Thứ Năm, 1 tháng 8, 2024

Siết quy trình, vạch chân tướng sai phạm

Tiến cử, giới thiệu, quy hoạch, đề bạt cán bộ các cấp, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược quyết định sự thành bại đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc. Do đó, cần phải quy được trách nhiệm cụ thể đối với từng tập thể, cá nhân trong việc tiến cử, thẩm định, quy hoạch, đề bạt bổ nhiệm cán bộ khi để xảy ra sai phạm.

Cần nhận diện được dấu hiệu sai phạm của cán bộ quy hoạch

Trong tác phẩm “Tam quốc diễn nghĩa” của tác giả La Quán Trung, quân sư Gia Cát Lượng là bậc kỳ tài trong nhìn người. Có nhiều cách nhìn người được ông sử dụng từ cách đây hàng nghìn năm nhưng vẫn còn giá trị, đó là: Dùng đúng sai để xét lập trường, chí hướng; dùng lợi để xét lòng liêm chính; dùng rượu để xét tính cách; dùng nguy khốn để xét dũng khí; dùng thời hạn để xét chữ tín...

 Với bản ngã con người, khi dễ bị cám dỗ và bộc lộ nhất là trước của cải, tiền bạc, lợi ích, chức tước và sắc đẹp. Bề ngoài có những dấu hiệu để nhận diện được các biểu hiện tiêu cực của cán bộ, được thể hiện ngay trong công việc, trong ứng xử, sinh hoạt hằng ngày. Qua nhiều vụ việc, những cán bộ có sai phạm thì trước đó dư luận đều xì xào về họ. Không nghi ngờ về sự bổ nhiệm “thần tốc”, “con ông cháu cha”, “phe cánh”, “nâng đỡ không trong sáng” thì cũng là những xì xào về phẩm chất, lối sống, về tài sản bất minh... Ở nhiều địa phương, có những nơi đã hình thành khu nhà ở của một số quan chức hoặc vợ con họ với lối sống xa xỉ, xa cách với nhân dân lao động. Những điều này cho phép chúng ta có cơ sở để nhận biết các dấu hiệu không minh bạch của người cán bộ.

Tổ chức chịu trách nhiệm giới thiệu không thể vô can

Các quy định, quy trình về công tác cán bộ của Đảng ngày càng chặt chẽ, rõ ràng và đầy đủ. Đảng đã có nhiều văn bản quy định việc phân cấp, phân quyền, hay cụ thể hơn là trao quyền chủ động cho từng cấp. Cùng với đó cũng đòi hỏi các cấp phải gắn trách nhiệm, chịu trách nhiệm khi được phân cấp, phân quyền. Ngày 18-8-2022, Bộ Chính trị đã ban hành Quy định số 80-QĐ/TW về phân cấp quản lý cán bộ và bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử; theo đó: Cá nhân, tập thể đề xuất phải chịu trách nhiệm chính trước cấp có thẩm quyền về đánh giá, nhận xét, kết luận tiêu chuẩn chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống; năng lực công tác, ưu, khuyết điểm; kê khai tài sản, thu nhập... và ý kiến đề xuất của mình trong bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử.

Để bổ nhiệm được một cán bộ, nhất là cán bộ chủ trì đều phải qua các bước chặt chẽ. Quy trình nhân sự phải trải qua 5 bước đối với nguồn nhân sự tại chỗ và 3 bước đối với nguồn nhân sự điều động, bổ nhiệm, giới thiệu ứng cử từ nguồn cán bộ nơi khác đến. Quá trình thực hiện thì cấp ủy, tổ chức đảng, tập thể lãnh đạo cơ quan, đơn vị và người đứng đầu chịu trách nhiệm về đánh giá, nhận xét, đề xuất, lựa chọn, giới thiệu nhân sự bổ nhiệm, giới thiệu ứng cử. Tuy nhiên, qua những trường hợp cán bộ có sai phạm thời gian qua cho thấy, việc thực hiện quy trách nhiệm đối với tập thể có liên quan đến công tác cán bộ chưa được thực hiện tốt.

Đối với tập thể cấp ủy đảng, vì sao không phát hiện ra cán bộ có sai phạm hay yếu kém để rồi vẫn biểu quyết thông qua? Rõ ràng là tổ chức chưa làm hết trách nhiệm, thậm chí mất sức chiến đấu, hoặc có tiêu cực. Dư luận rất bức xúc với tình trạng lợi ích cục bộ, lợi ích nhóm trong công tác cán bộ ở một số địa phương, một số đảng bộ. Theo quy định, một cán bộ được quy hoạch thì phải đáp ứng các tiêu chí, tiêu chuẩn. Tổ chức đảng nơi đó phản xác minh, tiến hành thảo luận, phân tích kỹ lưỡng từ lý lịch, quá trình học tập, công tác; đánh giá, nhận xét ưu, khuyết điểm, triển vọng phát triển, kết quả xác minh, kết luận những vấn đề mới nảy sinh (nếu có) đối với nhân sự... Nếu làm kỹ, chặt chẽ từng khâu, từng bước này thì cán bộ không đủ phẩm chất chắc chắn sẽ bị loại bỏ. Đơn cử như khâu xác minh kê khai tài sản cán bộ. Theo Quy định số 114-QĐ/TW của Bộ Chính trị về kiểm soát quyền lực và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác cán bộ thì bản thân người đưa vào quy hoạch phải kê khai tài sản và phải xác minh kê khai tài sản của cả những người thân của người đó nhằm tránh tình trạng che giấu tài sản. Tuy vậy, trên thực tế, việc này nhiều tổ chức, cơ quan, đơn vị làm chưa tốt. Bởi thế mới xảy ra tình trạng cán bộ quy hoạch thì kê khai không nhiều tài sản, nhưng vợ con, người thân của họ lại có nhiều tài sản một cách thiếu minh bạch. 6 tháng đầu năm 2024, qua kiểm tra, giám sát việc kê khai tài sản, thu nhập, Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã đề nghị Bộ Chính trị, Ban Bí thư thi hành kỷ luật 4 cán bộ có vi phạm.

Để bịt được lỗ hổng này, cần thực hiện xử lý nghiêm đối với tổ chức đảng giới thiệu, quy hoạch, đề bạt cán bộ có sai phạm, yếu kém trước quy hoạch. Việc này nếu không làm nghiêm thì không rõ được trách nhiệm của tổ chức, không ngăn chặn được tình trạng giới thiệu cán bộ một cách thiếu trách nhiệm, lợi ích nhóm. Đồng thời, coi trọng nhận diện, đẩy lùi các biểu hiện lựa chọn cán bộ quy hoạch, sử dụng cán bộ thuần nhất chỉ dựa vào tiêu chí bằng cấp mà chưa chú trọng đến chất lượng và hiệu quả thực hiện nhiệm vụ trên thực tế. Một số cán bộ có hồ sơ, lý lịch “rất đẹp” nhưng trình độ, kiến thức chưa đáp ứng được nhiệm vụ khi được xem xét bổ nhiệm, trọng dụng. Thực trạng đó dẫn đến tình trạng chạy bằng cấp, học hàm, học vị...

Cần xem xét trách nhiệm người tiến cử, giới thiệu

Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 khóa XII về “Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cán bộ cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ” nêu rõ: “Người đứng đầu lựa chọn, giới thiệu cán bộ trong quy hoạch để thực hiện quy trình bầu cử, bổ nhiệm cấp phó của mình; bí thư cấp ủy giới thiệu để bầu ủy viên ban thường vụ theo một quy trình nhất định, bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ và phải chịu trách nhiệm về việc giới thiệu của mình”.

Trên thực tế, mỗi khi kiểm điểm cán bộ lãnh đạo, chủ trì của tổ chức có sai phạm trong công tác cán bộ, có một số người lại đổ lỗi cho tập thể. Họ ngụy biện rằng, mọi quyết định là của tập thể, do tập thể, thế nên không thể quy trách nhiệm vào cá nhân họ. Trên thực tế, nhiều tập thể bị biến thành bình phong cho những sai phạm của người lãnh đạo, chủ trì. Sự tha hóa quyền lực trong một bộ phận cán bộ, trong đó có người đứng đầu, thường diễn ra bằng nhiều phương thức, thủ đoạn rất tinh vi. Sự lũng đoạn này thường diễn ra trong một thời gian dài, vì thế, khi người đứng đầu đưa ra những quyết định, nhất là quyết định về mặt nhân sự thì hầu hết cá nhân trong tập thể đó buộc phải nghe theo, tuân theo.

Trong thực hiện nguyên tắc “tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách” thì cá nhân phụ trách (hay người đứng đầu) phải chịu trách nhiệm rất cao. Đối chiếu các sai phạm đã xảy ra trên thực tế trong công tác cán bộ, vẫn không nhiều cá nhân bị xử lý trách nhiệm đúng mức khi đã tiến cử, giới thiệu để quy hoạch cán bộ không đúng. Những quy định về trách nhiệm của người tiến cử, giới thiệu, quy hoạch cán bộ dường như chủ yếu nằm trong văn bản mà chưa thực sự đi vào cuộc sống.

Siết chặt quy trình bằng các quy định

Công tác cán bộ là “có vào có ra, có lên có xuống”, đưa vào quy hoạch nhưng cũng phải quyết liệt đưa ra khỏi quy hoạch chứ không thể theo lệ cứ vào quy hoạch là phát triển. Trên thực tế, nhiều người khi vào quy hoạch là “nín thở qua sông” trong khi không có sản phẩm, không đột phá gì trong công việc. Đại hội XIII của Đảng đã chỉ rõ: “... Việc bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử có nơi chưa bảo đảm tiêu chuẩn, điều kiện, quy trình, cá biệt có nơi bố trí người nhà, người thân chưa đủ uy tín”. Trước đó, Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19-5-2018 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín ngang tầm nhiệm vụ, đánh giá: “Quy hoạch cán bộ thiếu tính tổng thể, liên thông giữa các cấp, các ngành, các địa phương; còn dàn trải, khép kín, chưa bảo đảm phương châm "động" và "mở". 

Vấn đề đặt ra là lấy tiêu chí gì để đánh giá, xem xét đưa vào hay đưa ra khỏi quy hoạch trong công tác cán bộ?

Trước hết phải thống nhất quan điểm, quy hoạch cán bộ là bước chuẩn bị quan trọng nên phải được làm đúng nguyên tắc, bảo đảm công tâm, khách quan. Cán bộ được quy hoạch thì phải sàng lọc qua thực tiễn; lấy hiệu quả công việc là thước đo. Theo đó, ở mỗi vị trí lãnh đạo đều phải thể hiện bằng sản phẩm cụ thể khi xem xét bổ nhiệm vào vị trí chức vụ cao hơn. Nghị quyết số 26-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII cũng xác định rất rõ: Xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược theo hướng “phát hiện, lựa chọn từ nguồn quy hoạch những cán bộ tiêu biểu, xuất sắc đã được đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện theo chức danh, nhất là những người đã được thử thách qua thực tiễn, có thành tích nổi trội, có "sản phẩm" cụ thể, có triển vọng phát triển”. Mới đây nhất, Bộ Chính trị đã ban hành Quy định số 114-QĐ/TW về kiểm soát quyền lực và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác cán bộ. Quy định số 114-QĐ/TW đã lượng hóa cụ thể các hành vi tham nhũng, tiêu cực trong công tác cán bộ đối với từng nhóm hành vi, như: Nhóm “Hành vi lợi dụng, lạm dụng chức vụ, quyền hạn”; nhóm hành vi “chạy chức, chạy quyền”; nhóm các hành vi sai phạm khác. Quy định này đã soi chiếu được các hành vi sai phạm của cán bộ ngay từ sớm, giúp cho quá trình quy hoạch cán bộ có chất lượng hơn.

Sưu tầm

Làm sao để có cán bộ “anh hoa phát tiết”?

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhiều lần khẳng định: Chuẩn bị nhân sự Đại hội Đảng là chuẩn bị nhân sự Ban Chấp hành (BCH) Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, cán bộ chủ chốt, đặc biệt là người đứng đầu; nếu chọn đúng người thì đất nước phát triển, nhân dân được nhờ. Trong thời điểm Đảng ta đang tiến hành công tác chuẩn bị nhân sự khóa XIV thì việc quán triệt, thực hiện triệt để quan điểm chỉ đạo của Tổng Bí thư vừa mang tính thời sự cấp bách, vừa có ý nghĩa chiến lược lâu dài.

Phải “có con mắt tinh đời”

Trong công tác đánh giá, sử dụng cán bộ của Đảng, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từng cảnh tỉnh, nhắc nhở: Đừng “nhìn gà hóa cuốc”, đừng “thấy đỏ tưởng là chín”, đừng chỉ thấy “cái mã bên ngoài nó che đậy cái sơ sài bên trong”. Do vậy, người làm công tác nhân sự phải “có con mắt tinh đời”. Có nghĩa là phải biết cách nhìn nhận, đánh giá đúng đắn, thực chất về đội ngũ cán bộ và từng cán bộ cụ thể.

Với tinh thần đó, để có căn cứ cho công tác đánh giá cán bộ, ngày 2-1-2020, Bộ Chính trị đã ban hành Quy định số 214-QĐ/TW về khung tiêu chuẩn chức danh, tiêu chí đánh giá cán bộ thuộc diện BCH Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý. Quy định xác định rõ tiêu chuẩn Ủy viên Trung ương, Ủy viên Bộ Chính trị... Đây là căn cứ quan trọng để công tác đánh giá cán bộ được thực hiện đồng bộ, hiệu quả trong toàn Đảng thông qua việc cụ thể hóa các tiêu chuẩn, tiêu chí vị trí công tác của cán bộ ở các cấp, các ngành.

Như vậy, những tiêu chí, tiêu chuẩn đánh giá cán bộ đã khá rõ ràng, cụ thể. Thế nhưng vấn đề cốt tử là lựa chọn ai, con người nào cho từng vị trí quan trọng trong bộ máy cầm quyền của Đảng. Để làm được điều này, PGS, TS Nguyễn Viết Thông, nguyên Ủy viên Thường trực Hội đồng Lý luận Trung ương, nguyên Tổng thư ký Hội đồng Lý luận Trung ương, cho rằng: Vấn đề cốt tử vẫn nằm ở các khâu, bước trong tổ chức, vận hành công tác đánh giá cán bộ trên thực tế. Đây là khâu khó nhất và quan trọng nhất của công tác cán bộ. Theo đó, việc đánh giá cán bộ phải được tiến hành một cách khách quan, toàn diện, lịch sử, cụ thể, phát triển.

Đánh giá khách quan là đánh giá cán bộ một cách công bằng, công minh, không áp đặt chính kiến cá nhân, không yêu nên tốt, ghét nên xấu. Cần bám sát các tiêu chí, tiêu chuẩn được các cấp xác định để đánh giá cán bộ. Chú trọng các tiêu chí quan trọng về mặt chính trị, đạo đức, nhưng không được xem nhẹ bất cứ tiêu chí nào. Đánh giá bảo đảm tính lịch sử là phải xem xét, đo lường, thẩm định cán bộ trong suốt quá trình công tác; không chỉ đánh giá cán bộ ở thời điểm được xem xét quy hoạch, bổ nhiệm mà phải nhìn nhận, đánh giá một cách hệ thống suốt quá trình công tác, cống hiến của cán bộ. Khi phát hiện những biểu hiện, những vấn đề nảy sinh của cán bộ thì tập trung rà soát, kiểm tra, giám sát, xác minh...

Đánh giá toàn diện là coi trọng cả đức và tài, tâm và tầm của cán bộ. Như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhiều lần lưu ý không để lọt vào BCH Trung ương và đội ngũ cán bộ các cấp những người bản lĩnh chính trị không vững vàng; không kiên định đường lối, quan điểm của Đảng... Như vậy, tiêu chuẩn đầu tiên mà Tổng Bí thư nhắc tới là yếu tố phẩm chất chính trị. Do vậy, cần đánh giá kỹ về nhân thân chính trị, lý lịch chính trị; bám sát các tiêu chuẩn về phẩm chất chính trị để đánh giá cán bộ. Trong nhiều trường hợp, cần đánh giá cả những mối quan hệ giữa cán bộ được quy hoạch, bổ nhiệm với đồng chí, đồng nghiệp-cấp trên, cấp dưới và quần chúng; nhất là đánh giá đúng về mối quan hệ giữa cán bộ được quy hoạch với người tiến cử, đề cử. Đối với cán bộ được quy hoạch vào BCH Trung ương khóa mới, việc đánh giá không dừng lại ở cấp giới thiệu, mà phải có sự vào cuộc của các ban, ngành chức năng Trung ương, cần sự thẩm tra, kiểm tra kỹ lưỡng trong việc thẩm định, sàng lọc đối với từng cán bộ.

Trong điều kiện mới, một phần việc quan trọng gắn liền với công tác đánh giá cán bộ là phải chú trọng rà soát kỹ việc kê khai tài sản của cán bộ trước khi đưa vào quy hoạch, bổ nhiệm. Thực tế cho thấy, chỉ tính trong năm 2023, BCH Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã thi hành kỷ luật 19 cán bộ diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý; trong đó có 6 cán bộ bị xử lý kỷ luật do vi phạm trong kê khai tài sản, thu nhập. Do vậy, cơ quan chức năng cần làm thật kỹ lưỡng, thực chất phần việc này. Cần chú trọng gắn chặt việc kê khai với công tác xác minh kê khai; đẩy mạnh kiểm tra, giám sát, thanh tra đối với những tài sản có dấu hiệu bất minh. Hơn thế, theo Quy định số 114-QĐ/TW ngày 11-7-2023 của Bộ Chính trị, cán bộ không những kê khai tài sản của bản thân người đưa vào quy hoạch mà phải xác minh kê khai tài sản của những người thân của người đó để làm sao minh bạch hóa, công khai hóa mọi tiêu chuẩn, mọi quy định của Đảng về công tác cán bộ.

Đặc biệt, việc đánh giá cán bộ không chỉ được tiến hành thông qua quá trình sinh hoạt của cấp ủy, ban thường vụ; không chỉ tiến hành theo định kỳ (hằng quý, hằng năm) qua sơ kết, tổng kết mà phải được tổng hợp thường xuyên thông qua nhiều kênh, hình thức, phương pháp; phải chú trọng lắng nghe ý kiến của nhân dân, của báo chí. Khi có những phản ánh thì phải kiểm tra ngay để bảo vệ cán bộ và sớm định hướng dư luận... Khi đánh giá cán bộ, điều cốt tử nhất là xem xét kỹ động cơ, mục đích trong từng việc làm của cán bộ.

Quyết liệt chống “chạy quy hoạch”

Khi thảo luận, quyết định các vấn đề về công tác quy hoạch cán bộ cho nhiệm kỳ mới, BCH Trung ương Đảng nhấn mạnh: Phải xác định rõ yêu cầu, tiêu chuẩn, cơ cấu, số lượng; trong mối quan hệ giữa số lượng và chất lượng thì chất lượng là quan trọng. Phải làm sao lựa chọn được những cán bộ vừa có phẩm chất đạo đức tốt, trung thành với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân, vừa có trí tuệ, tầm nhìn, tư duy chiến lược, có cả đức và tài. Đây không chỉ là nhiệm vụ của Tiểu ban Nhân sự, của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, BCH Trung ương mà của cả hệ thống chính trị và cần sự tham gia, ủng hộ của nhân dân. Tuy nhiên, trên thực tế, việc quy hoạch cán bộ gần như vẫn chỉ là câu chuyện nội bộ của cấp ủy các cấp mà chưa được công khai rộng rãi đến toàn thể cán bộ, đảng viên, quần chúng.

Cần được hiểu việc công khai ở đây là nhằm thông tin về những vấn đề cơ bản của cán bộ, nhất là lý lịch chính trị, nhân thân chính trị và một số nội dung quan trọng để cán bộ quy hoạch được kiểm tra, giám sát, thẩm định; đồng thời được đồng chí, quần chúng ủng hộ, tạo điều kiện, giúp đỡ để không ngừng tiến bộ, trưởng thành. Đây là phần việc mà cơ quan chức năng cần sớm nghiên cứu để có những chỉ đạo, hướng dẫn phù hợp về tính chất, mức độ, phương pháp, cách thức công khai công tác quy hoạch cán bộ ở mỗi cấp. PGS, TS Vũ Văn Phúc, Phó chủ tịch Hội đồng khoa học các cơ quan Đảng Trung ương bày tỏ mong muốn: Danh sách dự kiến quy hoạch BCH Trung ương trước hết nên xin ý kiến của hơn 5,3 triệu đảng viên. Làm được điều này giúp cấp ủy, tổ chức đảng lựa chọn được những cán bộ có đủ phẩm chất, đạo đức và năng lực tham gia vào cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng. Tuy vậy, việc công khai quy hoạch cần phải gắn chặt với việc làm tốt công tác bảo vệ chính trị nội bộ, bảo vệ cán bộ, đảng viên của Đảng.

Với sự quan tâm đặc biệt và trách nhiệm cao đối với công tác nhân sự của Đảng trong nhiệm kỳ mới, dư luận mong muốn, kiến nghị với BCH Trung ương Đảng và cấp ủy, tổ chức đảng các cấp cần quyết tâm, quyết liệt đẩy mạnh triển khai các giải pháp ngăn chặn, đẩy lùi triệt để hiện tượng “chạy quy hoạch” của cán bộ. Bàn về vấn đề này, GS, TS Phùng Hữu Phú, nguyên Phó chủ tịch Thường trực Hội đồng Lý luận Trung ương cho rằng: Bất kỳ cá nhân nào có ý định chạy chức, chạy quyền, muốn “chạy” vào cấp ủy thì trước hết đều phải “chạy” vào quy hoạch. Bởi đây là bước đầu tiên trước khi chạy chức.

Ở thời điểm hiện tại, 100% đảng bộ trực thuộc Trung ương đã hoàn thành công tác phát hiện, giới thiệu cán bộ quy hoạch vào BCH Trung ương khóa XIV. BCH Trung ương cũng đã có những thảo luận, xem xét bước đầu. Tuy vậy, phần việc này không phải làm một lần là xong, mà cần vận hành đồng bộ, nhịp nhàng nhiều phần việc tiếp theo; nhất là tăng cường công tác kiểm tra, sàng lọc cán bộ quy hoạch; tiếp tục theo dõi, làm tốt việc đánh giá cán bộ để có được những “đáp án” hoàn mỹ nhất; tuyệt đối không để những đối tượng cơ hội chính trị, kém đức, thiếu tài lọt vào danh sách quy hoạch đội ngũ cán bộ cho nhiệm kỳ mới.

Sưu tầm

Khắc ghi lời chỉ dạy của Tổng Bí thư về đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên

Một trong những quan tâm lớn nhất của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng là công tác xây dựng Đảng, trong đó cán bộ là “then chốt của then chốt”.

Đạo đức của cán bộ, đảng viên như “tiền vốn” của Đảng

Nói về người cách mạng và cán bộ, đảng viên thì đạo đức là gốc, là nền tảng. Không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân. Đạo đức cách mạng giống như gốc của cây, như nguồn của sông. Không có gốc thì cây héo, không có nguồn thì sông cạn. Đạo đức cách mạng như bốn mùa của trời, bốn phương của đất. Thiếu một mùa thì không thành trời. Thiếu một phương thì không thành đất. Thiếu một đức thì không thành người. Đạo đức cách mạng như sức mạnh của con người, sức có mạnh mới gánh được nặng, đi được xa.

Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng mới làm tròn nhiệm vụ nặng nề, vẻ vang. Đạo đức của cán bộ, đảng viên như “tiền vốn” của Đảng. Có vốn mới có lãi. Cách mạng phải nhiều “vốn” thì mới đi tới thành công. Mọi việc thành công hay thất bại đều do cán bộ có giữ được đạo đức cách mạng hay là không. Nếu cán bộ, đảng viên không trui rèn đạo đức cách mạng thì vô cùng nguy hại cho Đảng, cho cách mạng, đất nước và nhân dân. Bởi vì “ai cũng tham lợi, thì nước sẽ nguy”. “Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”.

Đó là những lời dạy vàng ngọc của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng đối với cán bộ, đảng viên. Người chỉ rõ trong điều kiện Đảng cầm quyền, cán bộ ít nhiều đều có quyền hành, có quyền mà thiếu lương tâm, không giữ được đạo đức cần, kiệm, liêm, chính thì dễ biến thành sâu mọt của dân. Với ý nghĩa đó, trong Di chúc, Người dặn lại: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân”.

Danh dự mới là điều thiêng liêng, cao quý nhất

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng là người tiên phong trong việc kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, tư tưởng đạo đức nói riêng. Ông khẳng định, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi xa, nhưng di sản Người để lại cho Đảng ta, nhân dân ta là vô cùng đồ sộ và quý giá: Đó là thời đại Hồ Chí Minh; sự nghiệp Hồ Chí Minh; tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; một tấm gương sáng ngời để chúng ta học tập và noi theo.

Ông nhấn mạnh tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần vô giá của Đảng ta và nhân dân ta, soi sáng sự nghiệp cách mạng, dẫn dắt mỗi bước đi lên và thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là việc làm rất cần thiết, là nhiệm vụ hết sức quan trọng, thường xuyên, không thể thiếu đối với toàn Đảng, toàn dân ta, trước hết là các tổ chức Đảng, các cơ quan Nhà nước và cán bộ, đảng viên trong tu dưỡng, rèn luyện, cống hiến, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân.

Dưới ánh sáng tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng để lại một dấu ấn sâu đậm trong các bài viết, bài nói của mình về đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên. Ông cho rằng ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp là trọng tâm, xuyên suốt, cấp bách, đột phá trong toàn bộ công tác xây dựng Đảng; là “mắt xích” chủ yếu mà chúng ta cần nắm lấy. Bởi vì, “cái làm cho quần chúng oán thán nhất, gây mất lòng tin nhất, làm xói mòn bản chất Đảng đó chính là sự suy thoái cả về tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên; cái này thật là nghiêm trọng”.

Biểu hiện của cái nghiêm trọng mà Tổng Bí thư nói đến là sống ích kỷ, thực dụng, cơ hội, vụ lợi, hám danh, tham nhũng, lãng phí; bè phái, cục bộ, mất đoàn kết; phong cách quan liêu, xa dân, vô cảm trước khó khăn, bức xúc của dân; lối sống xa hoa, hưởng lạc. Trong những biểu hiện đó, cán bộ, đảng viên, nhân dân và dư luận xã hội quan tâm nhiều nhất, bức xúc nhất là tình trạng tham nhũng, bè phái, cục bộ, lợi ích nhóm ở một bộ phận đảng viên có chức, có quyền, cả trong một bộ phận cán bộ cao cấp của Đảng, Nhà nước, đương chức, hoặc thôi chức.

Nói về những nguyên nhân chủ quan dẫn đến yếu kém trong công tác xây dựng Đảng, Tổng Bí thư chỉ ra những căn bệnh gốc rễ như cán bộ, đảng viên không thường xuyên tu dưỡng rèn luyện, mang nặng chủ nghĩa cá nhân, ích kỷ, cơ hội, thực dụng; quan liêu, xa dân, thiếu gắn bó mật thiết với nhân dân; nói không đi đôi với làm, nói nhiều làm ít, quên mất trách nhiệm, bổn phận trước Đảng, trước dân.

Nỗi bận tâm lớn nhất của Tổng Bí thư là vấn đề rèn luyện, tu dưỡng đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên. Ông nhấn mạnh phải ngăn chặn được sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, vì đây mới là cái gốc của tham nhũng. Tiền bạc, tài sản còn có thể thu hồi được, nhưng nếu suy thoái về đạo đức, tư tưởng là mất tất cả. Vì vậy, phòng, chống tiêu cực, mà trọng tâm là phòng, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên tức là trị tận gốc của tham nhũng. Không ngăn chặn được suy thoái, hư hỏng về đạo đức, tư tưởng cũng đồng nghĩa với không ngăn chặn được tham nhũng; không ngăn chặn được tham nhũng dẫn đến gây mất ổn định, ảnh hưởng sự phát triển của đất nước, một nguy cơ lớn đe dọa sự sống còn của Đảng và chế độ.

Nhận rõ và cảnh báo nguy cơ về sự nguy hại của suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, Tổng Bí thư thường xuyên nhắc nhở quan tâm xây dựng, hoàn thiện chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên; xây dựng văn hóa liêm chính, không tham nhũng, tiêu cực trong cán bộ, đảng viên. Theo Tổng Bí thư, cái cần nhất là sự tự giác, sự thống nhất cao về ý chí, về hành động, là tổ chức thực hiện. Cán bộ, đảng viên phải biết trọng liêm sỉ, danh dự, biết xấu hổ khi bản thân và người thân tham nhũng, tiêu cực.

Từ những bài học của cán bộ cao cấp bị khởi tố trong các vụ án, Tổng Bí thư nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải luôn luôn tự soi, tự sửa, giữ gìn phẩm chất đạo đức, đừng vướng vào những chuyện tiêu cực, bất luận hoàn cảnh nào cũng không động lòng tham, không ham hố vật chất, quyền lực; danh dự mới là điều thiêng liêng, cao quý nhất, tiền bạc lắm làm gì, chết có mang theo được đâu.

Phân tích mối quan hệ giữa quyền lực và đạo đức, Tổng Bí thư cho rằng, quyền lực luôn luôn có nguy cơ bị “tha hóa”; tham nhũng, tiêu cực là “khuyết tật bẩm sinh” của quyền lực; do đó phải tăng cường và nâng cao hiệu quả của kiểm soát quyền lực. Mọi quyền lực phải được kiểm soát chặt chẽ bằng cơ chế; quyền lực phải được ràng buộc bằng trách nhiệm; quyền lực đến đâu trách nhiệm đến đó, quyền lực càng cao trách nhiệm càng lớn. Phải “nhốt” quyền lực vào “lồng” cơ chế.

Theo tinh thần lời dạy của Bác Hồ, cán bộ, đảng viên “tự mình phải gây ra cái pháp luật để trị mình… Trong bụng các cô, các chú có tòa án lương tâm trong đó”, Tổng Bí thư nhiều lần nhấn mạnh rằng, xét đến ngọn ngành mọi sự trên đời này cũng đều là vấn đề con người, do con người. Mỗi cán bộ, đảng viên phải nêu cao tinh thần trách nhiệm và dũng khí trước Đảng, trước nhân dân; gương mẫu, đi đầu trong lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai thực hiện và chấp hành thật tốt các quy định về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.

Nhiều lần đồng chí nhắc lại lời dạy của cha ông: “Thiện căn ở tại lòng ta/Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”; “Có tài mà cậy chi tài/Chữ tài liền với chữ tai một vần”. Tránh tình trạng: “Chân mình còn lấm bê bê/Lại cầm bó đuốc đi rê chân người”; “Thượng bất chính, hạ tắc loạn!”; “Cấp trên ở chẳng chính ngôi/Cho nên ở dưới chúng tôi hỗn hào!”.

Tổng Bí thư thường nhắc lại câu nói của Paven Coócxaghin như là một cách giáo dục đạo đức cho cán bộ, đảng viên: Cái quý nhất của con người là cuộc sống và danh dự sống, bởi vì đời người chỉ sống có một lần. Phải sống sao cho khỏi xót xa, ân hận vì những năm tháng đã sống hoài, sống phí; để khỏi hổ thẹn vì những việc làm ty tiện, đớn hèn, bị mọi người khinh bỉ; để đến khi nhắm mắt xuôi tay, ta có thể tự hào rằng: Tất cả đời ta, tất cả sức ta, ta đã hiến dâng cho sự nghiệp cao đẹp nhất trên đời - sự nghiệp đấu tranh cho độc lập, tự do của Tổ quốc, vì sự trường tồn của dân tộc, sự vẻ vang của giống nòi và hạnh phúc của nhân dân!

Có thể khẳng định rằng những lời dặn dò, chỉ bảo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về tu dưỡng, trui rèn, xây đạo đức cách mạng và chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống làm phong phú thêm kho tàng tư tưởng đạo đức cách mạng Việt Nam. Đó chính là động lực, nguồn lực to lớn, mạnh mẽ giúp bộ cán bộ, đảng viên chiến thắng mọi cám dỗ về vật chất, tiền bạc, quyền lực, hoàn thành sứ mạng phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, góp phần vào thắng lợi của công cuộc đổi mới, vì một nước Việt Nam giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.

Sưu tầm

GIỮ VỮNG QUAN ĐIỂM KHÁCH QUAN, TOÀN DIỆN, LỊCH SỬ, CỤ THỂ VÀ PHÁT TRIỂN TRONG TÌNH HÌNH HIỆN NAY

 Mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam hơn 90 năm qua đều bắt nguồn từ việc Đảng ta luôn kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách mạng.

Đó là sự kiên định và sáng tạo trên cơ sở tính khoa học, tính cách mạng, tính nhân văn, phù hợp với điều kiện của Việt Nam và thời đại. Đặc biệt, Đảng, Nhà nước ta luôn vận dụng nhuần nhuyễn, sáng tạo quan điểm khách quan, toàn diện, lịch sử, cụ thể của Chủ nghĩa Mác-Lênin trong thực tiễn, góp phần xây dựng cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế của đất nước như ngày nay.

Một công cụ sắc bén để phân tích các vấn đề xã hội

Quan điểm khách quan, toàn diện, lịch sử, cụ thể và phát triển là một công cụ sắc bén để phân tích các vấn đề xã hội và tìm ra những giải pháp thích hợp cho từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó cũng là công cụ nhận thức quan trọng để Đảng ta kiên định, vận dụng sáng tạo và phát triển trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam qua các giai đoạn lịch sử.

Quan điểm khách quan yêu cầu trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải phản ánh trung thực sự vật, hiện tượng với tất cả bản chất, những mối quan hệ vốn có của nó; nắm vững và tôn trọng những quy luật khách quan của hiện thực; đồng thời, không rơi vào chủ quan duy ý chí; không được lấy ý chí chủ quan, ý muốn chủ quan, nguyện vọng, tình cảm cá nhân để áp đặt cho thực tế.

Quan điểm toàn diện đòi hỏi phải xem xét toàn diện các mối liên hệ của sự vật, hiện tượng và mối liên hệ giữa các yếu tố, bộ phận cấu thành và những mắt khâu trung gian, gián tiếp của chúng; cả hiện tại, quá khứ và xu hướng phát triển trong tương lai; phải đồng bộ, không cục bộ, phiến diện. Song trong mối liên hệ cụ thể, từng giai đoạn phải nắm đúng trọng tâm, then chốt, phù hợp với nhu cầu thực tiễn, tránh dàn trải, không viển vông, ảo tưởng. Trong quá trình xem xét toàn bộ mối liên hệ, bản chất, quy luật của các sự vật, hiện tượng, phải dự báo được khả năng vận động, phát triển; chống mọi biểu hiện trì trệ, bảo thủ.

Quan điểm lịch sử, cụ thể chỉ rõ trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải xem xét đúng các quá trình, các giai đoạn phát triển của các sự vật, hiện tượng; nhận thức được những thuộc tính, những mối liên hệ tất yếu, bản chất vốn có của sự vật, hiện tượng trong các hoàn cảnh, điều kiện cụ thể. Chỉ ra được mối liên hệ, quy luật khách quan; vị trí, vai trò của từng mối liên hệ quy định sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng. Đồng thời, cần phải đấu tranh chống mọi biểu hiện xa rời thực tiễn với những điều kiện, hoàn cảnh riêng.

Quan điểm phát triển đòi hỏi phải nắm được khuynh hướng phát triển của sự vật, hiện tượng; phải khái quát và làm sáng rõ được xu hướng vận động, phát triển chủ đạo trong cả tự nhiên, xã hội và mỗi con người. Sự phát triển là quá trình biện chứng, có tính chất quanh co, phức tạp, thậm chí có những bước tụt lùi tạm thời, nhưng tất yếu cái mới sẽ ra đời. Do đó, cần phải có niềm tin vào sự tất thắng của cái mới, đấu tranh, loại bỏ mọi lực cản ảnh hưởng sự phát triển của tự nhiên, xã hội và mỗi con người.

Giữ vững quan điểm trong lãnh đạo, quản lý

Giữ vững quan điểm khách quan, toàn diện, lịch sử, cụ thể và phát triển trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, nhất là trong gần 40 năm đổi mới đất nước, Đảng ta luôn kiên định: Đổi mới phải toàn diện, đồng bộ, có bước đi phù hợp; tôn trọng quy luật khách quan, xuất phát từ thực tiễn, bám sát thực tiễn, coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, tập trung giải quyết kịp thời, hiệu quả những vấn đề do thực tiễn đặt ra. Đảng đề ra chiến lược phát triển tổng thể là: Đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, phát triển nhanh và bền vững đất nước; bảo đảm gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, trong đó: Phát triển kinh tế-xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên.

Đảng ta luôn vận dụng sáng tạo bài học tôn trọng thực tiễn khách quan, quán triệt sâu sắc nguyên tắc kết hợp nhuần nhuyễn giữa lý luận và thực tiễn, giữa kiên định và đổi mới, giữa kế thừa và phát triển để đưa ra những quyết sách sáng suốt, đúng đắn, tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ, có hiệu quả công cuộc đổi mới, hội nhập và phát triển trong giai đoạn mới; quyết tâm khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; thể hiện tầm nhìn và định hướng phát triển đất nước với những bước đi, lộ trình cụ thể đến năm 2025, 2030 và 2045, để phấn đấu đến giữa thế kỷ 21, nước ta trở thành một nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN).

Đặc biệt, trong nhiệm kỳ Đại hội XIII của Đảng, với phương châm “Tiền hô hậu ủng”, “Nhất hô bá ứng”, “Trên dưới đồng lòng”, “Dọc ngang thông suốt”, Đảng, Nhà nước đã quán triệt sâu sắc, lãnh đạo, chỉ đạo, nắm vững và xử lý tốt 4 kiên định, 12 định hướng, 10 mối quan hệ, 3 đột phá chiến lược, 6 nhiệm vụ trọng tâm; phát triển toàn diện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị; hình thành đồng bộ thể chế phát triển nhanh và bền vững đất nước dựa trên các trụ cột: Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam và nền dân chủ XHCN Việt Nam.

Cùng với lãnh đạo phát triển tổng thể các mặt, các lĩnh vực trong tính chỉnh thể, Đảng ta còn đánh giá vị trí, vai trò của từng lĩnh vực, yếu tố làm cơ sở để xác định, xây dựng từng bước đi, lộ trình và giải pháp phù hợp với điều kiện đất nước và xu thế phát triển của thời đại. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, xây dựng và hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển bền vững đất nước, hoàn thiện toàn diện, đồng bộ thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Thúc đẩy ch.uyển đ.ổi s.ố, tăng trưởng xanh, kinh tế tuần hoàn, chú trọng phát triển những ngành, lĩnh vực là thế mạnh của đất nước và của từng vùng, ngành, địa phương.

Thực hiện các đột phá chiến lược, cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh và năng lực nội sinh của nền kinh tế. Tập trung tháo gỡ các điểm nghẽn về thể chế, chính sách; khơi thông các nguồn lực cho phát triển. Đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án chiến lược trọng điểm, quan trọng quốc gia; chú trọng đầu tư phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, tập trung cho vùng “lõi nghèo”, đặc biệt khó khăn, tránh dàn trải, lãng phí.

Phát triển con người toàn diện, con người là trung tâm, chủ thể, là nguồn lực chủ yếu và mục tiêu của phát triển. Phát huy dân chủ XHCN và quyền làm chủ của nhân dân; thực hiện quan điểm “dân là gốc”, “dân là trung tâm” và phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Tạo môi trường sống an toàn, thân thiện, lành mạnh để phát triển trẻ em toàn diện, thực hiện tốt công tác người cao tuổi, thanh niên, bình đẳng giới, vì sự tiến bộ của phụ nữ. Tập trung cải thiện đời sống của đồng bào dân tộc, người dân vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo, vùng khó khăn.

Phát triển toàn diện, đồng bộ các lĩnh vực văn hóa-xã hội, phát triển văn hóa-xã hội ngang tầm với phát triển kinh tế. Phát huy những giá trị tốt đẹp của dân tộc với tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại để văn hóa thực sự là nền tảng tinh thần, nguồn lực nội sinh và động lực đột phá cho phát triển kinh tế-xã hội và hội nhập quốc tế. Thực hiện hiệu quả Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”. Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục-đào tạo và nâng cao hơn nữa vai trò của khoa học-công nghệ, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, gắn với nền kinh tế tri thức, kinh tế số, đô thị thông minh.

Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện gắn với đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, tinh, gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Thực hiện tốt các chính sách khuyến khích và bảo vệ cán bộ “dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách và quyết liệt trong hành động vì lợi ích chung”. Nâng cao hiệu quả công tác dân vận, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận, các tổ chức chính trị-xã hội, doanh nghiệp và người dân, góp phần tạo đồng thuận xã hội, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Chủ động, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia; gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội với củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường, nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại; giữ vững an ninh chính trị, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội. Củng cố, tăng cường thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân vững chắc; xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, ưu tiên hiện đại hóa một số quân chủng, binh chủng, lực lượng, tạo tiền đề vững chắc, phấn đấu đến năm 2030 xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, vững mạnh về chính trị, nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong mọi tình huống. Xây dựng lực lượng dự bị động viên hùng hậu, chất lượng ngày càng cao; xây dựng lực lượng dân quân tự vệ vững mạnh và rộng khắp, coi trọng lực lượng dân quân tự vệ biển và dân quân tự vệ ở các địa phương trọng điểm.

Tích cực phòng ngừa, chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động và các loại tội phạm; giữ vững thế chủ động chiến lược, bảo đảm an ninh, trật tự, không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống, không để hình thành tổ chức chính trị đối lập trong nước. Chủ động đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình”, “bạo loạn lật đổ”, âm mưu “phi chính trị hóa” LLVT; phòng ngừa, ngăn chặn những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; bảo đảm an ninh kinh tế, an ninh thông tin, truyền thông, an ninh mạng và an ninh xã hội. Tăng cường hợp tác quốc tế về quốc phòng, an ninh; chủ động phối hợp với các quốc gia bảo vệ lợi ích quốc gia-dân tộc; xử lý các vấn đề an ninh phi truyền thống, có kế sách ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; chủ động phòng ngừa, phát hiện sớm và triệt tiêu các nhân tố bất lợi, nhất là các nhân tố bên trong có thể gây ra đột biến.

Vận dụng đúng đắn, linh hoạt quan điểm đối tác, đối tượng; triển khai đồng bộ, toàn diện, hiệu quả các hoạt động đối ngoại, hội nhập quốc tế; bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia-dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc, luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi trong quan hệ quốc tế. Kiên trì thực hiện chính sách cân bằng trong quan hệ với các nước lớn; coi trọng phát triển quan hệ hợp tác, hữu nghị, truyền thống với các nước láng giềng; đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ hợp tác song phương với các đối tác, đặc biệt là các đối tác chiến lược, đối tác toàn diện và đối tác quan trọng khác, tạo lợi ích thực chất giữa Việt Nam và các nước; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định và tạo điều kiện thuận lợi, thu hút các nguồn lực để phục vụ phát triển đất nước, củng cố và nâng cao uy tín, vị thế quốc tế của Việt Nam./.

 

BẮT KẺ HOẠT ĐỘNG KHỦNG BỐ, CHỐNG PHÁ NHÀ NƯỚC Ở LONG AN

 Nhiều lần được cơ quan chức năng mời làm việc, giáo dục, Nguyễn Văn Trung vẫn tiếp tục tham gia tổ chức khủng bố "Chính phủ quốc gia Việt Nam lâm thời" do Đào Minh Quân cầm đầu.

Ngày 31/7, Cơ quan An ninh điều tra Công an tỉnh Long An khởi tố vụ án, bắt tạm giam và khám xét đối với Nguyễn Văn Trung (SN 1975, ngụ huyện Cần Đước) để điều tra hành vi Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân.

Theo công an, năm 2018, thông qua mạng xã hội, Trung biết đến tổ chức khủng bố "Chính phủ quốc gia Việt Nam lâm thời" do Đào Minh Quân cầm đầu.

Sau một thời gian tìm hiểu về cương lĩnh, điều lệ, đường lối hoạt động của tổ chức khủng bố này, Trung đã đăng ký tham gia trưng cầu dân ý, bầu Đào Minh Quân làm tổng thống đệ tam Việt Nam cộng hòa.

Ông ta đăng ký thủ tục tham gia tổ chức khủng bố với mong muốn sẽ được hưởng các quyền lợi mà tổ chức này mang lại sau khi Đào Minh Quân lật đổ chính quyền, về lãnh đạo đất nước.

Nhiều lần được cơ quan chức năng mời làm việc, răn đe, giáo dục, tạo cơ hội để từ bỏ tham gia và hoạt động cho tổ chức khủng bố, Trung vẫn ngoan cố, cho rằng hành vi của mình là đúng nên tiếp tục tham gia và hoạt động.

Đặc biệt, Trung tích cực vận động, thu thập thông tin và đăng ký cho hàng trăm người tham gia bầu Đào Minh Quân làm tổng thống đệ tam Việt Nam cộng hòa.

Hiện Cơ quan An ninh điều tra, Công an tỉnh Long An đang tiếp tục điều tra, làm rõ hành vi của bị can Nguyễn Văn Trung và các cá nhân, tổ chức khác có liên quan trong vụ án theo quy định của pháp luật.

 

PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA - MỘT ĐỘT PHÁ LÝ LUẬN RẤT CƠ BẢN VÀ SÁNG TẠO CỦA ĐẢNG TA

 Xuyên tạc, bóp méo sự thật tình hình kinh tế - xã hội đất nước, phủ nhận thành quả của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng luôn là âm mưu, thủ đoạn thâm độc của các thế lực thù địch trong “diễn biến hoà bình” chống phá các mạng nước ta. Đây là đám ô hợp, dòng nước đen đã và đang cố tình làm vây bẩn xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Nhân dân ta đã lựa chọn. Và, để hoà mình vào đám ô hợp, ngụp lặn trong dòng nước đen đó Nguyễn Văn Chữ đã phát tán cái gọi là “Thành quả của chính sách “kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa” của quan chức và Đảng Cộng sản Việt Nam trên trang “Baoquocdan”. Y đã đưa ra nhiều luận điệu xuyên tạc về bản chất nền kinh tế trị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, bôi đen những thành quả cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. Mục đích cuối cùng của Nguyễn Văn Chữ vẫn là phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh - nền tảng tư tưởng của Đảng và xã hội; đòi xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, hướng lái cách mạng Việt Nam đi theo con đường tư bản chủ nghĩa.

Những thành quả của cách mạng Việt Nam, sau gần 40 năm đổi mới là minh chứng rõ nét khẳng định đi lên chủ nghĩa xã hội là con đường duy nhất đúng, là sự lựa chọn đúng đắn, sáng suốt, phù hợp với quy luật của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của Đảng và Nhân dân ta, để “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”.

1. Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là kết quả của sự nhận thức, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Sau gần 40 năm đổi mới và thực hiện mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Thế nhưng, bất chấp sự thật đó, các thế lực thù địch luôn tìm mọi cách để phủ nhận kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của nước ta. Nguyễn Văn Chữ lại cho rằng: bản chất của mô hình “kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa” thật ra là hai nền kinh tế mâu thuẫn, đối nghịch nhau!. Thực tế ở Việt Nam: kinh tế xã hội chủ nghĩa hướng dẫn kinh tế thị trường. Cho nên khu vực tư doanh kể cả tư doanh ngoại quốc bị đối xử không công bằng!?. Từ đó, y đã xuyên tạc, vu khống cho rằng: định hướng thị trường do Đảng lãnh đạo để tạo và tối đa hoá cơ hội cho tham nhũng và lợi ích nhóm!, để nền kinh tế Việt Nam lệ thuộc cực kỳ cao vào tình trạng kinh tế thế giới!? Rõ ràng, đây là luận điệu đổi trắng thay đen, thể hiện “tâm địa xấu xa, nhìn thiên nga hoá vịt” của Nguyễn Văn Chữ.

2. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhận định: “Đưa ra quan niệm phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một đột phá lý luận rất cơ bản và sáng tạo của Đảng ta, là thành quả lý luận quan trọng qua 35 năm thực hiện đường lối đổi mới, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của thế giới” . Đây là cống hiến mới của Đảng Cộng sản Việt Nam, góp phần bổ sung, hoàn thiện hệ thống lý luận về đường lối đổi mới cũng như lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; đóng góp vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin.

Đại hội XIII, Đảng ta đã chỉ ra nội hàm cơ bản về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: “Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó: kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác không ngừng được củng cố, phát triển; kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển phù hợp với chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội”. Theo Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: “Đó là một kiểu kinh tế thị trường mới trong lịch sử phát triển của kinh tế thị trường; một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội, thể hiện trên cả ba mặt: sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối. Đây không phải là nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và cũng chưa phải là nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa đầy đủ (vì nước ta còn đang trong thời kỳ quá độ)” . Nói cách khác, nền kinh tế thị trường Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội vừa có yếu tố của chủ nghĩa xã hội, vừa có yếu tố chưa phải của chủ nghĩa xã hội.

Nhận thức về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam là một quá trình không đơn giản, bởi đây là khái niệm mới, phản ánh mô hình kinh tế thị trường mới ở Việt Nam - một mô hình đơn nhất, chưa có tiền lệ trong lịch sử tiến hóa của mô hình kinh tế thị trường trên thế giới. Mô hình này khác với các mô hình kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, nó vừa được xác lập trong thời kỳ đổi mới và vẫn đang trong quá trình thử nghiệm, định hình cấu trúc và bản chất. Nhưng vượt lên trên tất cả, “Những thành tựu đổi mới tại Việt Nam đã chứng minh rằng, phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa không những có hiệu quả tích cực về kinh tế mà còn giải quyết được các vấn đề xã hội tốt hơn nhiều so với các nước tư bản chủ nghĩa có cùng mức phát triển kinh tế” . Điều này lý giải tại sao, đến nay đã có hơn 70 nước công nhận nền kinh tế thị trường của Việt Nam.

Mục tiêu phát triển của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, thể hiện lợi ích của nhân dân, vì nhân dân. Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, có sự tham gia, giám sát của nhân dân và xã hội, phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội. Trong đó, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế thị trường, phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Nguyên tắc phân phối trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vừa bảo đảm động lực, khuyến khích cạnh tranh phát triển, vừa bảo đảm giải quyết tốt các vấn đề xã hội: Thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội. Gắn kết chặt chẽ phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội, bảo vệ môi trường; thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển; khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa đói, giảm nghèo; phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội.

Như vậy, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là kết quả của sự nhận thức, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam là sự nắm bắt và vận dụng sáng tạo xu thế vận động của kinh tế thị trường trong thời đại ngày nay, tiếp thu có chọn lọc thành tựu văn minh nhân loại, sử dụng, phát huy cao độ vai trò tích cực của kinh tế thị trường. Hạn chế tối đa những khuyết tật tự phát trong kinh tế thị trường, nhằm thực hiện có hiệu quả mục tiêu từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Sau gần 40 năm đổi mới và thực hiện mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Sự phát triển sinh động của mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa này trên thực tế đã, đang và sẽ góp phần hoàn thiện lý luận về mô hình kinh tế mới rất sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân Việt Nam; đó là những bằng chứng đanh thép để bác bỏ những luận điệu sai trái và chiêu trò xuyên tạc của các thế lực thù địch.

 

CÔNG TÁC DƯ LUẬN XÃ HỘI PHẢI BÁM SÁT “HƠI THỞ” CUỘC SỐNG, TÍCH CỰC THAM GIA BẢO VỆ NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG

 Sáng 31-7, tại thành phố Hải Phòng, Ban Tuyên giáo Trung ương tổ chức Hội nghị toàn quốc tổng kết 10 năm thực hiện Kết luận số 100-KL/TW, ngày 18-8-2014 của Ban Bí thư (khóa XI) về việc “Đổi mới và nâng cao chất lượng công tác điều tra, nắm bắt, nghiên cứu dư luận xã hội" (gọi tắt là Kết luận số 100-KL/TW).

Đồng chí Nguyễn Trọng Nghĩa, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương dự và chỉ đạo hội nghị. Đồng chủ trì hội nghị có các đồng chí: Lại Xuân Môn, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó trưởng ban Thường trực Ban Tuyên giáo Trung ương; Lê Tiến Châu, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Thành ủy Hải Phòng; Lê Quốc Minh, Ủy viên Trung ương Đảng, Tổng Biên tập Báo Nhân dân, Phó trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương, Chủ tịch Hội Nhà báo Việt Nam; Đinh Thị Mai, Phó trưởng ban Tuyên giáo Trung ương.

Tham dự Hội nghị còn có đại diện lãnh đạo một số ban, bộ, ngành và Thường trực các tỉnh ủy, thành ủy; đại diện lãnh đạo ban tuyên giáo các tỉnh ủy, thành ủy; Đảng ủy trực thuộc Trung ương; Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội. Đại biểu quân đội có Trung tướng Lê Quang Minh, Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam.

Với tinh thần thẳng thắn, dân chủ, trách nhiệm, Hội nghị dành nhiều thời gian nghe các đại biểu thảo luận, phân tích về những nội dung được đề cập trong Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện Kết luận số 100-KL/TW. Các ý kiến khẳng định, thời gian qua, công tác điều tra, nắm bắt, nghiên cứu dư luận xã hội đã có những chuyển biến tích cực và đạt được các kết quả khá toàn diện.

Số lượng, chất lượng các cuộc điều tra, thăm dò, các báo cáo nhanh dư luận xã hội ngày càng tăng, cơ bản đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ. Nội dung phản ánh những vấn đề, sự kiện có tính thời sự trong nước và thế giới, đặc biệt là các sự việc, sự kiện có tầm ảnh hưởng, liên quan đến lợi ích quốc gia, dân tộc, các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước và các vấn đề nóng, bức xúc, nổi cộm trong xã hội.

Tại Hội nghị, các đại biểu cũng đã thẳng thắn đánh giá, bên cạnh những kết quả đạt được công tác điều tra, nắm bắt, nghiên cứu dư luận xã hội cũng còn một số vấn đề cần được cấp ủy, chính quyền quan tâm. Việc nắm bắt dư luận xã hội đôi khi chưa nhanh nhạy, kịp thời, chưa phân tích, đi sâu tìm hiểu, lý giải nguyên nhân của các luồng ý kiến khác nhau...

Phát biểu kết luận Hội nghị, đồng chí Nguyễn Trọng Nghĩa ghi nhận và đánh giá cao những kết quả đạt được trong công tác điều tra, nắm bắt, nghiên cứu dư luận xã hội thời gian qua. Đồng chí đề nghị cấp ủy, chính quyền các cấp; ngành Tuyên giáo; cán bộ và cộng tác viên dư luận xã hội các cấp tiếp tục phát huy tinh thần chủ động, sáng tạo, quyết tâm vượt qua khó khăn để hoàn thành tốt nhiệm vụ đề ra. Viện Dư luận xã hội tiếp thu đầy đủ ý kiến quý báu, sâu sắc của các đại biểu; tập trung hoàn thiện thật tốt Đề án Tổng kết 10 năm thực hiện Kết luận số 100- KL/TW. Trên cơ sở đó, tham mưu Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dư luận xã hội.

Cấp ủy, chính quyền các cấp cần tiếp tục quán triệt, nâng cao nhận thức đầy đủ, sâu sắc hơn về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của công tác dư luận xã hội. Công tác dư luận xã hội phải bám sát nhiệm vụ chính trị quan trọng của đất nước, của địa phương và ngành, bám sát “hơi thở” của cuộc sống, tích cực tham gia bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.

Tại Hội nghị, Viện Dư luận xã hội, Ban Tuyên giáo Trung ương vinh dự nhận Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ. Ban Tuyên giáo Trung ương đã trao Bằng khen tặng 22 tập thể, 19 cá nhân đã có thành tích xuất sắc trong triển khai, thực hiện nhiệm vụ điều tra, nắm bắt, nghiên cứu dư luận xã hội. Trước đó, các đại biểu đã tham quan thực tế tại Khu di tích lịch sử Bạch Đằng Giang, huyện Thủy Nguyên, TP Hải Phòng./.

 

“VĂN HÓA CÒN THÌ DÂN TỘC CÒN”

 Mới đây trong một chương trình giải trí, NSND Tự Long cùng 2 nghệ sĩ trẻ là Cường Seven và Soobin Hoàng Sơn đã có một tiết mục gây ấn tượng khi truyền tải đầy đủ văn hóa dân tộc một cách sáng tạo đến gần hơn với các bạn trẻ. Đặc biệt, chia sẻ của NSND Tự Long sau màn trình diễn đã và đang viral khắp MXH: “Văn hoá là bản chất - Văn hoá là cội nguồn - Văn hoá là dân tộc”.

Quả thực NSND Tự Long luôn gắn chặt con đường nghệ thuật của mình với dòng chảy xuyên suốt của văn hóa - lịch sử thậm chí còn tô vẽ, nối dài thêm bức tranh rực rỡ của nền văn hóa dân tộc. Màn biểu diễn sử dụng hàng loại những đạo cụ như nón lá, áo tơi rơm, trống cơm, đàn bầu, hát chèo, đánh trống canh, múa cờ phất và được đánh giá cao nhất là tiết mục solo gẩy đàn bầu của nam ca sĩ Soobin Hoàng Sơn như một nét chấm phá cho sự giao thoa giữa nhạc cụ truyền thống và âm nhạc hiện đại.

Một khoảnh khắc cảm động khác khi NSND Tự Long và các đàn em nghệ sĩ nghỉ ngơi trong buổi tập, anh kể chuyện về những người lính bộ đội Cụ Hồ, về những chiến công, những khó khăn, vất vả, những chiến công anh hùng, những thử thách đã vượt qua… Anh kể về áo trấn thủ: “Những tấm áo này đã được thấm máu của biết bao nhiêu người, để cho màu cờ của Tổ Quốc được đỏ tươi”....Tất cả đã truyền lại cảm hứng lịch sử, tinh thần cho những nghệ sĩ trẻ khác như Thanh Duy, Bùi Công Nam, Duy Khánh và Thiên Minh…

Thật trân trọng những nỗ lực của các thế hệ nghệ sĩ đang tiếp tục gìn giữ và bảo vệ nét đẹp văn hóa dân tộc cũng như mang những vẻ đẹp đó đến gần hơn với thế hệ tiếp theo. Vì bảo tồn văn hóa không phải là cố chấp, bảo thủ bám víu lấy những điều trong quá khứ mà là trân trọng những nét đẹp của cha ông ta để lại. Như lời của cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từng nói: “Văn hóa còn thì dân tộc còn và ngược lại, văn hóa mất thì dân tộc mất” bởi văn hóa chính là hồn cốt tinh thần của dân tộc.”

 

HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TƯ TƯỞNG ĐỔI MỚI SÁNG TẠO CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH TRONG THỜI KỲ MỚI

 Tư tưởng đổi mới sáng tạo là bộ phận cơ bản cấu thành của tư tưởng Hồ Chí Minh, là giá trị bao trùm các quan điểm toàn diện sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam. Do đó học tập và làm theo tư tưởng đạo đức phong cách Hồ Chí Minh trước hết cần học tập và làm theo tư tưởng đổi mới sáng tạo Hồ Chí Minh

Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại cho Đảng ta, nhân dân ta, các thế hệ hôm nay và mai sau, di sản tinh thần vô giá là Tư tưởng Hồ Chí Minh - một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Marx-Lenin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc; tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.

Trong đó, tư tưởng đổi mới sáng tạo là bộ phận cơ bản cấu thành của tư tưởng Hồ Chí Minh, là giá trị bao trùm các quan điểm toàn diện sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam. Do đó học tập và làm theo tư tưởng đạo đức phong cách Hồ Chí Minh trước hết cần học tập và làm theo tư tưởng đổi mới sáng tạo Hồ Chí Minh.

Tư tưởng đổi mới sáng tạo trên hành trình tìm đường cứu nước

Tư tưởng đổi mới sáng tạo được hình thành rất sớm khi Nguyễn Tất Thành-Nguyễn Ái Quốc đổi mới trong lựa chọn con đường cứu nước, cứu dân với hướng đi mới, phương pháp tiếp cận mới, phương thức hành động mới. Dù rất khâm phục tấm lòng yêu nước thương dân của Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Hoàng Hoa Thám nhưng Người không tán thành con đường Đông Du, cải lương, bạo động… của các bậc sĩ phu đáng kính mà quyết định đi sang phương Tây, đến Pháp, Anh, Mỹ và nhiều nước châu Âu, châu Phi để tìm hiểu bản chất của Chủ nghĩa tư bản, Chủ nghĩa thực dân, Chủ nghĩa đế quốc, tìm hiểu các cuộc cách mạng ở các nước… rồi "về giúp đồng bào mình".

Bước ngoặt lịch sử trong tiến trình vận động và phát triển Tư tưởng đổi mới sáng tạo Hồ Chí Minh là khi Nguyễn Ái Quốc trực tiếp nghiên cứu Luận cương của Lenin về vấn đề dân tộc và thuộc địa (1920). Sau cuộc gặp gỡ lịch sử này, Nguyễn Ái Quốc từ một người yêu nước trở thành Người Cộng sản. Từ đây tư tưởng đổi mới sáng tạo Hồ Chí Minh gắn chặt với quá trình tiếp thu và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Marx-Lenin, kinh nghiệm của các cuộc cách mạng trên thế giới, nhất là Cách mạng tháng mười Nga, tìm ra "Đường cách mệnh" nhằm mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Đó là đặt sự nghiệp giải phóng dân tộc trong quỹ đạo của cách mạng vô sản, gắn chặt độc lập dân tộc với Chủ nghĩa xã hội.

Thể hiện đặc biệt quan trọng trong tư tưởng đổi mới Hồ Chí Minh là Người đã phát hiện ra quy luật ra đời của Đảng Cộng sản trong xã hội Việt Nam đầu thế kỷ 20. Đó là: Đảng Cộng sản là sản phẩm của sự kết hợp không chỉ chủ nghĩa Marx-Lenin với phong trào công nhân mà còn với phong trào yêu nước của dân tộc. Nét độc đáo trong tư tưởng đổi mới sáng tạo Hồ Chí Minh thể hiện trong việc Người tổ chức ra Hội Thanh niên cách mạng đồng chí, tập hợp những thanh niên Việt Nam yêu nước tiêu biểu. Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và các đồng chí của mình trực tiếp huấn luyện giáo dục đồng thời gửi nhóm nòng cốt trong Hội Thanh niên cách mạng đồng chí sang đào tạo tại Liên Xô. Các thành viên của Hội sau khi được huấn luyện, đào tạo sẽ về nước đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền "Đường cách mạng", thúc đẩy phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và phong trào yêu nước. Hội Thanh niên cách mạng đồng chí ra tờ báo "Thanh niên", cơ quan ngôn luận và đấu tranh, với nhiệm vụ cơ bản là tuyên truyền tôn chỉ và mục đích của Tổng bộ Hội Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí. Số đầu Báo Thanh niên xuất bản ngày 21/06/1925, và xuất bản đều đặn hằng tuần. Sau gần 90 số, Báo Thanh niên đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử truyền bá chủ nghĩa Marx-Lenin, tuyên truyền "Đường cách mệnh", kêu gọi nhân dân đoàn kết đấu tranh, góp phần tích cực chuẩn bị về mặt lý luận chính trị tư tưởng và tổ chức cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 03/02/1930.

Hội Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí - sản phẩm của tư tưởng đổi mới sáng tạo Hồ Chí Minh - đã hoàn thành sứ mệnh là tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam đã thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt và Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc khởi thảo.

Thông qua các văn kiện lịch sử này, tư tưởng đổi mới sáng tạo Hồ Chí Minh trong "Đường cách mệnh" đã được cụ thể hóa và chính thức trở thành đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam. Đó là làm "Tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản".

Tư tưởng đổi mới sáng tạo trong giai đoạn đấu tranh giành độc lập

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời với đường lối cách mạng đúng đắn, sáng tạo phù hợp với xu hướng, tính chất của thời đại mới được mở ra sau thắng lợi của Cách mạng tháng mười Nga vĩ đại, sát hợp với thực tiễn và đáp ứng khát vọng độc lập tự do của nhân dân ta nên đã chấm dứt cuộc khủng hoảng sâu sắc về đường lối cứu nước. Từ năm 1930, lịch sử cách mạng Việt Nam đã lựa chọn Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng chính trị duy nhất lãnh đạo sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người, mang lại độc lập cho dân tộc, tự do hạnh phúc cho nhân dân.

Trong thời kỳ 1930 -1945, thực hiện cuộc cách mạng tư sản dân quyền đánh đổ đế quốc, phong trào giành độc lập hoàn toàn cho dân tộc, tư tưởng đổi mới sáng tạo Hồ Chí Minh đã được thể hiện nổi bật trong những quyết định lịch sử của Hội nghị Trung ương 8 khóa I ngày 5/8/1941 do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc sau 30 năm bôn ba khắp thế giới về nước triệu tập và trực tiếp lãnh đạo Hội nghị. Tại Hội nghị này, Ban chấp hành Trung ương đề ra những quyết định có ý nghĩa lịch sử: Tạm thời rút khẩu hiệu phản phong, tập trung cho mục tiêu đánh đổ đế quốc giành độc lập. Thành lập mặt trận dân tộc thống nhất lấy tên là Việt Nam Độc lập Đồng minh gọi tắt là Mặt trận Việt Minh: "Thực hiện chủ trương liên hợp hết thầy các giới đồng bào yêu nước, không phân biệt giàu nghèo, già trẻ, trai gái, không phân biệt tôn giáo và xu hướng chính trị, đặng cùng nhau mưu cuộc dân tộc giải phóng và sinh tồn. Việt Minh chủ trương tập hợp hết thảy mọi tinh thần độc lập chân chính của giống nòi kết thành một khối cách mạng vô địch, đặng đập tan xiềng xích của Nhật, Pháp, quét sạch mưu mô xảo trá của một nhóm Việt gian phản quốc... Coi quyền lợi của dân tộc cao hơn hết thảy. Việt Minh sẵn sàng giơ tay đón tiếp những cá nhân hay đoàn thể không cứ theo chủ nghĩa quốc tế hay quốc gia, miễn thành thực muốn đánh đuổi Nhật, Pháp để dựng lên một nước Việt Nam tự do và độc lập''. Ra chủ trương củng cố lực lượng vũ trang khởi nghĩa Bắc Sơn, xây dựng và phát triển các tiểu tổ du kích, các đội tự vệ, cứu quốc quân.

Ở các đơn vị cơ sở trong cả nước, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 còn đề ra chủ trương tăng cường xây dựng củng cố Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức để đạt mục đích yêu cầu thời kỳ này là: "Làm cho Đảng xứng đáng là đội tiên phong có tổ chức của giai cấp vô sản. Làm cho Đảng thành một đảng thật quần chúng, có cơ sở vững vàng trong quần chúng. Thực hiện sự thống nhất toàn Đảng. Thực hiện và tăng cường sự cố kết cách mệnh của các đảng viên. Đoàn kết được hết thảy các lực lượng phản đế, chỉ huy các lực lượng ấy trong cuộc đấu tranh giải phóng sắp tới".

Thông qua việc thực hiện chủ trương này theo "phương châm tổ chức của Đảng ta lúc này là Rộng rãi, Thực tế và Khoa học", năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức Đảng các cấp và của đội ngũ cán bộ đảng viên đã được nâng lên, đáp ứng yêu cầu lãnh đạo cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Năm 1945, toàn Đảng có 5.000 Đảng viên, hơn một nửa còn trong nhà tù của đế quốc Pháp, nhưng Đảng ta vẫn lãnh đạo cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám thắng lợi.

Tư tưởng đối mới sáng tạo trong kháng chiến, kiến quốc

Trong giai đoạn 1945-1954, tư tưởng đổi mới sáng tạo Hồ Chí Minh được thể hiện: Nổi bật trong Tuyên ngôn Độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp khởi thảo. Bản Tuyên ngôn đã lập luận chặt chẽ, lý lẽ sắc bén, với đầy đủ cơ sở pháp lý và cơ sở thực tiễn để tuyên bố chấm dứt hoàn toàn ách thống trị của thực dân Pháp và phát xít Nhật, kết thúc vĩnh viễn chế độ phong kiến ở Việt Nam; khẳng định mạnh mẽ chủ quyền quốc gia của dân tộc Việt Nam và ý chí đanh thép của toàn thể nhân dân Việt Nam "quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập".

Từ tháng 9/1945 đến tháng 12/1946, tư tưởng đổi mới sáng tạo Hồ Chí Minh tiếp tục được thể hiện sâu sắc trong một loạt chủ trương: Tổ chức cuộc bầu cử tự do đầu tiên để xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân; phát động phong trào bình dân học vụ để xóa "giặc dốt" và phát động phong trào tăng gia, tiết kiệm, hũ gạo cứu đói để chống "giặc đói"; tổ chức Tuần lễ Vàng để động viên toàn dân xây dựng nền tài chính quốc gia; tiến hành đàm phán với Chính phủ Pháp để ký Hiệp định sơ bộ ngày 6/3 và Tạm ước 14/09/1946 nhằm tranh thủ thời gian hòa bình mà nỗ lực xây dựng lực lượng chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chống xâm lược.

Tư tưởng đổi mới sáng tạo Hồ Chí Minh được kết tinh trong Đường lối Kháng chiến trường kỳ, trong đường lối kiến quốc, trong vừa kháng chiến vừa kiến quốc, trong chủ trương đẩy mạnh đánh địch trên các mặt trận, đến Chiến dịch Tây Bắc 1953-1954 thì đồng thời tiến hành mặt trận ngoại giao tại Geneva… Phương châm chiến lược toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến đã tạo ra sức mạnh tổng hợp của Việt Nam chiến thắng thực dân Pháp xâm lược.

Tư tưởng đổi mới sáng tạo Hồ Chí Minh đã phát triển đến một đỉnh cao mới được kết tinh trong đường lối xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đường lối cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam và đường lối Kháng chiến chống Mỹ cứu nước.

Tư tưởng đổi mới sáng tạo kết tinh trong Di chúc

Từ tìm hiểu quá trình vận động phát triển của tư tưởng đổi mới sáng tạo Hồ Chí Minh trong hơn 60 năm hoạt động cách mạng của Người, chúng ta cần tập trung tìm hiểu tư tương đổi mới sáng tạo Hồ Chí Minh qua bản Di chúc thiêng liêng mà Người để lại cho Đảng ta, cho nhân dân ta, cho nhân dân thế giới, cho các thế hệ hôm nay và mai sau.

Ở đầu bản Di chúc, Bác đã căn dặn, ngay sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta hoàn toàn thắng lợi, công việc của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta phải ra sức làm là mau chóng hàn gắn vết thương nghiêm trọng do đế quốc Mỹ gây ra trong cuộc chiến tranh xâm lược. Người xác định "Đây là việc cần kíp bức xúc để ổn định cuộc sống cho nhân dân" từ chiến tranh sang hoà bình. "Đây là công việc cực kỳ to lớn phức tạp và khó khăn". Người căn dặn: "Chúng ta phải có kế hoạch sẵn sàng, rõ ràng, chu đáo để tránh khỏi bị động, thiếu sót và sai lầm".

Từ đây, chúng ta nhận thức được rằng trong hòa bình xây dựng đất nước, phát triển kinh tế, cải thiện đời sống của nhân dân phải là nhiệm vụ trọng tâm, là điều kiện, tiền đề của đổi mới, là trọng trách của Đảng ta trong lãnh đạo sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa và bảo vệ Tổ quốc. Cho nên Người căn dặn công cuộc đổi mới bắt đầu từ Đảng, Đảng phải tự xây dựng và chỉnh đốn mình. Lời dặn đầu tiên về Đảng là giữ gìn sự đoàn kết nhất trí trong Đảng từ Trung ương tới chi bộ. Người chỉ rõ mục đích của chỉnh đốn Đảng là "làm cho mỗi Đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ Đảng giao phó cho mình, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân". Người khẳng định: "Làm được như vậy thì dù việc to lớn mấy, khó khăn mấy, chúng ta cũng nhất định thắng lợi". Điều này là cực kỳ hệ trọng vì Đảng ta là Đảng lãnh đạo, là Đảng cầm quyền. Sự thành bại của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc tùy thuộc vào năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Từ đây chúng ta cần nhận thức sâu sắc thước đo quan trọng hàng đầu trong đánh giá cán bộ đảng viên là toàn tâm toàn ý làm tốt những nhiệm vụ Đảng giao. Để Đảng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu, Người căn dặn cán bộ Đảng viên phải ra sức rèn luyện đạo đức cách mạng, tính tiên phong và sự gương mẫu.

Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, mục tiêu lý tưởng của Đảng, của sự nghiệp cách mạng là: Mọi người đều được sống trong tự do ấm no hạnh phúc. Do đó Người căn dặn Đảng ta phải có kế hoạch, có cơ chế chính sách để phát triển kinh tế, văn hóa xã hội để không ngừng nâng cao đời sống cho nhân dân, nhất là đối với thương binh, gia đình liệt sĩ, người có công với nước, giới phụ nữ, rất chú ý quan tâm giáo dục để số chị em tệ nạn xã hội hoàn lương. Muốn công cuộc đổi mới thành công, Người căn dặn Đảng ta phải coi trọng lãnh đạo sự nghiệp xây dựng con người mới, nhất là giáo dục bồi dưỡng thanh niên là tương lai của dân tộc, là lớp kế tục sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng.

Tuy không trực tiếp đề cập đến quan niệm đổi mới nhưng trong bản Di chúc thiêng liêng của Người, tư tưởng đổi mới sáng tạo đã thể hiện sáng rõ. Chúng ta hoàn toàn sáng tỏ quan niệm về đổi mới, công cuộc đổi mới khi Người viết: "Đây là một cuộc chiến đấu chống lại những cái gì đã cũ kỹ, hư hỏng để tạo ra những cái mới tốt tươi". Về tính chất của đổi mới, Người viết: "Cuộc chiến đấu này là một cuộc chiến khổng lồ". Về sức mạnh của đổi mới, Người viết: "Với sự tham gia nhập cuộc của khối quần chúng nhân dân đông đảo". Về lực lượng lãnh đạo đổi mới, Người chỉ rõ trọng trách tập hợp nhân dân phát huy vai trò của nhân dân thuộc về Đảng bằng công tác giáo dục, công tác tổ chức. Đảng phải ra sức dựa vào dân, giữ mối liên hệ mật thiết với dân. Về phương thức lãnh đạo phát huy sức mạnh của nhân dân, Người khẳng định: "Để giành thắng lợi trong cuộc chiến đấu khổng lồ này, cần phải động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân".

7 khía cạnh của tư tưởng đổi mới sáng tạo Hồ Chí Minh

Nhìn lại tiến trình hình thành, phát triển của tư tưởng đổi mới sáng tạo Hồ Chí Minh từ khi Người ra đi tìm con đường mới để cứu nước, cứu dân đến trước khi Người đi xa vào thế giới của những người hiền, chúng ta có thể nhận thức sáng tỏ hệ giá trị đổi mới sáng tạo là giá trị bao trùm, linh hồn của tư tưởng Hồ Chí Minh, thể hiện trên những khía cạnh sau:

- Thứ nhất: Quan niệm về đổi mới: là phá cái cũ đổi ra cái mới, phá cái xấu đổi ra cái tốt. Do vậy, đổi mới là bản chất của cách mạng, của phát triển. Công cuộc đổi mới "là cuộc chiến đấu chống lại những cái gì cũ kỹ, hư hỏng để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi".

- Thứ hai: Mục tiêu của đổi mới: Đổi mới phải vì nước vì dân, ích nước, lợi nhà: "Việc gì có lợi cho dân, ta phải hết sức làm, việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh".

- Thứ ba: Tính chất của đổi mới

+ Tính tất yếu của đổi mới: Đổi mới phải xuất phát từ nhu cầu khách quan của thực tiễn. Kết quả đổi mới phải đấp ứng được những vấn đề mà thực tiễn đặt ra.

+ Đổi mới là một quá trình, một sự nghiệp lâu dài, một cuộc đấu tranh phức tạp, khó khăn, gian khổ đỏi hỏi phải kiên định, kiên trì, kiên quyết tiến hành đổi mới không ngừng.

+ Tính chất cách mạng và khoa học của đổi mới: Phải nhìn thẳng vào sự thật, nói đúng sự thật. Nhận thức đúng bản chất của vấn đề. Có ý chí có năng lực để thay cũ đổi mới.

- Thứ tư: Nguyên tắc, phương châm, phương pháp đổi mới: Tư duy đổi mới, hành động đổi mới, nói đi đôi với làm, lý luận gắn liền với thực tiễn. Thực tiễn là thước đo hiệu quả một chủ trương đổi mới, một chính sách, một cơ chế đổi mới, một tổ chức đổi mới. Công cuộc đổi mới phải tiến hành toàn diện và đồng bộ. Hiện nay, chúng ta đang tiến hành đổi mới đồng bộ toàn diện cả chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, an ninh quốc phòng, đối ngoại…

- Thứ năm: Giải quyết tốt mối quan hệ giữa cái cũ và cái mới theo quy luật phủ định biện chứng, kế thừa và phát triển.

+ Có những quan niệm cũ trước đây là đúng nhưng nay đã trở lên lạc hậu, lỗi thời, cản trở phát triển ta dứt khoát thay đổi.

+ Có những quan niệm cũ, quan niệm sai làm sai, ta phải sửa sai, nhận thức lại cho đúng và làm đúng.

+ Có cái cũ tốt nay có phần không phù hợp, ta kế thừa những giá trị tốt, loại bỏ phần lạc hậu lỗi thời.

+ Cái mới khi mới xuất hiện có khi không được nhiều người công nhận, nhưng ta nhận thức cái mới ra đời có xu hướng phát triển tốt, ta phải bảo vệ, tạo các điều kiện cần thiết cho cái mới phát triển và nhân rộng.

- Thứ sáu: Sức mạnh của đổi mới là nhân dân: Cách mạng, sự nghiệp đổi mới là sự nghiệp của nhân dân.

- Thứ bảy: Đảng là người lãnh đạo công cuộc đổi mới, do đó trước hết Đảng phải tự đổi mới và chỉnh đốn để Đảng vững mạnh cả chính trị, tư tưởng, tổ chức, đạo đức. Phải không ngừng tự đổi mới để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu nhằm xây dựng đường lối đổi mới đúng đắn, sáng tạo, động viên, giáo dục và tổ chức quần chúng thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới toàn diện đất nước theo định hướng XHCN./.

 

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HÓA CHÍNH TRỊ

 Văn hóa theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh thuộc lĩnh vực đời sống tinh thần của xã hội; văn hóa phát triển trên nền tảng kinh tế, nhưng khi trở thành động lực nội sinh thì văn hóa lại tác động trở lại kinh tế, thúc đẩy kinh tế phát triển.

Chủ tịch Hồ Chí Minh là Nhà cách mạng vĩ đại, nhưng trước hết Người là nhà văn hóa lớn. Theo Người, văn hóa gắn liền với đạo đức, chính trị, kinh tế, xã hội và cách mạng. Làm cách mạng để giải phóng con người, biến người nô lệ thành người tự do, đó chính là văn hóa. Trong xã hội còn áp bức, bóc lột giai cấp, dân tộc và con người, thì xử sự đẹp nhất, có văn hóa nhất là làm cách mạng. Văn hóa là sự ứng xử của con người trước cuộc sống, tỏa ra trên các mặt của cuộc sống, là sự thể hiện rõ nét nhất của một nền văn minh.

Văn hóa là kết tinh những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra.

Văn hóa là kết tinh những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra và đến lượt nó, văn hóa lại nâng tầm con người lên và tạo điều kiện tiến bộ cho chính bản thân con người. Vì vậy, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, văn hóa vừa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp cách mạng. Khi Người nói “Không có gì quý hơn độc lập tự do” cũng chính là nói đến khát vọng và quyền sống của con người, đồng nghĩa với sự đấu tranh cho một nền văn hóa mà ở đó một dân tộc, mỗi con người được sống trong độc lập, tự do, hạnh phúc. ý chí tự lực, tự cường, tự tôn dân tộc, quyết hy sinh tất cả chứ không chịu làm nô lệ; ý chí vươn lên sánh vai cùng các cường quốc năm châu, đó là ý chí của một dân tộc có văn hóa.

Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu lên một ước muốn giản dị: “Ai cũng có cơm ăn, ai cũng có áo mặc, ai cũng được học hành”. Đó cũng là một tư tưởng lớn, hướng tới xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng, tiến bộ, văn minh, trong đó mọi người đều được hưởng tự do và hạnh phúc. Người nhìn thấy chiều sâu của văn hóa là giải phóng tận gốc cho con người, nhưng phải đi từ những nhu cầu tối thiểu. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ. Người hướng tới chất lượng cuộc sống của con người trong một xã hội phát triển hài hòa, bền vững và nhân văn. Bằng nhiều nỗ lực hoạt động không mệt mỏi của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi mặt của đời sống xã hội, biến thành sức mạnh nội sinh cho sự phát triển của đất nước.

Văn hóa theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh thuộc lĩnh vực đời sống tinh thần của xã hội; văn hóa phát triển trên nền tảng kinh tế, nhưng khi trở thành động lực nội sinh thì văn hóa lại tác động trở lại kinh tế, thúc đẩy kinh tế phát triển. Đó là chưa nói đến mỗi nấc thang phát triển kinh tế tạo ra một nấc thang phát triển văn hóa và mỗi nấc thang phát triển văn hóa đến lượt nó lại tạo ra một bước phát triển mới về kinh tế. Người còn cho rằng văn hóa phải có định hướng tư tưởng chính trị, nhưng văn hóa tư tưởng lại soi đường cho quốc dân đi, lãnh đạo quốc dân thực hiện độc lập, tự cường, tự chủ. Như vậy, văn hóa không những chỉ tác động trở lại kinh tế, chính trị, xã hội mà trong các hoạt động kinh tế, chính trị phải có trí tuệ và bản lĩnh văn hóa.

Văn hóa chính trị cũng là nét đặc trưng của tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, chính trị mà thiếu văn hóa, không gắn với những hoạt động đời thường của con người, không xuất phát từ tình yêu thương con người, không gắn với dân gian thì đó là thứ chính trị tầm thường, thô thiển, là coi nhẹ và làm mờ nhạt chính trị, tự thủ tiêu chính trị. Điều đặc biệt ở Chủ tịch Hồ Chí Minh là tư tưởng chính trị của Người luôn được thể hiện dưới dạng văn hóa, đi vào lòng người bằng văn hóa, tức là giáo dục, thuyết phục bằng cảm hóa. Người nhìn thấy sức mạnh của cách mạng từ lực lượng quần chúng được tập hợp, đoàn kết lại với mục tiêu nhân văn cao cả là độc lập và tự do hạnh phúc, đó cũng là mục tiêu văn hóa. Thực là vĩ đại khi một thứ chính trị đời thường, chính trị dân gian, tức là chính trị hiểu thấu, giải đáp được những tâm tư nguyện vọng chính đáng của người dân, nhưng cũng là một thứ chính trị hiện đại, bởi kết tinh được trí tuệ của loài người với tinh hoa của dân tộc. Như vậy, văn hóa chính trị cũng là nét đặc trưng của tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa.

Đảng ta đã phát động Cuộc vận động “Học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” trong Đảng và trong toàn xã hội. Đây là cuộc sinh hoạt văn hóa lớn vì nhằm giúp mọi người, mà trước hết là cán bộ, đảng viên, noi theo tấm gương đạo đức của Bác Hồ, nâng cao đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống và các tệ nạn xã hội, hướng con người tới chân, thiện, mỹ. Nội dung của Cuộc vận động mang bản sắc văn hóa rất cao, tính chất của cuộc vận động vừa là sinh hoạt chính trị, vừa là hoạt động văn hóa phong phú. Vì vậy, đây cũng chính là hoạt động thiết thực của Đảng ta góp phần đưa tư tưởng văn hóa Hồ Chí Minh vào cuộc sống.

Bởi thế sẽ là một nét đẹp văn hóa nếu mỗi cấp, mỗi ngành, mỗi cơ quan, đơn vị, mỗi cá nhân, xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ của mình, căn cứ vào cương vị được giao, hoặc công việc đang làm mà cụ thể hóa được những chuẩn mực, nguyên tắc đạo đức Hồ Chí Minh thành nề nếp công tác, thành nội dung phấn đấu và rèn luyện thiết thực, không hình thức, góp phần cùng xã hội tạo nên sự chuyển biến tốt hơn về tư tưởng, đạo đức, phong cách, lối sống.

Như vậy, nội dung của văn hóa chính trị gắn liền với nội dung về phẩm chất đạo đức, lối sống gắn với những chuẩn của xã hội mà mỗi người cần có. Đó chính là điều chúng ta đang hướng tới trong việc xây dựng đời sống văn hóa theo tư tưởng Hồ Chí Minh./.