với sinh mệnh, sức khỏe và đời sống sản xuất của toàn nhân loại. Ở trong nước, ô nhiễm môi trường, sự suy thoái về đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên và sự yếu kém trong giải quyết các vấn đề xã hội ở một số nơi, sự xuống cấp của văn hóa, đạo đức xã hội, sự gia tăng khoảng cách giàu - nghèo, tệ nạn xã hội, tội phạm... cũng gây ra nhiều trở ngại để người dân tiếp cận hạnh phúc. Đối ngược với sự bất cập đó là nhu cầu hạnh phúc ngày càng lớn của người dân và xu thế đề cao hạnh phúc của nhân loại. Năm 2012, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã lấy ngày 20-3 (ngày duy nhất mà mặt trời nằm ngang đường xích đạo, độ dài ngày đêm bằng nhau) là ngày Quốc tế Hạnh phúc (International Day of Happiness) để truyền đi thông điệp: Mưu cầu hạnh phúc là mục tiêu cơ bản của con người; hạnh phúc và thịnh vượng là các mục tiêu và khát vọng phổ quát của con người và tầm quan trọng của việc thừa nhận điều này trong các mục tiêu của chính sách công; cần có cách tiếp cận toàn diện, công bằng và cân bằng hơn đối với tăng trưởng kinh tế nhằm thúc đẩy phát triển bền vững, xóa đói, giảm nghèo, hạnh phúc và thịnh vượng của mọi dân tộc. Việt Nam là một trong gần 200 quốc gia cam kết hưởng ứng ngày Quốc tế Hạnh phúc. Ngày 26/12/2013, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 2589/-TTg “Phê duyệt Đề án “Tổ chức các hoạt động nhân ngày Quốc tế Hạnh phúc 20 tháng 3 hằng năm””. Do đã trải qua thời kỳ chiến tranh ác liệt kéo dài và thời kỳ bao cấp khốn khó, nên khát vọng hạnh phúc, ấm no của nhân dân Việt Nam là rất mãnh liệt. Vì thế, trách nhiệm của Đảng và Nhà nước trong việc đem lại hạnh phúc cho nhân dân lại càng trở nên cấp bách. Theo đó, từ tư tưởng Hồ Chí Minh về hạnh phúc con người, cần đặc biệt chú trọng các giải pháp sau đây:

Một là, nâng cao nhận thức về hạnh phúc của nhân dân cả từ phía Đảng, Nhà nước và người dân.

Hạnh phúc là hợp điểm giữa điều kiện khách quan và cảm nhận chủ quan. Về mặt khách quan, hạnh phúc là những giá trị vật chất, tinh thần tốt đẹp mà quốc gia, cộng đồng xã hội cần tạo lập để bảo đảm cho người dân có được một cuộc sống an lành, đầy đủ. Về mặt chủ quan, hạnh phúc là trạng thái tinh thần tích cực, thể hiện sự hài lòng của chủ thể trước bối cảnh, điều kiện tự nhiên, xã hội, gia đình và bản thân. Vì thế, để hiện thực hóa khát vọng về hạnh phúc thì phải nâng cao nhận thức về hạnh phúc cả từ phía lực lượng lãnh đạo, quản lý đất nước và người dân.

Kế thừa quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về trách nhiệm phụng sự nhân dân, đội ngũ cán bộ, đảng viên không chỉ cần nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của hạnh phúc nhân dân với tư cách là động lực, mục tiêu của cách mạng, mà còn phải thấm nhuần chân lý: Người hiến dâng nhiều nhất sẽ là người hạnh phúc nhất. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đúc kết rằng: “Hạnh phúc của con người không phải chỉ ở chỗ nhiều tiền, lắm của, ăn ngon, mặc đẹp, mà còn ở sự phong phú về tâm hồn, được sống giữa tình thương và lòng nhân ái, lẽ phải và công bằng”. Nếu người cán bộ, đảng viên biết vượt lên trên cái “tôi” của mình để hiến dâng cho nhân dân và đất nước thì họ sẽ là người hạnh phúc, vì tượng đài vững chắc nhất chính là ở trong lòng nhân dân.

Đối với nhân dân, hạnh phúc không chỉ phụ thuộc vào những yếu tố “bên ngoài”, mà còn phụ thuộc vào yếu tố “bên trong”; chính là tâm hồn, khả năng nhận thức của họ về hạnh phúc. Người nào cho rằng, bản thân không thể hạnh phúc thì người ấy đã tự tước đi cơ hội hạnh phúc của chính mình. Ngược lại, một người coi hạnh phúc không chỉ là đích đến, mà là quá trình đến đích; hạnh phúc là sự chia sẻ, yêu thương, là biết “đủ”, biết làm chủ bản thân, làm chủ hoàn cảnh, biết khoan dung với người, với mình, biết coi khó khăn là một phần tất yếu của cuộc sống... thì người đó sẽ được an nhiên, hạnh phúc. Nhìn chung, để “hạt giống hạnh phúc nở hoa”, mỗi người phải có một tâm thế đúng. Vì thế, tăng cường giáo dục cho cán bộ, đảng viên và nhân dân về giá trị sống đúng đắn, khơi dậy khát vọng cống hiến trong mỗi con người cũng là trách nhiệm cao cả của Đảng, Nhà nước.

Hai là, hoàn thiện thể chế về quyền con người và cơ chế nâng cao chỉ số hạnh phúc của nhân dân.

Con người hạnh phúc phải là con người tự do và có cảm nhận an toàn khi các quyền của họ được hiến định đầy đủ về mặt pháp lý và được thực thi trong thực tiễn. Việt Nam từng là thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2014 - 2016 và hiện nay là thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2023 - 2025; điều này chứng tỏ, Nhà nước Việt Nam luôn nỗ lực mở rộng, bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Đồng thời, muốn nhân dân được hưởng đầy đủ các quyền hợp pháp, chính đáng của mình như quy định của Hiến pháp, Nhà nước phải có kế hoạch lập pháp dài hạn để hiện thực hóa các quyền trong Hiến pháp.

Chăm lo giáo dục thế hệ mai sau. (Nguồn: nhiepanhdoisong.vn)

Trong thế giới hiện đại, hạnh phúc không chỉ là sự cảm nhận đơn thuần, mà ngày càng mang tính định lượng. Một số tổ chức quốc tế và nước ngoài đã đề xuất các đại lượng cơ bản để đo lường hạnh phúc, như Chỉ số hạnh phúc (Happiness Index, viết tắt là HI), Chỉ số Hạnh phúc hành tinh (Happy Planet Index, viết tắt là HPI) và Báo cáo Hạnh phúc thế giới (World Happiness Report, viết tắt là WHR)... Trong xu hướng chung, Việt Nam đã thử nghiệm xây dựng Chỉ số hạnh phúc quốc gia của Việt Nam (Vietnam’s National Happiness Index, viết tắt là VNHI), được tính toán trên cơ sở bốn nhóm tiêu chí về kinh tế, xã hội, môi trường, hiệu quả quản trị và hành chính công. Đây là vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu sâu và qua đó, cụ thể hóa chương trình hành động của từng đơn vị trong hệ thống chính trị để nâng cao chỉ số hạnh phúc của nhân dân.

Ba là, tiếp tục đẩy mạnh phát triển kinh tế để nâng cao mức sống của nhân dân.

Thực tế đã chứng minh, giàu có chưa chắc đã hạnh phúc, nhưng điều chắc chắn là trong một đất nước đói nghèo thì người dân không thể có hạnh phúc; sự tăng trưởng kinh tế luôn là điều kiện “gốc” để nhân dân được ấm no, hạnh phúc. Ở Việt Nam, khi tiến hành sự nghiệp đổi mới, Đảng ta đã lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm. Mong muốn nhân dân được ấm no, sung sướng, dân tộc cường thịnh, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đề ra mục tiêu đến năm 2045, Việt Nam sẽ trở thành “nước phát triển, thu nhập cao”. Để đạt mục tiêu đó, lúc này, Việt Nam phải nhanh chóng hoàn thành sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tăng cường đầu tư cho khoa học, công nghệ, giáo dục, chú trọng bảo vệ môi trường để bảo đảm cả hai yêu cầu trong chiến lược phát triển kinh tế là vừa “nhanh”, vừa “bền vững”.

Bốn là, tiếp tục phát huy dân chủ, nâng cao chất lượng dịch vụ công.

Do dân chủ vừa là động lực phát triển, vừa là điều kiện của hạnh phúc nên Đại hội XIII của Đảng đã bổ sung một nội dung mới, quan trọng, đó là “dân thụ hưởng”, để hình thành phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”(16). Việc đề cao yếu tố “dân thụ hưởng” sẽ góp phần “khai thông” nguồn lực vô tận trong nhân dân, thúc đẩy đất nước phát triển mạnh mẽ để người dân tiếp tục thụ hưởng và cống hiến.

Hạnh phúc của người dân luôn bao hàm sự hài lòng về chế độ, đặc biệt là chất lượng dịch vụ công. Chính thái độ và phong cách làm việc của đội ngũ công chức có thể làm cho người dân yên tâm hay lo lắng, tin tưởng hay nghi ngờ vào bộ máy công quyền. Do vậy, phải chú trọng nâng cao chất lượng quản trị quốc gia, nỗ lực làm trong sạch bộ máy công quyền, nâng cao đạo đức công vụ; vì thực tế đã cho thấy, sự trục lợi của cán bộ có chức, có quyền đã làm vô hiệu hóa các chính sách vì con người của Đảng và Nhà nước. Việc xây dựng chính phủ điện tử để nâng cao tính minh bạch của nền hành chính công, tránh cho người dân những cảm xúc tiêu cực... cũng là nhiệm vụ cấp thiết.

Năm là, đẩy mạnh thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm an ninh con người, an sinh xã hội.

Sự bất công là nguồn gốc của xung đột xã hội, tạo ra nguy cơ đe dọa sự ổn định của đất nước. Trong công cuộc đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhận thức ngày càng rõ mối quan hệ gắn bó chặt chẽ giữa mục tiêu tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội. Yêu cầu đặt ra là Nhà nước có chính sách phù hợp để kiểm soát việc phân tầng xã hội, tiếp tục thực hiện chiến lược “xóa đói, giảm nghèo” bền vững, cải cách tiền lương, nâng mức trợ cấp xã hội cho các đối tượng chính sách... Đặc biệt, cần nhận thức sâu sắc rằng, tham nhũng là biểu hiện rõ nhất của sự bất công, nên phải đẩy mạnh công cuộc phòng, chống tham nhũng, chống thất thoát để dồn nguồn lực cho phát triển và gia tăng phúc lợi xã hội.

Vấn đề an ninh con người cần được chú trọng, bởi con người không thể hạnh phúc nếu luôn cảm thấy bất an vì tệ nạn xã hội, mất an toàn thực phẩm, mất an toàn giao thông hay nguy cơ dịch bệnh, thiên tai rình rập... Thế giới đang phải đối diện với hiện tượng mới là “tị nạn khí hậu” và Việt Nam là một quốc gia chịu tác động nặng nề của biến đổi khí hậu, nên Nhà nước phải có kế hoạch, nguồn lực để ứng phó hiệu quả. Đây là những vấn đề lớn mà người dân không thể tự mình giải quyết được và Nhà nước phải thực hiện trách nhiệm bảo hộ công dân của mình trên tinh thần “an dân, trị quốc”.

Khi các tầng lớp dân cư, các nhóm xã hội có điều kiện sống khác biệt nhau, thì để thực hiện phương châm “không để ai tụt lại phía sau” và mọi người dân đều được hưởng thụ thành quả của đổi mới, Nhà nước phải xây dựng hệ thống an sinh xã hội nhiều tầng nấc, giúp người dân giảm thiểu rủi ro và chia sẻ, giúp đỡ lẫn nhau; phải có chính sách thiết thực hơn nữa để nâng cao sức khỏe, tầm vóc con người Việt Nam; nền y tế Việt Nam phải xác định luôn lấy mục tiêu phục vụ nhân dân làm trọng tâm.

Tầm vóc tư tưởng của một nhà hiền triết luôn thể hiện ở mức độ quan tâm đến con người, lấy đó làm trung tâm của mọi suy tư, hành động và Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là nhà hiền triết với nghĩa cao quý đó. Dân tộc, đất nước Việt Nam có niềm hạnh phúc là nơi sản sinh ra con người vĩ đại Hồ Chí Minh. Để cho hạnh phúc ấy được vững bền, nhân lên gấp bội, mỗi người Việt Nam, trước hết là cán bộ, đảng viên, phải thấm nhuần và thực hiện tốt tư tưởng Hồ Chí Minh, nỗ lực sống một cuộc đời hữu ích, góp phần xây dựng nước Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc; bởi lẽ, hạnh phúc của nhân dân chính là thước đo chuẩn xác nhất về tính ưu việt của chế độ xã hội và năng lực, bản lĩnh của đảng cầm quyền./.

ST.

Nâng cao tinh thần phục vụ nhân dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh và những chỉ dẫn đối với việc rèn luyện phẩm chất đạo đức của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn hiện nay

Nâng cao tinh thần phục vụ nhân dân được Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn tâm niệm và gương mẫu thực hành trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng. Tư tưởng này của Người đã trở thành những chỉ dẫn vô cùng sâu sắc đối với công tác giáo dục, rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên. Trong bối cảnh hiện nay, trước yêu cầu của quá trình đổi mới, hội nhập và phát triển thì nâng cao tinh thần phục vụ nhân dân của đội ngũ cán bộ, đảng viên theo tư tưởng Hồ Chí Minh là việc làm có ý nghĩa quan trọng, cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn.

Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính với đồng bào dân tộc xã Măng Ri, huyện Tu Mơ Rông, tỉnh Kon Tum. (Ảnh: TTXVN)

Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính với đồng bào dân tộc xã Măng Ri, huyện Tu Mơ Rông, tỉnh Kon Tum. (Ảnh: TTXVN)

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NÂNG CAO TINH THẦN PHỤC VỤ NHÂN DÂN

 Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường căn dặn mỗi cán bộ, đảng viên đều phải có ý thức tự tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng, hết lòng hết sức phụng sự Tổ quốc và “Phải hết lòng hết sức phục vụ nhân dân”. Bởi theo Người, thấm nhuần đạo đức cách mạng là phải biết đặt lợi ích của Đảng và của nhân dân lao động lên trên, lên trước lợi ích riêng của cá nhân mình; vì Đảng, vì nhân dân mà đấu tranh quên mình, gương mẫu trong mọi việc. Trong thực tiễn hoạt động cách mạng phong phú của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn là tấm gương sáng về tinh thần phục vụ nhân dân. Người nói: “Cả đời tôi chỉ có một mục đích, là phấn đấu cho quyền lợi Tổ quốc, và hạnh phúc của quốc dân. Những khi tôi phải ẩn nấp nơi núi non, hoặc ra vào chốn tù tội, xông pha sự hiểm nghèo - là vì mục đích đó”. Người chỉ có một tâm nguyện “là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”; cho đến khi phải từ biệt thế giới này, Người chỉ “tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa” cho quốc dân, đồng bào. Tựu trung, tư tưởng Hồ Chí Minh về nâng cao tinh thần phục vụ nhân dân được thể hiện trên một số điểm cơ bản sau:

Thứ nhất, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh yêu cầu phục vụ nhân dân trong xây dựng Đảng và bộ máy chính quyền.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, mọi hoạt động của Đảng và Nhà nước phải lấy nhân dân làm gốc; bởi vì, “Gốc có vững cây mới bền,/ Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân". “Lấy dân làm gốc” có nghĩa là phục vụ nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân. Tất cả cán bộ, đảng viên trong hệ thống chính trị phải xác định mình là “công bộc” của nhân dân, trong mọi hoạt động phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Bởi vậy, nâng cao tinh thần phục vụ nhân dân đòi hỏi phát huy cao độ việc thực hành dân chủ trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, coi dân chủ là nhân tố động lực của sự phát triển; thực hành dân chủ là “chìa khóa” vạn năng để giải quyết mọi khó khăn.

Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát tài. Nó phải làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng". Chính bởi vậy, khi Đảng trở thành đảng cầm quyền, trách nhiệm của Đảng và mỗi cán bộ, đảng viên là phục vụ nhân dân, vì nhân dân, chứ không phải trở thành những vị “quan cách mạng”, để “vinh thân phì gia”. Trong mỗi giai đoạn cách mạng, do yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng, công việc, trách nhiệm của Đảng có khác nhau; tuy nhiên, trong mọi hoạt động, Đảng luôn phải đặt lợi ích của nhân dân, dân tộc lên trên hết, trước hết. Mỗi cán bộ, đảng viên cần nhận thức rõ rằng, việc nêu cao tinh thần phục vụ nhân dân là mục đích và bản chất của Đảng. Đảng cầm quyền là để bảo đảm cho nhân dân làm chủ, mọi quyền lực thuộc về nhân dân; đồng thời, để chă­m lo cho cuộc sống của nhân dân, trước hết phải xây dựng Nhà nước thực sự là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Chính phủ phải là “công bộc” của nhân dân; mọi công việc của Chính phủ đều phải hướng đến mục tiêu là đem lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Bởi theo Người, “nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”. Tinh thần phục vụ nhân dân được Chủ tịch Hồ Chí Minh quán triệt rõ trong chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, đó là: “Chính sách của Đảng và Chính phủ là phải hết sức chăm nom đến đời sống của nhân dân. Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân ốm là Đảng và Chính phủ có lỗi”. Vì vậy, đội ngũ cán bộ, đảng viên từ Trung ương đến cơ sở, đều phải hết sức chăm lo đến đời sống của nhân dân; phải lãnh đạo, tổ chức, giáo dục nhân dân tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm. Cuộc sống ấm no, hạnh phúc của người dân chính là thước đo xác thực nhất trong đánh giá mức độ hiệu quả, khả năng hiện thực hóa chủ trương của Đảng và chính sách của Nhà nước.

Thứ hai, để nâng cao tinh thần phục vụ nhân dân, cán bộ, đảng viên phải tu dưỡng và thực hành đạo đức cách mạng.

 Từ thực tiễn cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Ta quan tâm đời sống quần chúng thì quần chúng sẽ theo ta. Ta được lòng dân thì ta không sợ gì cả. Nếu không được lòng dân thì ta không thể làm tốt công tác”. Niềm tin của nhân dân đối với Ðảng là tài sản quý báu nhất của Ðảng; vì vậy, muốn được dân tin, dân phục, muốn được lòng dân, trước hết mỗi người cán bộ, đảng viên phải yêu dân, kính dân, phải đặt quyền lợi của nhân dân lên trên, lên trước quyền lợi cá nhân; phải tu dưỡng và thực hành đạo đức cách mạng, suốt đời phục vụ nhân dân. Đây là vừa là trách nhiệm, vừa là nhiệm vụ cao quý nhất của người cán bộ, đảng viên.

Chủ tịch Hồ Chí Minh rất chú trọng chăm lo giáo dục đội ngũ cán bộ, đảng viên thực hành đạo đức cách mạng cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, chống chủ nghĩa cá nhân. Người nhấn mạnh: “Những chính sách và nghị quyết của Đảng đều vì lợi ích của nhân dân. Vì vậy, đạo đức cách mạng của người đảng viên là bất kỳ khó khăn đến mức nào cũng kiên quyết làm đúng chính sách và nghị quyết của Đảng, làm gương mẫu cho quần chúng”, vì quần chúng nhân dân chỉ quý trọng những người cán bộ, đảng viên có phẩm chất đạo đức cách mạng, có tinh thần trách nhiệm đối với công việc, đối với đời sống của người dân, làm gương tốt cho nhân dân noi theo. Cho nên, Người căn dặn: “Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ “cộng sản” mà ta được họ yêu mến... Đồng chí ta phải học lấy bốn đức cách mạng: cần, kiệm, liêm, chính”. Cán bộ, đảng viên phải quyết tâm thực hiện đạo đức cách mạng, là cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, quyết tâm tẩy bỏ cho kỳ hết bệnh quan liêu, tham ô, lãng phí; gương mẫu trong thi đua học tập, chiến đấu, tăng gia sản xuất; thật thà tự phê bình và phê bình để luôn luôn tiến bộ. Từ đó, mỗi cán bộ, đảng viên sẽ tự giác tu dưỡng và thực hành đạo đức cách mạng phục vụ nhân dân với tinh thần “kiên quyết nhất, hăng hái nhất, trong sạch nhất, tận tâm tận lực phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân” như lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, để có thể chăm lo tốt hơn đời sống tinh thần và vật chất của nhân dân, góp phần thúc đẩy đất nước phát triển nhanh và bền vững.

Thứ ba, tinh thần phục vụ nhân dân được biểu hiện trong ý thức trách nhiệm đối với công việc, nhiệm vụ được giao của người cán bộ, đảng viên.

Đối với mỗi cán bộ, đảng viên, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu: “Bất kỳ ai, ở địa vị nào, làm công tác gì, gặp hoàn cảnh nào, đều phải có tinh thần trách nhiệm”. Theo Người, tinh thần trách nhiệm của người cán bộ, đảng viên là nắm vững chính sách, đi đúng đường lối quần chúng, làm tròn nhiệm vụ; là khi Đảng, Chính phủ, hoặc cấp trên giao cho việc gì, bất kỳ to hay nhỏ, khó hay dễ, thì người cán bộ, đảng viên đều phải đưa cả tinh thần, lực lượng ra làm cho đến nơi đến chốn, vượt mọi khó khăn, cố gắng làm cho thành công. Vì thế, Người căn dặn cán bộ, đảng viên: “Chúng ta phải hiểu rằng, các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh việc chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật. Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh. Chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta”. Mỗi người khi phấn đấu và trở thành cán bộ, đảng viên đều phải tự mình nêu cao tinh thần trách nhiệm đối với đất nước, đối với dân tộc và nhân dân. Tinh thần và trách nhiệm phục vụ nhân dân không phải chỉ thể hiện bằng lời nói, mà cần thông qua hành động cụ thể, bằng hiệu quả thực hiện công việc được giao.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, mỗi cán bộ, đảng viên phải ý thức được rằng, mình là “công bộc”, là người “đày tớ” của nhân dân, chứ không phải làm “quan cách mạng”. Mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng phải thật sự gần dân, hiểu dân, phải thật sự trăn trở về lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, phải thật sự vì nhân dân phục vụ. Do vậy, trong công tác, người cán bộ, đảng viên phải nắm vững và nghiêm túc thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; phải căn cứ vào tình hình thực tế mà xây dựng kế hoạch rõ ràng, thiết thực; liên hệ chặt chẽ với nhân dân; tập hợp, phát huy sức mạnh, trí tuệ và lực lượng to lớn của nhân dân, tiếp thu sáng kiến của nhân dân để đột phá, sáng tạo khi thực hiện yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng trong tình hình mới.

Cán bộ công an nhân dân hướng dẫn người dân thao tác xin cấp phiếu lý lịch tư pháp trên ứng dụng VNeID. (Ảnh: TTXVN)

VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NÂNG CAO TINH THẦN PHỤC VỤ NHÂN DÂN VÀO VIỆC RÈN LUYỆN PHẨM CHẤT ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CỦA NGƯỜI CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN HIỆN NAY

Trong quá trình đổi mới đất nước, Đảng ta đã nhận thức sâu sắc và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về nâng cao tinh thần phục vụ nhân dân vào quá trình xây dựng, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên. Do vậy, đội ngũ cán bộ, đảng viên đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới; việc xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ được quan tâm. Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được, sau gần 40 năm đổi mới toàn diện đất nước, trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, “một bộ phận cán bộ, đảng viên phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, ngại khó, ngại khổ, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa””. Một số cán bộ, đảng viên có tư tưởng “vinh thân phì gia”, thay vì làm tròn chức trách, “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ” lại chỉ lo vun vén cá nhân, làm giàu cho bản thân và gia đình mình, dẫn tới hậu quả là bệnh xa dân. Tình trạng quan liêu, cửa quyền, sách nhiễu nhân dân của một bộ phận cán bộ, đảng viên vẫn còn xảy ra ở một số nơi. Những hạn chế, khuyết điểm trên đã ảnh hưởng đến uy tín của Đảng, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước. Hiện nay, trước yêu cầu xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có đủ phẩm chất, năng lực và uy tín trong tình hình mới, một trong những giải pháp quan trọng hàng đầu là nâng cao tinh thần phục vụ nhân dân của đội ngũ cán bộ, đảng viên theo tư tưởng Hồ Chí Minh; cụ thể là:

Thứ nhất, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục việc rèn luyện, thực hành đạo đức cách mạng phục vụ nhân dân cho đội ngũ cán bộ, đảng viên. Công tác tuyên truyền, giáo dục phải làm cho cán bộ, đảng viên nhận thức sâu sắc nội dung và giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh về nâng cao tinh thần phục vụ nhân dân; “thấy rõ bổn phận và trách nhiệm của mình, luôn vững vàng trước mọi khó khăn, thử thách”. Cấp ủy, tổ chức đảng các cấp cần cụ thể hóa những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng phục vụ nhân dân, đề ra phương hướng, mục tiêu, nội dung và giải pháp để tuyên truyền, giáo dục cho phù hợp với đặc điểm tình hình của từng cơ quan, đơn vị, địa phương. Công tác tuyên truyền phải chính xác, đầy đủ; kịp thời đấu tranh, phản bác thông tin xuyên tạc đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; qua đó, giúp cho mỗi cán bộ, đảng viên rèn luyện và giữ vững bản lĩnh chính trị, kiên định mục tiêu, lý tưởng cách mạng, luôn đặt lợi ích của Đảng, của dân tộc, của nhân dân lên trên hết, trước hết. Cấp ủy, tổ chức đảng các cấp phải không ngừng đổi mới nội dung giáo dục, bồi dưỡng cán bộ, đảng viên về đạo đức nghề nghiệp, đạo đức công vụ, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong giai đoạn mới. Đối với chương trình đào tạo, bồi dưỡng đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên, bên cạnh phần kiến thức lý luận cơ bản, cần chú trọng nội dung tuyên truyền, giáo dục về những tấm gương người tốt, việc tốt, những giá trị truyền thống quý báu của dân tộc, của Đảng gắn với tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, bảo đảm gắn lý luận với thực tiễn, rèn luyện kỹ năng cho người học để phục vụ nhân dân ngày càng tốt hơn trong thực tiễn công tác.

Thứ hai, nêu cao tinh thần tự giác của cán bộ, đảng viên trong việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng suốt đời phục vụ nhân dân. Thực hiện hiệu quả việc tự tu dưỡng, rèn luyện, lấy đó làm cơ sở, nền tảng để xây dựng và phát huy phẩm chất, đạo đức cách mạng của người cán bộ, đảng viên, góp phần xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng. Do vậy, dù ở vị trí công tác nào, mỗi cán bộ, đảng viên đều phải thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện để giữ vững phẩm chất đạo đức cách mạng. Hiện nay, để thực hiện tốt phẩm chất đạo đức này, mỗi cán bộ, đảng viên cần nhận thức đúng đắn về vai trò, tầm quan trọng của tự tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng; đồng thời, thực hiện hiệu quả các nguyên tắc trong tự tu dưỡng đạo đức cách mạng. Trước tiên, cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý phải luôn “nói đi đôi với làm”, thực hiện trách nhiệm nêu gương ở mọi nơi, mọi việc, nâng cao ý thức tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng suốt đời, “tự soi”, “tự sửa” và nêu cao danh dự, lòng tự trọng của người đảng viên; chức vụ càng cao càng phải gương mẫu. Việc tu dưỡng đạo đức cách mạng phải trên tinh thần tự giác, tự nguyện, xuất phát từ lương tâm, trách nhiệm, gắn với chức trách, nhiệm vụ của mỗi cán bộ, đảng viên. Tính tự giác trong tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng phục vụ nhân dân yêu cầu người cán bộ, đảng viên gương mẫu toàn diện về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, trong lời nói và hành động cụ thể, trên mọi lĩnh vực, trong mọi hoàn cảnh nhằm hướng tới mục tiêu hoàn thành tốt nhiệm vụ do Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó.

Thứ ba, thực hiện đồng bộ, chặt chẽ các khâu trong công tác cán bộ. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta luôn coi cán bộ và công tác cán bộ là nhân tố quan trọng, có ý nghĩa quyết định thắng lợi của sự nghiệp cách mạng. Vì vậy, thực hiện đồng bộ, chặt chẽ các khâu trong công tác cán bộ là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, là công việc hệ trọng của Đảng, phải được tiến hành thường xuyên, thận trọng, khoa học và hiệu quả. Ngay từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII đến nay, Đảng đã ban hành và thực hiện nhiều quy định, kết luận về công tác cán bộ. Đây là những định hướng chỉ đạo rất quan trọng của Đảng, góp phần tạo nên sự đồng bộ, kết nối chặt chẽ giữa các khâu trong công tác cán bộ. Việc tổ chức thực hiện một cách đồng bộ, chặt chẽ các văn bản chỉ đạo của Đảng sẽ là cơ sở quan trọng, góp phần xây dựng, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên có đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, trong đó có việc rèn luyện, thực hành phẩm chất đạo đức suốt đời phục vụ nhân dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh.

Thứ tư, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có tinh thần trách nhiệm với công việc, thật sự là “công bộc” của nhân dân. Nhìn lại lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước, biết bao tấm gương cán bộ, đảng viên đã quên mình vì nước, vì dân. Đó thật sự là những con người từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà phục vụ. Trong bối cảnh hiện nay, yêu cầu quan trọng là cần tiếp tục tăng cường xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có tinh thần trách nhiệm, thật sự là “công bộc” của nhân dân. Tinh thần trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, đảng viên là luôn nhận thức rõ vị trí, vai trò của mình, sẵn sàng phấn đấu, hy sinh cho lý tưởng cách mạng, vì cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc của nhân dân. Xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên phải dựa trên tiêu chí phục vụ nhân dân, “việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh”. Trong thực hiện nhiệm vụ được giao, cán bộ, đảng viên cần quán triệt nghiêm túc đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, bảo đảm đúng quy trình, thủ tục; đồng thời, chủ động, linh hoạt, sáng tạo, đổi mới, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung. Khi triển khai thực hiện nhiệm vụ, cán bộ, đảng viên cần nhanh chóng xây dựng chương trình, kế hoạch cụ thể, tránh để chậm trễ gây tồn đọng, ách tắc; đồng thời, cần tiếp thu ý kiến đóng góp, phê bình của người dân với tinh thần “tự soi”, “tự sửa”, để không ngừng nâng cao đạo đức công vụ, gần dân, sát dân, hiểu và phục vụ nhân dân ngày càng tốt hơn. Cán bộ, đảng viên, đặc biệt là cán bộ lãnh đạo chủ chốt, người đứng đầu các cấp phải kiên quyết đấu tranh chống các biểu hiện quan liêu, cửa quyền, mệnh lệnh hành chính, xa rời quần chúng; nâng cao tinh thần trách nhiệm, chống biểu hiện thờ ơ, vô cảm khi tiếp xúc, giải quyết công việc và trước khó khăn, vướng mắc của nhân dân. Bên cạnh đó, yêu cầu cấp thiết hiện nay là có cơ chế để “khơi dậy tinh thần cống hiến vì đất nước, tạo động lực và áp lực để mọi cán bộ, công chức, viên chức hoàn thành tốt nhất nhiệm vụ được giao, tận tụy phục vụ nhân dân; có cơ chế bảo vệ cán bộ đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung”.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về nâng cao tinh thần phục vụ nhân dân có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với việc rèn luyện phẩm chất đạo đức của người cán bộ, đảng viên trong giai đoạn hiện nay. Tư tưởng đó của Người đến nay vẫn còn nguyên giá trị cả về mặt lý luận và thực tiễn. Đặc biệt, trong bối cảnh hiện nay, nâng cao tinh thần phục vụ nhân dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh cho đội ngũ cán bộ, đảng viên còn là hành động thiết thực để tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh - một yêu cầu khách quan của công tác xây dựng, chỉnh đốn Ðảng, có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới./.

ST.