Thứ Năm, 1 tháng 8, 2024

ĐẤU TRANH CHỐNG CHỦ NGHĨA CÁ NHÂN - MỘT SỐ NỘI DUNG TRỌNG TÂM CỦA CÔNG TÁC XÂY DỰNG, CHỈNH ĐỐN ĐẢNG


Thấy được sứ mệnh lịch sử của Đảng đối với Tổ quốc, dân tộc, giai cấp công nhân, nhân dân lao động, trong cuộc đời, sự nghiệp lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng xây dựng Đảng ta trong sạch, vững mạnh về mọi mặt. Để Đảng xứng đáng là đội tiên phong, bộ tham mưu của giai cấp vô sản, của nhân dân lao động và của cả dân tộc, Người thường xuyên chăm lo đến công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Từ thực tiễn lịch sử lãnh đạo và tổ chức của Đảng ta về xây dựng, chỉnh đốn Đảng có thể thấy, Hồ Chí Minh là người xây đắp nên nền móng lý luận về xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Trong đó, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân vừa là một nội dung trọng tâm, vừa là một biện pháp rất quan trọng để xây dựng, chỉnh đốn Đảng.
94 năm qua, Đảng ta đã nhiều lần tiến hành công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng Việt Nam và những biểu hiện sai lầm, sự nguy hại dẫn đến nguy cơ đe dọa đến sự lãnh đạo của Đảng, mà Đảng ta đã tiến hành nhiều đợt chỉnh đốn và chỉnh huấn Đảng với những mục tiêu, nhiệm vụ, phương pháp thực hiện khác nhau.
Năm 1939, Đảng tiến hành sinh hoạt “tự phê bình” sâu rộng, khắc phục hạn chế, giải quyết vấn đề về tư tưởng và tổ chức của Đảng trong phong trào Mặt trận dân chủ. Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ đã viết tác phẩm Tự chỉ trích, xác định mục tiêu, phương châm: “Công khai, mạnh dạn, thành thực vạch ra lỗi lầm của mình và tìm phương pháp sửa chữa, chống những xu hướng hoạt đầu, thỏa hiệp, như thế không làm yếu Đảng và làm cho Đảng được thống nhất mạnh mẽ. Làm như thế không sợ địch nhân lợi dụng chửi rủa, vu cáo cho Đảng, không sợ “nối giáo cho giặc”. Trái lại nếu “đóng cửa bảo nhau”, giữ cái vỏ thống nhất mà bên trong là hổ lốn một cục, đầy rẫy bọn hoạt đầu, đấy mới chính là để kẻ thù chửi rủa, hơn nữa đó tỏ ra không phải là một Đảng tiên phong cách mạng mà là một Đảng hoạt đầu cải lương”.
Sau Cách mạng Tháng Tám, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã kịp thời chấn chỉnh với những khuyết điểm của một số cán bộ, đảng viên vừa mới có chút chức quyền trong tay. Trong Thư gửi Ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng, ngày 17-10-1945, Người đã phê phán, ngăn đe, cảnh báo một số căn bệnh của một số đồng chí nắm chức vụ quyền hạn trong bộ máy chính quyền nhà nước như: Trái phép, cậy thế, hủ hóa, tư túng, chia rẽ, kiêu ngạo…
Sau khi cả nước bước vào kháng chiến chống Pháp, tháng 10-1947, Hồ Chủ tịch viết tác phẩm Sửa đổi lối làm việc. Đây là tác phẩm rất quan trọng, có tính chất kinh điển về xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Ở đó, lần đầu tiên Người dùng từ “chỉnh đốn Đảng”. Người vừa nêu lên những ưu điểm, vừa phê phán những sai lầm khuyết điểm của cán bộ, đảng viên; xác định 12 chuẩn mực về tư cách của Đảng chân chính cách mạng; đúc kết, nhắc nhớ: “Muốn cho Đảng được vững bền/ Mười hai điều ấy chớ quên điều nào”. Trong đó, chủ nghĩa cá nhân, được xác định “như một thứ vi trùng rất độc, do nó mà sinh ra các thứ bệnh rất nguy hiểm”. Riêng bệnh cá nhân, Người đã tập trung nhận diện, phân tích 10 biểu hiện chi tiết; rồi kết luận: “Những tật bệnh đó khiến cho Đảng xệch xoạc, ý kiến lung tung, kỷ luật lỏng lẻo, công việc bê trễ. Chính sách không thi hành được triệt để, Đảng xa rời dân chúng. Từ đó, Người đòi hỏi trong chỉnh đốn Đảng phải “kiên quyết chống lại “bệnh cá nhân”. Phận sự của người đảng viên và cán bộ là: “Trọng lợi ích của Đảng hơn hết. Ngoài lợi ích của dân tộc, của Tổ quốc, thì Đảng không có lợi ích gì khác”; phải rèn luyện đạo đức cách mạng - nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm.
Những năm cuối kháng chiến chống Pháp, Đảng ta lại mở cuộc chỉnh Đảng. Tháng 5-1952, tại Lớp chỉnh huấn đầu tiên của Trung ương, Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định: “Mục đích chỉnh Đảng là nâng cao tư tưởng và trình độ chính trị của đảng viên và cán bộ, làm cho đảng viên và cán bộ theo đúng quan điểm và lập trường vô sản”. Năm 1961, khi nhân dân miền Nam đẩy mạnh cuộc kháng chiến chống Mỹ, miền Bắc phải phát huy và thể hiện rõ vai trò là hậu phương lớn của cả nước, Đảng ta lại mở đợt chỉnh huấn trong toàn Đảng. Mục đích, nhiệm vụ của chỉnh huấn, được Hồ Chí Minh xác định: “Trung ương Đảng sẽ mở cuộc chỉnh huấn cho đảng viên, đoàn viên và tất cả mọi người, làm cho tất cả hiểu rõ hơn trách nhiệm làm chủ của mình, hiểu rõ nhiệm vụ sản xuất và tiết kiệm trong giai đoạn mới, giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội, thực hiện phương châm “mình vì mọi người, mọi người vì mình”, phê phán lối suy nghĩ cá nhân chủ nghĩa”. Năm 1965, khi cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân ta trở nên quyết liệt, để tập trung sức người, sức của cho tiền tuyến, trong quá trình chỉnh huấn Đảng, Người xác định: “Chủ nghĩa cá nhân là kẻ thù nguy hiểm mà mỗi người chúng ta phải luôn luôn tỉnh táo đề phòng và kiên quyết tiêu diệt. Chính vì vậy mà cuộc chỉnh huấn lần này của Đảng ta nhằm mục đích tẩy rửa chủ nghĩa cá nhân và nâng cao đạo đức cách mạng của giai cấp vô sản”…
Sau khi đất nước thống nhất, thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta tiếp tục chăm lo công tác xây dựng Đảng; thường xuyên tự chỉnh đốn nội bộ, mở nhiều đợt xây dựng, chỉnh đốn sâu rộng. Việc chỉnh đốn Đảng được coi trong hơn từ Hội nghị Trung ương 6, Trung ương 7 (khóa 6) năm 1989, nhằm bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, trước tác động to lớn từ sự khủng hoảng, sụp đổ của chủ nghĩa xã hội hiện thực trên thế giới. Khi Liên Xô tan rã (8-1991), Đại hội VII đã xác lập Cương lĩnh 1991, Hội nghị Trung ương 3 (2-1992) đã ban hành Nghị quyết “Về một số nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn Đảng”. Trong đó, chỉ ra những khuyết điểm đã trở thành nguy cơ không thể xem thường, nổi bật là: “một bộ phận giảm sút ý chí chiến đấu, phai nhạt lý tưởng, dao động mất lòng tin, trong đó có một số người chịu ảnh hưởng của khuynh hướng cơ hội, xét lại muốn đi con đường khác; thậm chí đã có người phản bội, đầu hàng. Không ít cán bộ, đảng viên bị chủ nghĩa cá nhân thực dụng cuốn hút, trở nên thoái hóa, hư hỏng, ăn chơi hưởng lạc”… Cùng với triển khai nhiều chủ trương, giải pháp lớn để chỉnh đốn Đảng, Trung ương đã coi trọng: “Xây dựng đạo đức cách mạng và lối sống trong sạch của cán bộ, đảng viên trong điều kiện kinh tế thị trường và mở rộng giao lưu quốc tế; chống chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa thực dụng, tệ làm ăn gian dối, lối sống xa hoa, trụy lạc”.
Đến Hội nghị Trung ương 6 lần 2 (khóa 😎 tháng 1-1999, Trung ương triển khai Nghị quyết Số 10-NQ/TW, ngày 2-2-1999 “Về một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công tác xây dựng Đảng hiện nay”; quyết định gắn xây dựng chỉnh đốn Đảng với học tập và làm theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bên cạnh tổ chức, triển khai đồng bộ các nhiệm vụ quan trọng về chỉnh đốn Đảng, Nghị quyết đã xác định nhiều nội dung, biện pháp cụ thể về đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, như: “Các tổ chức đảng phải thường xuyên giáo dục, quản lý, kiểm tra cán bộ, đảng viên về đạo đức, lối sống. Cán bộ, đảng viên phải tự giác rèn luyện đạo đức, lối sống cần kiệm, liêm chính, chí công, vô tư; gương mẫu giữ gìn phẩm chất người chiến sĩ cộng sản, đề cao tinh thần đoàn kết, chống chủ nghĩa cá nhân; chấp hành nghiêm Điều lệ Đảng, pháp luật Nhà nước; đồng thời, chú ý giáo dục, thuyết phục gia đình cùng thực hiện”, “Tập trung chỉ đạo cuộc đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu có hiệu quả”, “Thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, chế độ tự phê bình và phê bình trong Đảng”.
10 năm gần đây, Đảng ta vừa tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, vừa coi trọng đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân. Trước những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, mà nguyên nhân cơ bản, sâu sa bắt nguồn từ chủ nghĩa cá nhân, hai Hội nghị Trung ương 4 của khóa 11 và khóa 12 đã ban hành nghị quyết “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” và “Về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”. Ở đó, những dấu hiệu, biểu hiện, nguyên nhân của chủ nghĩa cá nhân được làm rõ, cụ thể chi tiết hơn; các biện pháp về tư tưởng, chính trị và tổ chức đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân được xác định thống nhất và đồng bộ hơn.
Đại hội XIII của Đảng tiếp tục chỉ ra: “Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, chủ nghĩa cá nhân, “lợi ích nhóm”, bệnh lãng phí, vô cảm, bệnh thành tích ở một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi”; đồng thời xác định đồng bộ các chủ trương, nhiệm vụ tiếp tục xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng. Ở đó, cùng với xây dựng Đảng về mọi mặt, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân cũng được xác lập bằng nhiều biện pháp, cách thức đồng bộ về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức, công tác cán bộ, pháp chế, tăng cường mối quan hệ mặt thiết giữa Đảng với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng, chỉnh đốn Đảng.
Nhìn lại quá trình xây dựng và chỉnh đốn Đảng thấy rõ, xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng, từ sứ mệnh lịch sử của Đảng đối với dân tộc mà trong mọi thời kỳ cách mạng, Đảng ta đều chăm lo xây dựng, chỉnh đốn Đảng vững mạnh về mọi mặt. Sự thành công nhiều hay ít của các đợt xây dựng, chỉnh đốn Đảng đều tùy thuộc vào sự thắng lợi nhiều hay ít của việc đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân. Bởi như Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng thống nhất nhận định: “Chủ nghĩa cá nhân là kẻ thù nguy hiểm mà mỗi người chúng ta phải luôn luôn tỉnh táo đề phòng và kiên quyết tiêu diệt. Chính vì vậy mà cuộc chỉnh huấn lần này của Đảng ta nhằm mục đích tẩy rửa chủ nghĩa cá nhân và nâng cao đạo đức cách mạng của giai cấp vô sản”.
Từ những vấn đề trên, từ những yêu cầu, nhiệm vụ thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng và để làm cho Nghị quyết Trung ương 4 khóa 12 “Về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ” tiếp tục tỏ rõ hiệu lực trong Đảng và hiệu quả trong đời sống chính trị - xã hội của đất nước ta, mọi cấp ủy, tổ chức đảng và đảng viên cần tiếp tục nâng cao nhận thức, thấy rõ tầm quan trọng của đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng.
Tiếp tục quán triệt sâu sắc mục tiêu, quan điểm và nghiêm chỉnh thực hiện triệt để các nhiệm vụ, giải pháp, cách thức xây dựng, chỉnh đốn Đảng mà Nghị quyết Trung ương 4 đã đề ra; quan tâm, chú trọng hơn nữa tới việc triển khai thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân. Bởi thắng lợi của cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng nói riêng và thắng lợi của chủ nghĩa xã hội nói chung đều không thể tách rời thắng lợi của cuộc đấu tranh trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân.
Phải hết sức phòng ngừa, cảnh giác và đấu tranh với những biểu hiện coi thường, xem nhẹ, bỏ qua, hữu khuynh hoặc tả khuynh trong đấu tranh với chủ nghĩa cá nhân. Phải chú ý đến biểu hiện những của người đứng đầu, người chủ trì hoặc cả một bộ phận cấp ủy viên khi triển khai và tổ chức tự phê bình và phê bình một cách qua loa, chiếu lệ, hình thức; bởi đó là một cách mà những người này đã “sa xuống cái hố cá nhân chủ nghĩa” nên họ rất sợ tự phê bình và phê bình một cách thiết thực như Hồ Chí Minh đã chỉ ra.
Việc nâng cao nhận thức và thống nhất hành động trong Đảng và toàn xã hội, nhất là dựa vào nhân dân, các đoàn thể chính trị - xã hội của nhân dân cùng tham gia vào các mắt khâu, quá trình giám sát, phản biện, góp ý xây dựng tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên… cần tiếp tục được phát huy; làm cho các tầng lớp nhân dân chung sức, đồng lòng phòng, chống các biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân ở cán bộ, đảng viên, viên chức nhà nước, trước hết là đối với những người có chức, có quyền, người đứng đầu cơ quan, đơn vị, các cấp chính quyền nhà nước và địa phương sẽ góp phần tạo nên sức mạnh tổng hợp, thống nhất “ý Đảng, lòng dân” để đẩy lùi chủ nghĩa cá nhân, nâng cao hiệu quả công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay./.
Báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam
Có thể là hình ảnh về 3 người, mọi người đang học và văn bản
Tất cả cảm xúc:
2

ĐA NGUYÊN, ĐA ĐẢNG KHÔNG PHẢI LÀ SỰ LỰA CHỌN CỦA VIỆT NAM


Bất chấp những thành quả mà nhân dân ta đã giành được dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, các thế lực thù địch, phản động vẫn điên cuồng xuyên tạc, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng Việt Nam. Trong bài viết “Phải có dân chủ đa nguyên để phục hồi đạo đức, cứu nguy dân tộc”, với cái nhìn định kiến và hận thù, Ban Biên tập Viettan viện dẫn những hiện tượng tiêu cực trong xã hội, rồi quy chụp thành bản chất và đổ lỗi cho Đảng “đảng CS đã làm cho đất nước này khánh tận cả về tinh thần lẫn vật chất, làm biến dạng xã hội VN” và đưa ra kiến nghị hết sức phản động “Đảng Cộng sản Việt Nam phải nhanh chóng chấp nhận dân chủ hóa để các lực lượng chính trị đối lập tham gia kiến thiết và điều hành đất nước, xây dựng nhà nước tam quyền phân lập, đa nguyên đa đảng”… Đây là những luận điệu hoàn toàn sai trái, phản động, xuyên tạc tình hình kinh tế, xã hội và đời sống của Nhân dân; hạ thấp uy tín, phủ nhận vai trò của Đảng đối với cách mạng Việt Nam.
Thứ nhất, Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng duy nhất đủ khả năng lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi.
Vào những năm cuối của thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX khi thực dân Pháp xâm lược và đặt ách thống trị trên đất nước ta, nhân dân ta mất quyền độc lập, phải chịu cảnh lầm than, một cổ hai tròng. Trước ách thống trị, bóc lột hà khắc, tàn bạo của thực dân, phong kiến, đã có nhiều cuộc đấu tranh, phong trào yêu nước nổ ra, theo tư tưởng phong kiến, tư sản, nhưng đều thất bại. Những thất bại đó do nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân sâu xa và chủ yếu là do chưa có đường lối, tư tưởng phù hợp với thời đại và nguyện vọng của nhân dân.
Trước tình trạng dân tộc đang bế tắc về đường lối cứu nước, Nguyễn Ái Quốc đã tìm ra con đường cứu nước, cứu dân, đó là con đường cách mạng vô sản theo chủ nghĩa Mác - Lênin. Người đã tích cực chuẩn bị mọi mặt, nhằm hình thành một chính đảng để lãnh đạo phong trào đấu tranh của các tầng lớp nhân dân. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đáp ứng được nguyện vọng của dân tộc và nhân dân, bởi Đảng có đường lối đúng đắn, gồm những người ưu tú nhất, đại biểu cho giai cấp công nhân và các tầng lớp nhân dân lao động, đáp ứng yêu cầu bức thiết về lực lượng lãnh đạo, đường lối cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, khơi dậy, quy tụ được sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc, được quần chúng nhân dân tin tưởng, đi theo. Đó là sự lựa chọn của lịch sử. Ngay khi mới 15 năm tuổi, Đảng đã lãnh đạo dân tộc Việt Nam làm cuộc Cách mạng Tháng Tám “long trời lở đất”, giành độc lập, tự do cho dân tộc sau gần một trăm năm bị thực dân Pháp đô hộ; nhân dân Việt Nam thoát khỏi “kiếp ngựa trâu”, trở thành người làm chủ vận mệnh của mình. Tiếp đó, Đảng lãnh đạo Nhân dân tiến hành thắng lợi hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Công cuộc đổi mới toàn diện đất nước do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã đạt được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử. Đất nước ta đã ra khỏi tình trạng nước nghèo kém phát triển, vào nhóm những nước đang phát triển có thu nhập trung bình. Kinh tế phát triển, đời sống vật chất, tinh thần của người dân được nâng cao, bình quân thu nhập đầu người năm 2020 là 3.561 USD, năm 2023 khoảng 4.200 USD. Chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được giữ vững và tăng cường; quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và đạt được nhiều thành tựu nổi bật.
Thực tiễn cũng cho thấy, có những thời điểm, ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam, ở nước ta còn có các đảng khác cùng tồn tại: Đảng Dân chủ, Đảng xã hội. Tuy nhiên, quá trình sàng lọc, chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định được vai trò của mình, đủ khả năng lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của đất nước đi đến thắng lợi, còn Đảng Dân chủ và Đảng Xã hội đã tự tuyên bố giải tán vào năm 1988.
Lịch sử và thực tiễn đất nước đã chứng minh, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước ta đã không ngừng phát triển về mọi mặt, đời sống của nhân dân được nâng lên, chứ không phải “làm cho đất nước khánh tận” và cũng không cần đa nguyên, đa đảng theo những “khuyến cáo” phản động của bọn Viettan.
Thứ hai, tiếng nói khách quan của bạn bè quốc tế về vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đối với những người có cái nhìn khách quan, không định kiến, khi đề cập đến những thành tựu mà Việt Nam đạt được trong hơn 94 năm qua, đều đánh giá cao vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Ông Philip Fernandez, thành viên của Hội Hữu nghị Canada-Việt Nam, đảng viên Đảng Cộng sản Canada, nhấn mạnh “Uy tín và vị thế cao của Việt Nam trên trường quốc tế đã phản ánh sức mạnh chính trị và ý thức hệ của Đảng, cũng như khả năng tài tình của Đảng Cộng sản Việt Nam khi tìm ra phương hướng trong tình hình quốc tế phức tạp hiện nay, và cùng với sự tham gia của nhân dân để đưa ra chương trình nghị sự nhằm xây dựng một nước Việt Nam hiện đại. Một ưu điểm nổi bật của Đảng Cộng sản Việt Nam đó là khả năng ứng dụng một cách sáng tạo các nguyên lý của Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều kiện của Việt Nam để đạt được các mục tiêu ở quy mô quốc gia và quốc tế. Điều này cũng phản ánh niềm tin của người dân Việt Nam vào sự lãnh đạo của Đảng. Và niềm tin của cộng đồng quốc tế đối với Đảng Cộng sản Việt Nam cũng đã được thể hiện khi Việt Nam mới đây đã trúng cử Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020 - 2021 với số phiếu gần như tuyệt đối”.
Tương tự, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Argentina Victor Kot cho rằng, sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam có ý nghĩa trọng đại không chỉ đối với lịch sử dân tộc Việt Nam mà còn cả đối với phong trào cách mạng thế giới. Trong thế kỷ 20 và những thập kỷ đầu tiên của thế kỷ 21, Việt Nam đã tạo ra được sự khích lệ lớn lao cho việc hình thành phong trào quốc tế cộng sản, cho cuộc đấu tranh của những người cộng sản và cách mạng, cũng như lịch sử nhân loại.
Ông Moribe Hiroyuki, Chủ tịch Viện Nghiên cứu kinh tế Việt Nam tại Nhật Bản, Ủy viên Hiệp hội Việt - Nhật tại Nhật Bản nói: cảm nhận của tôi, Đảng Cộng sản Việt Nam là một Đảng rất mạnh, bởi Đảng dựa vào dân, tôn trọng dân.
Thành tựu của đất nước đạt được hơn 94 năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và những tiếng nói khách quan của bạn bè quốc tế đã chứng minh rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước và xã hội là sự lựa chọn của lịch sử, là lực lượng duy nhất đủ khả năng lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của đất nước đi đến thắng lợi. Hoàn toàn phù hợp với điều kiện đất nước và xu thế của thời đại; đa nguyên, đa đảng không bao giờ là sự lựa chọn của Việt Nam./.
Sáng mãi niềm tin
Không có mô tả ảnh.
Tất cả cảm xúc:
2

NHẬN DIỆN NHÓM ĐỐI TƯỢNG ĐANG CHIA RẼ NHÂN DÂN VỚI ĐẢNG

 

Mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng là mối quan hệ máu thịt, là nguồn sức mạnh to lớn, làm nên những thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Nhận thức sâu sắc vị trí, tầm quan trọng đặc biệt của mối quan hệ này, Đảng, Nhà nước ta luôn quan tâm chăm lo, củng cố và tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Nhân dân và Đảng. Tuy nhiên, mối quan hệ này luôn là mục tiêu tấn công của các thế lực thù địch nhằm phá hoại, chia rẽ, với nhiều thủ đoạn, trong đó có việc tung tin, lan truyền các quan điểm sai trái, thù địch.
Có thể nhận diện ở 3 nhóm cơ bản sau:
Một là, nhóm những kẻ đang đại diện cho tư tưởng tư sản, cho chủ nghĩa thực dân, đế quốc. Chúng là những kẻ từng thất bại thảm hại trong chiến tranh với Việt Nam, song không từ bỏ âm mưu phá hoại sự nghiệp cách mạng XHCN của nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Chia rẽ mối quan hệ giữa Đảng với Nhân dân là tách người lãnh đạo với lực lượng cách mạng, là phương thức nhằm vô hiệu hóa vai trò của Đảng, làm tê liệt sức mạnh quần chúng. Âm mưu, thủ đoạn của chúng được thể hiện trong Chiến lược “Diễn biến hòa bình”, từng chỉ là một kế hoạch nhằm chống lại những người đứng đầu và những quốc gia chống Mỹ hoặc không theo Mỹ sau Chiến tranh thế giới thứ II. Từ thập niên 80 của thế kỷ XX, với những “thành công” của kế hoạch ấy, “diễn biến hòa bình” được nâng tầm chiến lược, tấn công vào mọi thể chế chính trị trên thế giới, trên tất cả các lĩnh vực, với mục tiêu đánh đổ các thể chế cộng sản, dập tắt ý chí, sức mạnh của các lực lượng yêu chuộng hòa bình trên thế giới, khẳng định vị thế độc tôn, cường quốc, trên hết của nước Mỹ... Trên lĩnh vực tư tưởng, “Diễn biến hòa bình” khoét sâu mâu thuẫn giữa đảng cầm quyền, bộ máy nhà nước, cá nhân những người đứng đầu đảng, chính phủ với nhân dân trong các nước có tư tưởng chống Mỹ. Và chúng đã thành công ở nhiều nơi, gây sụp đổ hệ thống các nước XHCN ở Liên Xô, Đông Âu và bất ổn chính trị triền miên ở rất nhiều quốc gia đang phát triển... Nhưng chúng đã và đang thất bại ở Việt Nam. Vì lẽ đó, tiếp tục tập trung, bằng mọi thủ đoạn, để phá vỡ mối quan hệ giữa nhân dân Việt Nam với Đảng Cộng sản Việt Nam hiện là mũi tấn công mạnh mẽ mà các thế lực thù địch đang ra sức thực hiện.
Hai là, nhóm những kẻ lựa chọn con đường đi ngược lại với mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH của cách mạng Việt Nam do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Chúng là người Việt Nam, nhưng chọn chước “ôm chân đế quốc” - trong chiến tranh thì cầm súng chống lại đồng bào, trong hòa bình thì làm công cụ đắc lực cho “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ... Một bộ phận từng làm việc trong bộ máy chính quyền ngụy Sài Gòn, được người Mỹ nuôi dưỡng để phục vụ chiến tranh Việt Nam, sau ngày 30/4/1975 thì bỏ Tổ quốc ra đi. Trong đó, một số vì nuối tiếc lợi ích ngày xưa mà “uất hận”, muốn “phục quốc”. Một số nhận thức hạn chế, thiếu thức thời, bị bọn mưu “phục quốc” lừa gạt tham gia vào các tổ chức phản động, hoặc ủng hộ tiền của cho chúng.
Những kẻ mưu “phục quốc” được hưởng lợi rất nhiều từ nguồn lực tài chính của Chiến lược “Diễn biến hòa bình” để lập ra các tổ chức chính trị phản động. Chúng hoạt động ở nước ngoài, với danh nghĩa là các tổ chức dân sự, lồng mục tiêu chính trị vào các tổ chức văn hóa, giáo dục, kinh tế phi chính phủ (NGO). Chúng bí mật tổ chức đưa người về Việt Nam, thực hiện các hoạt động xây dựng lực lượng, lôi kéo, kích động quần chúng gây bất ổn xã hội, rồi tung tin Đảng, chính quyền đàn áp những người dân đang “nói lên tiếng nói đòi quyền lợi của mình”. Chúng tham gia vào một số dự án nhân đạo, dân sinh của NGO tại Việt Nam, tạo nên “tình cảm biết ơn” của một bộ phận dân chúng, mà “công đầu” thuộc về các tổ chức phản động ấy.
Ba là, nhóm những kẻ trong chiến tranh thì hèn nhát, trong hòa bình thì lười biếng, có điều kiện thì bán mình đổi lấy tiền tài, có cơ hội thì chui sâu, leo cao vào bộ máy Đảng, Nhà nước để trục lợi. Khi cơ chế thị trường được xác lập, chúng không nỗ lực lao động mà lợi dụng “mặt trái”, “sân sau”, sẵn sàng “đi đêm” để mưu toan lợi ích.
Chúng còn là “một bộ phận không nhỏ” trong các cơ quan của Đảng, Nhà nước; có người từng vào sinh ra tử, là anh hùng trong chiến đấu, lao động sản xuất, là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, là nhà khoa học, chuyên gia có uy tín... Song vì nhiều lý do, chủ yếu là bị chủ nghĩa cá nhân chi phối dẫn đến tha hóa, biến chất, rồi sa ngã, bị mua chuộc, khống chế, lôi kéo... chống Đảng, Nhà nước, biểu hiện ra bên ngoài là thái độ bất mãn với chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, đòi “lật lại”, “xét lại” lịch sử dân tộc từ khi có Đảng...
Sự tồn tại của các lực lượng thù địch khi ẩn mình, lúc công khai, song tuyên truyền để chống phá mối quan hệ Đảng - Dân trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội là mục tiêu thống nhất. Phương thức tuyên truyền khi theo chương trình, kế hoạch, với các luận điểm bài bản, lúc theo lối xuyên tạc, “nói lấy được”, phủ nhận sạch trơn, kích động, xúi giục gây hoang mang, nghi ngờ, mất niềm tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước, với chế độ mà Đảng đang lãnh đạo nhân dân xây dựng. Khi hành động ra vẻ “trí thức góp ý cho Đảng” để “vì quyền lợi của dân chúng”, lúc huỵch toẹt hô hào, kích động người dân bạo loạn, tấn công, đập phá trụ sở, bắt giữ, thậm chí ra tay khủng bố, giết hại người của cơ quan công quyền; khi núp sau lưng các chính trị gia trên diễn đàn quốc tế để vu cáo Việt Nam vi phạm nhân quyền, lúc dàn hàng ngang một vài chục kẻ cầm cờ ba que, dương khẩu hiệu chống cộng...
Nhận diện các thế lực thù địch và các thủ đoạn chống phá, xây dựng luận cứ khoa học và thực hiện đồng bộ các giải pháp đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái chia rẽ, phá hoại mối quan hệ mật thiết của Đảng với Nhân dân là trách nhiệm của toàn Đảng, của cả hệ thống chính trị, ở mọi cấp, mọi ngành, mọi cán bộ, đảng viên và mỗi một người dân./.
Sáng mãi niềm tin
Có thể là hình ảnh về văn bản
Tất cả cảm xúc:
3

PHÁT HUY GIÁ TRỊ NGHỆ THUẬT QUÂN SỰ VIỆT NAM VÀO SỰ NGHIỆP BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH HÌNH MỚI


Nghệ thuật quân sự Việt Nam đã hình thành, phát triển trong quá trình dựng và giữ nước của dân tộc.
Nghệ thuật quân sự bao gồm lý luận và thực tiễn chuẩn bị tiến hành chiến tranh, chủ yếu là đấu tranh vũ trang. Gồm có chiến lược quân sự, nghệ thuật chiến dịch và nghệ thuật chiến thuật. Lý luận nghệ thuật quân sự là bộ phận chủ yếu của khoa học quân sự, nghiên cứu các quy luật và tính chất, đặc điểm của chiến tranh, xác định những nguyên tắc và phương thức tiến hành đấu tranh vũ trang. Trong hoạt động thực tiễn, nghệ thuật quân sự chỉ đạo và thực hành đấu tranh vũ trang ở quy mô chiến lược, chiến dịch và chiến đấu... Nghệ thuật quân sự Việt Nam ra đời và phát triển trong cuộc đấu tranh dựng nước và giữ nước, chống các kẻ thù xâm lược thường lớn mạnh hơn mình gấp nhiều lần.
“Nghệ thuật quân sự Việt Nam là nghệ thuật toàn dân đánh giặc, lấy lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt; quán triệt tư tưởng tiến công; giành và giữ quyền chủ động; phát huy sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân; lấy ít địch nhiều, nhỏ thắng lớn, đồng thời biết tập trung lực lượng khi cần thiết, luôn đánh địch trên thế mạnh;...”. Nghệ thuật quân sự nhằm tạo ra sức mạnh để chiến thắng đối phương trong điều kiện có lợi nhất. Do đó, nghệ thuật quân sự của mỗi quốc gia có những nét độc đáo riêng vì nó phụ thuộc vào yếu tố địa lý, truyền thống văn hóa dân tộc, thể chế chính trị...
Nghệ thuật quân sự Việt Nam bao gồm:
Thứ nhất, tích cực chủ động tiến công địch luôn là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong tiến trình hoạt động quân sự để kết thúc chiến tranh trong điều kiện có lợi nhất. Tư tưởng tích cực chủ động tiến công địch luôn là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong hoạt động quân sự. Trong hoạt động quân sự của ta có tiến công, phòng ngự, nhưng “tiến công, phòng ngự không sơ hở và tiến công là chủ yếu. Trong kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, kẻ thù của đất nước ta có tiềm lực kinh tế, quân sự, khoa học công nghệ, nhưng do tiến hành chiến tranh xâm lược, phi nghĩa, nên chúng sẽ bộc lộ nhiều sơ hở. Nhận định trên của Đảng ta, đã tiếp thêm sức mạnh cho nhân dân tích cực chủ động tiến công địch mọi lúc, mọi nơi để giành chiến thắng từng phần, tiến tới giành thắng lợi hoàn toàn. Như vậy, trên cơ sở không ngừng nâng cao cảnh giác cách mạng, phát huy lòng dũng cảm, trí thông minh sáng tạo của con người, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa con người và vũ khí, nắm vững tư tưởng tích cực tiến công, chúng ta hoàn toàn có thể giành quyền chủ động trên chiến trường và kết thúc chiến tranh trong điều kiện có lợi nhất.
Thứ hai, tiến hành chiến tranh nhân dân, thực hiện toàn dân đánh giặc. Tinh thần yêu nước của nhân dân là nền tảng vững chắc của chiến tranh, tạo ra sức mạnh của dân tộc để thắng kẻ thù xâm lược. Toàn dân đánh giặc là một trong những nét độc đáo trong nghệ thuật quân sự, xuất phát từ lòng yêu nước của nhân dân ta và tính chất tự vệ. Mỗi thôn, xóm, bản, làng là một pháo đài diệt giặc. Cả nước là một chiến trường, tạo ra thế trận liên hoàn, vững chắc làm cho địch rơi vào trạng thái bị động, lúng túng và bị sa lầy. Trên từng hướng chiến lược hoặc khu vực tác chiến cụ thể, các đơn vị quân đội ta đã tận dụng địa hình và “thế trận làng nước”, vận dụng sáng tạo cách đánh của nhiều lực lượng, nhiều thứ quân làm cho kẻ thù kinh hồn bạt vía. Mặc dù thời gian đã lùi xa, nhưng thắng lợi của những trận đánh như: Him Lam, Độc Lập, Ấp Bắc, Núi Thành, Vạn Tường, la Đrăng, Thành cổ Quảng Trị, Chiến dịch phòng không Hà Nội (1972), Chiến dịch Hồ Chí Minh,... đặc biệt những trận đánh của lực lượng Biệt động Sài Gòn tiến công vào hang ổ của kẻ thù vẫn trường tồn cùng lịch sử của dân tộc. Thắng lợi đó là kết quả của nghệ thuật quân sự Việt Nam được vận dụng sáng tạo trên nền tảng tư tưởng “dám đánh và quyết thắng kẻ thù” mà quân và dân ta đã bồi đắp qua nhiều thế hệ.
Thứ ba, chủ động tạo lực, lập thế, tranh thời, dùng mưu để đánh địch. Trong hoạt động quân sự, phải biết kết hợp chặt chẽ các yếu tố lực lượng, thế trận, thời cơ và mưu trí, sáng tạo. Muốn giành thắng lợi, phải biết dùng mưu kế, hạn chế cái mạnh của địch, phát huy cái mạnh của ta. Mưu là để “lừa” và “điều địch”, tạo điều kiện cho ta lập thế trận (thế chiến thuật, chiến dịch) trên nền tảng thế trận chiến tranh nhân dân. Nghệ thuật quân sự của ta đã làm tốt “nghi binh lừa địch”, đánh bất ngờ, tạo hiệu quả diệt địch, nhất là trong điều kiện lực lượng quân sự địch mạnh, có vũ khí công nghệ cao. Đồng thời, biết đánh giá đúng và triệt để khai thác các yếu tố “thiên thời, địa lợi, nhân hòa”. Đó là nghệ thuật nắm bắt và phát huy sức mạnh của thời đại, phát huy tiềm năng, thế mạnh của đất nước, con người Việt Nam. Trong đó rất chú trọng “nhân hòa”, vì có “nhân hòa” mới có lực lượng vững mạnh, mới có thế trận vững chắc, mới tạo ra được thời cơ và tranh thủ thời cơ giành được thắng lợi lớn như các chiến dịch Điện Biên Phủ 1954, chiến dịch Tây Nguyên và chiến dịch Hồ Chí Minh mùa xuân năm 1975.
Thứ tư, kết hợp chặt chẽ tác chiến của bộ đội chủ lực và chiến tranh nhân dân địa phương, lấy lực lượng vũ trang ba thứ quân làm nòng cốt. Nghệ thuật quân sự Việt Nam là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chiến tranh nhân dân địa phương với chiến tranh của các binh đoàn chủ lực. Đây là nội dung rất cơ bản của chiến tranh nhân dân, thực hiện toàn dân đánh giặc. Trong cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, chiến lược chiến tranh cách mạng của Đảng ta là một chiến lược tổng hợp, kết hợp đấu tranh quân sự, đấu tranh chính trị, đấu tranh ngoại giao; kết hợp chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy, kết hợp đánh nhỏ, đánh vừa, đánh lớn. Trong khi đẩy mạnh đấu tranh chính trị, phát triển chiến tranh du kích, Đảng ta luôn coi trọng xây dựng bộ đội chủ lực thành những binh đoàn mạnh “trở thành những quả đấm thép” đủ sức giáng cho địch những đòn tiêu diệt lớn, quyết định chiến trường”. Như vậy với quan điểm trên đã góp phần thống nhất nhận thức trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân về phương thức tiến hành chiến tranh nhân dân Việt Nam bao gồm: chiến tranh nhân dân địa phương và chiến tranh bằng các binh đoàn chủ lực.
Thứ năm, phát huy cao độ nhân tố chính trị tinh thần trong hoạt động quân sự, kết hợp chặt chẽ các mặt trận quân sự, chính trị, ngoại giao và binh vận. Nhân tố chính trị tinh thần đã tiếp thêm sức mạnh cho quân và dân ta vượt qua mọi thử thách, khó khăn, gian khổ để hoàn thành sứ mệnh lịch sử của dân tộc giao cho và phát triển nghệ thuật quân sự Việt Nam lên một tầm cao mới. Nhân tố chính trị là nguồn của những chiến công hiển hách đó bắt nguồn từ nhiều yếu tố trong đó chính trị tinh thần là điểm khởi đầu cho tư tưởng “dám đánh, quyết đánh và quyết thắng kẻ thù xâm lược”. Mặt trận quân sự rất quyết liệt, thực hiện tiêu diệt sinh lực, phá hủy phương tiện chiến tranh của địch, quyết định thắng lợi trực tiếp của chiến tranh, tạo đà, tạo thế cho các mặt trận khác phát triển.
Một số nội dung đặc sắc của nghệ thuật quân sự Việt Nam được đúc rút qua thực tiễn giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Những bài học kinh nghiệm về nghệ thuật quân sự vẫn còn giữ nguyên giá trị để chúng ta tiếp tục nghiên cứu và vân dụng vào sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trong thời kì mới.
Kế thừa luận điểm về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc của các kỳ đại hội trước đó, trong tình hình mới, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng xác định: “Phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị kết hợp với sức mạnh thời đại, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa, nền văn hóa và lợi ích quốc gia – dân tộc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, an ninh con người, xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương, an toàn, lành mạnh để phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Để góp phần nâng cao hiệu quả vận dụng nghệ thuật quân sự vào nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, cần thực hiện một số giải pháp sau:
Một là, nâng cao chất lượng công tác dự báo, đặc biệt là lĩnh vực quốc phòng để xử lý các tình huống nhằm giữ vững ổn định chính trị - xã hội và giữ vững môi trường hòa bình để phát triển đất nước.
Việc nâng cao chất lượng công tác dự báo là yêu cầu rất cao đối với tất cả các cơ quan nghiên cứu chiến lược, tham mưu với Đảng, Nhà nước trong hoạch định đường lối, cơ chế, chính sách, pháp luật về quân sự, quốc phòng, an ninh. Nâng cao chất lượng dự báo tình hình của các cấp nhất là ở địa bàn cơ sở để chủ động dập tắt những âm mưu phá hoại của các thế lực thù địch từ trong trứng nước, không để Tổ quốc và mỗi địa phương bị động, bất ngờ trong mọi tình huống.
Hai là, tích cực, chủ động chuẩn bị lực lượng đủ mạnh và các kế hoạch, phương án tác chiến cụ thể để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh của Tổ quốc trong mọi tình huống.
Đồng thời với các biện pháp bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa”, chúng ta phải tích cực chuẩn bị kế sách và lực lượng để đối phó với các tình huống quốc phòng có thể xảy ra (cả tình huống đất nước phải chống chiến tranh xâm lược). Cụ thể: Tiến hành các cuộc diễn tập của các đơn vị binh chủng hợp thành, các quân chủng, binh chủng trong tác chiến quy mô lớn. Tổ chức các cuộc diễn tập khu vực phòng thủ của các huyện, tỉnh, thành phố để nâng cao khả năng “tự bảo vệ” và độc lập xử trí các tình huống của từng địa phương trong tình hình hiện nay.
Ba là, tăng cường tiềm lực quốc phòng, bảo đảm vũ khí, trang bị và mọi cơ sở vật chất phục vụ chiến tranh bảo vệ Tổ quốc nếu xảy ra.
Tiềm lực quốc phòng là sức mạnh tổng hợp của quốc gia. Do đó, phải thường xuyên chăm lo giáo dục, bồi dưỡng về nhận thức, kiến thức quân sự, quốc phòng, an ninh cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, cho các ngành, các cấp, các địa phương, làm cho mọi người nhận rõ bản chất, âm mưu, thủ đoạn chống phá cách mạng của - thế lực thù địch và sẵn sàng đập tan mọi hành động chống phá của chúng. Xây dựng các lực lượng vũ trang nhân dân có chất lượng tổng hợp, sức chiến đấu cao đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Bốn là, đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học quân sự; tích cực tổng kết để ngày càng hoàn thiện nghệ thuật quân sự Việt Nam trong thời kỳ mới.
Trên cơ sở kế thừa những tinh hoa quân sự của ông cha ta và những bài học kinh nghiệm của chiến tranh bảo vệ Tổ quốc để phát triển lý luận nghệ thuật tiến hành chiến tranh nhân dân trong điều kiện đối phương sử dụng vũ khí công nghệ cao để huấn luyện bộ đội đạt kết quả tốt nhất.
Tình hình thế giới, khu vực và trong nước có cả thuận lợi, thời cơ và khó khăn, thách thức đan xen, đặt ra nhiều vấn đề mới, yêu cầu mới nặng nề, phức tạp hơn đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Do đó, đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân phải nâng cao quyết tâm chính trị, dự báo chính xác tình hình, chủ động thích ứng với mọi tình huống, tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc./.
Trường Chính trị Thái Nguyên
Có thể là đồ họa về 7 người và văn bản
Tất cả cảm xúc:
5